Home
» Thư viện văn xuôi
» Trang truyện ngắn Ngọc Châu: Đánh dậm/ Người tù trên đảo/ Ra đảo/ Nâng tầm/ Giao duyên/… (HP)
Trang truyện ngắn Ngọc Châu: Đánh dậm/ Người tù trên đảo/ Ra đảo/ Nâng tầm/ Giao duyên/… (HP)
Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014
Đánh dậm – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 20/08/2011
Ngồi uống bia cỏ với bạn bè sau cuộc gặp mặt của Phân hội Cựu chiến binh, khi Nam tỏ ý muốn viết gì đó về những năm tháng phục vụ ở Đoàn 8 Hải quân mấy đồng đội cũ đã cười ầm lên. Một tay đặt phịch can bia truớc mặt anh rồi hỏi “Ông có nhìn thấy cái gì đây không?” làm Nam ngớ ra, tuởng hắn đã phê phê. Tuy nhiên với loại “ba say chưa can” như cha này thì chả mần mò gì, vẫn đang tỉnh như sáo sậu. Hắn phát biểu rằng cái “Đoàn Đánh dậm” thì có gì mà viết hồi ký, sau đó dẫn hai câu lục bát "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia mực vẫn còn gào dô!"
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
ĐÁNH DẬM
(Tặng các chiến sĩ Hải Quân thuộc Công ty 128 đang làm nhiệm vụ bảo vệ dầu khí và chủ quyền Biển đảo)
***
***
Ngồi uống bia cỏ với bạn bè sau cuộc gặp mặt của Phân hội Cựu chiến binh, khi Nam tỏ ý muốn viết gì đó về những năm tháng phục vụ ở Đoàn 8 Hải quân mấy đồng đội cũ đã cười ầm lên. Một tay đặt phịch can bia truớc mặt anh rồi hỏi “Ông có nhìn thấy cái gì đây không?” làm Nam ngớ ra, tuởng hắn đã phê phê. Tuy nhiên với loại “ba say chưa can” như cha này thì chả mần mò gì, vẫn đang tỉnh như sáo sậu. Hắn phát biểu rằng cái “Đoàn Đánh dậm” thì có gì mà viết hồi ký, sau đó dẫn hai câu lục bát "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia mực vẫn còn gào dô!"
- Thế đấy, hồi tưởng của tớ chỉ là bia và mực khô xả láng trong những năm phục vụ trên đoàn tàu đánh cá Hải quân. Can, can, tôi can ông hiểu chưa!?
Xét về một mặt nào đó thì cha này cũng có lý nhưng Nam thấy tức ở trong bụng. Không phải ai cũng ở tàu, mà ở tàu không phải ai cũng có điều kiện được ghi tên vào “bia mực” như hắn. Sau giải phóng miền Nam Hải đoàn 8 (bây giờ là công ty 128 - Hạ Đoạn Hải Phòng) hầu như là đơn vị đầu tiên của quân đội được giao nhiệm vụ làm kinh tế kết hợp quốc phòng, có thể nói được toàn quân biết đến như một hình mẫu làm kinh tế mang tính bài bản, thời đó còn rất mới với “anh bộ đội cụ Hồ”. Có bao nhiêu công việc khác nhau đối với một đơn vị vừa phải quản lý kĩ thuật tàu thuyền, vừa tuần tra canh giữ hải phận, vừa phải xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho cho cả hai nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng. Với lại Nam không có ý định viết lịch sử Trung đoàn, còn hồi ký đâu phải chỉ để viết về những chiến công kinh thiên động địa, những sự kiện hào hùng, những gian khổ khó khăn ghê gớm hoặc những kỉ niệm đáng làm vặn vẹo con tim nguời ta? Phải nghĩ rằng sự nghiệp anh hùng, chiến công vĩ đại cũng như niềm tự hào lớn lao của quân đội ta là một sự tổng hòa của cả thành công lẫn thất bại trong thời chiến cũng như thời bình, của cái vĩ đại lẫn cái tầm thường, của trí tuệ xen lẫn những ngu dốt không tránh khỏi. Vậy nên Nam vẫn cầm bút ghi lại những gì đáng nói đối với riêng mình kể từ ngày được quân chủng phân về công tác ở Đoàn 8, hồi đó mang con dấu đối ngoại là “Đơn vị 7054”.
Hải Đoàn hình thành từ cuối những năm 60, đến đầu những năm 70 thì được giao nhiệm vụ vừa đánh cá vừa tuần tra canh giữ hải phận. Đó thực sự là một chủ trương hết sức sáng suốt vì cùng lúc có thể thực hiện nhiều nhiệm vụ một cách hợp lý là bám biển dài ngày canh giữ và tuần tra tại những toạ độ biển ấn định, vừa dễ dàng đóng vai dân sự khi không cần thiết phải đụng độ, lại có hải sản để ăn, dư thừa thì chế biến hoặc bảo quản để cấp cho nhu cầu của quân đội.
Tuy là dân “đánh dậm” theo cách nói đùa của bạn bè ở các Đoàn khác nhưng suốt mười lăm năm phục vụ trong quân ngũ, từ binh nhất lên đến thiếu tá lúc chuyển ngành, Nam không hề cầm chiếc “dậm” lần nào, có nghĩa là chưa bao giờ đi theo tàu cá vì nhiệm vụ của anh là xây dựng cơ bản, kiêm luôn công tác quản lý doanh trại. Thế nên năm thì mười hoạ, gặp được một cậu nào quen ở tàu cá vừa cập vào khu Cảng Vụ anh mới được nếm vài con mực khô mà khôi.
Có nhiều chuyện cười ra nuớc mắt trong những ngày đầu các anh “Vệ túm” chen chân vào lĩnh vực kinh tế. Đầu tiên là vấn đề nhân sự. Sau năm 75 bộ đội “thất nghiệp” dài dài nên không thiếu gì lực lượng để bổ sung cho “đoàn quân đánh dậm” đang được quan tâm phát triển. Có dư kỹ sư về cơ khí, sửa chữa tàu thuyền, về khai thác, chế biến hải sản đến độ Trạm Chế biến nằm ở vùng biên ven đê cực bắc của đơn vị, mới có vẻn vẹn chục chum mắm chượp mà đã nhận về tới bốn, năm “cô hàng mắm” có bằng cử nhân của truờng Đại học Thuỷ sản, vậy nên các cô phải cầm xẻng ngoáy chượp như công nhân. Mà cũng phải chia nhau số chum hiện có, mỗi cô hai chiếc, trước sau chỉ một bóng người, giữa hai chum chượp đang cười gió đông như cánh sĩ quan vẫn trêu chọc các nàng.
Cán bộ chính trị cũng được bổ sung thoải mái. Nam nhớ hồi đó Đoàn có Chính uỷ, phó Chính uỷ, Chủ nhiệm chính trị, hai phó Chủ nhiệm chính trị và một bộ sậu đông đảo trong Ban Chính trị. “Làm kinh tế là lắm vấn đề phức tạp vậy nên phải hết sức chú ý đến việc giáo dục tư tưỏng”. Chưa có tiền lệ trong việc tổ chức một đơn vị làm kinh tế sao cho có hiệu quả, nên việc chỉ đạo từ các cấp trên không thể tránh được những suy nghĩ mang tính duy ý chí như thế.
Phải nói là rất vui, đông tốt nhiều sỹ, vì Đoàn được bổ xung vài trăm tân binh, hầu hết là các cô binh nhì quê ở Hải Phòng, Thái Bình. Những nữ chiến sĩ mới này không xa lạ gì với các việc đan lưới, làm mắm từ lúc còn chưa biết mùi cơm lính. Họ được biên chế về Trạm Đan lưới và Trạm Chế biến mà Nam đang vắt chân lên cổ để xây cho nhanh các bể chượp, nhà nấu mắm, kho muối, kho đá cũng như xưởng đan lưới. Đông người nhưng chuyện kỳ đà cản mũi nhau cũng nhiều, thường là trục trặc giữa “cánh chỉ huy” và “cánh chính trị”. Các bộ phận trưởng tối tăm mặt mũi vì công việc chuyên môn, việc gì cũng cần làm gấp, cái gì cũng thiếu phải xin xỏ ở cơ quan cấp trên, phải chờ chỉ tiêu, chờ lĩnh, chờ kế hoạch xe để chở về vì chưa có thị truờng dịch vụ như ngày nay. Nam cũng như các Truởng bộ phận khác (đa số là các kỹ sư mới gia nhập quân đội) do quá tất bật nên thường sơ sót về những việc quản lý mang tính thường ngày như chào cờ buổi sáng, đọc mười lời thề truớc cờ, đọc báo, điểm danh lính tráng vào 8 giờ rưỡi tối chủ nhật v.v. v. Ngoài ra còn có “tội” hay nói huỵch toẹt sự việc, “yếu về việc tu dưỡng phẩm chất chính trị” nên hay bị “cánh Chính trị” ghi “phốt” vào sổ “Thù Vặt” trong khi chính bên Tham mưu lại dễ tặc lưỡi thông cảm vì họ cũng quá bận việc chỉ huy tàu thuyền trên biển với các sự cố có khi dồn dập cả ngày lẫn đêm. Nam từng bị kỷ luật khiển trách ghi lý lịch vì đánh mất quyển “SỔ CÔNG TÁC” vừa lĩnh ở văn thư, mới vẽ được vẻn vẹn bản phác thảo dãy nhà xí nam-nữ kiểu vệ sinh thùng cùng với bản dự toán xây dựng nó để xin Đoàn Truởng thông qua. Không thể nào xin “ân xá” vì từ truớc đến nay quyển sổ đó vẫn được coi là tài liệu mật!
Tuy nhiên ngay “cánh Chính trị” khi tiếp cận cái mới cũng gây nên một giai thoại nhớ mãi với những ai có mặt thời ấy. Đó là buổi chào cờ đầu tháng khá trang trọng, mấy hôm truớc Đoàn được cấp phát một bộ loa đài cát-xét khá xịn cùng một số băng ghi sẵn các bài hát truyền thống. Trợ lý Tuyên huấn chắc là đã cẩn thận trong việc nghe và đặt băng sao cho khi tiếng hô chào cờ vừa xong thì bài quốc ca sẽ nổi lên thay cho dàn “phá hợp xướng” tự nguyện mọi khi. Tuy nhiên sự việc lại diễn biến rất hài hước.
- Chào cờ, chào! - Chẳng hiểu sao cái loa phản chủ bỗng réo lên: "Tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ..." Đến đây thì tay trợ lý cũng bị một cú vỗ, do quá khẩn cấp nên không khéo chút nào của đồng chí Phó chính uỷ đang đứng cạnh: nó vào nửa gáy, nửa mặt, cũng hơi bị nặng tay. Sau đó chính vị này cũng không nhịn được, phải quay mặt vào tường gập bụng xuống để cười như mọi cán-binh khác.
Có thể nói linh hồn của Hải đoàn lúc đó là Đoàn truởng Kim, ngưòi Đồ Sơn, gốc gác dân chài chính hiệu, nhìn trời biết hôm nay nên điều tàu đến toạ độ nào đánh bắt, nhìn tăm biết cá hay cua rùa đang vui vẻ ở dưới nước biển, vì vậy mà được Bộ Tư lệnh Quân Chủng đặc biệt tín nhiệm. Với các sĩ quan lúc thường Đoàn trưởng hay xưng hô anh em thân mật, nhưng ở ngôi thứ ba thì họ thường gọi Đoàn trưởng là “cụ”, có lẽ vì ai cũng nể trọng và có phần sờ sợ. Mặc dù Đoàn có nhiều cán bộ kỹ thuật đã qua đại học hoặc những cán bộ thuyền đã từng vào sống ra chết nhưng ai cũng phục “cụ” là người nhiều mẹo, thông minh và năng động, biết sử dụng đúng tài năng của cán bộ dưới quyền và có tính quyết đoán cao, tối cần đối với việc chỉ huy một đơn vị rất phức tạp về nhiệm vụ.
Những buổi giao ban ngày đó nếu bộ phận nào cũng báo cáo tình hình thì họp cả ngày chưa xong vì lẽ có nhiều bộ phận với nhiều công việc không tuần nào giống tuần nào. Tuy chỉ có ba ban Chính trị, Hậu cần, Tham mưu và các Tiểu đoàn tàu như mọi đơn vị khác nhưng “rất là đông vấn đề” vì có nhiều bộ phận trực tiếp sản xuất. Có Xây dựng cơ bản với dăm bảy công trình cùng lúc triển khai, có Trạm kỹ thuật với rất nhiều máy tiện, nguội, công nhân quốc phòng... với cả một chiếc ụ nổi để sửa chữa tàu của mình và bắt đầu chữa thuê cho đơn vị bạn, có Trạm luới với hàng trăm nàng “Tiên... diệt cá” dệt những tấm lưới khổng lồ cho tàu 300 sức ngựa, có Trạm chế biến cũng rất đông quân ủ chượp, ngoáy chượp, nấu lọc mắm và bán nước mắm. Ngoài ra còn Cảng vụ cung cấp đá và vật tư cho tàu thuyền đánh cá, tổ chức bốc và giao cá mỗi khi có tàu về bến (những ngày bốc cá thực sự là các ngày hội của quần chúng vì đầy đủ người mua, người bán, người đến xin, thậm chí cả đánh qủa nếu “ông mặt sắt đen xì” - Cảng vụ truởng Thái - có việc phải đi vắng). Đoàn còn có ba tiểu đoàn với hơn hai chục con tàu đánh cá, tàu đông lạnh với bao nhiêu vấn đề trên biển cần phải xin ý kiến: lúc thì tàu hoạt động tại toạ độ chỉ định đã mấy ngày mà tôm cá đi trảy hội ở nơi khác hết, đề nghị cho chuyển toạ độ đánh bắt. Lúc đã tan hết đá, có lệnh về bến thì tự dưng gặp hàng lô hàng lốc cá thu, cá ngừ đang kéo nhau về dự “phét-sờ-tí-van” Cá Đông nam Á! Thế là phải gấp rút cử tàu chở dầu và đá ướp cá ra bổ sung để khỏi phải đưa về bến một con tàu không ai dám đến gần nếu không đeo mặt nạ phòng hơi độc.
***
Nam ôm tập bản vẽ và dự toán xây dựng khu bể chựơp cá lên phòng làm việc của Đoàn truởng Kim. Truớc kia việc xây dựng thường chỉ cần mấy tờ giấy vạch vạch để miêu tả mặt bằng và ước toán chi phí, nếu thấy hợp với yêu cầu sử dụng và ở mức kinh phí trên dự định cấp cho là có thể ra quyết định, nhưng giờ đây vốn Xây dựng cơ bản không do Bộ Tư lệnh cấp xuống mà phải có đủ thủ tục để giải ngân ở Chi hàng Kiến Thiết thành phố. Mời các kỹ sư ngày nay thử tưởng tượng việc lập hồ sơ đầy đủ cho thi công một công trình (mà còn rất nhiêu khê vì phải tính đến từng cân xi măng, từng mét khối cát cho mỗi hạng mục công trình) bằng cách vẽ tay và kéo thước Lo-ga-rit, vì cả thế giới hồi đó cũng chưa có khái niệm về Autocad với Excel như ngày nay.
- Trong quí này đồng chí phải xây cho được ba bể, mỗi bể có dung tích 50 tấn chượp để chứa hết lượng cá của mười chuyến tàu về bến. Đấy mới là quí này, quí sau còn phải xây lượng bể chượp gấp đôi. Mục tiêu cuối cùng là 1000 tấn chứa cho Khu Chế biến. Đồng chí nhớ là xây không kịp thì khi cá về không có chỗ chứa tôi sẽ cho đổ đầy nhà Bộ phận Xây dựng các anh, thừa nữa thì đành đổ vào phòng tôi!- Sau khi nghe Nam trình bày bản vẽ và dự toán, Đoàn truởng giao nhiệm vụ trực tiếp cho Nam như vậy.
- Này, thằng em này - thấy Nam không kêu than gì về tính gấp gáp của công việc - “cụ” nói giọng vỗ về. Em phải hết sức vấn đề cẩn thận. Nghe nói chỉ có ngoài đảo Cát Hải mới có thợ xây đuợc vấn đề bể chượp. Sở Thuỷ sản có xây cho Xí nghiệp Nước mắm Cầu Niệm (xí nghiệp này đã giải tán khoảng những năm 80 thế kỷ truớc) một số bể mà bị rò mắm nhiều lắm. Nghe nói họ đã phải xây vấn đề bể bé hơn, lọt trong lòng bể lớn để chống rò mà mắm vẫn theo rươi ra sông. Khéo không rồi lại có vấn đề chuyện ăn vỏ khoai lang trả tiền bánh rán đấy thằng em ạ! - Nam mỉm cười vì những câu ví von của cụ. Ở Đoàn này “cụ” và Chủ nhiệm hậu cần Ngư nhiều lúc hay ví von dân dã, phải nhận là rất hợp cảnh và hóm hỉnh. Riêng “cụ” có tật nói câu nào cũng có vài từ “vấn đề” đệm vào lúc đang tìm cách diễn đạt. Không biết “cụ” có để ý hay không, anh em cán bộ thì rất buồn cười nhưng vì nể và trọng “cụ” nên bấm bụng cho qua rồi nghe mãi thành quen, cũng không thấy dị ứng gì nữa.
Hôm sau Nam phải thu xếp công việc ở nhà để đáp tàu khách ra Xí nghiệp mắm Cát Hải. Mặc bộ áo lính thuỷ màu xanh với những dải sóng trắng của đại dương trên vai, anh không giới thiệu mình là kỹ sư kỹ sọt gì, cứ đứng hàng ngày trời ngoài nắng xem động tác của thợ nề xây bể, hỏi han về cách chọn gạch, chọn cát, lúc nào thì vào màu lót, trát lót bao lâu mới trát lớp chính, thời điểm nào thì bắt đầu đánh màu, đánh mấy lớp màu và độ dày cuối cùng là mấy li. Nam để ý cách che nắng và phun nuớc duỡng hộ để chống rạn chân chim. Hồi đó thợ cả chịu trách nhiệm về xây bể chượp được trả công ngang với thợ cả chuyên ấp trứng vịt lộn là 500 đồng một tháng, trong khi lương thiếu uý như Nam chỉ có 65 đồng. Vậy nên họ cũng dấu nghề, nhưng anh là người tinh tế trong lĩnh vực xây dựng nên khi trở về đã lên ngay được một qui phạm rất nghiêm ngặt trong việc xây bể.
Đầu tiên là phải chọn loại gạch đặc phẳng phiu nhẵn nhụi nghĩa là không non, không già quá. Nhưng lớp trát-đánh màu mới là vấn đề cốt tử nên phải chọn cát hạt thô cầu Cầm, không đuợc để lẫn một cọng thực vật nào, nếu lẫn một cọng cỏ thôi thì khi cỏ mục đi sẽ tạo lỗ công cống cho mắm chui qua được lớp vỏ trát bên trong. Gạch và vữa xây có độ cản mắm kém nên để cho mắm chui từ chỗ nọ đến chỗ kia, tới lúc gặp lỗ thông tương tự qua lớp trát bên ngoài thì tung tăng chuồn ra sông! Có lẽ đó chính là nguyên nhân rò mắm không chữa được ở xí nghiệp mắm Cầu Niệm vì không ai nghĩ là mắm chui vào ở chỗ này lại chui ra ở chỗ khác, thậm chí ở phía thành kia của bể.
Để cẩn thận Nam đề nghị Đoàn truởng cho thuê một tốp thợ Cát Hải vào xây bể mắm đầu tiên. Cả ngày quẩn quanh khu cá mắm mới thấy thấm thía câu Nằm đất với cô hàng Hương còn hơn nằm giuờng với chị hàng Mắm. Thấy Chủ nhiệm Ngư đến xem xét Nam đùa “Chủ nhiệm xem này, không ăn lươn cũng phải chịu nhớt”. Là kho tục ngữ dân ca nên Chủ nhiệm Hậu cần đối đáp ngay: Làm nghề chài phải theo đuôi cá, đồng chí ạ. Nhưng là kỹ sư xây dựng công trình cảng lại đi xây bể chượp thế này liệu có ổn không? Thật cẩn thận vào nhá. Để mất mắm như ở Cầu Niệm thì toi. Lo nhất là chửa làm thì vốn còn dài, làm rồi thì vốn theo ai lên trời. Nhưng cứ phải lên gân thôi, ở cái đoàn 8 này ai cũng nhọc nhằn lắm đấy!”
Chủ nhiệm vừa đi thì thiếu uý Liễu, Truởng Trạm chế biến, cũng là dân Đại học Thuỷ Sản nói với theo “Đúng là nuớc lên rồi nuớc lại lùi, đi đâu cũng gặp “cụ” Bùi Duy Ngư” khiến “cụ” quay lại cười hà hà. Chắc chắn Chủ nhiệm Hậu cần đã lăn lộn ở nhiều đơn vị của Hải Quân lắm nên mới có câu ca này. Đã hai ba lần Nam thấy các sĩ quan ở Đoàn khác đến đây làm việc hoặc mua cá, mua mắm, họ hay chào “cụ” bằng câu ấy.
Để đẩy nhanh tốc độ Nam tổ chức nhóm thợ nề thứ hai từ mấy xóm gần khu Hải Đoàn để xây một bể nữa. Anh cùng vài chiến sỹ nghĩa vụ, do anh tự đào tạo thành các giám sát thi công, hướng dẫn và theo dõi hết sức sát sao việc thực hiện các thao tác xây trát, dưỡng hộ lớp trát như của nhóm thợ Cát Hải, nhưng thêm một yêu cầu là khi xây nếu đặt một viên gạch lệch thì không đuợc dùng dao xây gõ lại cho thẳng như kiểu xây tuờng nhà, phải dỡ cả gạch và vữa ra để xây lại ngay các viên đó. Nêu yêu cầu đó vì Nam nhận thấy vữa xi măng-cát mác cao khi đặt viên gạch vào là khô ngay, nếu gõ chỉnh thì tường vẫn chắc, thậm chí rất chắc vì không ai tiếc xi măng trong việc xây bể mắm, nhưng thực tế sau cú gõ đã có một vài khe li ti tạo ra, không còn khít khao như khi xây bằng vữa ba-ta có cả vôi dẻo quẹo. Các khe nhỏ đó cũng chính là các lỗ công cống cho mắm luồn lách tìm đường trốn trại. Ban đầu đội thợ Cát Hải cũng lấy làm lạ, nhưng thực tế cho thấy là họ chuyên nghề xây bể nên đặt gạch viên nào ngon viên đó, không phải gõ chỉnh bao giờ, trong khi nhóm thợ mới chưa bao giờ được xây bằng vữa nhiều xi măng như vậy, nghĩ rằng tường bể này có dùng búa tạ mà phá cũng om xương nên cứ gõ chỉnh thoải mái như xây nhà, không hề biết đến hậu quả.
Nam hơi bị phổng mũi khi ông già tổ truởng thợ Cát Hải khen anh rất tinh, chẳng mấy chốc mà thợ Cát Hải sẽ thất nghiệp. Tuy nhiên anh còn có dự tính khác trong đầu, nhưng còn phải chờ xem sao đã.
Sáu bẩy tháng sau, khi các ô bể chứa chượp đã bốc mùi thơm quyến rũ của mắm cao đạm mà không hề thấy Trạm Chế biến kêu ca gì về việc rò mắm, phải nói là từ Đoàn truởng Kim đến Ban Hậu cần và Bộ phận Xây dựng đều phấn khởi như ngày nào trông thấy tên lửa ta bắn hạ tại chỗ Thần Sấm của giặc Mỹ. Nam đưa ra đề nghị đổ bê tông bể chượp là việc chưa ai làm bao giờ. Mặc dù có người lo lắng hoặc dèm pha là chưa nóng nước đã vội đỏ gọng nhưng ý kiến phân tích rất khoa học của anh có sức thuyết phục. Nam tin rằng nếu chọn cát đá tốt và rửa sạch thì đổ bê tông sẽ đặc chắc và đồng nhất hơn xây bằng gạch, cái quan trọng nhất vẫn là trát, đánh màu và che đậy-duỡng hộ để chống vết rạn chân chim. Đổ tường bể bằng bê tông sẽ thi công nhanh do dùng bộ cốp pha định hình bằng thép, gia công ngay tại Trạm Sửa chữa của Hải Đoàn và chỉ cần mấy người thợ giỏi để trát thôi. Đoàn truởng Kim gật gù ủng hộ nên ý định của anh đã thành công, chấm dứt huyền thoại rằng chỉ thợ Cát Hải mới xây được bể chượp. Sau này có khá nhiều đơn vị khác trong quân đội đến học cách xây bể của Đoàn 8 và bộ cốp pha thép còn được đưa vào tận Vũng Tàu để đổ bê tông bể mắm ở trong đó.
Trong vòng xoáy của công việc làm kinh tế, mới mẻ, bận rộn nhưng háo hức, Đoàn 8 cứ phát triển từng ngày. Đã thành lập Tổng cục Xây dựng Kinh tế trên Bộ Quốc Phòng, Đoàn truởng Kim lên làm Cục truởng của Cục Xây dựng Kinh tế Hải Quân bao gồm năm “Đoàn đánh dậm” nằm suốt trung-nam-bắc.
Nam chuyển sang công việc sở truờng của mình là xây dựng Cảng cá bê tông cốt thép dài 200 mét cho Đoàn 8 sau khi Trạm Lưới và Trạm Chế biến đã hòm hòm. Thời điểm đó cảng của quân chủng Hải Quân ở ngoài Bắc hầu như không có gì đáng kể, vài chiếc đã xây thì bị bom Mỹ đánh hỏng trong cuộc chiến tranh phá hoại mới kết thúc. Có lần một phái đoàn quân sự của bạn Lào sang thăm, Bộ Tư lệnh đã phải dẫn xuống tham quan chiếc bến gỗ dài có 28 mét của đoàn 8 (cũng đã xẹo xọ vì chẳng biết “cụ càu tàu” này lên thượng thọ từ khi nào). Nam buồn cuời khi thấy các vị khách trầm trồ và thích thú vì thấy cảng làm bằng gỗ. Một sĩ quan của bạn sau khi nghe Nam nói về cách xây dựng cảng đã thốt lên “Làm bằng gỗ như thế này thì Lào tha hồ làm, to bao nhiêu cũng được, Lào nhiều gỗ lắm!” Nhưng khi Nam hỏi định làm ở đâu thì anh chàng đực mặt ra vì đất Lào làm quái gì có biển!
***
Cục Xây dựng Kinh tế hình thành đánh dấu sự phát triển của Hải Quân cùng với toàn quân tham gia làm kinh tế đồng thời với nhiệm vụ quân sự, trong một giai đoạn của lịch sử quân đội. Mặc dù về sau phải có những quan điểm khác, tư duy khác trong việc quân đội làm kinh tế nhưng nếu không có cây dại, thú hoang trong buổi sơ khai thì làm sao có cây trồng và vật nuôi, để rồi tiến tới những sản vật lai tạo và biến đổi gien như ngày nay để chúng ta có thể chọn thương hiệu mới ăn, mới mặc. Thời sau 1975 của Nam và đồng đội chỉ cần “diều” được căng căng và tên gọi “Vệ túm” bị quên đi cũng đã thấy là tốt chán. Tuy nhiên giá rút ngắn lại giai đoạn mười năm truớc thời kỳ đổi mới, đừng quá say sưa trong hào quang chiến thắng với những ý tưởng kiểu như lập “Hạm đội Biển Đông” để tham gia cách mạng thế giới tại vùng Đông Nam Á! thì may mắn cho dân tộc ta biết bao. Nhưng cái gì đã qua thì để cho nó qua đi (như người Anh hay nói Let's bygones be bygones") và Nam nhớ lại thời kỳ anh lên Cục phụ trách công tác Xây dựng cơ bản cho toàn Cục XDKT Hải quân.
Cục Trưởng là người có nhiều tham vọng, không hề cho cá nhân “cụ” mà cho sự phát triển của Cục. Tuy Việc nước xưa nay có bại, thành như một lãnh tụ quá cố của Đảng ta đã viết, nhưng Nam và anh em cán bộ dưới quyền luôn cảm thấy nhiệt tình nóng bỏng trong mỗi chủ truơng và nhiệm vụ mà “cụ” bàn bạc trao đổi trong giao ban, cũng như khi gặp riêng từng người phụ trách từng mặt công tác. Hôm ấy Cục truởng gọi Nam lên ăn bữa cơm chia tay với một Cục phó chuẩn bị bay vào chỉ đạo Đoàn 9 ở Cát Lái (Vũng Tàu). Trong bữa ăn “cụ” nói chuyện nọ chuyện kia, lấy làm phiền rằng đã có cán bộ thuyền dung túng hoặc thông đồng cho anh em chiến sỹ bán cá, bán dầu trên biển mặc dù có cán bộ Tham Mưu của Hải đoàn đi theo đốc chiến. “Người nhà mình chưa tóm được mà chẳng hiểu sao chuyện đã đến tai Bộ Tư lệnh, đúng là ấm no vua bếp hay, đắng cay ông gừng chịu”- “cụ“ than thở.
- Nhưng gà ngủ, cáo không ngủ, Cục Truởng ạ - Nam đế vào- Chúng khẩu cứ đồng từ, đợi ông sư ngủ trong ca bin mới vẫy thuyền dân để sang be thì tham mưu hay tham mẹo cũng chịu bó tay.
- Còn các anh nữa đấy, tôi nghe nói mấy anh Hai (Cục truởng muốn nói mấy cán bộ Đoàn của các đơn vị phía Nam) chỉ sau vài bữa nhậu đã ký hợp đồng thi công, chẳng biết có thiết kế, dự toán hay không. Nghe nói thằng cha chủ thàu ở Dương Đông chỉ biết viết mỗi một cái tên của hắn dưới mục chữ ký bên B. Anh này - ”cụ” quay sang cục phó Chư - Thế mà thằng cha nghe nói có hàng chục chiếc xe “Reo”, xe ủi, máy xúc với xe cẩu, thiết bị của hắn là điều nằm mơ đối với một Trung đoàn xây dựng của mình đấy. Các anh Hai trong ấy làm ăn cũng dữ dằn đấy nhỉ?
- Đồng chí thu xếp nhanh việc ngoài này rồi vào Phú Quốc để giúp họ triển khai xây dựng triền tàu An Thới, xưởng chế biến tôm xuất khẩu và một nhà máy sản xuất nước đá để cấp cho tàu đánh tôm của Đoàn 33 - “cụ” nói tiếp với Nam - Đưa tàu vào Kiên Giang lấy đá, ra đến ngư truờng đã tan non nửa thì còn đánh đấm nỗi gì, chưa nói lượng dầu tiêu thụ cho 14 giờ hành trình. Sẵn đá của mình thì chẳng được cái trắm cái chép cũng được cái tép cái tôm . Chỉ cần vài năm vấn đề bán đá cho tàu thuyền đánh bắt quanh đảo cũng đủ tiền xây rồi.
Nói chung bao giờ “cụ” cũng có tầm nhìn chiến lược cần thiết cho việc phát triển của Cục, Nam thầm công nhận, anh còn biết “cụ” đang giục đưa nhanh tàu đông lạnh HQ18 vào để gom tôm he trên biển trong khi chờ xây dựng nhà máy nuớc đá, cũng là một cách để ngăn chặn việc có tàu nào thoái hoá lén bán tôm bán dầu cho dân chài.
Từ ngày về Hải Quân đến nay Nam chưa từng đi theo tàu đơn vị lần nào. Chỉ có một lần đang đứng ở khu xây bể chựơp thì thấy Song - bạn anh - sửa máy trên chiếc ca nô vẫy bảo có đi thử máy một tẹo không. Nam lập tức leo qua tấm ván sang ca nô, nhưng vừa len lỏi qua con lạch ngoằn ngòeo giữa rừng sú vẹt ngập mặn ra tới dòng chính sông Cấm thì động cơ lại “xin nghỉ phép”. Ca nô cứ thế trôi theo dòng triều đang rút vào ven đảo Vũ Yên nơi có tấm biển gỗ ghi “Thuỷ lôi chưa gỡ, các phương tiện tránh xa” cùng với chiếc sọ người nguyệch ngoạc nhưng trông cũng đủ ghê. Song đang cố bắt cỗ máy làm việc trở lại vội ngẩng lên hô lớn “Tất cả đứng nhún chân trên boong, không bám tay vào cái gì cả. Nếu thuỷ lôi nổ văng xuống sông, cố mà bơi vào bờ! Không bám tay vào đâu cả, nếu không sức nổ sẽ xé rách bả vai nghe chưa!” Đã quen với mọi kiểu báo động nên năm sáu người có mặt trên ca nô đều buông tay đứng lom khom như lũ chim cánh cụt. May là con tàu nhỏ chỉ trôi sát tấm biển rồi lướt ra xa không có tiếng nổ nào. Hút chết, nhưng trưa đó cả bọn phải đào còng ở cuối đảo Đình Vũ, nơi ca nô dạt vào bãi cát, nướng ăn thay cho bữa trưa!
Lần này cũng lại Song và thuyền truởng HQ18 rủ anh theo tàu xuôi Phú Quốc. Mặc dù có tiêu chuẩn đi máy bay khi công việc cần đến nhưng một chuyến đi xuyên Việt dọc theo bờ biển cũng khá hấp dẫn nên Nam đã khăn gói quả mướp xuống ngủ ở phòng thuyền truởng để cùng hành trình.
HQ18 rời bến, thuyền truởng chọn được giờ rất đẹp nhưng Sng có biệt danh “Paven-Coocsaghin của Trạm Sửa chữa” vẫn mang vẻ băn khoăn trên mặt.
- Nếu cho mình thêm hai ngày chỉnh sửa nữa thì có thể yên chí ngủ suốt hành trình. Thậm chí mình không phải đi theo tàu, anh em khác đi cũng được. Bộ lọc dầu và lọc khí hơi bị kém mà kế hoạch quí này đã lĩnh hết rồi. Giá có bọn nào bán chui mình sẵn sàng bỏ tiền túi ra mua cho nó yên tâm - Song nói.
- Paven-Coocsaghin lại định tiếp tay cho bọn ăn cắp à. Dẹp chuyện ấy đi, có Trùm máy nổ biệt phái đi theo tàu là bọn này yên chí lớn rồi. Vào đây nhâm nhi tí đã - Thuyền truởng vừa mở khóa ngăn tủ đặc biệt của mình bưng ra một bình đặc những quái vật thời tiền sử, toàn là khủng đẻn (rắn biển), khủng tắc kè, khủng hải mã chen chúc nhau nên cả chiếc bình to đùng chỉ gạn ra được vài lít rượu vàng xanh sánh như mật ong - Thuyền trưởng HQ03 tặng tớ bình này từ năm ngoái, vừa rồi thằng HQ08 lại thảy cho kí mực khô. Nào chúc cuộc hành trình thuận buồm xuôi gió, neo cứng sóng mềm nào!
Nam và Song đều không phải con cháu Lưu Linh hay Thần rượu nho Bacchus nên mỗi người chỉ tợp được một chén nhỏ, nhai “mồi” là chính nhưng đám bậu xậu trên tàu thì chưa đủ ướt môi. Thuỷ thủ trưởng lôi đâu ra can rượu Thanh Hoá đổ đầy vào bình, hắn cẩn thận cho chiếc bình vào tủ, nói như giao hẹn với thuyền truởng “Cứ để đây, sao vàng hạ thổ 24 tiếng là mai lại đặc ngay đấy mà!”
HQ18 là con tàu đông lạnh, có thể ướp đông được vài chục tấn hải sản có giá trị. Nó là con chủ bài của Cục truởng trong vụ tôm đông năm nay, trên tàu còn chở theo hai cuộn cáp to đùng để đi lại hệ thống điện trong Hải đoàn 33 và khá nhiều quân trang, nhu yếu phẩm. Ngoài Nam ra cũng còn gần chục nhân viên kĩ thuật, sĩ quan chuyên nghiệp đi theo tàu để vào bổ xung cho hai hải đoàn ở Vũng Tàu và Phú Quốc.
Nhưng trời chẳng chiều người. Nửa đầu của cuộc hành trình vào đến Đà Nẵng thì đúng là thuận buồm xuôi gió, con tàu đi nhanh và êm ả. Cập vào bán đảo Sơn Trà khi đài báo đợt gió mùa đông bắc cấp 4 cấp 5, ngoài biển cấp 6. Thời tiết này thì chỉ tàu xuyên đại dương mới dám hành trình, đành phải đợi vài ba ngày cho sóng gió êm. Nhờ đợt nghỉ này lần đầu tiên Nam được xem Bảo tàng Điêu khắc Chàm và các danh thắng của thành phố Đà Nẵng mặc dù thành phố này đã kết nghĩa với Hải Phòng của anh hàng mấy chục năm nay.
Con tàu phải bỏ dở nửa sau của cuộc hành trình do gió mùa đông bắc cứ bổ xung hết đợt này đến đợt khác, tàu đang chạy men ven bờ để tranh thủ thời gian thì chết máy vì phải liên tục hoạt động hết công suất trong khi hệ thống lọc dầu, lọc gió đã quá cũ. Sau hơn hai ngày trôi dạt trên biển giữa sóng gió cấp 6 cấp 7 tàu HQ18 đã bị các đợt sóng ngang của bờ biển Tuy Hoà đẩy nghiêng vào bãi cát ven bờ, nơi có mấy chiếc tàu to hơn của Mỹ-Nguỵ cũng gặp tai nạn tuơng tự, giờ đây đã bị cát lấp gần hết, cũng may là HQ18 bị cạn truớc khi trôi qua bãi đá Đại Lãnh, nếu không con tàu đông lạnh đã hoàn toàn bị xoá sổ khi lạc vào bãi đá ngầm giữa những đợt sóng khủng khiếp của miền gió ngang nổi tiếng hung dữ này.
Ngày đó Nam không tham gia vào việc cứu tàu vì nhiệm vụ của anh là vào nhanh Phú Quốc để xây nhà máy nước đá và các công trình khác để bù đắp cho thiệt thòi của việc con tàu bị nạn. Phờ phạc vì mất ngủ và vì phần lớn thứ cố nhét vào dạ dày đều bị trục xuất ra boong tàu nhưng Nam cũng vẫy xe đò đi thẳng từ Tuy Hoà vào Nha Trang. Anh ngủ ở đây một buổi chiều và một đêm liền tù tì mới hồi sức. Từ thành phố Hồ Chí Minh bay ra sân bay Rạch Sỏi thì gặp Cục truởng Kim đã vào Rạch Giá, thế là Nam bỏ chuyến bay ra đảo đã mua vé mà xuống tàu tháp tùng Cục truởng cùng Bộ truởng Bộ Thuỷ Sản đi khảo sát mấy hòn đảo với mục đích nghiên cứu thuỷ sản trước khi ra khu quân sự An Thới của Đoàn 33.
- Thằng em ạ - Cục truởng nói với Nam lúc hai người đứng trên boong nhìn Hòn Tre mà tàu sắp cập vào- Đúng là lươn bò để tanh cho rổ , thằng HQ18 bị như thế rồi, còn lâu mới kéo được nó ra. Nhưng thôi ốc làm chẳng nên thì sên phải chịu, phải nghĩ cách khác ngay. Mình sẽ phải kết hợp với một số công ty của Bộ Thuỷ sản cùng khai thác và chế biến vấn đề tôm đông lạnh để xuất cho Nhật Bản. Ra ngoài ấy em phải làm sao giúp bọn chúng xây thật nhanh xưởng chế biến tôm và nhà máy nuớc đá, sẽ nhờ ông Trịnh - Bộ truởng bảo mấy công ty trong Thành Phố cho một số kỹ thuật viên và công nhân lành nghề ra hợp tác với mình ban đầu để lính tráng Hải Đoàn 33 quen dần vấn đề công việc. Rán lên đồng chí nhá!
- Báo cáo Cục truởng, tôi sẽ hết sức cố gắng ạ! - Nam đáp một cách nghiêm túc nhưng thấy Cục truởng có vẻ suy tư anh nói thêm cố làm cho “cụ” vui lên - Thân lươn không quản lấm đầu đâu ạ, Cục truởng cứ yên tâm.
Công việc “đánh dậm” này chẳng hề dễ hơn việc đánh giặc ngày nào - Nam nghĩ - cũng là một hòn đá thử vàng mà giữa trần ai ai đã biết ai. Nhưng phải đọc ít tài liệu về công nghiệp đông lạnh này đã, may mà mượn được của tay Thư ký Bộ truởng. Ra ngoài kia làm cách nào sao lại đuợc mấy chương thì tốt…
(Viết theo thể hồi kí, tên người và tên đất giữ nguyên để nhớ về các đồng đội một thời)
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 20/08/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người tù trên đảo – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 20/08/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người tù trên đảo – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 10/07/2011
Ngồi trong văn phòng Tổng giám đốc của một Tổng Công ty do thương binh quản lý Toan nhìn thấy bài báo viết về vụ vi phạm qui chế quản lý đất đai trên đảo Phú Quốc. Theo thói quen của người bận nhiều công việc anh chỉ đọc lướt "theo chiều dọc", nhưng một tên người làm nhãn quang của anh chững lại và chợt thấy nhói đau cánh tay trái nơi mỏm cụt. Bỗng thấy bồi hồi - một cảm giác đã lâu không xuất hiện do áp lực khắc nghiệt của cuộc vật lộn với thương trường những năm gần đây. Quên đi điều đang suy nghĩ, hình ảnh về hòn đảo nằm ở tận cùng miền tây nam chợt trở về với anh sống động...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
NGƯỜI TÙ TRÊN ĐẢO
***
Ngồi trong văn phòng Tổng giám đốc của một Tổng Công ty do thương binh quản lý Toan nhìn thấy bài báo viết về vụ vi phạm qui chế quản lý đất đai trên đảo Phú Quốc. Theo thói quen của người bận nhiều công việc anh chỉ đọc lướt "theo chiều dọc", nhưng một tên người làm nhãn quang của anh chững lại và chợt thấy nhói đau cánh tay trái nơi mỏm cụt. Bỗng thấy bồi hồi - một cảm giác đã lâu không xuất hiện do áp lực khắc nghiệt của cuộc vật lộn với thương trường những năm gần đây. Quên đi điều đang suy nghĩ, hình ảnh về hòn đảo nằm ở tận cùng miền tây nam chợt trở về với anh sống động...
Đó là lần đầu tiên anh đi máy bay và chuyến bay đó đã làm Toan nhớ suốt đời, dù về sau số phận còn để anh có dịp được bay trên những chuyến bay sang trọng của các hãng hàng không nội địa và quốc tế. Đi máy bay không phải mua vé, còn có xe chở ra tận chân cầu thang, tuy nhiên cứ hai hành khách thì phải mang thêm một đoạn xích vì các anh là đoàn tù binh đang bị áp giải đi đâu đó.
Kể lại câu chuyện lần đầu tiên đi máy bay lúc đang là tù binh, bị xiềng xích và bị nện tơi tả, đã khiến vài người không tin nên sau anh không nhắc lại chi tiết này nhưng đó là sự thực - thực như anh đang là thương binh cụt một bên tay. Ngày ấy anh em tù đoán non đoán già mà không hiểu bọn chúng chở mình đi đâu, người bảo có lẽ chúng đưa ra Côn Đảo nhưng một tù binh chắc là người Sài Gòn bảo xưa nay chúng thường chỉ giam tù chính trị và thường phạm nguy hiểm ở đấy thôi, còn tù binh thì... Vài người thì thầm "Hay chúng định chở anh em mình ra quăng xuống biển để thủ tiêu?...". Tất cả đều trong tâm trạng hoang mang nên tuy ngồi cạnh ô cửa kính nhưng Toan cũng chẳng còn lòng dạ nào để ngắm cảnh hoặc thưởng thức cảm giác của một người lần đầu tiên được đi "tàu bay", một điều xa vời vợi với ước mơ của anh khi còn là cậu học sinh trung học ở miền quê Kiến Thuỵ của thành phố duyên hải phía Bắc, hiện đang xa cách anh cả ngàn cây số.
Đó là năm 1972, Toan là tù binh đã bị giam ở trại Phước Long được bốn tháng sau lần bị thương và bị bọn lính Mỹ bắt trong một chuyến trinh sát phục vụ cho kế hoạch tấn công của tiểu đoàn. Hôm đó tiểu đội trinh sát của anh (thực chất thì chỉ có năm chiến sĩ) nhận nhiệm vụ tiềm nhập vào thị trấn sát khu căn cứ Long Thành điều tra lực lượng và hoả lực của địch. Công việc đã xong nhưng lúc quay về thì gặp quân tuần tiễu, toán trinh sát chia làm hai để hỗ trợ nhau vừa đánh vừa rút. Đã sắp thoát được hoả lực bắn thẳng AR 15 thì một trái M79 nổ ngay sau thân cây trước mặt làm anh tối tăm cả hai mắt và bị thương ở đầu gối. Không nhìn thấy gì nữa nhưng anh cố loạng choạng lẩn vào phía rừng, tuy nhiên chỉ được vài chục bước thì đã bị bọn Mỹ vây quanh. Nhận thêm một viên đạn vào đùi và một cú quật, có lẽ bằng báng súng sượt đầu xuống vai thì Toan lăn quay ra đất.
Anh bị đưa về căn cứ Long Thành. Rất may là chỉ bị xây xát lỗ chỗ ở vùng mặt quanh hai mắt và giác mạc bị tổn thuơng do đất cát văng vào, ba ngày sau anh đã nhìn được mọi vật tuy còn rức và nước mắt chảy nhiều. Chữa chạy của bọn Mỹ ngụy đối với tù binh rất qua quít nhưng do các vết thương đều không nguy kịch nên nửa tháng sau thì hầu như Toan đã khỏi. Chúng đánh và thẩm vấn nhưng anh chỉ nói là "cùng mấy anh em nhận nhiệm vụ vào thị trấn mua thuốc kháng sinh và thuốc sốt rét, sau đó đụng độ bên các ông, bị thương vào mắt nên bị bắt, mấy người kia không rõ tình hình họ ra sao."
Vào thời gian đó việc lính Bắc Việt bị bắt đã thành chuyện bình thường. Trường hợp của Toan không có gì đặc biệt, khai báo của anh chung chung và phù hợp với tin tức chúng đã có nên cuối cùng anh bị tống vào một trại tù binh ở gần khu Phước Long. Nhưng hôm nay, từng toán một các tù binh bị lùa lên xe bịt kín chở đi đâu đó. Nhóm Toan bị lùa lên chuyến xe đầu, không biết tiếp theo còn mấy xe nữa, chỉ biết là chạy chừng hai tiếng đồng hồ trên tuyến đường khá nhẵn nhụi, rồi tù binh trên xe bị lùa xuống một khu riêng quây tạm bợ xung quanh bằng tôn và vải dù ngụy trang loang lổ, có mấy chiếc máy bay không lớn lắm, sau này anh mới biết đó là máy bay vận tải quân sự DC3.
Tù nhân bị đẩy lên máy bay rất nhanh, vài người ngần ngừ lập tức bị đánh bằng dùi cui nên chỉ dăm phút sau chiếc máy bay chở quãng non ba chục người đã lăn bánh chạy ra khỏi khu có hàng rào tôn bao quanh, tiến ra phía con đường khá rộng và thẳng tắp chia đôi thảm cỏ xanh. Động cơ rồ lên mạnh mẽ rồi chỉ ít phút đã thấy máy bay ở trên trời, nhà cửa phía dưới loang loáng tụt lại dần, rất nhanh sau đó Toan thấy phía dưới là ruộng đồng bằng phẳng mênh mông có những con sông hay kênh rạch chia thành ô rất vuông vức. Rồi anh nhìn thấy biển.
Mặc dù đang hoang mang nhưng với thói quen của dân trinh sát Toan cũng ước tính được máy bay đã bay chừng bốn chục phút. "Không lẽ chúng sẽ đẩy tất cả xuống biển!?" Toan nghĩ và nhìn quanh. Tuy nhiên hai tên nguỵ và một tên Mỹ áp tải vẫn đang bình thản ngồi ở đầu và đuôi máy bay, không tỏ vẻ gì khẩn trương.
Việc máy bay hạ cánh rất bất ngờ đối với Toan vì ở chỗ anh ngồi chưa nhìn thấy đất liền đâu cả. Hoá ra tù binh bị chở ra đảo, sau anh mới biết mình đang ở trại giam trên đảo Phú Quốc khi tiếp xúc với số tù binh đã bị giam sẵn ở đây. Khu trại rất rộng nhưng hết sức tạm bợ, chỉ có các dãy cột bằng bê tông đúc sẵn căng thép gai bao quanh và ngăn chia ranh giới từng khu với những chòi canh nhô lên ở các góc. Nhà giam trông như những dãy chuồng bò, tất cả đều lợp tôn trên những khung cột kèo thép. "Bọn chúng ỷ vào địa thế biệt lập của hòn đảo nên chẳng đầu tư cái gì kiên cố cả" - Toan nghĩ khi anh nhìn một vòng toàn cảnh.
Mấy chiếc xe nhà binh chở tù từ sân bay dã chiến An Thới vào khu trại, kéo theo sau một bầu trời bụi bậm màu đất đỏ. Có tất cả bốn chuyến bay chở tù ra đảo, chuyến nọ cách chuyến kia chỉ quãng ba mươi phút nên chiều hôm đó việc chuyển tù đã xong. Tù nhân được tháo xích giằng nhưng không hiểu sao chỉ mươi phút sau lại có lệnh xích tay từng cặp hai người lại như cũ, chắc là bọn chúng sợ có sự lộn xộn do số tù tăng hơi đột biến - Toan nghĩ vậy.
Lần này Toan bị xích chung với một người khác, anh tù binh này cũng bị chở cùng một chuyến với Toan, lúc này không hiểu sao lại tình cờ đứng cạnh nhau và cùng chìa tay ra đón chiếc xích do hai tên coi tù thực thi nhiệm vụ.
- Nè, tui với anh Hai nằm vào góc này - Anh bạn tù cùng chung sợi xích mà Toan chưa kịp nhớ tên nói giọng nửa Trung nửa Nam chợt kéo tay anh. Anh ta chắc hơn Toan vài ba tuổi, chưa đến ba mươi, người to khoẻ, da ngăm đen. Các đơn vị lính Bắc, nhất là các tổ trinh sát thường được phiên chế vào một vài người địa phương vì họ thông thạo địa hình và để tiện trong giao tiếp với dân - Yên chí đi anh Hai, đây là quê tui, có thể miềng sẽ mần được điều chi. Nè, nhớ nói càng ít càng tốt đấy - Anh ta lại thầm thì vào tai Toan.
Không nói gì nhưng vài tuần sau đó Toan luôn để tâm quan sát và phân tích anh bạn tù này. Nghiệp vụ trinh sát cho anh thấy người này (tên là Bàu theo như anh ta nói) không phải là do bọn địch cài vào. Anh ta biết rõ hòn đảo này, cũng có thể là người ở đây thật nhưng đã lang bạt nhiều nơi, giọng không còn thuần phác địa phương. Những lúc cùng anh ta nấu cơm cho toàn "căng" (tù binh phải tự nấu lấy cơm, không có người dân đảo nào được vào trong khu trại lợp tôn với những hàng lưới thép gai dày vây quanh) Bàu thường kín đáo chỉ và nói cho Toan biết tên các dãy núi, miêu tả đường giao thông trên đảo, các đồn bốt chính của bọn ngụy, phía nào có rừng, phía nào ra biển, chỗ nào có dân chài, dân trồng tiêu, nuôi bò...
- Tui sanh ra ở đảo này - Bàu bảo Toan - tía má tui chết cả rồi, nhưng còn con em gái. Bà già mất sau ổng hai năm. Sau khi họ chết tui rời đảo vào Sài-gòn kiếm sống, lang bạt ra miền Trung lận vì cứ phải trốn quân dịch. Chừng đến mươi năm rồi đấy. Tui ra cứ ở Thừa Thiên, gia nhập quân giải phóng được hai năm thì bị bắt trong một trận chống trả tụi nó đổ bộ bằng trực thăng.
- Hèn nào anh thông thạo đảo này quá chừng.
- Anh Hai không nói nhưng nhìn anh tui biết là dân trinh sát, vì thế mới bắt quen để tính chuyện cùng trốn trại. Ra thoát bên ngoài mấy lớp rào kia thì khỏi lo. Anh hổng sợ chứ?
- Để xem đã - Toan chưa nhận lời ngay tuy trực giác cho anh niềm tin ở con người này.
Nhưng chẳng còn nhiều thời gian để đắn đo. Ngay chiều hôm đó anh và Bàu được cử đi dọn dẹp khu chuồng bò liền với trại tù, phía giáp núi. Đàn bò có đến hàng trăm con, cung cấp thịt cho sĩ quan và lính đồn trú khu An Thới ở phía nam đảo. Lâu lâu chúng mới cử tù binh đi quét dọn nên rất bẩn thỉu, phân bò phải xúc dọn vào một góc để bón cho vườn tiêu của ngài Đại tá. Hai tên ngụy coi tù hết sức đốc thúc nhưng đến giờ đưa tù về trại mà việc vẫn chưa xong hẳn. Chúng chửi hai người mấy câu, nói là nửa tiếng nữa nếu không dọn xong sẽ phải nhịn ăn tối.
Khoảng sáu giờ chiều thì đàn bò hàng trăm con kéo về làm bụi nổi lên mù mịt, đột ngột Bàu lại gần Toan nói khẽ:
- Tranh thủ cơ hội thoát ra ngoài theo nẻo kia (anh ta chỉ tay về phía con đường mòn dẫn lên núi), chỉ có vài tên lính chăn bò là có súng. Có cơ may tiếp cận thì hạ chúng ngay, không thì lẩn giữa đàn bò mà chạy đi.
Bàu vẫn một tay cầm chiếc xẻng lợi dụng màn bụi che mắt hai tên coi tù lẩn nhanh ra phía cổng trại bò, đắn đo vài giây rồi Toan cũng ẩn mình lẩn theo. Đến đúng cổng ra ngoài anh trông thấy Bàu đang giơ xẻng đập vào đầu tên lính ngụy đứng chắn ở một bên cổng, nhưng một con bò xô vào người anh ta nên cú đánh truợt đi. Tên lính hoảng hốt vừa né một cặp sừng bò vừa đưa khẩu AR 15 lên cao hơn tầm lưng bò để bắn vào Bàu thì Toan đã tiếp cận. Bằng một cú nhử anh tóm được tay tên ngụy, rồi đòn Ju-đô tiếp theo làm hắn văng qua lưng con bò mộng, Toan định cố nhặt khẩu súng đang bị chân cẳng lũ bò giẫm đạp lên thì Bàu ra hiệu chạy đi.
Tiếng la thét rồi tiếng súng vang lên ở cả bên trong và bên ngoài khu chuồng bò làm đàn bò hoảng sợ chạy tán loạn. Hai tù binh tận dụng cơ hội chạy vào con đường mòn dẫn lên núi rồi lúc nấp vào sau các hòn đá, lúc chạy len lỏi giữa cây cối tránh đạn bắn theo, chẳng mấy chốc họ đã vượt sang bên kia núi.
Rừng và biển cùng một màu xanh giang tay đón họ, cũng không thấy bọn ngụy có động tĩnh gì thêm. Có lẽ chúng hoàn toàn bất ngờ vì xưa nay chưa có truờng hợp nào tù binh trốn trại, vì nếu trốn chẳng chóng thì chày cũng bị tóm lại hoặc chết đói mà thôi.
Suốt hai ngày toàn ăn tôm, cá, trai, sò bắt thẳng từ biển lên một cách dễ dàng bằng đôi tay ngư dân bẩm sinh của Bàu, hai người cứ theo bờ biển phía đông đảo lúc lội biển, lúc leo núi vượt rừng ngược lên phía bắc, rồi đêm thứ hai vượt ngang sang phía Tây đảo tới khu vực Hàm Ninh. Tại đây họ bắt được liên lạc với đội du kích trên đảo và điều đặc biệt vui mừng với Bàu là gặp lại cô em gái cũng là đội viên du kích...
Tiếng chuông điện thoại làm cắt ngang dòng suy nghĩ. Toan đứng lên trao đổi vài chi tiết của bản hợp đồng với đối tác rồi anh rời phòng làm việc sau khi dặn cô thư ký mấy câu. Anh bảo lái xe đưa ra biển, chọn một nhà hàng vắng khách gọi mấy thứ đồ uống tới chiếc bàn trông ra biển và bảo bà chủ là muốn được yên tĩnh một mình.
Biển quê anh khác xa với biển quanh hòn đảo anh từng bị cầm tù. Dập dờn và mênh mông mặt biển màu nâu nhạt trước mắt Toan lúc này, nơi có bóng mây mặt nước biến thành màu sô-cô-la. Dải ven bờ thực sự là bùn với những con cá tràng xay gày guộc và lũ còng đỏ gọng di động từng đoạn một dưới ánh nắng đầu hè gay gắt, trông máy móc như đồ chơi vặn cót của bọn trẻ.
Nơi ấy, biển Phú Quốc xanh ngắt một màu, cát trắng ven bờ chỉ hơi ngả vàng, tôm cá thì khỏi nói. Chưa ở đâu anh thấy nhiều hải sản đến như vậy. Toan nhớ những lần anh cùng với Bĩnh cải trang theo ngư dân đi đánh cá - Bĩnh là cô em gái Bàu, cái tên cô gây buồn cười cho anh vì hình dung đến một thằng cu đang ị ra chiếu, anh muốn đổi tên cho cô nhưng cô không chịu, bảo tên ấy là do tía má đặt cho, tuy vậy anh toàn gọi chệch cô là Bình. Đứng trên thuyền ở bến cá anh thấy trên mặt nuớc kín đặc những con cá nhỏ bằng chiếc đũa, sâu xuống độ hơn gang tay là lớp cá thứ hai to cỡ hai ba ngón tay, cũng dày đặc như vậy, dưới chút nữa là tầng cá gồm những con to bằng bàn tay. Khi lấy chiếc sào nhỏ xua cho các lớp bơi bên trên dạt ra sẽ thấy gần đáy là những con cá to hàng ki lô gam trở lên lượn đi lượn lại. Cái gì cũng nhiều, đến mức làm anh phát hoảng.
Anh nhớ tới lần anh và Bĩnh đang kéo chiếc lưới nhỏ bắt ít tôm cá ăn tạm, sau một trận phá rối không cho bọn ngụy làm con đường nhựa từ An Thới đi Dương Đông. Dựa vào dãy núi đá dọc phía tây đảo làm căn cứ, ban đêm du kích lẻn ra gài mìn, ban ngày bắn tỉa, thỉnh thoảng có được mấy quả M79 lại chọi vào xe gạt, xe lu của bọn chúng. Họ liên tục phá rối làm cho đoạn đường chạy sát núi này phải bỏ dở, mấy năm liền bọn Mỹ nguỵ không thể nào triển khai được con đường huyết mạch nối phía Bắc với phía Nam đảo. Hôm ấy hai người cùng lội dưới biển, Toan cởi trần, quần đùi còn Bĩnh vẫn mặc quần đen và áo sơ mi. Bất chợt thấy toàn thân mình như bị một rừng gai đâm vào khiến Toan kinh hoảng nhảy dựng lên, cùi tay đập vào bộ ngực căng đầy của cô du kích.
- Ây da, cái anh chết bầm này. Lũ tép moi mà làm như thấy cọp vậy nè! Ai biểu cứ trần trụi!- Cô xấu hổ vừa mắng vừa đỏ mặt lên.
Quả thật đó chỉ là một đàn tép bơi qua, nhưng chúng dày đặc đến mức kín cả vùng nước, râu ria tua tủa đáng sợ như đàn ong hèn nào làm anh kinh hãi đến thế.
- Chết cha, tôi không cố ý đâu, cô Ba! - Này, hay ta cởi áo quây bắt lấy dăm cân tép về làm món nộm, khỏi phải bắt cá nữa, Bình ạ. - Toan nói đại để chữa thẹn.
- Áo đâu mà cởi, trụi thui lủi thế kia, cởi chi nữa?!
Toan lại càng ngượng vì vừa lỡ tay giờ lại lỡ lời. Mình thì đang cởi trần, chẳng nhẽ cô ấy cởi chiếc áo kia ra để quây lũ tép ư?! Trong khi đó Bĩnh càng đỏ mặt hơn lén nhìn xuống ngực mình đang hiện ra thây lẩy dưới lớp sơ mi ướt nước biển cứ dán chặt vào da thịt. Cô gái đảo mười chín tuổi bầu bĩnh, tròn trĩnh, xỉnh xình xinh làm chàng trai Bắc đã cố quay đi mà vẫn không cưỡng được việc liếc mắt chiêm ngưỡng thêm một chút.
Ước gì những ngày tháng gian khổ nhưng tươi đẹp ngày xưa ấy quay lại được nhỉ. Giờ đây cuộc sống của anh có thể nói là chẳng thiếu thốn chút gì nhưng sao vẫn đơn điệu và nhàm chán, may mà anh còn có sự ham mê phát triển kinh doanh với mong muốn giúp đỡ thêm cho các bạn bè thương binh của mình.
Anh lại nhớ tới những ngày Hiệp định Pa-ri vừa được kí kết. Có tin ta và địch sẽ trao trả tù binh cho nhau, nếu đúng thế thì số tù binh trên đảo Phú Quốc, mà đại đa số là người ngoài Bắc sẽ có thể được trở lại quê hương. Đội du kích được giao nhiệm vụ quan sát, điều tra tình hình các trại giam xem bọn địch có thực hiện đúng hiệp định hay không và sẵn sàng giúp đỡ tù binh nếu như bọn chúng có hành vi đàn áp hay bí mật thủ tiêu họ.
Từ ngày vựơt trại đến lúc đó đã hơn nửa năm, Bàu đã qua thẩm tra và được cất nhắc lên làm chỉ huy phó của Đội, phụ trách khâu liên lạc và tiếp tế giữa đất liền và đảo nên thường hay theo thuyền vào Hà Tiên hoặc Rạch Giá. Bĩnh và Toan thuộc nhóm theo dõi tình hình trại tù, hai người cùng một chị nữa trung tuổi giả làm một gia đình ngư dân, dùng thuyền câu mực cơ động quanh phía nam hòn đảo, đó là nơi bọn Mỹ ngụy đặt trại tù binh, chúng có lắp một sân bay dã chiến bằng những tấm ghi thép chuyên dụng, cũng là nơi tàu hàng và tàu chiến từ đất liền cập đảo qua các bến Dương Tơ hoặc An Thới.
- Nè, tôi đưa thuyền ghé qua vụng An Thới mua chút rau xanh của đám ghe Rạch Giá mới từ trỏng ra. Bĩnh chỉ chỗ cho anh Hai Toan kiếm ít trai hầu nấu canh bữa rày. Bãi quanh miếu Minh Vương nhiều lắm đó - Chị phụ nữ trung tuổi tên là Vường nói với hai người rồi ghé bờ để họ lên khu bãi vắng men núi.
Chỗ này là mỏm cực Nam của đảo, kín đáo và hiểm trở, gần đó có ngôi miếu, tương truyền ngày xưa Gia Long bị quân Tây Sơn đánh cho đại bại vượt biển chạy ra đảo này thì hết cả nuớc ngọt và lương thực. Ông vua khốn khổ khấn trời nói rằng "Nếu Trời còn phù hộ nhà Nguyễn thì cho con xin chút nước uống", sau đó ông ta dùng gươm đào đất núi. Bỗng một tảng đá nhỏ bật ra rồi nước ngọt từ hõm đá đó cứ chảy ra mãi, ngày nay cái vũng nhỏ có tên là giếng Tiên với nguồn nước đó vẫn còn. Dân đảo này lập đền thờ gọi là miếu Minh Vương, hàng năm vào mùa xuân thường có nhiều người đến cúng.
- Khu này sóng lớn nên hổng có tép moi đâu. Anh Hai cứ thoải mái xuống đại đi. Bê một tảng hầu lên ghè lấy nhân thì ăn phát chết luôn à. Cẩn thận mở to mắt để nhìn mà tránh những con bàn mai hay trai bự, kẻo chúng kẹp mồm giữ lại hầu hạ bà Thuỷ dưới đó nghe. - Bĩnh nói với anh nhưng cô ta cũng bỏ bớt áo ngoài, ý chừng sẽ xuống phụ giúp hay chỉ bảo cho anh.
Toan đã được xem các loại nhuyễn thể cô vừa kể. Con hầu tách ra có ruột tròn dài cỡ hai ngón tay cái chập lại, ăn giòn và ngọt, vỏ vôi của chúng dính vào nhau thành từng cục giống như tảng đá có hà bám ở quê anh. Nhưng hà chỉ bám ở ngoài mặt nên tảng đá to tướng chỉ ghè được nửa bát ruột hà là cùng, còn tảng hầu to bằng cái rá thì phải tách được nửa rá ruột. Bàn mai là một loại trai to có hình thù giống như lưỡi mai đào đất, ruột lớn nhưng chỉ có hai mẩu cơ giằng hai mảnh vỏ (mỗi mẩu to cỡ ngón chân cái) rất ngon, phần còn lại màu hồng bèo nhèo như ruột hến, dân ở đây chê không ngon nên không ai ăn. Bàn mai cắm phần đuôi đầy rong rêu như chiếc xà beng nhọn xuống đáy biển, đứng yên tại chỗ, hai mảnh vỏ nhô lên trên mặt cát mở ra để hứng bắt mồi, người lặn kém phải hai ba lần lặn mới lay nhổ được nó lên khỏi đáy biển. Trai biển ở đây cũng có hình thù như trai ở quê anh nhưng to dễ sợ, có con lớn như chiếc quạt giấy, vỏ dày cứng như đá, ai vô ý bị nó kẹp miệng giữ lại có thể chết đuối vì hết hơi không ngoi lên được.
Toan lặn xuống chỗ nước sâu quãng hai mét rưỡi, anh cậy dài hơi cố sức lay để một lần nhổ được con bàn mai lên ngay. Không thấy Toan ngoi lên Bĩnh kinh hoảng, cô vội vàng lặn xuống bơi tìm Toan. Trong khi cô xuống thì Toan cũng bắt đầu ngoi lên. Do hoảng hốt và quá vội vàng, cô không kịp quan sát lũ trai vỏ cứng nằm trong kẽ đá nên trong khi cô xoay quanh dưới nước để tìm anh, đã bị hai con kẹp chặt vào ống quần. Cô cố gắng gỡ ra nhưng không được, đến lúc cạn hơi đành phải đạp chân ngoi lên gửi chiếc quần dây thun lại dưới nước!
Toan đang ngơ ngác tìm cô bạn du kích thì cô nổi lên. Cô ta đỏ bừng mặt mũi, quay sang phía khác giục rối rít:
- Ngụp xuống đi, xuống bắt nữa đi để cho người ta...
Toan đang phấn khởi với con bàn mai bự vừa nhổ được lên, anh bơi lại gần để khoe nhưng qua làn nước biển trong xanh anh chợt nhìn thấy những gì đáng ra không nên nhìn.
- Ơ kìa! Lặn xuống đi. Tìm hộ người ta...
Quá xấu hổ cô gái không còn biết làm thế nào, cô quay người lội bừa lên bờ chạy vào một hang đá nhỏ. Toan đứng như trời trồng ở chỗ nước nông nhưng chợt hiểu ra tình thế, anh quẳng chiến lợi phẩm lên bãi đá, lấy hơi lặn xuống chỗ cũ. Phải đến lần thứ hai ngoi lên nhặt thêm một hòn đá đưa xuống anh mới ghè vỡ được vỏ hai con trai để thu hồi thứ tài sản "vô giá" cho cô gái.
Rụt rè đứng ở bên ngoài hang anh gọi:
- Bình ơi, anh lấy lại được cho em rồi đây nè, đứng chỗ nào để anh quăng vào cho.
- Đem vào đây - mãi mới thấy tiếng cô nói vọng ra. Toan rụt rè bước từng bước một.
- Hổng có tép moi đâu mà sợ - tiếng cô gái từ một ngách hang tôi tối gần đó - Thôi bước đại vào đi. Thấy hết của người ta rồi còn giả bộ...
Một thân hình mềm mại và nồng ấm chợt đổ vào người anh. Toan hơi ngỡ ngàng nhưng lập tức anh quên hết mọi thứ trên đời. Cả thời gian và vũ trụ như không tồn tại, lúc này chỉ còn lại hai tấm thân trẻ trung mạnh mẽ quấn riết lấy nhau trong niềm hoan lạc vô bờ... Một con tắc kè từ khe đá ló đầu ra, cu cậu chợt cất tiếng kêu như đếm nhịp thời gian cho đôi bạn trẻ còn đang ôm nhau ngây ngất. Người con gái bừng tỉnh, cô vội vàng nhặt "báu vật" thu hồi được từ hai con trai cuống quít mặc vào.
- Quay đi kìa, cứ nhìn người ta hoài à, hổng biết dơ! - Thấy Toan vẫn còn đang say sưa nhìn ngắm, cô lại đỏ bừng mặt lên.
Từ ngày đó Toan hầu như quên hẳn rằng mình đang là người tù bị truy bắt, anh tham gia mọi công việc với đội du kích như một người đã sinh ra trên đảo và Bĩnh cũng trở thành một nửa của cuộc đời anh. Do có nghiệp vụ trinh sát, công phu (võ) cũng khá nên được giao nhiều nhiệm vụ tương đối khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của Bĩnh và chị Vường mọi việc đều hoàn thành. Có lần anh và Bĩnh ngụy trang ẩn trên đỉnh núi hàng ngày ròng để dùng ống nhòm quan sát, ghi chép mọi hoạt động của bọn ngụy ở bên dưới. Lúc rảnh rỗi ở trên núi hay lênh đênh trên thuyền câu Toan thường kể chuyện ngoài Bắc cho hai người phụ nữ nghe, anh kể chuyện cổ tích Anderssen, chuyện cổ Grim làm Bĩnh rất thích thú. Cô chẳng bao giờ được nghe những chuyện như vậy, cô mở to hai mắt thương yêu và tin cậy hỏi anh:
- Nè, anh Toan ơi, thế nàng Tiên cá có áo quần hông?
- Có chứ! À, mà về sau, lúc lên bờ mới có. Còn lúc ở dưới nước thì...- Toan chợt bụm miệng cười - thì như em hôm xưa ấy.
- Cái anh Tép moi chết bầm này, sao con bàn mai Chúa nó hổng kẹp chưn anh giữ lại hầu hạ bà Thuỷ cho rồi... - cô đấm anh thùm thụp.
Khi bị xích tay đưa ra đảo người lính Bắc không thể nghĩ rằng một tù nhân mà lại có đuợc những ngày hạnh phúc đến như vậy. Bình rất ngoan ngoãn và nghe lời anh. Tuy đuợc học hành không nhiều nhưng sáng dạ, anh chỉ bảo việc gì là cô biết và làm đuợc ngay. Trí nhớ của cô du kích rất tốt, những chuyện anh đã kể cô đều thuộc và có thể kể lại cho người khác nghe, với cái lối diễn giải và sử dụng ngôn từ địa phương rất đặc biệt làm anh phải bật cười và thích thú. Anh khen cô thông minh, cô bảo:
- Bởi ăn nhiều cá đấy, tía em ngày xưa biểu ăn nhiều cá là sáng dạ lắm nha. Nhưng mà phải hổng sợ tép moi cơ, sợ tép moi như anh thì...thì có ngày...
- Có ngày phải làm con cò lặn lội xuống mổ bằng được con trai đem lên phải hông? - Toan lại trêu làm cô đỏ mặt. Cô thả một con hải sâm như quả dưa chuột đen đủi, gai nhô tua tủa vào trong cổ áo anh rồi chạy đi, cười như nắc nẻ.
Sau hiệp định Pa-ri bọn Mỹ hầu như không còn tại đảo, số tù binh bị giam ở đảo cũng được trao trả gần hết. Tuy thế bọn ngụy lúc này lại hoành hành dữ hơn vì lực lượng du kích ngoài đảo không nhiều. Về vấn đề nguồn thực phẩm, đội du kích đặc biệt thiếu rau xanh vì không dễ dàng hoá trang ra chợ mà mua, hơn nữa ngay ở chợ cũng hiếm vì trên đảo chỉ trồng tiêu và điều, hầu như không trồng rau, chỉ trông cậy vào tàu thuyền mang củ quả từ đất liền ra.
Nhiều hải sản cũng không bù được cho rau xanh, nhiều người đã bị lở loét, viêm răng lợi. Toan rủ chị Vường lẩn vào mấy chiếc ao hoang xem xét vì thấy có loại cỏ gì phủ xanh trên mặt. Tới nơi anh kinh ngạc khi thấy có rất nhiều rau muống, một số mặt ao còn có cả rau rút nữa. Toan giục chị Vường cùng hái rau nhưng chị ta bảo thứ cỏ đó không ăn được đâu, dân đảo này không ăn thứ đó bao giờ. Tuy vậy Toan cũng theo anh vội vàng cúi xuống hái được một bó to.
Anh đem rau muống về luộc rồi ăn rất ngon lành, chả khác gì rau muống ngoài Bắc nhưng phải thuyết phục mãi hai người mới chịu nếm thử và cứ lo rằng sẽ bị đau bụng. Dần dà cũng có một số đội viên chịu ăn theo anh và vấn đề rau xanh đã đỡ căng thẳng hơn. Toan mỉm cười khi nhớ tới lần vào thăm đảo năm 1982, lúc đó toàn đảo đều trồng rau muống, ai cũng ăn và gọi đó là rau "bộ đội Bắc Kỳ" vì khi ra tiếp quản đảo lính ta chủ yếu chỉ có rau muống để ăn và thứ "cỏ" này bắt đầu có giá. "Không ngờ mình cũng là một Cô-lơm-bơ, cỡ khám phá ra... rau muống trên hòn đảo này"- Toan nghĩ- "có điều họ vẫn chưa ăn và trồng rau rút".
Những ngày trong đất liền sục sôi những cuộc tấn công và chiến thắng vũ bão Buôn Ma-thuột, Tây Nguyên, Đà Nẵng, rồi quân ta áp sát Sài Gòn, ngoài đảo cũng bừng lên khí thế tiến công, giải phóng. Công việc của đội nhiều vô kể, mấy ngày liền Toan phải theo thuyền đi trinh sát các cụm đảo khác. Hôm ấy anh thấy nóng ruột quá nên theo thuyền trở về sớm một ngày so với dự định. Về đến căn cứ không thấy mọi người đâu anh vội tìm hỏi thì biết khoảng chục đội viên do Bàu chỉ huy vừa đi cướp kho vũ khí để chuẩn bị nổi dậy tự giải phóng đảo, có một nội ứng của phía nguỵ nhận bố trí giúp đỡ, nghe nói anh ta là họ hàng xa với gia đình Bàu.
Một linh cảm gì đó dày vò khiến Toan lo lắng. Anh rủ một người nữa vẫn thường hay ra vào Dương Đông bằng chiếc xe Lam chở bồn nước ngọt cùng đi tìm xem công việc của họ ra sao. Cho đến tận bây giờ, linh cảm vẫn luôn luôn mách bảo cho Toan điều gì đó, ngay cả trong những quyết định kinh doanh quan trọng của anh. Khi hai người đến điểm hẹn với tay nội ứng thì cuộc chiến đã nổ ra giữa phục binh của bọn ngụy và mấy đội viên du kích. Toan thấy Bĩnh đã bị thương, có lẽ khá nặng vì Bàu phải cõng cô chạy đi trong khi mấy người còn lại vừa bắn AK vừa ném lựu đạn để cản đường. Thét lên một tiếng, Toan xông thẳng vào bọn chúng với khẩu AK nổ ròn rã trên tay anh, khẩu CKC của người lái xe chở nước cũng đã nổ. Toán lính nguỵ bắt đầu rút chạy nhưng cánh tay trái của Toan chợt mát lạnh rồi thõng xuống nhưng anh không biết đến đau đớn, chỉ cố đuổi theo anh em Bàu.
Chiếc xe Lam chở các đội viên du kích chạy về miệt vườn trồng tiêu mênh mông phía tây bắc sân bay. Bỉnh lả dần trên tay Toan, cô cố nở nụ cười yếu ớt:
- Anh Hai... Tép moi, em không còn được nghe anh kể chuyện nữa rồi. Không... không còn... được anh ôm nữa. Đừng, đừng... bao giờ quên em anh nhé...
- Không!- Toan thét lên - Em không được bỏ anh, anh sẽ... - Cúi sát vào đôi mắt người yêu đang cố gượng nhìn mình lần cuối người con trai đất Bắc hộc lên trong tuyệt vọng. Chợt anh nhìn sang cánh tay trái sắp đứt lìa với đoạn dây ga-rô do chị Vường buộc ở phía trên, Toan đột ngột rút con dao găm đeo bên hông. Bằng một động tác dứt khoát của tay phải anh lia đứt phăng những gì còn lằng nhằng ở đoạn bẹp nát trong tiếng rú lên của cả chị Vường và Bàu. Toan chỉ hơi nhăn mặt, ra hiệu cho chị Vường nhặt hộ cánh tay trái đứt lìa đặt lên ngực nguời mình yêu đang hấp hối.
- Cánh tay anh đây. Em không chịu ở với anh thì hãy mang nó theo để anh được ôm em mãi mãi... mãi... - Một cơn choáng do mất máu làm Toan dần xỉu đi, chỉ kịp thấy đôi mắt Bĩnh bỗng sáng lên trước khi nó vĩnh viễn khép lại...
***
Thế đấy, Bàu ạ, người bạn và người anh của tôi (giá như Bình còn thì thực sự là ông anh mình - Toan lại thấy se lòng). Ngày ấy anh nói "Hòn đảo này đã táng cánh tay của chú cùng với em gái tui. Nó không ra Bắc được với chú, chú chắc cũng không thể ở lại đây mãi mãi bên mồ nó được. Thế thì chú thu xếp ra ngoải đi. Tui ở lại đây, tui sẽ mãi mãi canh giữ hòn đảo này, sẽ mần mọi công chuyện hết sức vì nó, mong có ngày được thấy nó trở nên đẹp đẽ như Tân Gia Ba*, như xứ Phù Tang* của người ta". Vậy mà sao hôm nay anh lại làm chuyện đó, lại cùng với một số người làm tổn hại đến nó, lại chịu để cho mấy người cấp cho thằng họ hàng đáng nghi vấn ngày ấy mảnh đất có nấm mộ của em gái anh, có cánh tay của tôi, cho dù anh có chuyển cô ấy đi đâu chăng nữa?!
***
Một thương binh trong bộ quần áo quân Giải Phóng năm xưa đang ngồi trên Chiếc máy bay Bo-ing 757 bay về phương Nam. Chẳng ai có thể nghĩ rằng đó là một thương gia thành đạt, anh ta đang hoàn toàn chìm trong suy tưởng như thể chí có một mình trên chiếc máy bay chở hàng vài trăm hành khách.
”Bình ơi, anh đang ra với em đây. Em nằm xuống chính vào lúc đất nước hoàn toàn giải phóng. Em có thấy là vẫn được anh ôm dù chỉ bằng một cánh tay? Với cánh tay còn lại anh cũng đã làm được nhiều điều kể từ ngày ấy. Lần này anh có ý định đưa di hài của em ra Bắc với anh, để anh có thể thường xuyên đến thăm em, kể cho em nghe những câu chuyện cổ tích của Anderssen ngày đó anh còn bỏ dở. Chắc là anh Bàu không phản đối anh đâu, còn em thì sao? Quê anh cũng có tép moi tuy không gây được rợn người như quê em, cũng có ngọn gió nồm nam mặn mòi biển cả, có rau muống luộc với rau rút mà em đã bắt đầu quen mùi vị... Bằng lòng theo anh Hai Toan ra ngoải đi em nha!...
Phác thảo năm 2005
Hoàn thiện 2011
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/07/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Ra đảo – Truyện ngắn của Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/07/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Ra đảo – Truyện ngắn của Ngọc Châu
Ngày 18/05/2011
Quẩn quanh vậy mà Hà đã dạy học ở Bạch Long Vỹ tròn hai năm, kỳ nghỉ hè này cô về nhà với một tâm trạng khác hẳn năm ngoái. Bố mẹ đã không còn la rầy về chuyện xin ra đảo, ngoài ra cô cũng đã quen đảo quen người, cảm giác ghen tỵ với cái Huệ cũng nguôi ngoai.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
RA ĐẢO
***
Quẩn quanh vậy mà Hà đã dạy học ở Bạch Long Vỹ tròn hai năm, kỳ nghỉ hè này cô về nhà với một tâm trạng khác hẳn năm ngoái. Bố mẹ đã không còn la rầy về chuyện xin ra đảo, ngoài ra cô cũng đã quen đảo quen người, cảm giác ghen tỵ với cái Huệ cũng nguôi ngoai.
Việc đầu tiên là đến nhà Huệ. Trước kia cũng thế, bao giờ lúc rảnh hai đứa cũng ở bên nhau. Nhà Huệ chỉ có hai mẹ con, bố nó mất đã lâu nên nhiều lúc bố mẹ có chuyện hục hặc, cô còn đến học và ăn cơm luôn ở nhà nó, tối đêm mới về nhà mình. Không ngờ vừa đến nhà Huệ, cô đã phải lập tức đi Ninh Bình vì có điện từ đó báo về là nó phải đưa vào phòng hồi sức cấp cứu của bệnh viện tỉnh, không rõ vì lý do gì. Chỉ kịp gọi điện về nhà báo tin cho cha mẹ biết, động viên và dặn dò bà mẹ già lưng còng của Huệ đang sụt sịt mấy câu, rồi vớ chiếc túi quần áo của cô bạn tức tốc ra đón xe vào Ninh Bình.
Ruột nóng như lửa khi Hà ngồi trên chiếc xe "chất lượng cao". Cạnh cô là hai anh chàng dáng vẻ cũng vào loại "to tai dài đuôi", giá như cô đi cùng với cái Huệ thì đội này sẽ phải "ngất ngây con gà tây" vì cách ăn nói xử sự của hai đứa, nhưng lúc này cô bỏ ngoài tai mọi lời tán tỉnh bóng bảy, kể cả một câu vào loại có đẳng cấp "tớ chả bao giờ biết say xe là gì, nghe nói sợ nhất là khi bị say cô hàng xóm" của một "mày râu" trông cũng không đến nỗi.
Cuối cùng thì đám bặng nhặng cũng thôi những câu bay bướm vì thấy chả có tác dụng gì đối với một nàng Tô Thị đã hoá đá can-xit (đó là hình ảnh hai anh chàng ám chỉ cô). Hà nhờ một ông lái xe ôm đưa đến bệnh viện tỉnh, loanh quanh ít phút thì tìm được phòng của Huệ đang nằm. Người ta không cho vào nhưng cô khẩn khoản mãi mới được một bác sĩ hé cửa phòng cho nhìn thấy bạn mình đang nằm như bất tỉnh, xung quanh lủng củng những bình ô-xy với giá truyền huyết thanh. Cô định đi vào nhưng bà bác sĩ kéo giật lại cho biết là tình trạng nguy hiểm đã qua rồi, tuy vậy bây giờ phải để yên cho bệnh nhân từ từ hồi tỉnh, gia đình có thể yên tâm không phải quá lo lắng nữa.
Cô bật khóc ròng khi biết rằng Huệ đã uống thuốc độc tự tử, khách sạn thấy bạn cô trong tình trạng mê man đã nhờ xe chở gấp đến bệnh viện. Như vậy là lúc Huệ vào đây chỉ có một mình, không hiểu những người cùng đi đâu cả vì Huệ nói với mẹ là đi lưu diễn nhạc nhẹ một tuần cùng với mấy người và "ông bầu" của nhóm cơ mà. Cô tìm gặp nhân viên bệnh viện làm các thủ tục cần thiết cho Huệ, sau đó đành ra ngồi đợi ở chiếc ghế dài ở hành lang phòng ngoài. Qua cửa sổ lớn là khu vườn rộng khá yên tĩnh, chỉ vài khu điều trị khác ở xa xa mới thấy đông người.
Hà lần giở túi đồ của bạn, cô đã mang theo trong lúc vội vàng. Trong đó có khá nhiều y phục và đồ dùng cần thiết cho một cô gái. Trước nay nhiều lúc hai đứa vẫn mặc lẫn quần áo của nhau nên Hà nghĩ là mình không lo thiếu đồ thay đổi, nhưng lật xem mấy chiếc áo cô phát hoảng vì toàn là loại áo "giành cho người tốt bụng", những người không phải xoa dầu gió vào rốn dù có để lộ thiên! Trời đất ơi, con này bây giờ ăn mặc rặt đồ này ư?! Hay đây là quần áo chuyên biểu diễn của nó?
Một tập phong bì thư rơi ra làm Hà quên chuyện quần áo. Cô lật giở thấy toàn là thư của cô từ đảo gửi về, nó đã đọc rồi gom cả trong chiếc túi này. Đây là bức thư đầu tiên tính từ ngày mỗi đứa một nơi:
"Huệ ơi, sao số mày may mắn thế, đến trường nào cũng được người ta nhận ngay, còn tao... nhưng có lẽ cũng là do tao chỉ biết vùi đầu học gạo. Mẹ tao vẫn thường chê là con gái mà chẳng biết môn nghệ thuật gì, chỉ cắm cúi học như con vẹt. Tuy thế bố tao lại bênh: - Bà còn muốn nó thế nào nữa? Nó học giỏi, ngoan ngoãn, xinh gái (không biết ông cụ có ngộ nhận không nhỉ?), không vụng về trong công việc nội trợ. Con gái tôi thế là được quá rồi! Bà muốn nó giống bà hở? Muốn nó cũng vẩn vơ thơ gà què, cũng ngơ ngẩn nhạc nhẽo lát-sích với chả tân thời như bà ấy à? Ông bô tao còn nói gì nữa nhỉ? À, đã thơ thì thẩn, đã đua thì đòi, múa thì phải may, hát rồi hỏng, nhảy rồi nhót đi, còn con gái mà học đàn thì có ngày mang đúm trước bụng. Các cụ đã nói là cấm có sai đâu!
Mẹ tao đành phải chuyển kênh nhưng có vẻ rất thất vọng. Tao thì lẩn vội xuống bếp, kệ cho ông bô bà via họp nội các với nhau...Giá tao cũng chịu khó theo mày học ít bài hát, cũng tham gia văn hoá thể thao như mày có phải hơn không! Mày thường bảo giọng tao cũng khá phải không?”...
Hà cũng không nhớ hồi ấy nó gửi thư an ủi cô ra sao. Nói chung con Huệ rất ít viết thư cho cô, toàn chỉ gọi điện thoại với nhắn người nọ người kia mấy câu thăm hỏi. Cô đã tức nó mãi vì việc đó. Còn đây là lá thư thứ hai của cô:
"Ra đến đây tao lại nghĩ giá cứ cố làm ở văn phòng công ty Vivuco., chỗ bố tao xin cho còn hơn. Cả cái đảo này chỉ có sáu giáo viên, học trò học choẹt cỡ khoảng trăm đứa, cả mẫu giáo và cấp một. Có sĩ tử còn thò lò mũi xanh, áo tanh mùi cá, chắc là từ thuyền chạy thẳng đến trường, mẹ gọi lại thay áo không kịp! Lên cấp hai thì chúng nó chuyển về trường Nội trú Đồ Sơn. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng còn hơn ở nhà, để thỉnh thoảng lại phải dự thính cuộc họp nội các ồn ĩ giữa các thành viên thuộc Đảng con Voi (đại diện là bố tao) với Đảng con Lừa (đại diện là mẹ tao) hệt như chính trường nước Mỹ vào lúc có vấn đề gay cấn..."
Sau đấy cô nhớ là con Huệ gửi ra cho cô được một lá thư không dài lắm nhưng cũng có vài lỗi chính tả. Dù sao thì đó cũng là cố gắng quá lớn vì cô chưa bao giờ thấy nó viết thư cho ai, nó vẫn thừa nhận là văn chương mình thoang thoảng mùi hoa bàm bàm lai hoa táo. Kể cũng lạ, nó nói thì như khiếu mà viết lách thì dở ẹt. Cô nàng có vẻ phấn khởi, đầu tiên cố rặn giọng não nề để động viên an ủi mình, rồi sau khoe là dẫn học sinh đi hội diễn được giải A, đông bạn bè lắm. Mẹ mình thường bảo số mình không đáng xách dép cho nó, vậy sao bây giờ lại...
Hà lại sát phòng bệnh, kê chiếc đôn ngẳng cổ nhìn qua cửa kính thấy người ta đang tiêm cho cái Huệ. Một chị y tá giơ tay ra hiệu cho cô ngồi yên chờ ở bên ngoài, thế là Hà lại phải quay ra ghế băng, tiếp tục lật các bức thư cũ của chính mình.
"Huệ ạ, cứ nghĩ ra đảo thì buồn lắm nhưng hoá ra cũng không đến nỗi nào. Chí ít cũng hợp với cá tính không ham hố ồn ào, náo nhiệt của tao. Được cái bọn trẻ thực sự quí trọng thày cô, không bao giờ có chuyện láo lếu hay ranh ma ăn trộm vé xe, đổi vé xe của nhau để lấy cắp xe đạp làm cô giáo coi xe phải đền tiền như ở trường của mày. Cũng chưa đến tuổi (mà đến tuổi chắc bọn học sinh của tao cũng không dám) tấp tểnh thực hành các mối tình "bọ xít" như một vài đứa nhãi học cấp hai ở truờng của mày, để rồi trốn học với mơ mộng vẩn vơ trong lớp. Nghĩ cũng buồn cười, bọn trẻ và nói chung cư dân ngoài này đúng là thật thà và tốt bụng, tốt thật đấy.
Tao bật cười vì chợt nhớ đến câu "tốt hơn phân đạm" mà các lão nông tri điền rất hay so sánh lần lớp mình đi thực tế ở Vĩnh Bảo. Vừa rồi mẹ tao viết thư ra nói là có một thằng bé tóc đỏ quạch, đi bộ lếch thếch đến nhà đưa cho bà hai con sam to như cái mẹt, nói là của bố mẹ nó gửi biếu nhà cô giáo Hà. Hoá ra nó là thằng Hân, học sinh của tao vừa chuyển lên cấp hai ở trường Nội trú Đồ Sơn (nó đã qua nhà tao một lần rồi mà mẹ tao không nhớ). Trông thấy cái đuôi gai góc của con "bò cạp nước" bà già sợ run cả chân tay. May là bố tao có nhà, ông nhận quà, gửi lời cám ơn bố mẹ nó rồi đưa thằng bé ra xe buýt, mua vé gửi về trường ở Đồ Sơn. Lại dặn tài xế lưu ý chỉ đuờng về truờng cho nó thật cẩn thận, chỉ sợ thằng bé lạc đi đâu đó..."
Ngồi nhìn ra vườn bệnh viện Hà nghĩ ngợi vẩn vơ. Hình như sau bức thư này nó gọi điện thoại nói là muốn ra thăm đảo vài ngày, khoe rằng không cần dạy thêm, chỉ đi hát ngoài giờ cũng kiếm đuợc kha khá để may mặc và giúp mẹ. Cô đã nghĩ số nó thật suớng, tuy nhiên không thấy ghen tị với việc nó sớm làm ra tiền. Cô cũng có những thứ để mà ham mê và cảm thấy cuộc đời mình đáng sống. Bố mẹ vẫn thường nói với cô rằng "giàu ba mươi chớ vội mừng...", vậy nên chuyện giàu nghèo cô chưa hề để tâm đến.
Còn đây là bức thư muộn nhất, cô mới gửi cho nó hai tháng truớc đây.
"Huệ ạ, có lẽ đúng là ăn nhiều cá và rong biển làm cho người ta thông minh lên đấy. Hồi đọc cuốn "Shô-gun tuớng quân" tao với mày đã có nhận xét như thế về người Nhật nhỉ. Chí ít thì tao cũng thấy mình bớt ngố hơn hồi cùng đi học với mày. Tao để ý bọn trẻ con nhà thuyền chài, có những đứa chỉ đi học buổi đực buổi cái mà trí nhớ tốt lắm. Tao rất thương những đứa trẻ theo gia đình từ rất xa đến quanh đảo này đánh bắt hoặc nuôi trồng hải sản, có mặt cả dân miền ven biển quê "bọ" đến xứ xở Quảng Ninh, Móng Cái gì đấy. Chúng là dân vãng lai nên không có điều liện đến truờng thường xuyên.
Tao đề nghị với ông hiệu truởng và Nữ Chúa đảo (là bọn tao gọi đùa chị Hằng - Chỉ huy phó Thanh niên Xung phong đuợc thành phố giao nhiệm vụ cai quản đảo này) bố trí một chiếc xuồng máy để truớc mỗi buổi học chạy vòng vèo gom bọn trẻ vãng lai đến lớp. Nhiều hôm tao dùng xuồng đó đi thăm hỏi và phụ đạo thêm cho chúng nó. Ông hiệu truởng đã đồng ý cấp thị thực học tập, ghi rõ các môn và thời gian chúng đã đuợc học với hy vọng là khi đi nơi khác sẽ đuợc các truờng bản địa cho tiếp tục học tập hoặc có căn cứ cho chúng dự kỳ thi tốt nghiệp tiểu học. Tất nhiên việc này là không chính quy nhưng tao nghĩ rằng đã là ngành Giáo Dục thì chắc ở đâu người ta cũng dễ dàng chiếu cố cho chúng nó..."
Trời đã ngả chiều, nhân viên y tế bắt đầu đổi ca. Cô được biết là bệnh nhân đã tỉnh, nguy hiểm đã qua nhưng phải tuyệt đối tránh chuyện trò gây xúc động mạnh, có khả năng ngày mai sẽ chuyển sang phòng khác điều trị. Hà ngồi thêm một lát, cô định ra ngoài tìm nơi ăn uống, tắm rửa và mua cái gì về bón cho bạn thì một bác sĩ trẻ tay cầm chiếc hộp trăng trắng tiến lại chỗ cô. Anh ta nhìn cô cười cười và nói:
- Chào nàng Tô Thị bên bờ sông Lấp! Hoá ra chị là người nhà chị Huệ à? Tôi vừa nhận ca, đã xem tình hình không còn gì nguy hiểm nữa đâu...- Hà chợt nhận ra đó chính là một trong những anh bạn đồng hành trên chuyến xe sáng nay.
- Chị đừng giận tôi đường đột nhá - anh ta tiếp tục nói - chị ở Hải Phòng vào đây, tôi đoán không nhầm thì từ sáng đến giờ chưa ăn uống gì. Chúng tôi vẫn thường đặt cơm hộp của một nhà hàng chuyên phục vụ cho bệnh viện. Tôi lấy hộ chị một hộp đây. Chị vào khu phụ của chúng tôi rửa ráy rồi ăn tạm vậy, các quán ngoài đường còn nhếch nhác hơn. Chị có thể sai bảo tôi một số việc với tư cách cùng hội đồng hương, chẳng gì tôi cũng quen thung thổ hơn chị vì ở đây đã hai năm nay...
Khó mà giữ mặt tượng đá mãi trước một anh chàng như thế này, với lại có một đồng hương là bác sĩ ở đây khác nào buồn ngủ gặp chiếu manh - Hà nghĩ.
- Cám ơn... bác sỹ. Thế này thì đúng là ăn mày vớ sôi gấc với giò nạc rồi còn gì. - Cô cũng đùa để thay đổi hình ảnh của mình từ sáng đến giờ.
Anh chàng đồng hương này hoá ra ở gần phố nhà cô. Tốt nghiệp đại học Y thì vào công tác ở bệnh viện này. Nhờ sự giúp đỡ của anh bạn mới, cô điện về nhà báo tin cho bố mẹ mình và mẹ của Huệ, bảo cái Huệ bị ngộ độc thức ăn, do kịp thời điều trị nên bây giờ đã không còn gì nguy hiểm. Hà bảo mọi người cứ yên tâm, không phải cử thêm ai vào nữa, mọi chi tiết cô sẽ thông báo sau.
Huệ đã tỉnh, cô nhìn Hà ứa nước mắt định nói gì đó nhưng Hà xua tay:
- Không được nói gì, chuyện nhỏ như cái giỏ tép riu. Mày cứ yên tâm, đã có tao ở đây. Để tao bón cho mày chút gì cho mau khoẻ, hè này tao sẽ đi hát cùng với mày, ngoài đảo cũng đang muốn thi tài với đất liền... - Hà nói đùa cho Huệ đỡ mặc cảm. Cô thấy bạn ứa nước mắt, quay đầu vào trong làm mắt cô cũng ràn rụa.
- Cô ấy chưa ăn được đâu, đã tiếp huyết thanh và giải độc nên hôm nay cũng không nên bón gì vội, để mai hãy hay, Hà ạ. - Anh bác sĩ đồng hương nói, Hà đã biết tên anh ta là Hải.
Ba ngày sau Hà thuê tắc-xi chở bạn về Hải Phòng. Hải cũng xin nghỉ bù đi hộ tống hai cô gái. Hà biết anh chàng đang cố đổ a-xít vào chân tượng đá nhưng hãy đợi đấy, đá gờ-ran-nit chính hiệu chứ không phải đá vôi đâu nhá! Nói thế chứ cô cũng phải thầm cảm ơn anh chàng đồng hương tốt bụng và nhiệt tình này. Mang nhãn bác sĩ và cũng có bằng "trông được", nhưng "mọi chuyện quan trọng sau hãy hay" như một anh ngố trong câu chuyện nào đó cô đã đọc thường hay nói.
Huệ đã kể cho Hà nghe chuyện gì xảy ra. Sau lần dẫn đoàn học sinh đi hội diễn đuợc giải A, cô lọt vào mắt xanh của một vài nhạc sỹ kiêm bàu tổ chức trình diễn, đuợc họ mời tham gia đơn ca, tốp ca tại những buổi biểu diễn ca múa nhạc nửa lách nửa chui cho các thính giả thuộc khá nhiều thành phần. Do ham kiếm tiền và chưa có kinh nghiệm giữ mình nên một tối sau khi biểu diễn ở một tụ điểm để kiếm thêm, cô đã nhậu nhẹt say sưa rồi rơi vào vòng của tay nhạc sĩ vốn là ông bầu của nhóm.
Hè này nhóm có chương trình lưu diễn quanh mấy tỉnh, tuần trước khi bắt đầu vào đến Ninh Bình thì cái Loan - trước đây vẫn cặp kè với tay bầu - đã nổi ghen tát cô lúc chỉ có hai đứa trong phòng hoá trang. Nó bảo "Mày nghĩ là mày có giá lắm hở, thằng ấy là một thằng Sở Khanh liên tỉnh. Giá mày đừng vênh cái mặt lên thì tao đã báo trước cho mày biết là nó bị HIV đấy. Tao đã bị với nó, tàn đời rồi nên tao để mặc nó với mày. Đáng kiếp lũ cáo non cáo già!"
- Quá nhục nhã và kinh hoảng nên tao bỏ trốn vào một khách sạn, nằm ở đó nghĩ ngợi hai ngày rồi quyết định không sống nữa - Huệ vừa khóc vừa nói.
- Mày đừng có tin lời con Loan. Tuy nhiên rời bỏ bọn ấy là đúng. Vừa rồi tao báo về nhà là mày bị ngộ độc thức ăn. Hôm nào khoẻ hẳn tao sẽ đưa mày đi kiểm tra, linh cảm của tao cho thấy mày không việc gì đâu. Cứ tin ở tao!
- Trước kia tao mừng vì mẹ tao hiền lành, ít khi ngăn trở tao làm việc gì. Bây giờ mới thấy là mày hơn hẳn tao vì có bố có mẹ. Mày mang được cả tính văn của mẹ lẫn tính võ của bố. Tao thua mày nhiều quá... - Huệ lại sụt sùi.
- Thôi, mọi việc tính sau. Bây giờ mày phải cố ăn để mau bình phục. Khi về đến nhà cũng phải có mẽ "trông được" để mẹ mày khỏi lo lắng.
Thật may là linh cảm của Hà đã không nhầm. Kết quả thử máu của Huệ âm tính với HIV, tuy nhiên mặc cảm vẫn đè nặng trong lòng cô. Huệ bảo có lẽ cô phải xin đi truờng khác, sẽ chỉ dạy chuyên môn và giấu biệt khả năng làm công tác phong trào. Con này lại thái quá - Hà nghĩ - đâu có phải là vì nó tham gia phong trào văn nghệ của nhà truờng!
- Tao định xin ra Bạch Long Vỹ cùng dạy với mày nhưng chỉ sang năm là mày hết hạn rồi, ở lại một mình bơ vơ tao sợ không đủ sức.- Một hôm Huệ nói thế với bạn.
- "No" vấn đề. Tao có thể ở lại thêm một vài niên học khi mày thấy cần, với lại chương trình phổ cập giáo dục cho trẻ vãng lai theo mùa vụ quanh đảo, do chính tao đề xướng cũng đang cần sự chủ trì của tao thêm một vài năm...
- Mày thương tao nên nói thế thôi - Huệ ngắt lời - Còn bố mẹ mày. À còn chàng Hải bác sĩ nữa.
- Nếu anh chàng muốn tiếp tục thử tác dụng của a-xít thì xin mời ra đảo một thể. Đang cần bác sĩ! Có lần chàng bảo ở đảo còn hay hơn ở xứ Ninh Bình, với lại bây giờ đâu còn như ngày xưa. Bố tao kể ngày xưa công tác ở đâu coi như tù chung thân ở đó, bỏ đi nơi khác là trắng tay, trắng dạ dày và đen hết quyển lý lịch, sau đấy chỉ còn cách gia nhập câu lạc bộ "Bị gậy" mà sách Tàu gọi là "Cái bang" ấy. Bây giờ khác rồi, cô nàng ạ!
Lần đầu tiên sau sự cố "ngộ độc thực phẩm" Hà mới thấy bạn mình cười. Trông nó cười thế kia thì dù giá a-xít có tăng nhanh hơn giá xăng dầu, cũng khối chàng bỏ công thu gom để cố sức làm mòn chân tượng - cô nghĩ.,.
12/2007
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 18/05/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nâng tầm – Truyện ngắn hài Ngọc Châu (Hải Phòng)
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 18/05/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nâng tầm – Truyện ngắn hài Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 04/05/2011
Cái trò làm thơ thế mà hay ra phết, các vị ạ! Trước kia nghe loáng thoáng tới chuyện ai đó trong số người mình quen thích làm thơ, là cả tôi lẫn "basa" đều bỏ ngoài tai, mặc nhiên nghĩ đấy là chuyện của mấy ông "háp". Thậm chí có lần giở cuốn gia phả (vẫn đặt trang trọng trên bàn thờ nhà ông anh cả tôi) thấy viết rằng cụ nội chúng tôi trước đây là nhà nho rất giỏi văn thơ, tôi phải gấp lại đặt vào chỗ cũ lập tức, vội vàng đến mức không kịp phủi bụi cho cuốn gia sử vì sợ "basa" ngó đến. Hắn mà đọc thấy thì rồi mỗi khi có chuyện không vừa lòng, sẽ mát mẻ rằng cả nhà chỉ có tôi được mang "gien trội"!
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngọc Châu
NÂNG TẦM
***
Cái trò làm thơ thế mà hay ra phết, các vị ạ!
Trước kia nghe loáng thoáng tới chuyện ai đó trong số người mình quen thích làm thơ, là cả tôi lẫn "basa" đều bỏ ngoài tai, mặc nhiên nghĩ đấy là chuyện của mấy ông "háp". Thậm chí có lần giở cuốn gia phả (vẫn đặt trang trọng trên bàn thờ nhà ông anh cả tôi) thấy viết rằng cụ nội chúng tôi trước đây là nhà nho rất giỏi văn thơ, tôi phải gấp lại đặt vào chỗ cũ lập tức, vội vàng đến mức không kịp phủi bụi cho cuốn gia sử vì sợ "basa" ngó đến. Hắn mà đọc thấy thì rồi mỗi khi có chuyện không vừa lòng, sẽ mát mẻ rằng cả nhà chỉ có tôi được mang "gien trội"!
Chính vì có basa nhà tôi cầm trịch như vậy nên chúng tôi sống yên ổn được đến hai mươi năm chẳng dính dáng gì tới các thứ thẩn thơ, thơ thẩn. Thật đội ơn Phật bà, hì hì, hà hà!
Vậy mà sự đời bỗng bất ngờ đổi thay, đổi thay cũng lại chính từ basa nhà này, khiến tôi phải trở thành triết nhân... bất đắc dĩ khi cố suy ngẫm để lí giải: "Con giun khi đang mải kiếm ăn hoặc buộc phải bò qua chỗ đất khô nóng, tránh chậu nước xà phòng ai đó vừa đổ toẹt, thì nó duỗi thẳng ra mà bò trối chết, nhưng lúc no đủ dưới trăng thanh gió mát chúng cũng tung tăng uốn khúc kém gì lân với rồng... giấy đang múa trong ngày Trung Thu, có lẽ là thế!"
Chả là hôm đó basa với dáng đi tung tẩy bước vào nhà (khiến thoạt tiên tôi nghĩ hắn lại bị tái phát chỗ viêm khớp gối!). Chưa kịp hỏi thì hắn dí tờ giấy vào mũi tôi:
- Trưởng... trưởng... à, Sếp Thơ Việt Nam Cờ Lờ Bờ khen bài này lắm nhá!
- Cái gì? Ai?... Cái gì cơ!?
Thề có con chó đá cụt một tai rất thiêng ngoài cổng chứng giám! Tôi mà hiểu được một phần tư những gì basa vừa nói thì phái viên giả mạo của đức... đức Ma... Ham Mít gì đấy có bắt tôi giấu bom vào bụng đi nổ cảm tử ở giữa bãi rác, tôi cũng chẳng dám cãi lại.
- Sao mặt nghệt ra thế? - Cái phì cười của basa làm tôi yên dạ, biết là mình không vướng "phốt" gì - Chả là em chưa kịp nói với anh - nàng hớn hở giải thích - Em tham gia cờ-lờ-bờ Thơ của các giáo chức nghỉ hưu từ tháng trước cơ. Đầu tiên là do nể cụ nguyên giám đốc Sở...
- Cái gì? Thơ! Sao lại dính dáng đến thơ?!
- Thì là thơ chứ còn cái gì. Bây giờ ai mà chẳng làm thơ, anh đến CLB mà xem, ối cụ ông cụ bà, móm hết răng mà vẫn làm thơ tình kia kìa.
Quả thực là tôi không thể nào tiêu hóa nổi những chuyện basa vừa nói. Hắn cũng nhận thấy thế nên xà đến bá vai tôi cười như nắc nẻ khiến tôi phải vội vàng ngó quanh, xem có ai nhìn thấy cặp U60 tình củm với nhau hay không, dẫu biết rằng ở nhà chỉ có hai vợ chồng già.
- Sao ngày xưa, ngày xưa...
Chưa hỏi hết câu thì basa đã ngắt lời:
- Ngày xưa khác, bây giờ khác. Bây giờ đến lúc mình cũng phải nâng tầm rồi. Tẩm thế không biết!!
- .......
- Ngày xưa có ai làm thơ không nào, tôi hỏi ông thế? - Thấy họng tôi vẫn đang tắc, basa hạ cố giải thích - Xưa ai làm thơ thì nghèo kiết xác, con cái nhếch nhác, vợ gom nhặt rác, khách đến phải chạy đi mượn bát... Nhưng bây giờ, bây giờ...Thôi ông cứ đi với tôi tới CLB một hôm rồi sẽ thấy ngay.
"Con mẹ này dở chứng thật rồi", tôi nghĩ bụng và chuẩn bị nổi cạu. Đàn ông bao giờ chả thế, dẫu luôn giữ chức tiểu đội phó như tôi, nhưng con giun xéo mãi cũng quằn! Thì ra hắn đi đến cái cờ-lờ-bờ-mù-mờ-thẫn-thờ gì đó được vài lần đã sắp sửa lên mặt, học cách nói ra vần ra điệu, về nhà định bắt nạt chồng... Đã thế, đã thế...
- Bây giờ làm thơ toàn là những người giàu có thôi, ông hiểu chưa. Đại gia, có chức có quyền mà không biết làm thơ cũng vứt - hắn tiếp tục giải thích nhưng đúng là đổ thêm dầu vào lửa trong khi tôi đã có đầy đủ lí lẽ để tung "chưởng" ra.
- Ra thế, Lượm ơi... Có nghĩa là bây giờ bà chê tôi không biết làm thơ, là đồ vứt đi chứ gì? Tôi nói cho bà biết nhá, không biết mèo nào vứt mỉu nào...
- Thôi thôi, ai nói thế, chưa chi đã... - basa dàn hòa, lập tức áp dụng sách lược "lạt mềm buộc chặt" như mỗi khi sắp có chuyện cãi nhau - Đấy là mấy cụ cựu giáo chức tham luận ngoài luồng với nhau như thế, ai nói đụng gì tới ông...
- Tham với chả lộn! Tôi còn lạ gì mấy lão ấy. Lúc còn đương chức đương quyền thì tham cả đến mấy con chó con nhà chị Dậu, không có vé nọ vé kia đố bà xin được cho cái Thi nhà mình vào trường điểm, chính bà phải lo méo mặt đi còn gì. Bây giờ phải nhường ghế cho người khác rồi thì lại lộn, có mà lộn hành ra tỏi...
- Thôi, thôi, đã bảo thôi thôi rồi mà. Em bảo này... - basa nhũn như con chi chi - Anh mà làm thơ chắc chắn còn hay hơn mấy ông ấy nhiều. Ngày xưa em có xem cuốn nhật kí của anh, thấy có mấy bài thơ hay lắm, sau rồi vì bận làm ăn con cái nên mới không ngó ngàng gì nữa. Em nghĩ nhà này chỉ có anh là mang được gien của ông nội thôi. Giờ chúng mình làm một tập thơ rồi gửi in đi...
Gien của ông nội! Thế mới biết một mụ đàn bà bằng ba con ma xó! Tôi lại cứ nghĩ hắn chẳng bao giờ sờ mó đến những thứ không phải nhiệm vụ của giống vịt nhà đẻ toàn ra vịt trời. Hắn vẫn đang say sưa với ý định in thơ thiếc gì đấy nên thấy tôi đã có phần hạ hỏa liền tiếp tục ỏn thót:
- Anh làm đi, đảm bảo thơ của nhà mình hay hơn của nhà họ...
- Nhà nào? Hay hơn thì làm sao, được cái gì mà làm?!
- Lão gia ơi, ngồi đây nghe phu nhân của lão gia nói đã, làm sao cứ sủi lên như bong bóng nồi cám lợn thế. Nghe xong đi đã rồi hãy phát biểu không được à?...
Đã thế thì tôi sẽ để im cho hắn nói. Đã có một vại sành kinh nghiệm từ ngày gánh vác chức phó trong nhà, rằng nhiều khi không cần phải giao ban làm gì, cứ im ỉm mà làm lại khiến cấp trưởng phải đặc biệt lưu ý, thậm chí phải thay đổi nghị quyết đã ban hành.
"Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu" là một sách lược cực kì quan trọng, chẳng thế mà cái công ty Pờ-nhô-đen-sờn-đen-xì gì đấy lập thành biểu trương ở khắp nơi trên thế giới. Chỉ kiên nhẫn lắng nghe một lát là thấu hiểu ráo mọi chuyện, tất tần tật. Tất nhiên là phải sắp xếp thông tin theo tư duy của mình, nếu chỉ ghi âm theo trình tự các các, cạc cạc của họ nhà vịt thì có mà... hà hà! khà khà!
Nào là ở nước ta hiện giờ có cả triệu người làm thơ, nào bây giờ một chị Cầm...đồ, một anh Thi... Lúa cũng có thể in riêng cho mình một vài tập thơ, dễ dàng hơn in tiền âm phủ, khỏi nói việc muốn có một vài bài thơ trong một TUYỂN THI gồm hàng lô hàng lốc giả... tác, bập bập, phải gọi là "tác giả" cơ đấy. Chỉ cần bỏ ra vài ba trăm ngàn là có một bài của mình trong ấy ngay, sau đấy vào các ngày hội lễ còn nhận được thiếp in rất đẹp mời tác giả từ miệt vườn xa xôi tự bỏ tiền ra Miếu... Văn ở đất Thăng Long ngàn năm, nghe, đọc thơ và gấp thành diều giấy thả lên trời nữa cơ. Hờ hờ, khờ khờ!
Ai muốn gấp bao nhiêu diều cứ tùy ý nhá, trưng mấy bảng quảng cáo "thơ nhà" vẽ rồng vẽ... phượng cũng được, sau đấy được phép thu lại đưa lên máy bay mang về cho em út trong nhà từ Ba cho đến Bảy-Tám-Chín Lúa dán vào cột từ đường lưu giữ muôn đời. Làm thơ bây giờ sướng hết chỗ nói!
Cũng thấy hay hay. Thì cũng phải nâng tầm tí chút chứ nhỉ?!
Tôi nghĩ đến chuyện giở mẹo vặt bằng cách moi các bài thơ tình ngày xưa ở các quyển nhật kí (ba quyển tất cả, ma xó mới biết có một cuốn thôi, hai cuốn kia đã khôn hồn gửi ở nhà thằng bạn từ lâu!) ra sửa lại rồi đem thi thố. Đúng lúc ấy thì ông cậu của basa, một nhà thơ thực thụ tuy chỉ ở cấp tỉnh, tính rất hài hước, bước vào cười khà khà, thì ra ông đã đến đứng nghe ngoài cửa từ lâu mà cả tôi và basa bị dính... keo thơ nên không hay biết.
- Hà hà! Chắc là tay Giáo Chủ đạo Thơ vừa đến thuyết pháp cho CLB các ngươi chứ gì?
- Giáo Chủ?! - Hai vợ chồng tôi cùng ngơ ngác, chưa hiểu ông nói gì.
- Hai ngươi thừa biết rằng bây giờ nhiều người mê mẩn với thơ như cô đồng mê cung văn, trọng TUYỂN THI như người Hồi giáo kính Kinh Co-ran, thăm Văn Miếu thì ngang bằng được hành hương về La-mếch! Vậy nên mới có kẻ đi khắp nơi truyền "ĐẠO THƠ" để được tôn xưng là "GIÁO CHỦ", hiểu chưa?
- Nhưng... nhưng để làm gì hả cậu? - Basa nhà tôi chưa hiểu.
- Sắp lên lão rồi mà còn ngốc! - Ông cậu vợ (chỉ hơn cháu ba tuổi) mắng thế - Tao đây này, thơ được bao nhiêu người biết đến mà muốn in một tập vẫn phải bỏ tiền túi ra, đứa chó nào ra hiệu sách mua thơ đâu! Nhưng tay "giáo chủ" của các ngươi năm nào cũng in hàng chục tuyển tập thơ dăm trăm bài, mỗi tập vài ngàn cuốn rồi bán hết veo với giá cắt cổ cho tín đồ được "giáo chủ" chọn thơ in. Thế thì để làm gì mà các ngươi còn phải hỏi à?
- Mỗi một lần in như vậy "Giáo chủ" đút túi ba bốn trăm triệu đấy - Ông cậu vợ nói thêm.
- Ra thế, Lượm ơi! - Đến lượt tôi gãi gáy trong khi basa mồm há ra như con cá bị vứt lên bãi cát khô.
Nhưng có lẽ vẫn phải tìm cách nào để NÂNG TẦM tí chút chứ nhỉ? Ai bây giờ mà chẳng phải cố để được NÂNG TẦM!!
19 -10-2010
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 04/05/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 04/05/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Giao duyên – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 31/03/2011
Trầu đã có đây, cau đã có đây Nhân duyên chưa định trầu này ai ăn -Giao ơi! Đi đâu mà mất mặt vậy? Cả tuần này tao chả trông thấy mày đâu. Hỏi bà mày thì bà lão chỉ ậm ừ như kiểu không muốn cho biết cô cháu quí hoá đi đâu. Đang định dấm cho mày một đám chứ gì? Kiều Mỹ hay kiều Pháp? Chắc đang két.. két, à đang ma- ket- ting, muốn giữ bí mật không để con Loan này biết phải không?- Vừa thấy mặt Giao, con Loan đã hỏi một thôi một hồi. Cô bạn đồng niên nhà hàng xóm này mặt mũi cũng khá xinh xẻo nhưng nổi tiếng chanh chua và mồm miệng lúc nào cũng bô lô ba loa.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
GIAO DUYÊN
***
Trầu đã có đây, cau đã có đây
Nhân duyên chưa định trầu này ai ăn?
- Giao ơi! Đi đâu mà mất mặt vậy? Cả tuần này tao chả trông thấy mày đâu. Hỏi bà mày thì bà lão chỉ ậm ừ như kiểu không muốn cho biết cô cháu quí hoá đi đâu. Đang định dấm cho mày một đám chứ gì? Kiều Mỹ hay kiều Pháp? Chắc đang két.. két, à đang ma- ket- ting, muốn giữ bí mật không để con Loan này biết phải không?- Vừa thấy mặt Giao, con Loan đã hỏi một thôi một hồi. Cô bạn đồng niên nhà hàng xóm này mặt mũi cũng khá xinh xẻo nhưng nổi tiếng chanh chua và mồm miệng lúc nào cũng bô lô ba loa.
- Chỉ vớ vẩn, tớ vừa đi tập huấn thay sách giáo khoa...- Cô không nói chuyện ra thăm bạn ở Đồ Sơn mấy ngày qua. Vừa may con lợn khoang xổng chuồng chạy vào vuờn rau nên cô có cớ chạy đi, khỏi phải nói chuyện dây dưa với con bé này.
Đúng là "cùng làng, vạt rau lang cũng biết”. Chẳng giấu được ai chuyện gì, không kể bên cạnh nhà còn có cái loa cỡ Ăn-vạ (đó là tên loại loa thùng "Aiwa” của Nhật) như con Loan. Chả là hồi đầu năm có một người về Đồ Sơn tìm hỏi đến nhà cô Đông ngày xưa. Tìm mãi không được dù rằng chính quyền sở tại rất vui lòng giúp đỡ kiều bào hải ngoại. Người ấy đã trở về Pháp, nhưng cũng do lần về đó mà người ta biết được một vài tung tích mu mơ. Thư từ qua lại mấy lần nữa thì hoá ra cô Đông chính là bà giáo Thụ, bà nội của Giao. Bà bỏ đất Đồ Sơn ra đi từ năm nảo năm nào rồi sau lấy chồng người Thuỷ Nguyên. Từ bấy đến giờ chẳng quay về thăm quê lần nào thì đến Thành Hoàng, Thổ Địa cũng chẳng nhớ cô Đông là ai, nói gì mấy ông chính quyền mới lún phún râu trê!
Mới đầu bà cứ khăng khăng không nhận bức thư có hàng chục con dấu đóng chồng chéo lên nhau, chắc là phải qua nhiều bưu cục lắm. Bà bảo mình không phải là cô Đông cô Tây gì cả khiến ông nhân viên bưu điện dở khóc dở cười. Mãi đến lần thứ ba ông ta lại mang đến thêm một chiếc phong bì to, bên ngoài có một tờ giấy ố vàng đựơc ép plastic và ghim rất chắc chắn. Nhìn dòng chữ lộ ra một phần ở tờ giấy đó bà bỗng lặng người đi, đưa ống tay áo lên lau cặp mắt kèm nhèm rồi run run viết mấy dòng chữ ngòăn nghòeo vào mục người nhận bưu phẩm. Chắc ông bưu điện nhẹ nhõm cả người nhưng không dám nói gì thêm vì thái độ rất nghiêm trọng của bà già. Giao rót nuớc rồi bổ cam mời nhưng ông ta xin cáo từ, ra ngoài cổng ông bảo với cô cháu rằng cái người gửi bưu phẩm này đã mấy lần gọi điện về tận bưu cục, khẩn khoản nhờ chuyển bằng được đến tay người nhận. "Từ mãi miền Lo-ren bên nuớc Pháp cơ đấy”, ông ta bảo thế rồi leo lên chiếc xe máy cà tàng, làm mấy con gà mái nhà cô chạy tán loạn vì tiếng ống bô đột ngột nổ đoành đoạch như pháo tép.
Từ bé đến giờ Giao luôn kính sợ bà nội. Bà chẳng đánh mắng cháu gái bao giờ nhưng cô bé vẫn sợ, lẽ vì thấy cả nhà đều kính sợ bà. Bố cô bảo ngay cả ông ngày xưa cũng nể vì bà, có lẽ vì ngày xưa bà từng là du kích, có lần đã cứu được nhiều người trong một trận càn hay vì bà của cô là người sắc sảo và hiểu biết mặc dù bà chỉ dạy cấp một? - Cô bé vẫn thường tự hỏi. Thế rồi bà bảo bố cho cô ra Đồ Sơn chơi với bạn ngoài đó - nó với cô cùng mấy lần đi thi giỏi văn thành phố với nhau, đến lúc cả hai đều trở thành cô giáo thì đã là đôi bạn thân nhờ có mạng In-te-nét. - Nhờ nó khéo mồm khéo miệng nên Giao đã phô tô mang về đuợc cho bà mình cuốn gia phả chi Đinh Văn và một vài tờ chép những bài hát đúm ngày xưa như lời bà nội dặn dò.
Cô thường xuống trại giúp bố thu hoạch cau nên không biết những sóng gió trong lòng bà nội của mình. Xem cuốn gia phả chi Đinh Văn bà khẳng định lại điều mình đã biết từ năm mươi năm truớc: không còn người họ hàng nào nữa trong phạm vi ba đời. Bố bà là nguời cuối cùng của nhánh này mà cả bố và mẹ cô Đông ngày xưa đã bị cơn sóng thần năm mới giải phóng Hải Phòng cuốn ra biển cùng với mọi tài sản vì ngôi biệt thự nhỏ nhắn ngày ấy nằm bên bờ biển. Vài năm truớc đó cô Đông đã bỏ đất Đồ Sơn ra đi, định sẽ không bao giờ quay lại. Nhưng cô cũng đã mấy lần ra bờ biển bái vọng linh hồn những người đã sinh thành ra mình, thậm chí định nhảy theo xuống biển nếu như chưa có thằng bé, bố của con Giao hiện giờ, ngày đó mới hơn một tuổi.
Cảm giác xé lòng lại nổi lên như trong lần cô gặp phải đợt sóng thần đầu tiên. Cô đã bị tay chồng chưa cưới lừa gạt. Hắn nhà nghèo nhưng cô thương vì trong một buổi hát đúm đầu xuân cô nhận thấy hắn là người thông minh, đối đáp có duyên. Hải Phòng ngày xưa có ba vùng hát đúm*, Đồ Sơn là nơi có lề luật chặt chẽ, nội dung phong phú hơn cả nên một số trai thanh gái lịch ở các vùng khác hay về quê cô dự hội.
Chàng ơi cứ ở lại đây
Thày u không gả em bày mưu cho.
Cô đã nói với anh chàng Giang ở mãi Cát Hải bơi thuyền về đây dự hội như vậy. Quả thực cô đã giúp đỡ để hắn vừa làm vừa học, lấy được bằng tú tài. Khi gia đình cô đã bằng lòng nhận trầu cau thì Giang đi làm thông ngôn cho tay Quận truởng người Pháp. Không ngờ chính hắn đã sắp đặt để tay Quận truởng chiếm đoạt cô, dùng cô làm vật tiến thân.
Quá tủi nhục với bố mẹ và mọi nguời vì cái thai trong bụng trong lần bị tên Quận truởng dày vò, cô đã bỏ đất Đồ Sơn ra đi. Suýt chết vì phá chiếc thai oan nghiệt, cô lưu lạc sang Thuỷ Nguyên rồi xin vào đội du kích với ý định sẽ liều mạng để trả thù…
Tưởng giếng sâu nối sợi dây dài
Hay đâu giếng cạn tiếc hoài sợi dây.
Trong hội đúm người ta hát vậy. Nhưng Cô Đông không tiếc gì sợi dây. Cô căm thù bọn Pháp và những kẻ dính dáng với chúng. Chính trong trận phục kích bên chiếc cầu trên đường ra phà Rừng, cô đã giật mìn rồi xông ra ném lựu đạn liên tiếp làm bọn lính Tây chết trong khiếp đảm. Cô đã kéo anh bộ đội địa phuơng bị thương, sau này là ông con Giao, dũi bùn băng qua cánh đồng lúa, rồi sau đó mấy ngày trong trận chống càn đã cùng mọi người chống trả bọn Pháp và ngụy quyết liệt, đã bị bỏng nặng vì dập lửa cứu sống bà mẹ với thằng cu con hai tuổi, là bố con Loan bây giờ, khi bọn giặc đốt nhà.
Những câu hát đúm ngày xưa làm sống lại cả một thời đau đớn và thù hận trong lòng người nữ du kích đã già. Hồi ấy bà căm ghét cả những câu hát đúm. Nhưng lâu lắm rồi không còn hội đúm nữa, chuyện cũ bà đã quên đi. Không phải vì cơn sóng thần thứ hai lại dập đến, cũng không phải vì sau này có người nói với bà rằng Giang ngày đó cũng bị lừa gạt, anh ta cũng đớn đau ở nơi đất khách quê người, không còn mặt mũi nào tìm về quê cũ, mà chỉ đơn giản vì trái tim con nguời ta - nhất là trái tim một phụ nữ làm nhà giáo - không thể nuôi dưỡng mãi nỗi hận thù.
"Bà Đông ạ, chúng ta cùng đều đã già. Bao nhiêu năm tôi không hề biết tin tức gì của bà - Pitơ Giang viết trong lá thư gửi về cùng vài tờ chép tay các lời hát đúm ngày xưa - Tôi biết bà thù hận tôi suốt đời mặc dù sự việc không như bà hiểu. Tuy nhiên tôi cũng không thể tha thứ cho chính mình vì tất cả những gì đã xảy ra. Tôi không lập gia đình là để khi nào gặp bà dưới suối vàng tôi hy vọng được bà giơ ra cánh tay tha thứ. Không bao giờ tôi quên được cánh tay của bà chìa ra cho tôi lúc xuống thuyền bơi về Cát Hải, sau lần ba mẹ bà từ chối tôi. "Anh về kiếm vợ cho xong, em là tép nhỏ lộn rong khó tìm” Bã đã an ủi tôi như vậy nhưng tôi càng thêm hy vọng. Niềm hy vọng trong tôi đã ngày được củng cố và lớn lên cho đến cái ngày khốn nạn đó… Sau đó tôi bị chúng vu tội rồi xung vào lính. Không còn con đuờng nào để quay về nên tôi đã theo dân di cư sang Pháp. Tôi đã mấy lần dò tìm thằng quận truởng Pháp chó chết đó để trả thù, nhưng nó đã sang An-giê-ri rồi bị du kích bên đó bắn chết.
Kể những chuyện trên tôi không hề có ý định thanh minh hay mang ý đồ chuộc lỗi với bà nhưng tôi tin đạo Phật. Kiếp truớc tôi đã sống chẳng ra gì, kiếp này tôi đành chịu tội. Chỉ cầu mong khi gặp bà duới suối vàng chí ít Đức Phật cũng vẩy nuớc cành phan để mọi điều được sáng tỏ và đuợc thấy cánh tay bà giơ ra cho tôi một lần nữa, truớc khi buớc vào vòng luân hồi mới mà thôi…”
Một tiếng thở dài, người nữ du kích ngày xưa chùi mắt.
Bởi thương nên dạ mới trông
Không thương em đã lấy chồng còn chi.
Ngày ấy bà cũng từng nói với ông ta như vậy. Nhưng là nghiệp chướng nên lòng thương của bà trở thành thù hận. Sau đấy bà đã lấy anh bộ đội huyện hiền lành, đẻ mỗi thằng con giai, cũng hiền lành như bố nó. Mấy đứa cháu chỉ con Giao là có phần giống bà. Nó tinh tế, nhạy cảm và có tính chịu đựng, chẳng biết cuộc đời nó rồi sẽ ra sao? Cầu Trời cầu Phật..
Tháng sau thì có anh cháu họ của ông Pitơ Giang tìm đến nhà bà giáo Thụ. Chính cậu ta đã về Đồ Sơn tìm tung tích cô Đông ngày xưa. "Nó thích văn học nên chỉ sống bằng trợ cấp thất nghiệp mấy năm nay. Vừa rồi may được một cơ quan của Tổ chức "Các nuớc nói tiếng Pháp - Francophones” hợp đồng làm nhân viên trong nhóm nghiên cứu Văn hoá dân gian bán đảo Đông Dương vì biết tiếng Việt” - ông Giang viết cho bà như thế và khẩn khoản nhờ bà giúp đỡ cho nó.
Hôm nay đã là buổi thứ ba có khá đông thanh niên nam nữ ồn ào vui vẻ ở nhà Giao - cô Bí thư chi Đoàn mới được bàu khoá vừa rồi.
Rằng xa thì thật là xa
Mượn nàng làm mối cho ta một người
Một người mười tám đôi muơi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình..
Đó là anh chàng "Tây ngố” (theo như con Loan nó gọi vì anh chàng luôn đeo cặp kính với vẻ mặt khá là ngơ ngác) sau khi chép được một số câu hát đúm ở những phần hát gặp, hát chào, hát mời trầu... đang đọc lại mấy câu trong phần giao duyên với vẻ rất thích thú. Chưa hết câu thì đã nghe giọng hát chua của cái Loan:
Trông anh như cóc leo tuờng
Cũng thương mà ngại gầm giường khó chui..
Bà giáo Thụ ngồi trên phản bỏm bẻm nhai trầu nhìn lũ trẻ, bà phải can thiệp:
Hát thì làng cấm hát chua
Chị nào chua quá làng xua ra ngoài.
Đám thanh niên cười phá lên trong khi "nàng Loa” le lưỡi nhìn bà. Giao cũng phải bưng miệng. Chính cô đã phối hợp với Ban Văn hoá xã tổ chức những buổi tập hát đúm như thế này để anh "Tây ngố” có thể ghi ghi chép chép, cũng là nhiệm vụ "tìm lại Văn hoá dân gian” của địa phuơng. Bà nội cô được mời làm "Tư Vấn truởng” (con Loan đưa ra thuật ngữ này, chắc là để nịnh bà cụ nhà Giao). Bà giáo đã nói cho bọn trẻ hiểu những thủ tục và lề luật ngày xưa trong một hội đúm. Đầu tiên bao giờ cũng là hát dẹp đám để đám đông đang ồn ào nhốn nháo trong buổi hội xuân có thể qui tụm một cách trật tự vào một khu có cây xanh bóng mát, sau đó là hát gặp, hát chào, hát mời trầu... Nhiều lắm. Giao và bạn bè cũng không ngờ hát đúm phong phú đến như vậy. Cô vẫn chưa thuộc hết các chủ đề vì còn những hát mừng, hát hỏi tên, hát đố, hát hoa, giao hẹn, huê tình, gửi thư.. cuối cùng mới là hát giã. Bà giáo nhắc nhở rằng chủ đề cơ bản của hội đúm là tình yêu nam nữ, tuy nhiên người hát không để lộ mục đích ve vãn một cách thô lỗ trước công chúng nên lời hát bao giờ cũng lịch thiệp, có văn hoá và thơ mộng.
"Em ơi chớ vội tu chùa, yêu ai thì cứ bỏ bùa mà yêu”; ”Trầu em ăn nặng bằng chì, ăn rồi anh biết lấy gì đền ơn”. Rồi "Em về sao được mà về, mái chèo chưa ráo trăng thề chưa soi”. Bọn trẻ đang đối đáp với nhau trong khi anh "Tây ngố” ghi vội ghi vàng. Tuy đã có nhắc nhở của "Tư Vấn truởng” nhưng thỉnh thoảng vẫn có những câu như "Dạ anh dạ bưởi dạ bòng, ngoài da xanh lét trong lòng chua le”, hoặc "Chuột chê xó bếp chẳng ăn, chó chê nhà dột ra nằm bụi tre” và " nàng Loa” vừa cong cớn "Ai thèm ăn gỏi cá mương, ai thèm nói với những phường trẻ ranh” để đối đáp với một cậu vừa trêu "Ơi chim Loan đậu nóc chùa, cho Phượng cưới chịu đến mùa trả khoai”…
Giao thấy bà nội mình nhìn ra vườn cau mênh mang như đang suy tuởng. Quả là đang có cuộc độc thoại trong lòng bà giáo già: "Ông có dặn dò gì thằng cháu không mà thấy nó có vẻ săn đón quấn quít con Giao lắm. Con bé nhà này thì cũng niềm nở, chu đáo với nó. Liệu rồi sóng thần... Nhưng thôi, nếu duyên số là do Trời Phật định đoạt...” - Bà rời phản đi vào gian thờ thắp mấy nén nhang truớc bàn thờ Phật và ảnh của ông Thụ, lâm râm khấn vái rồi lại đến bên cửa sổ nhìn ra vườn cau suy tưởng "Chiến tranh đã qua đi lâu rồi, khổ đau thì bà và cả người ấy cũng đã chịu rồi. Ngay những kẻ gây tội ác ngày xưa, nếu Trời Phật chưa trừng phạt nghiệp kiếp này do phúc kiếp truớc của chúng còn lưu lại thì họ cũng đã ăn năn, muốn làm điều thiện gì đó cho mai sau… Hãy để cho hai dân tộc có thể giao duyên và sống trong bình an mãi mãi. Cầu Trời khấn Phật..."
----
Hải Phòng ngày xưa có ba vùng hát đúm* : đó là Thuỷ Nguyên, Cát Hải - Cát Bà và Kiến Thụy-Đồ Sơn (theo "Non nước Đồ Sơn” của Trịnh Cao Tưởng-Nhà xuất bản Văn Hoá 1978)
----
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 31/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người vợ bị bán – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 31/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Người vợ bị bán – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 12/03/2011
Thời gian như dòng sông, cứ kiên trì xói mòn và bồi lấp đi mọi sự kiện của cuộc đời khiến cho những gì xấu xa, đau đớn của một thời giờ đây không còn thấy nhức nhối như xưa. Có điều, cả những gì tốt đẹp cũng mờ dần, mờ dần theo năm tháng. Có lẽ đến vòng luân hồi thứ một triệu của kiếp nhân sinh hiện hữu, thế gian này sẽ không còn núi cao, cũng chẳng còn vực sâu. Mọi thứ đối lập sẽ dung hoà, san sẻ cho nhau để trái đất này chỉ còn là bình nguyên phẳng lặng và mặt biển không có sóng.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
NGƯỜI VỢ BỊ BÁN
***
Thời gian như dòng sông, cứ kiên trì xói mòn và bồi lấp đi mọi sự kiện của cuộc đời khiến cho những gì xấu xa, đau đớn của một thời giờ đây không còn thấy nhức nhối như xưa. Có điều, cả những gì tốt đẹp cũng mờ dần, mờ dần theo năm tháng. Có lẽ đến vòng luân hồi thứ một triệu của kiếp nhân sinh hiện hữu, thế gian này sẽ không còn núi cao, cũng chẳng còn vực sâu. Mọi thứ đối lập sẽ dung hoà, san xẻ cho nhau để trái đất này chỉ còn là bình nguyên phẳng lặng và mặt biển không có sóng. Văn chợt nghĩ vậy sau lần anh tình cờ gặp lại một con nguời của ba muơi năm truớc trong cuộc hội thảo của ngành Giáo dục.
Bấy giờ Văn đang dạy một lớp học chỉ có khoảng non ba chục học sinh mà lẫn lộn đến ba hoặc bốn chủng tộc là Tày, Hmông và Dao mà ngày ấy những người miền xuôi như anh lúc thì bảo họ là người Mèo, có lúc lại nghĩ họ là người Mán. "Sinh ngữ" của anh có thêm được mấy từ "noọng ơi", "kin khẩu", "kin nậm"…nghĩa là "nàng ơi", "ăn cơm" với "uống nuớc"! Đấy là học lỏm theo tay Tằng đồng nghiệp của anh, hắn bảo đấy là tiếng Tày, thứ tiếng hay dùng nhất đối với cư dân sở tại. Không biết có đúng thật không vì ông bạn người Hmông này khôn như rận, nhiều lúc hắn còn dạy những câu mà nếu anh áp dụng sẽ bị các cô gái trong bản đấm cho thùm thụp hoặc phá lên cười như nắc nẻ.
Thời gian Văn dạy học ở đó không lâu vì chỉ hơn năm sau anh đã được cử đi học Trung cấp Sư phạm, ra dạy vài năm ở một truờng miền trung du lại đi học tiếp Đại học, ra trường thì về đóng đô luôn ở Thái Bình. Bạn bè anh gọi đó là giai đoạn vừa lên cao vừa xuống thấp, nghĩa là leo lên cao về học vấn và lương bổng, đồng thời tụt xuống thấp theo cao độ so với mực nước biển, tóm lại họ cho Văn cũng thuộc loại khôn như rận theo cách so sánh của người Mán, vì con rận- bây giờ nhiều người không biết hình thù nó như thế nào- luôn biết chọn chỗ nào an toàn nhất trong chiếc áo để ẩn thân và chỗ nào thơm thịt nhất trên cơ thể người ta để cắn và hút máu!
Chuyện xảy ra là vào hồi anh đang dạy cấp1. Một hôm tay Tằng bảo Văn "Mai tao phải nghỉ một ngày đi chợ phiên để bán con vợ."
- Cái gì?- Văn kinh ngạc- Cậu bảo bán con gì?
- Cái con vợ tao. Bảo nó không nghe, với lại nó không thích đẻ!
Văn há hốc mồm trước câu trả lời tỉnh khô của anh bạn đồng nghiệp. Anh cũng biết là tập tục cưới hỏi, lấy vợ lấy chồng ở trên này mang nặng tính chất gả bán. Người đàn bà về làm dâu là thành con ma của họ nhà chồng, chẳng may chồng chết sớm thì phải làm vợ tiếp cho một ai đó trong gia đình nhà chồng, anh chồng hoặc em chồng chẳng hạn. Nhưng anh không nghĩ là có thể đem vợ ra chợ để bán như tay Tằng vừa nói.
Văn đã hết sức khuyên can, nói rằng bây giờ Chính phủ không cho làm thế nhưng Tằng nói là đã có sự bằng lòng của Khán (già làng) và hú sinh (ma bếp) rồi. Hôm sau hắn nghỉ thật, chiều muộn hôm sau nữa mới quay lại truờng trong tư thế chân nam đá chân chiêu. Không nói năng với ai câu gì, hắn lảo đảo đi vào nhà ở tập thể của giáo viên, nhưng đến cửa lại quay ra bờ vực quăng chiếc túi thổ cẩm xanh đỏ đang cầm trong tay xuống khe núi. Mấy thứ đồ lặt vặt trong đó văng ra ngoài, rơi lả tả rồi gió cuốn xuống vực sâu, sau đó hắn vào giường ngủ li bì đến tận trưa hôm sau.
Sau giờ lên lớp buổi chiều, lúc ăn tối cùng với Tằng, Văn tò mò hỏi mấy hôm vừa rồi hắn làm gì, việc bán vợ của hắn ra sao.
- Mải (bán) không được, mất rồi.
- Mất rồi! Sao mà mất?- Tưởng vợ hắn đã chết Văn hốt hoảng- Vợ cậu mất thật rồi à?
- Mất, không phải slay (chết)- "con rận Mán" này hiểu suy nghĩ của Văn khá rõ - Tao đưa nó đi chợ nhưng lúc qua san (rừng ) nó thíu (chạy đi) à. Tao đuổi theo không thấy nó đâu nữa.
Cứ há mồm vì kinh ngạc, mãi Văn mới hỏi được thêm vài câu "Tại sao mày nhanh thế mà không đuổi bắt được nó?" với "Không tìm thấy thật à?" Đáp lại hắn ậm ừ giải thích rằng ở chỗ ấy có nhiều khe đá với vực sâu, không biết vợ hắn đã ẩn vào hốc đá nào đó hoặc ngã xuống vực.
- Nhưng nó không còn là quây (con ma) nhà tao nữa nên còn cái gì của nó tao vứt hết đi rồi.-Hắn giải thích thêm như vậy rồi cắm cúi ăn, không nói chuyện nữa.
Văn sực nhớ đến chiếc trâm bạc, chiếc vòng màu xanh ngọc thạch và mấy tờ giấy dó, hôm qua còn mắc lại trên bờ vực lúc Tằng ném cái túi xuống khe núi. Anh đã nhặt lên, định lúc hắn tỉnh rượu thì đưa lại cho hắn, nhưng giờ biết là Tằng sẽ không nhận lại những thứ đã vứt đi theo con ma.
Khi xem lại, Văn thấy mấy tờ giấy dó được khâu vào với nhau thành như cuốn sổ, đã viết được nhiều nhiều bằng loại mực gì tim tím, chắc là nhựa cây hay nước quả. Chữ viết lẫn lộn tiếng Kinh, tiếng Tày và cả tiếng Sán Chí, Cao Lan gì đó. Đọc được ít dòng Văn đâm ra tò mò vì biết đây là cuốn sổ của vợ tay Tằng, trong đó ghi một số việc gần giống như ta ghi nhật ký. Thật là lạ, một người đàn bà Mán mà ghi nhật ký!? Thế nên Văn đã bí mật chép lại những chữ mà mình không hiểu rồi đi hỏi người nọ người kia- nhưng giấu không cho tay Tằng biết chuyện anh còn giữ cuốn sổ của vợ hắn - Dần dà Văn hiểu được khá nhiều về những điều mà người đàn bà ghi lại.
Người vợ mà tay Tằng đem đi bán hoá ra không phải là người Mán chính gốc. Các cụ của chị vốn là người Kinh, quê tận xứ Trung Kỳ, đã từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, vị cận thần của nhà vua đã lẩn lên miền núi, sống trà trộn với những người dân tộc để tránh việc truy tìm hết sức gắt gao của triều đình đã trở thành tay sai của thực dân Pháp. Về sau người ấy lấy vợ Hmong, được nhận là con rể bán đầu vì gia đình vợ không có con giai, sau này sẽ được thừa kế và chịu trách nhiệm hương hoả cho bên vợ. Đó là người cụ của Bàng A Lình (là tên cô vợ mà Tằng đem đi bán).
Chính người cụ của Bàng A Lình đã đóng cuốn sổ bằng giấy dó này truyền lại cho con cháu, dặn rằng "Khi nào nước Nam hết giặc Phú Lãng Sa thì hậu duệ phải quay về sống với người Kinh, nhớ rằng quê gốc là ở huyện Hoà Vang tỉnh Thừa Thiên, thuộc dòng họ Tôn Thất". Phía trên của mỗi tờ giấy trong cuốn sổ cụ đều có ghi sẵn câu trên bằng tiếng Kinh, tiếng Cao Lan và tiếng Tày để truyền đời ghi nhớ. Cụ dặn con cháu phải ghi lại những việc gì quan trọng xảy ra vào sổ này để các đời sau không quên gốc tích.
Những trang giấy dó này không ngờ lại là cuốn sử biên niên đã ba bốn đời nay của một dòng họ thuộc Hoàng tộc- Văn nghĩ. Anh đã mất hai ngày chủ nhật lần theo con đường từ nhà Tằng đến chợ để thử tìm tung tích cô Bàng A Lình nhưng không có kết quả gì vì đúng như tay Tằng nói, dọc đường có khá nhiều hang động bị cây rừng che phủ, cũng có một số khe sâu nữa. Nếu rơi xuống đấy thì.. Anh thầm cầu mong cho người đàn bà không quen biết bằng tất cả lòng thương cảm của mình…
Câu chuyện rồi bị vùi trong quên lãng. Nửa đời người đã trôi qua cho tới một lần, vào giờ nghỉ ăn trưa của một cuộc hội thảo về Cải cách giáo dục của Bộ tổ chức, Văn tình cờ ngồi cùng mâm với hai người phụ nữ xấp xỉ tuổi mình. Anh bạn Vụ phó với vẻ quen thân hỏi một chị là bây giờ còn giữ tên Bàng A Lình không, hay chính thức đổi thành Tôn Nữ Nguyệt Mai rồi. Họ cười vui với nhau trong khi cái tên Bàng A Lình của người đàn bà ăn mặc hoàn toàn theo kiểu người miền xuôi, ngay cả dáng vẻ và phong thái cũng vậy, gợi lên trong Văn một điều gì đó nhưng anh không thể nhớ ra. Mãi đến khi câu chuyện giữa hai người phụ nữ nhắc đến tên một vài địa danh miền rừng núi Bắc San thì hồi ức về những năm tháng dạy cấp một ngày xưa bỗng nhiên tái hiện. "Chẳng lẽ người vợ tay Tằng, người đàn bà ngày xưa hắn đem bán đã bỏ trốn đi là chị ta hay sao?"- Văn thấy thảng thốt.
- Xin chị thứ lỗi nếu điều tôi hỏi làm chị không vui- Đợi khi chỉ còn lại rất ít người uống trà trong phòng ăn, Văn mới dám lại gần để hỏi chị ta- Có phải chị đã.. đã từng là vợ anh La Á Tằng ngày xưa.. Tôi muốn nói là vào những năm sáu mươi, tôi cùng anh ấy dạy học ở một trường cấp một của huyện Bắc San…
Người phụ nữ nhìn anh kinh ngạc. Khuôn mặt khả ái đột nhiên biến đổi bất ngờ như bị nước dơ, do một người vô ý hắt từ trong nhà ra dây vào đầu tóc. Văn chợt hoảng hốt vì thấy mình đã nói ra chuyện gì đáng lẽ không nên nói.
- Xin chị thứ lỗi nếu như tôi... tôi- Anh lắp bắp- Sở dĩ tôi hỏi vậy là vì từ ngày đó tôi tình cờ còn giữ một cuốn sổ có bút tích mấy đời của một người tên là Bàng A Lình như.. như chị. Tôi chỉ muốn hoàn nó về cho người ta.. Còn, còn có chiếc trâm bạc và chiếc vòng màu xanh ngọc thạch... - Văn rụt rè bổ sung, anh vẫn lấy làm tiếc là đã khơi ra câu chuyện này.
- Thật vậy ư?!- Vẻ mặt người phụ nữ đã bình thường trở lại. Chị ta như bất chợt đắm chìm vào dĩ vãng, quên cả người đồng nghiệp vẫn đang đứng trước mặt trong trạng thái khó xử.
- Xin lỗi anh, thật hết sức bất ngờ đối với tôi khi anh hỏi vậy. Không sao đâu, anh đừng tự trách mình nữa...- Chị ta cầm lấy tay Văn như an ủi- Tôi với anh lại đằng kia nói tiếp câu chuyện này đi...
Quả thực đó là Bàng A Lình, người đàn bà Mán ngày xưa La Á Tằng đã định đem đi chợ bán. Câu chuyện gợi lại bao nhiêu xúc cảm cho người phụ nữ và cả cho Văn, mặc dù anh đã quên đi sau ngày rời khỏi miền rừng núi Bắc San. Một tuần sau đó họ lại gặp nhau ở Hà Nội trước ngày Tôn Nữ Nguyệt Mai trở về Huế. Văn giao lại cho chị cuốn sổ bằng giấy dó, chiếc trâm bạc và chiếc vòng đeo tay màu xanh vẫn được anh giữ gìn qua bao năm tháng. Người đàn bà rơi lệ khi nhìn thấy những kỉ vật của tổ tiên để lại. Ở cuốn sổ mỏng bằng giấy dó vẫn còn đọc được những bút tự của người cụ là cận thần của nhà vua, sau đấy là bút tích của ông và cha chị. Chiếc vòng là báu vật của cụ, còn trâm là vật gia bảo của cụ bà của chị, mang về nhà chồng khi trở thành vợ viên cận thần của ông vua yêu nước đã bị giặc Phú Lãng Sa đầy ải.
Nguyệt Mai đưa cho Văn một cuốn sổ khác, dặn anh phải hết sức giữ gìn để trả cho chị khi gặp lại lần sau. Chị cho biết anh là người duy nhất được chị cho đọc cuốn sổ này và đấy là cuộc đời không chỉ của một người, gói ghém trong đó bao nhiêu thiêng liêng trân trọng. Tôn Nữ Nguyệt Mai đưa cho anh đọc vì chị nói là con tim mình bây giờ không còn đủ sức chịu đựng khi phải kể lại câu chuyện bằng lời.
Cuốn sổ thứ hai này có bìa tốt, có thể đã được đóng mới lại nhưng giấy thì rất xấu, đó là loại giấy gai nửa vàng nửa trắng anh đã từng dùng vào những năm sáu mươi. Phải nói là phần đầu của cuốn sổ đó Văn đọc mà chẳng hiểu gì lắm, không chỉ vì nét mực đã nhoè nhoẹt mà còn vì nó được viết bằng thứ chữ hết sức nguyệch ngoạc, lại lẫn lộn giữa tiếng Kinh, tiếng Tày, Cao Lan.. Đây đích thực là chữ của cô Bàng A Lình ngày đó, giống như ít dòng chữ ở phần cuối cuốn sổ khâu bằng giấy dó anh đã trao lại cho Nguyệt Mai.
Đến nay thì vốn "sinh ngữ" của các dân tộc miền Việt Bắc trong anh thật không còn chút nào tồn đọng. Anh chỉ hiểu lơ mơ rằng cô đã cố ghi lại những việc còn nhớ được ở cuốn sổ giấy dó đã bị mất, tiếp đó là chuyện chạy trốn và bị thương. Tuy nhiên Văn cũng hình dung ra đuợc những gì mà anh đã cố bỏ công để kiếm tìm vào ngày đó.
...Một buổi sớm cuối đông mù sương như vẫn thường thấy ở miền rừng núi Bắc San. Tiếng chim từ qui suốt đêm gọi nhau đã tắt hẳn, mấy con lợn rừng vừa hộc vừa chạy ào ào làm gãy răng rắc các cành cây cản lối, con mang cũng tác lên giã bạn lần chót truớc khi tìm về nơi trú ẩn. Lình chỉ còn mỗi chiếc áo lót trên người đang chạy hối hả, sau khi cô bất ngờ dập đầu tay Tằng vào một thân cây, giằng thoát khỏi con đực trần trụi đang cố sức chiếm đoạt người vợ "không muốn đẻ" truớc khi đem đi bán.
Cô gái loã thể chui qua một hang đá hẹp, khuất kín bởi các bụi mây gai và cành dang dẻo dai, ngoằn ngoèo đan bện vào nhau như bầy rắn ở thuở hồng hoang. Cửa hang này cô đã tình cờ phát hiện ra trong một lần vào rừng đặt bẫy bắt dúi, Tằng không biết nên mặc dù hắn ta nhanh và khôn như rận cũng đành ngẩn ngơ quay về với chiếc túi thổ cẩm của cô vợ chạy trốn bỏ lại.
Đúng ra thì cô Lình về làm dâu nhà họ La đã gần chục năm nhưng chưa bao giờ làm vợ của Tằng. Nhỏ hơn "vợ" ba tuổi, từ lúc còn thò lò mũi xanh cu Tằng đã vào học ở trường Thiếu sinh quân, sau đó do tầm vóc bé nhỏ anh ta được chuyển sang làm giáo viên. Đến khi tay Tằng tấp tểnh trở thành người đàn ông thì cô biết việc giặc Phú Lãng Sa (tức thực dân Pháp) đã hoàn toàn bị đánh đuổi. Lình quyết tâm thực hiện lời của ông cha để lại là tìm về với người Kinh dù chưa biết làm bằng cách nào, chỉ lẩn trốn mỗi khi Tằng về nhà vào các ngày chủ nhật. Có lẽ vì vậy mà Tằng đã nói với Văn "Bảo nó không nghe, với lại nó không thích đẻ!".
Vội vàng chui qua hang đá hẹp sang phía núi bên kia, một bước trượt làm cô rơi xuống khe núi sâu. Có lẽ các vong linh của dòng họ Tôn Thất không muốn để mất đi móc xích cuối cùng của một chi tộc anh hùng đã phải chịu nhiều gian truân khổ ải, nên dây leo chằng chịt đã níu kéo cô giữ lại. Lình không chết, chỉ ngất đi. Khi tỉnh lại cô thấy mình đang nằm trên sạp ghép bằng gỗ cây trong lều cỏ, một chiếc quần dài, rộng đã che đi phần thân thể loã lồ. Có một người đàn ông đang lúi húi đun nấu, chắc là ông ta sắc thuốc, cô đoán thế vì phụ nữ Mán phần đông đều biết cách tìm, chế biến và sử dụng dược thảo.
Người đàn bà chạy trốn cảm thấy tuyệt vọng vì lại rơi vào tay một người đàn ông, đến mức không cảm thấy may mắn là mình vẫn còn sống. Mồ côi mẹ từ lúc còn chưa biết gì, cha cũng mất sớm nên từ năm lên mười cô đã bị gả bán để làm vợ chú bé La Á Tằng. Tài sản của cô bé mang về "nhà chồng" chỉ có một chiếc túi thổ cẩm đựng đồ lặt vặt, duy nhất đáng giá là chiếc trâm bạc, chiếc vòng đeo tay màu xanh bằng ngọc thạch của cụ nội để lại và mấy tờ giấy dó mà từ hồi lên năm lên sáu bố cô đã giảng giải, bắt phải học thuộc những gì đã ghi ở đó. Được bố dạy nói và viết tiếng Kinh, nhưng do ông mất sớm nên tiếng Kinh của cô chẳng nhiều nhặn gì hơn so với các thứ tiếng khác đã học được khi chơi đùa, tiếp xúc với lũ trẻ con của một khu tự trị đa dân tộc.
Nếu như người đàn ông đó có một hành động gì làm cô kinh sợ thì chắc Bàng A Lình đã không còn sống để viết tiếp vào cuốn sổ này vì trong người cô đã giắt sẵn một nắm lá ngón từ lúc Tằng đưa đi bán, lúc này nó vẫn còn cộm lên ở bên hông…
Cuốn sổ cho Văn thấy là có một khoảng thời gian tương đối dài cô Lình không ghi chép gì, vì sau mấy trang có nét chữ giun dế với ngôn ngữ tả pí lù ghi lại những điều anh vừa đoán hiểu trên thì có những dòng chữ mới, càng ngày càng khuôn phép và rõ ràng bằng tiếng Việt chính thống. Chắc chắn là đã có sự thay đổi lớn lao trong giai đoạn này - Văn nghĩ một cách tò mò và bắt đầu bị những dòng ghi chép riêng tư của người đàn bà chạy trốn lôi cuốn. Cách ghi bây giờ đã có vẻ như nhật kí nhưng không có ngày tháng và sự việc cũng không liên tục, chắc hẳn hồi đó chị ta vẫn chưa biết đến cuốn lịch, mỗi lần ghi chỉ biết đánh một khuyên tròn vào đầu đoạn viết mà thôi.
Vậy là thày đã nuôi dạy Lình một năm rồi. Giá không có những cây mai nở ra hoa trắng mỗi khi xuân đến thì hai thầy trò chẳng biết bao nhiêu ngày tháng đã qua. Không, chỉ mình Lình không biết thôi, điều gì thầy cũng biết đấy. Lình tin là thế, Lình chỉ muốn có hai cái bụng để ghi nhớ hết những điều thầy dạy. Người Dao ta.. À không, thầy bảo không nói thế nữa nếu như muốn trở về với dòng họ Tôn Thất như lời ông cha dặn lại. Mà sao thầy lại không vui khi khuyên Lình thế nhỉ, thầy còn bảo tất cả là do mềnh phần, ô, không phải rồi, là do mệnh trời, tiếng Kinh nói như vậy cơ, không phải ai ở với người Kinh cũng sung sướng đâu. Chính thầy đang làm điều ngược lại với Lình khi chọn vào sống ở trong rừng này..
Sao thày không nói tên của thầy, chỉ bảo Lình sau hôm nghe kể lại câu chuyện từ bé đến lúc ấy là "Từ giờ em hãy gọi tôi là thầy, thầy sẽ giúp em hoàn thành tâm nguyện của các bậc tiền nhân dặn lại, nhưng để làm được điều đó phải dạy em học nhiều thứ lắm. Thầy đã nghĩ không bao giờ còn được dạy ai học nữa, nhưng chắc đây cũng là mệnh trời." Thầy nói những gì Lình không hiểu và cũng quên mất nhiều rồi, chỉ thấy lúc nói câu đó thầy có vẻ đau buồn lắm, đau buồn hơn lúc Lình bị Tằng dắt tay đem đi bán như con chó con ngựa ở chợ. Lình là đàn bà nên đã giắt theo người một túi nhỏ lá ngón. Đàn ông không ai dùng lá ngón, họ chỉ uống rượu, có người uống rượu tới chết. Nhưng thầy không bao giờ uống rượu, Ô! cũng không phải rồi, thày có một bình rượu đấy, ngâm hai con rắn gì lạ lắm. Một tháng chỉ uống một hai chén, sau đó thưòng bảo Lình ở nhà coi nhà để thầy đi tìm cây thuốc hàng mười ngày mới về.
Những ngày thày đi vắng Lình nhớ lắm, chỉ muốn được thầy cho đi theo nhưng mặt thầy nghiêm nghị làm Lình sợ. Lại dặn Lình ở nhà phải nấu canh với cây rau trồng nhiều ở ven suối ăn cho bổ huyết. Thày không nói nhưng Lình biết đó là rau răm. Người Dao có dùng cây này làm thuốc bổ huyết bao giờ đâu. Chẳng lẽ thầy lại nhầm? Cái gì thày cũng biết cơ mà, hay người Kinh có bài thuốc khác với người Dao? Vắng thầy Lình thường tắm tự do rất lâu ngoài suối, kì cọ và ngắm nhìn thân thể đầy đặn của mình. Thân hình này thầy đã nhìn thấy trong ngày Lình ngã xuống vực. Vậy mà sao thầy không..?
Thầy lúc nào cũng nghiêm nghị. Lình chưa phải đàn bà, chưa lần nào cu Tằng kéo đuợc mình lên giuờng nhưng nếu như thày... Thôi, không viết nữa, xấu hổ lắm.
Thầy dạy Lình học cả tiếng Pháp, tức là tiếng của người Phú Lãng Sa đấy! Thấy Lình tròn mắt nhìn vì kinh ngạc, thầy giải thích rằng Phú Lãng Sa cướp nước mình nhưng không phải tất cả người Phú Lãng Sa đều xấu. Ngay người Vịệt mình cũng có nhiều kẻ xấu, mà kẻ đã xấu thì còn xấu hơn Phú Lãng Sa nữa cơ. Thầy nói giờ thầy chỉ còn Lình là học trò, mềnh phần của Lình vất vả nên thày rất thuơng. Tuy người Pháp đã rút hết về nuớc họ rồi, nhưng chẳng biết đến ngày nào thầy mới đưa đuợc Lình về miền quê cha đất tổ Thừa Thiên...
Cuốn nhật ký khá dài, càng xem Văn càng hiểu thêm về cả hai thày trò họ. Nhiều lần anh phải ngừng đọc, xúc động với hoàn cảnh éo le của một người thày giáo cũng dòng dõi Hoàng tộc, sinh ra trong một gia đình mấy đời là giáo học, đã từng bị thương trong những năm đánh đuổi thực dân Pháp. Giờ đây người đàn ông cô đơn ấy bị xã hội hắt hủi, bị tuớc đoạt quyền làm thày (tuy cô Lình không viết rõ nhưng Văn chắc là ông bị mắc vào vụ tai nạn văn chương hồi đó). Hãy còn trẻ mà sống cạnh người con gái, cô học trò duy nhất còn có đuợc, ở giữa rừng. Cô Lình hồi đó trẻ trung, đầy sức quyến rũ của nét đẹp thiên nhiên hoang sơ mang nửa dòng máu của những sắc người sống giữa đại ngàn. Cô quý thày, và cô yêu thày giáo của mình bằng mối tình đầu hồn nhiên, dạn dĩ. Nhiều lúc vẻ đẹp hoang dã của cô đã khiến thày giáo phải lẩn trốn, phải uống, phải ăn những thứ nhằm triệt giảm bản năng đực cái của con người.
Sao họ không trở thành một đôi chồng vợ nhỉ?- Văn tự hỏi- Có gì và có ai cản trở họ đâu. Để nhiều lúc cô Lình oán thày, có lần đã bỏ đi nơi khác làm nghề thày lang và bán thuốc dạo, nhưng rồi cô lại quay về. Cô kinh sợ những người đàn ông khác. Họ cũng như tay Tằng, dễ dàng xử sự với cô như với con chó, con ngựa nuôi trong chuồng nhà họ.
Cũng vì điều tò mò đó, Văn lật giở đến phần cuối của cuốn sổ ghi chép. Kết thúc cuốn sổ là những dòng chữ không phải của Bàng A Lình. Văn hiểu ngay đây là chữ của thày giáo cô:
"Lình ạ, mặc dù dạy em chỉ hơn năm năm nhưng giờ đây thày nghĩ rằng em đã có thể hòa nhập bình thuờng với cộng đồng người Kinh ở quê hương em. Em là một học trò thông minh, không uổng công dạy dỗ của thày. Tiếc rằng thày chỉ có thể truyền đạt cho em những tri thức nghề nghiệp để làm một nhà giáo. Thày đã nhờ một người bạn rất thân - cũng là người bạn duy nhất của thày còn có cho đến lúc này - bố trí công việc cho em. Tất cả những giấy tờ cần thiết cùng các chỉ dẫn chi tiết đều ở trong chiếc phong bì thày để kèm đây. Em có thể theo các chỉ dẫn đó để về Hà Nội gặp người bạn của thày, nhưng đó là trong truờng hợp thật đặc biệt thôi vì thày ấy đã hứa sẽ lên đây đón em về trong vòng nửa tháng nữa.
Đã đến lúc em nên rời khỏi rừng này để làm việc gì đó mà em thích. Thày còn nợ em một nửa phần việc mà thày đã hứa, đó là đưa em về tận miền Thừa Thiên quê hương em và cũng là quê hương của thày. Chưa chắc thày đã đuợc phép tái ngũ nhưng sẽ tìm cách trở về quê hương để cùng tham gia giải phóng nốt một nửa đất nứơc, trong đó có quê của thày trò mình, dù làm một đội viên du kích thôi cũng đuợc.
Thày tin rằng sẽ có ngày gặp lại em ở Huế nhưng dẫu sao chuyến đi này cũng đầy hiểm nguy. Vì vậy phải nói cho em biết đôi điều về con người đã tình cờ sống và truyền đạt kiến thức cho em ở giữa rừng già. Gia đình thày cũng thuộc dòng họ Tôn Thất như em, mấy đời làm nghề dạy học, chỉ có thày phải rời bút nghiên một thời gian để đánh đuổi Phú Lãng Sa. Thày đã vui sướng biết bao khi đuợc quay lại nghề dạy học, nhưng sống trên đời này nhiều gian nan lắm em ạ, thày phải nói để em biết cách dè chừng. Chỉ vì cần chiếm đoạt tình yêu của một cô gái mà hiệu truởng nhà truờng, cũng từng là học trò của thày, đã dùng mấy bài văn thơ làm cớ tạo ra vụ án văn chuơng để họ kỷ luật thày, không cho làm nghề dạy học nữa.
Lình ơi, em mãi mãi là học trò của tôi, là người học trò duy nhất tôi còn được quyền dạy dỗ. Thiên chức của tôi sinh ra trên đời này là để dạy học nhưng người ta đã tước bỏ quyền làm thày của tôi. Chỉ còn có mình em là học trò nên tôi phải giữ gìn, mãi mãi tôi là thày và em là học trò của tôi. Điều đó thiêng liêng biết bao đối với một người đựơc sinh ra để làm thày như tôi, mặc dù tôi đã phải quên rằng mình còn có trái tim, rằng tôi là người đàn ông và em là người đàn bà, đã cùng sống một cách chân thành với nhau năm năm ở giữa rừng...
Thực ra thì còn hơn thế, hơn thế rất nhiều em ạ. Có lúc tôi phải tự hỏi mình rằng nghề làm thày có đúng là cao quí đến mức tôi phải hy sinh đến thế hay không. Sao có những người được quyền làm thày một cách dễ dàng mà họ có coi trọng nó đâu…
Văn đặt cuốn sổ xuống bàn. Bỗng dưng anh lặng người vì lần đầu tiên chợt nhìn lại suốt quãng đời hành nghề sư phạm của mình. Nó trơn tru, bằng phẳng, giúp anh qua những năm khó khăn thiếu thốn nhất và nuôi dạy con cái nên người. Nhưng quả thực với anh sư phạm chỉ là một nghề, cũng như một số nhà tu hành ngồi trong chùa, đợi đến giờ thì đọc kinh, gõ mõ truớc những bức tuợng gỗ và yên tâm với nghề làm sư của họ.
Lặng lẽ gấp lại cuốn sổ, quả thực Văn không dám đọc nữa vì thấy rằng nhìn sâu vào đời tư nguời khác nhiều khi làm cho chính mình thấy áy náy. Lần trao lại nó cho Tôn Nữ Nguyệt Mai anh đuợc biết thêm rằng người thày giáo đầu tiên của chị đã không còn nữa. Truớc khi tìm cách trở về quê huơng đánh Mỹ ông về thăm ngôi truờng cũ, gặp ngay lúc máy bay Mỹ đến bắn phá. Ngôi truờng bốc cháy, ông đã lấy thân mình che bom bi cho hai đứa bé con, lúc chết cũng không biết nó là con của những ai.
Không phải người trong cuộc, thế mà Văn thấy choáng váng. Như một người mộng du, phải cố lắm anh mới hiểu đuợc lời kể của Tôn Nữ Nguyệt Mai rằng chị chỉ có một đứa con nuôi. Chính là bé gái, một trong hai đứa trẻ mà thày giáo của cô đã lấy thân mình che chở, vì rằng cha mẹ của nó đều chết trong trận oanh tạc đó. Cũng có thể nó là con của tay hiệu truởng từng là học trò của thày giáo cô, vì hai vợ chồng ấy cùng một số giáo viên và gia đình họ đều chết cháy trong lần oanh tạc của không quân Mỹ.
"Ôi một thời, đã có một thời như vậy đấy! Chẳng lẽ xu thế của cuộc sống bây giờ là cái vỏ vô cảm của người ta cứ càng ngày càng dày lên mãi, để tất cả những gì mà người thày giáo ấy coi là thiêng liêng, dần dà chỉ còn đuợc thấy trong chuyện cổ tích thôi sao!"- Văn chợt nghĩ.
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 12/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Anh hùng thời đại – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 12/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Anh hùng thời đại – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 10/03/2011
Trước kia chẳng ai bảo me-xừ ấy là hèn. Hèn thì xứng danh đại ca sao đuợc. Đại ca trong làng đao búa thì chỉ cần sẵn sàng đổ máu, chặt một ngón tay quăng cho chó gặm chẳng hạn, là đủ để bọn đàn em bái phục. Nhưng nhân vật này không phải làng đao búa. Me-xừ là trí thức gộc, còn là giám đốc công ty, bí thư đảng uỷ nữa.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
ANH HÙNG THỜI ĐẠI
***
Trước kia chẳng ai bảo me-xừ ấy là hèn. Hèn thì xứng danh đại ca sao đuợc. Đại ca trong làng đao búa thì chỉ cần sẵn sàng đổ máu, chặt một ngón tay quăng cho chó gặm chẳng hạn, là đủ để bọn đàn em bái phục. Nhưng nhân vật này không phải làng đao búa. Me-xừ là trí thức gộc, còn là giám đốc công ty, bí thư đảng uỷ nữa.
Được tôn "Đại ca" trong lĩnh vực này cực khó. Phải lăn xả trong khâu làm quen, thấy người sang là phải bắt quàng làm họ cho bằng đuợc, đánh hơi có siêu giá trị thặng dư thì dù có bị treo cổ cũng phải vào cuộc. Đó luôn là mê cuồng, là khát khao vuơn tới để hãnh và tạo cơ dìm đối thủ xuống chân, ngoài ra còn phải hùng và hoành tráng trong mọi cuộc chơi. Nhờ thế mà me-xừ được tôn là đại ca, chỉ có một hệ quả cố sức xoá mà không được, đó là cái biệt danh "Mõm Xanh ăn dày", dày đến mức "nuốt cả tất" như các cộng sự thường nhận xét sau lưng.
Ai bảo cuộc đời này không cần những người như thế. Vì rằng nếu ai cũng chối bỏ cả tham, sân, si thì làm sao mà tồn và xây đuợc xã hội người ta đang sống trở thành cõi Niết bàn?
Mọi chuyện chính là do vào cái ngày đẹp trời ấy, khi mọi thứ tiêu chí và cơ cấu đã dồn vào khiến me-xừ bỗng dưng trở thành Anh hùng. Doanh nghiệp nhà nuớc, phát triển công trình giao thông là trọng điểm của thành phố, tổng doanh thu luôn là đơn vị dẫn đầu, đã kiếm đuợc bằng thạc sĩ còn là giám đốc kiêm bí thư đảng uỷ, năm nào cũng trong sạch vững mạnh. Nhiều thứ trúng với tiêu chí quá nên me- xừ đã hội tụ đủ mọi điều kiện theo kiểu "bó đũa chọn cột cờ" để đuợc tuyên duơng là Anh hùng Lao động đợt đầu tiên trong thời kì đổi mới.
Cái danh đến bất ngờ thường làm người ta choáng. Me-xừ tưởng mình là anh hùng thật, hơn đứt Hàn Tín đời nhà Hán. Ngày xưa danh tuớng ấy còn phải chui qua háng một thằng ba trợn ở giữa chợ lúc ông ta đang hàn vi, đằng này đời đã cho cả danh hiệu Anh hùng lẫn Đại ca mà chưa lần nào phải chịu nhục. Vậy nên me-xừ phải dọn lại cách xử sự, sao cho "phục y xứng kì đức", cao đầu thêm một chút, thêm tí ti khệnh khạng, đổi đời chiếc xe con... Truớc kia chức Giám đốc đã là một hãnh diện nhưng giờ đây me-xừ cảm thấy mình phải lên Sở mới xứng đáng.
Rồi me- xừ đuợc lên Sở thật, Truởng phòng hẳn hoi. Chiếc thang danh vọng rõ ràng đang trong tầm tay, cả bậc và tay vịn đều chắc chắn và nhẵn nhụi. Nhưng tối ba mươi tháng chạp vẫn chưa phải là tết - người đời thường bảo thế- nên chẳng hiểu sao dưới mông me-xừ, chiếc ghế mới lại thành chỗ ngồi chơi xơi nuớc, mà toàn là nước nhạt cho đến ngày me-xừ bất mãn, quyết định xin về hưu sớm.
Đám bạn bè cùng học phổ thông lúc này mới bắt đầu lai vãng tới thăm, mà chính me-xừ - khác hẳn khi còn ngây ngất với những từ anh hùng với đại ca - cũng muốn bù khú với những thằng bạn nhất quỉ nhì ma ngày xưa.
- A, chào thằng bạn anh hùng dân tộc, lâu lắm mới có dịp gặp nhau.- đó là thằng Hanh, di tản sang Ca-na-đa từ đầu những năm tám muơi- Chủ nhà nhận ra ngay dù trông hắn to gấp ba tay lái xe tải ngày xưa.
- Chào cựu đại ca. Thôi bây giờ mày góp vốn vào cái TNHH của tao đi, tao nhường mày làm đại ca đấy- đó là thằng Vu, đứa suýt bị đuổi học vì ghẹo gái năm học lớp 9.
Đủ mọi thứ chuyện, mọi đề tài đuợc nhắc đến trong những cuộc "gặp nhau cuối tuần". Cái thằng Hanh Ca-na- đa, bây giờ vốn có đến vài triệu đô, kể rằng nó đã qua mọi thứ việc mà dân bản xứ coi là mạt hạng như đào giun, trồng cỏ (cần sa) dưới hầm ngầm thắp điện..
- Tao làm những nghề hèn mọn ở bên ấy hàng vài chục năm mới ngoi lên làm đuợc anh tiểu chủ- hắn nói- tình cờ đọc tờ báo cũ thấy mày đụơc phong anh hùng, mừng và thèm hết chỗ nói..
- Thôi quên những chuyện ấy đi.- chủ nhà gạt phắt- Ớn lắm rồi..
- Không nên quên những chuyện như vậy- thằng Vu tham gia- hôm nọ thấy thằng Hùng bệu nháy chuột, xem cái đĩa toàn tập của vị Chủ tịch đầu tiên của nuớc Việt Nam DCCH, tao nghĩ là nó muốn sấy "i-c". Nhưng chợt thấy bài "Anh hùng giả và anh hùng thật"*, nghĩ đến mày tao phục Ông Cụ sát đất. Cụ viết "Anh hùng giả là người có độ lượng nhỏ bé như cái vỏ hến, một giọt nước cũng đủ đầy tràn.. dễ cho mình là đại tài, tiểu dụng, quần chúng quên công, quên ơn họ..".
- Cái chết của mày là ở chỗ đã đuợc phong một danh hiệu giả- nó lại bình tiếp- sở truờng lăn xả và bất chấp của một đại ca nhằm giành giật trong nền kinh tế thị truờng tự nhiên bị vô hiệu hoá, khiến mày lập tức trở thành Anh hèn sau khi đuợc phong Anh hùng. Phong như vậy chẳng ích gì cho đời và cho chính mày...
Không thể cãi lại đuợc thằng này, me-xừ chỉ thấy là vị vang chát sao bỗng trở nên đăng đắng trong cổ họng...
----
* Hồ chí Minh toàn tập, tập 7, trang 167.
----
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/03/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Nghệ nhân – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 03/12/2010
Đặt bức tượng Di lặc vừa điểm xong đôi nhãn xuống nền nhà ngổn ngang gỗ vụn, anh nghệ nhân tài hoa đã đến tuổi "nhi lập" của làng nghề cổ truyền đọc như trêu cô bé đang tròn mắt ngắm nghía tác phẩm của mình: “Sinh ư nghệ tử ư nghệ Thánh nhân dạy người ta thế Dạy kiếp người quen với đói nghèo Dạy cách cười cả lúc treo niêu..”
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
NGHỆ NHÂN
***
***
Thế là cuối cùng mình cũng đã xuất ngoại, ông cay đắng khi rời máy bay. Đã chết tất cả những ham mê, hoài bão cùng ước mong đi đây đi đó ra ngoài biên giới. Làm người ai chẳng có thứ đó, chúng cũng đã nhen nhúm ở trong ông bao năm. Lúc này lại thấy cay đắng.
Chẳng phải vì chuyến xuất ngoại muộn mằn khi đã đến tuổi "tri thiên mệnh". Nhưng đây là chuyến du lịch bất đắc dĩ. Nếu bà vợ trẻ kém chồng hơn một giáp không dẫn ông đến phòng cấp hộ chiếu, bắt ngồi chờ để làm mọi thủ tục cần thiết cho chiếc giấy thông hành ra nuớc ngoài, không liên hệ với Du lịch "Rét tua, ấm tua" gì đấy rồi lại nhờ một con bé hướng dẫn viên dẻo mồm đốc thúc, hướng dẫn, nhắc nhở thì chưa chắc giờ đây ông đã chui ra khỏi máy bay ở sân bay thủ đô của nuớc láng giềng phuơng Bắc như thế này.
Lờ mờ biết về ý đồ của bà vợ trẻ khi cố bắt mình tham gia chuyến du lịch này cùng với vợ chồng một cô bạn của bà ta. Người ta đang muốn làm điều gì đó. Ông thoáng nghĩ đến chuyện bồ bịch của nguời đàn bà chớm tuổi hồi xuân trong khi mình không còn hăng hái trong chuyện "sửa soạn yên cương" và thường phải "hạ mã" khi chưa đến đích. Chuyện như thế làm người đàn ông nghẹn trong tim. Càng đau đớn hơn khi ngày xưa họ đã đến với nhau bằng tình yêu, đã cùng nếm trải bao nhiêu cay đắng, cả những ngọt bùi tuy thật hiếm hoi.
Ngày ấy cô học sinh thành phố nhí nhảnh về sơ tán ở cái làng Bảo Hà hẻo lánh giữa miền quê Vĩnh Bảo, chỉ có ốc đàn với bèo hoa dâu. Cô thích ngồi xem chú "đục gỗ khéo tay" làm những ông phỗng, những con rối nuớc, rối cạn và nghe "ông chú" kể về những cụ tổ xa xưa của làng nghề, đôi lúc minh họa bằng những câu thơ nửa cổ nửa kim chỉ hiểu lơ mơ nhưng lạ lẫm và thích thú.
Đặt bức tượng Di lặc vừa điểm xong đôi nhãn xuống nền nhà ngổn ngang gỗ vụn, anh nghệ nhân tài hoa đã đến tuổi "nhi lập" của làng nghề cổ truyền đọc như trêu cô bé đang tròn mắt ngắm nghía tác phẩm của mình:
Sinh ư nghệ tử ư nghệ
Thánh nhân dạy người ta thế
Dạy kiếp người quen với đói nghèo
Dạy cách cười cả lúc treo niêu..
Cô bé lém lỉnh cuời hồn nhiên:
- Chú ơi, niêu nhà chú mà không treo thì con mèo muớp nó chén hết con cá sộp chú mới câu đuợc sáng nay. Mà nó không ăn vụng thì cháu cũng gắp trộm. Chú cứ đợi đấy mà xem!
Niêu treo mặc kệ niêu treo
Cháu cao hơn con mèo
Cháu gắp khúc giữa cơ..
Tiếng cười trong trẻo chạy theo chân cô học sinh sơ tán mới mười lăm tuổi làm "ông chú" nổi tiếng dí dỏm, khéo tay đâm ra đỏ mặt.
Bốn năm sau, vào lúc người ta không có nghề để làm, không có gì để ăn cho đúng kiểu một con người thì cô bé năm xưa lại xuất hiện. Đã là một thiếu nữ. Xinh xắn và nghịch ngợm.
- Chú ơi, niêu nhà chú hồi này thế nào, có gì để phải treo lên không?
Chưa kịp trả lời thì cô đã ngồi thụp xuống, nhấc chú Tễu lăn lóc giữa vụn gỗ lên ngắm nghía rồi lại nói như máy.
- Chú ạ, cháu làm hợp đồng thời vụ cho công ty Xuất khẩu Mỹ nghệ. Mà chẳng có gì mỹ nghệ lắm đâu. Mấy cái lẵng mây mốc meo. Con sư bằng than đá chỉ nhỡ tay một tí là tử - một tràng cười ròn tan. Cháu đã phải đền tiền một con do lau chùi mạnh tay đấy.
- Còn chú dạo này- Cô chuyển tia nhìn từ chú Tễu lên mặt "chú đục gỗ khéo tay"- trông còn tơn tớn hơn chú Tễu. Mà sao lại gọi là chú nhỉ, là anh Tễu hay cậu Tễu có hay hơn không?!
Chả hiểu câu nói vô tình hay hữu ý, chỉ biết "ông chú" vẫn mồm mép ở đâu đâu tự dưng chỉ biết cuời gượng gạo và đỏ mặt truớc cô nàng nho nhỏ, chân nhảy như thỏ, cười như ngô nổ, chú Tễu cũng đánh đổ..
Sau này, khi đã thành vợ thành chồng, cùng chung sức trong hợp tác xã thủ công mỹ nghệ ông thường trêu cô vợ trẻ như vậy. Lần ấy ông chỉ tò mò ngồi nghe cô trình bày về phương án dựng Hợp tác xã Điêu khắc- Sơn mài. "Anh Tễu" sẽ tìm mời các nghệ nhân của làng, xã và tổ chức sản xuất đồ điêu khắc bằng chất liệu gỗ mít với lớp phủ sơn mài nổi tiếng tuyệt văn diệu truyền đời đã mấy trăm năm từ cụ cao tằng tổ tỷ Nguyễn Công Huệ. "Cô Thỏ" sẽ chạy đi chạy lại làm con thoi với đầu ra là Công ty Xuất khẩu Thủ công Mỹ nghệ.
Bao nhiêu nhiệt tình, bao nhiêu nỗ lực đã bỏ ra vào ngày đó. Suối tình của đôi vợ chồng tưởng như không bao giờ cạn nhưng không thể nào tràn bờ vì ngoài đôi bờ nhỏ nhoi của họ là cả một sa mạc mênh mông của thói quan liêu bao cấp, bảo thủ và trì trệ. Một thời chỉ thấy những anh khố son bòn anh khố nâu và "thành phần cơ bản", trước kia từng là động lực của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, được dung dưỡng mãi tác phong ăn thì có, mó thì không.
Ông đã uất ức với nghề cổ truyền của tổ tiên khi nó không cứu đuợc đứa con gái đầu lòng yêu quý. Con bé giống mẹ nên ông coi nó như báu vật. Thế mà nó chết. Chẳng phải vì bệnh gì quá hiểm nghèo, chỉ không có tiền thuê phương tiện để kịp thời đưa ra bệnh viện ngoài thành phố, sau khi đã phải chờ hai ngày vì người có quyền ký giấy giới thiệu đi vắng.
Ông đã định nghe lời cô Thỏ nhập vào dòng chảy của những người di tản khốn khổ vào thời kỳ đó. Khá đông bạn bè và người quen của hai vợ chồng ông đã liều mình như chẳng có. Để đổi lấy một tương lai cũng không biết ra sao. Đủ mọi loại người. Từ khố rách áo ôm đến những bàn tay, khối óc không phải nặn ra bằng đất thó.Ông đã giữ cô ấy ở lại chỉ vì nhớ tới chuyện cụ tổ của làng nghề đã từng khốn khổ khi làm lao công ở xứ người. Chính tại mảnh đất ông đang buớc xuống lúc này.
Hai vợ chồng bỏ quê, dắt díu nhau vào miền đất đỏ Tây Nguyên. Những ngày chờ đợi xin phép khai hoang ông lang thang thăm thú các buôn làng người Jơrai. Đứng hàng giờ ngắm nghía những cột kưt, cột klao ở nóc và bốn xung quanh những ngôi nhà mồ. Người Jơrai chỉ dùng rìu và dao đẽo gọt các pho tuợng từ thân và gốc cây nhưng không thiếu một hình thể gì. Họ không quan tâm đến kích thước, tỷ lệ và hình khối nhưng tuợng nhà mồ rất thực và sống động. Thi thoảng có những cột tượng làm ông phải thán phục vì tính uớc lệ và cuờng điệu hết sức bay bổng của người dân miền đất bazan.
Chợt sững người truớc một cột tượng đẽo gọt thô sơ nhưng sao giống đứa con gái đã mất của mình đến thế. Người nghệ nhân bàng hoàng bước vào bên trong. Đây là ngôi nhà mồ của một cô bé chết lúc sáu tuổi, đúng bằng tuổi của con gái ông khi nó mất vì bệnh sởi. Người ta vừa làm lễ bỏ mả cho con bé sau hai năm hung táng. Lúc đó ông chưa hiểu gì về tục lệ ma chay của người Jơrai nhưng sau biết rằng lễ bỏ mả là nghi lễ cuối cùng tiễn đưa một linh hồn về với thế giới vĩnh hằng, thường tiến hành long trọng sau khi chôn từ một đến mười năm tuỳ gia cảnh. Sau lễ đó nguời nhà không phải cúng và thăm nom mộ thường xuyên như truớc nữa.
Chiều hôm đó ông kiếm đuợc một cây mít khô trong rừng. Đẽo gọt đuợc một khúc phôi mượt mà. Gỗ mít là thứ gỗ rất thích hợp với việc tạc tuợng. Độ mềm và dai đều vừa đủ. Thớ không thô và không dễ bong tách như một số loại gỗ khác, dù quý và đắt hơn. Chúng cũng có thể tạc tượng nhưng lưỡi dao của nghệ nhân sẽ không thể tự do bay bổng như khi tạo hồn cho bức tuợng bằng gỗ mít. Ông giấu vợ, hí húi với mấy lưỡi dao điêu khắc rèn mài đặc biệt từ một gọng ô cổ, sắc và dai không kém các thanh kiếm Can Tuơng, Mạc Tà thời Xuân Thu- Chiến Quốc trong dã sử Tàu.
Cho bà ấy biết làm gì. Chính ông cũng đã mấy lần rỏ nước mắt khi tạo lại dáng hình của đứa con đã mất. Đàn bà yếu lòng hơn đàn ông. Mà bà ấy còn bao việc đang phải lo lắng, chạy vạy. Ôm bức tuợng con gái đến đặt vào ngôi nhà mồ của cô bé Jơrai, ông cầu chúc cho cả hai đứa được siêu sinh tịnh độ mà lòng nhói đau vì những người sinh thành ra chúng đã bó tay, không làm được những gì lũ trẻ kia mong đợi. Để chúng phải chết khi chưa thành niên. Vì bất lực, bó tay truớc những bất công của cuộc đời.
Có lẽ nỗi đau của người tạc tượng đã động đến oanh linh của núi rừng nên miền đất của nền văn hoá cồng chiêng đã không nỡ hắt hủi con người tài hoa. Dù sau đấy ông ta bỏ nghề, chỉ lúc nào vợ đi công chuyện mới tranh thủ tạc vài bức tuợng, gửi cả trong khu nhà mồ của buôn làng người Jơrai..
Phải nhận rằng mọi thành công đều có nỗ lực của bà ấy- vị khách du bất đắc dĩ thầm nghĩ- Ông cai quản ở nhà là chính. Việc tiêu thụ, giao dịch sản phẩm do đôi chân và cái mồm khéo léo của cô Thỏ ngày xưa. Giờ đây hai vợ chồng đã có mấy chục hecta cà phê, tiêu và một đàn bò đứng kín bãi trước nhà. Có điều quy luật bù trừ hình như luôn luôn hiện diện. Ông vẫn tự hỏi liệu có doanh nhân tài ba nào lách đuợc luật tạo hoá để tài sản tăng lên mà các giá trị tinh thần của gia đình và hôn nhân không bị giảm đi.
Từ ngày dư dật đồng tiền, làm ra những thứ không chỉ để ăn như ngày xưa, đã xuất hiện nhiều nguời khách. Bạn làm ăn. Sếp nọ, sếp kia. Các điểm hội tụ. Thời trang doanh nhân. Rồi những hôm vắng nhà, những chuyến đi công chuyện. Nụ cuời ỡm ờ giả lả của chủ, của khách. Ghen tuông đã thoáng hiện trong lòng ông.
Sau chuyến đi tìm hiểu thị truờng Hoa Bắc phải đến vài tuần, bà ta trở về thúc ông đi du lịch phuơng Bắc. Bất đáo Truờng Thành phi hảo hán, bà ấy nói thế nhưng mình thì hảo hán nỗi gì, từ ngày bỏ nghề tạc tượng ông gần như thành cái bóng. Đã không hứng khởi từ đầu chuyến đi, càng thêm bực khi gặp thời tiết xấu.
Người ta nói thăm Bắc Kinh tốt nhất là vào tháng tư, tháng năm, lúc ấy đang là cuối xuân Trung Hoa. Ông đi chuyến này vào lúc thời tiết thất thường nhất -nóng thì nóng quá, mưa thì mưa quá trời. Chuyến bay khứ hồi phải hoãn vì thời tiết xấu, mọi nguời đều bực bội, riêng con bé hướng dẫn viên dẻo mồm- hệt cô Thỏ ngày xưa như ông thầm nhận xét- vẫn tươi tắn như không. Cô bé tranh thủ ngày mưa đưa ba người khách gồm ông và vợ chồng cô bạn đi thăm xưởng chế tác Cảnh Thái Lam. Dần dà ông bị cuốn hút vào câu chuyện của nguời hướng dẫn. Thật kỳ lạ. Những bình, lọ và đồ trang trí đủ màu sắc kia không phải bằng sứ hay ngọc thạch như người ta tuởng. Chúng làm bằng đồng và được phủ men đặc biệt ở bên ngoài. Té ra vào thời nhà Lê, khi tổ sư Nguyễn Công Huệ đã đuợc trả về quê hương sau nhiều năm bị bắt sang tạc tượng và chế đồ nội thất cho triều đình nhà Minh thì vua Minh Cảnh Thái đã tập trung tất cả nghệ nhân tài danh của Trung Hoa để tìm cách làm ra chiếc bình sứ đặc biệt. Phải có màu sắc đẹp và thanh nhã như đồ gốm sứ nhưng không bị vỡ khi đánh rơi. Đó là yêu cầu của vị Thiên Tử này đưa ra sau khi ngài lỡ tay làm rơi vỡ chiếc bình ngọc Lam thạch kỷ vật của nguời tình!
Ông ta mới là Con Trời thôi mà đã có yêu cầu ghê gớm như thế, thảo nào giới doanh nhân như vợ ông không phải tìm cách chiều các Thượng Đế đích thực của ngày nay! -Nghệ nhân của làng Bảo Hà suy nghĩ một cách hài hước- Và từ ngày xưa nguời Trung Hoa đã thoả mãn đuợc Con Trời, đến bây giờ vẫn là bí quyết độc quyền của đất nước họ với thương hiệu nổi tiếng toàn cầu Lam Cảnh Thái. Nhiều công đoạn cũng phải làm bằng tay như nghề tạc tuợng sơn mài của làng ông.
Ông để ý xem nguời thợ đang quấn và gắn keo những sợi dây đồng nhỏ, có tiết diện khác nhau xung quanh cốt đồng mỏng của một bình hoa to để tạo thành hoa văn theo mẫu hàng hoá tại phân xưởng giới thiệu công nghệ. Sau đấy người ta sẽ phủ lớp men đặc biệt rồi đem nung.
Mấu chốt công nghệ của họ nằm ở keo dán và lớp men cơ, ông nghĩ. Việc gia công kia không cần bàn tay thợ giỏi như nghề tạc tuợng. Và bí quyết của điêu khắc Vĩnh Lại - Bảo Hà quê ông cũng nằm ở phần chế tạo sơn mài..
Thấy ông chuyên tâm xem xét chồng cô bạn nháy vợ, trao đổi với hướng dẫn viên rồi kéo nhau ra ngoài, có thể họ đói rồi nhưng cô hướng dẫn vẫn đứng cạnh ông. Cô này khá quen với người thợ Tàu, chắc đã nhiều lần cô ta dẫn đoàn du lịch vào tham quan và mua hàng ở đây. Thấy ông xem chăm chú, cô nói chuyện với bác thợ rồi mời nhau cùng ăn trưa vì đã đến giờ nghỉ. Hoá ra ông ta là cổ đông chính đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của hãng, tên là Kỳ Hưu (hay Kỳ Hươu gì đấy). Rất vui tính. Tiếc rằng cô Thỏ không thể phiên dịch nhanh và thoát hết từ ý của cả hai bên. Ông cho biết thỉnh thoảng nhớ nghề lại xuống phân xưởng giới thiệu công nghệ này làm một lúc, cũng là cơ hội để giao tiếp với khách hàng.
"Trời đất, bọn Tàu này có nhiễu thứ người mình phải học lắm.." Khách chưa hết ngạc nhiên đã phải trả lời những câu hỏi vồn vã của chủ khi biết ông là nghệ nhân điêu khắc gỗ qua lời giới thiệu của cô hướng dẫn viên du lịch. Từ nhà ăn nhân viên ông ta xin phép chạy về ít phút rồi mang ra một bức tuợng La Hán cao cỡ bốn mươi phân. Tuợng La Hán ngồi này có một chân trái giơ lên trông thiếu tự nhiên nhưng nghệ nhân làng Bảo Hà lập tức nhận ra dấu ấn của tác giả. Chắc chắn nó xuất xứ từ Việt Nam. Là tác phẩm của một vị cao tằng tổ của dòng họ ông. Nhưng sao người ta lại có đuợc nó?
Khách cầm bức tượng, chăm chú xem xét. Đã hiểu rõ phần nào xuất xứ nhưng vẫn lặng yên chờ lời giới thiệu của chủ.
- Cái này, cái này... (cô huớng dẫn viên bắt đầu dịch cho ông nghe) đã có ở nhà tôi nhiều đời lắm rồi. Phả hệ ghi lại rằng sau khi vua Lê bên nuớc các ông, tên huý ngài là Lê Lọi hay Lê Lội tôi không rõ lắm, cử đoàn sứ thần sang xin hoà hiếu với vua Anh Tông nhà Minh thì có nhiều tù binh và lao công đuợc trả về quê cũ. Huệ Công là thợ điêu khắc gỗ giỏi người An Nam cũng đuợc trả về. Khi ở bên này ông ấy có quen với cụ tằng tổ tỷ nhà chúng tôi nên về sau học trò của Huệ Công là Vượng Công có gửi sang tặng gia tộc chúng tôi bức tuợng này..
- Vâng, tôi cũng đã ngờ ngợ khi thấy hình đầu con voi rất nhỏ khắc ở gáy bức tuợng, người không lưu ý thì không nhận ra - Khách gật gù - Chắc chắn là do bàn tay của Kỳ Tài hầu Tô Phú Vượng. Đúng ngài là học trò của tổ sư Nguyễn Công Huệ tức Huệ Công như ông vừa nói.
- Hảo a, hảo a! - Cả chủ nhân và cô hướng dẫn cùng bật ra nhưng cô bé vội che mồm cuời, nghe rồi dịch tiếp - Tốt quá. Vậy là có duyên kỳ ngộ à - Chủ vẫy cô nhân viên nhà ăn đưa ra chai Mao-đài cùng mấy chiếc ly, tự tay mở rót và chạm cốc khách. Chẳng hiểu Nữ-nhi-hồng với Trạng-nguyên-hồng ngày xưa ra sao nhưng thứ Mao-đài này thật sự làm người ta kinh ngạc. Phong vị khác hẳn các chai nhãn vàng, nhãn xanh của loại Jonnie Walker xứ Britan ông vẫn thường phải cùng bà vợ chạm cốc khi có các sếp đến nhà. Nhưng khó có thể quên mùi vị này dù khách không phải là người sành cho lắm.
Có một điều ông không hiểu. Tại sao Kỳ Tài hầu lại tạc bức tuợng La Hán co một chân như vậy? Hình như các chùa ở nước mình không có bức tuợng nào như thế.
- Tôi chắc là Huệ Công đã kể cho học trò ngài nghe về chuyện Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương hồi hàn vi đã từng là chú tiểu ở chùa - Chủ nói khi thấy khách chăm chú xem xét bên chân co của bức tuợng- Phải lau hàng trăm pho tuợng trong chùa nên một lần chú tiểu đã cáu kỉnh đập vào chân pho tuợng La Hán "Co lên cho người ta lau!" La Hán sợ oai của chân mệnh thiên tử vội co chân lên nhưng vị sư trụ trì ngôi chùa tình cờ nhìn thấy, sợ quá vội cử chú tiểu đi học ở chùa khác. Chú tiểu-thiên tử ra đi vội vàng, quên bãi miễn lệnh thành ra pho tuợng La Hán ấy cứ co chân lên mãi!
- Nhưng đây là bức tuợng đầu tiên do nghệ nhân tạc ra - chủ tiếp tục giải thích- Phải nói Kỳ.. à Vượng Công của nước ông rất thông tuệ và tinh ý. Chỉ đuợc nghe kể chuyện lại mà nghĩ ngay ra việc tạc tuợng La Hán co chân. Sau này các chùa ở quanh Tây An và Nam Kinh bên chúng tôi cũng đều tạc tuợng La Hán co chân theo tích ngày xưa. Hảo a, khách du thích lắm a!- Chủ phấn khích nói xen tiếng Việt-Bây giờ hậu duệ hai nhà bắt tay nhau liên thương sản phẩm thì tốt lắm a!
Hình như cô Thỏ nhà mình đã có ý đồ liên thương với bên này nên mới thúc mình đi du lịch - ông chợt nghĩ - Ngày xưa cô ấy đã đánh đổ chú Tễu, bây giờ còn định đánh những ai nữa đây?!
Vui chuyện khách cũng kể cho chủ nghe thêm về Vượng Công. Chuyện ngày xưa cụ chế tác ngai vàng cho vua Lê Cảnh Hưng. Lúc hoàn thành kiệt tác, khoái chí qúa đã ngồi thử vào nên bị tống ngục về tội khi quân. May là cụ kiếm đuợc bảy hạt gạo nếp từ chiếc chổi rơm mới. Bảy hạt gạo biến thành bảy con voi tinh xảo khiến viên quan coi ngục phải đệ trình Hoàng Thượng ngự lãm. Thói quen tạc đầu voi tí xíu vào các kiệt tác khác như một chữ ký kín đáo của cụ chắc chắn bắt đầu từ lần thoát chết, lại đuợc ban tuớc Kỳ Tài hầu do Hoàng thuợng cảm mến tài năng. Cả chuyện bức đại tuợng Linh Lang đại vương của làng mình có thể đứng lên chào mỗi khi có khách vào tham quan chiêm nguỡng, chẳng khác gì các tuợng trong miếu Gia Cát Võ hầu từng khiến Tư Mã Ý kinh hoàng trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa.
Chẳng hiểu họ liên lạc với nhau từ bao giờ mà khi ông lên chuyến bay khứ hồi thì cô hướng dẫn viên (Thỏ con như ông vẫn gọi) đưa cho ông một bức thư của Thỏ lớn cô đã mang theo từ đầu chuyến đi.
"Anh Tễu yêu quý! Chúc mừng anh đã thành Hảo Hán! Nhưng em còn muốn hơn thế nữa. Muốn anh Tễu-Bảo Hà của em có mặt trên toàn thế giới cơ. Là người kinh doanh mà không còn ham mê và sự liều lĩnh thì coi như đã chết phải không anh. Em muốn anh trở về với tài năng của anh, muốn chúng ta có thêm tài sản bằng bàn tay mà em đã yêu từ lúc còn là cô bé con, anh có hiểu không?
Hai năm truớc em đã mua khu đồi mít cỗi của một chủ vườn đang định chặt hết đi để thay bằng giống mít tố nữ Thái Lan. Mua cho anh Tễu của em. Để anh có bột mà gột nên tuợng vàng đấy ạ. Nhưng em giấu anh, cũng như giấu anh việc vẫn thường xuyên đến nhà mồ thăm hai đứa nó, thăm những bức tượng anh tạc rồi gửi ở đấy lúc em đi vắng. Anh đừng có nghĩ vớ vẩn về cô Thỏ của anh đấy nhá, em muốn cơ ngơi của chúng ta phải phần lớn là do bàn tay tài hoa của anh làm ra cơ. Tới đây anh sẽ hiểu ra câu châm ngôn "Bố đĩ giàu bố đĩ tiên, ông Sếp kiết tiền ông Sếp xéo"- là câu mẹ chồng em hay nói khi em mới về làm dâu xứ "thuốc nào Vĩnh Bẩu", em chỉ thay ông Lý bằng ông Sếp - Họ chỉ là bạn làm ăn thôi bố đĩ ạ.
Em biết anh Tễu bây giờ hiếm khi tơn tớn được như ngày xưa. Một phần cũng tại cô Thỏ, nhưng cái chính là công việc buộc phải thế. Có những chuyện làm ăn em đã giấu vì không muốn anh phải bận tâm nhưng bao giờ em cũng thích được là Cô nàng nho nhỏ, chân nhảy như thỏ.. để tròn mắt ngắm nhìn những tác phẩm do bàn tay anh Tễu nhà mình làm ra.."
Còn có một bức thư điện tử mới gửi nữa: "Công ty Cảnh Thái Lam đã gửi sang cho mình các thông tin cần thiết cho việc liên thương giữa hai bên. Mình sẽ làm đại lý bán Lam Cảnh thái còn họ đại lý bán đồ gỗ sơn mài-điêu khắc Kỳ Tài cho mình. Giờ anh Tễu đã có đủ điều kiện để thực hiện ước mơ của cô Thỏ khi cô ấy tình nguyện trở thành dâu con của làng Bảo Hà. Cấm anh suy nghĩ lăn tăn gì về em. Chỉ bên anh Tễu cô Thỏ mới có thể cười như ngô nổ, không có anh Tễu thì cô Thỏ chỉ thành đựơc món sốt vang thiu mà thôi.
Về nhà chuyến này anh hãy tạt qua quê mình rủ bạn nghề cùng vào anh nhá. Vợ chồng mình đủ sức trả mức luơng ưu đãi cho nghệ nhân. Hoặc có thể mở một chi nhánh của Công ty Kỳ Tài ở quê cũng đuợc anh ạ.
Hãy bảo trọng anh nhá!"
Hải Phòng 12/2005
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 03/12/2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 03/12/2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Huấn luyện – Truyện ngắn Ngọc Châu (Hải Phòng)
Ngày 27/11/2010
- Hoàn ơi! Tao chết mất. Không thể nào chịu được nữa rồi!- Khoảng khuỵ chân định ngồi xuống nhưng rồi hắn ngã dúi xuống cỏ, quăng cây gỗ lăn long lóc, tấm thân cao một mét bẩy nhăm vật ngửa ra sườn đồi, mồm ngáp ngáp như con cá trê bị kéo lên khỏi mặt nước.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tác giả Ngọc Châu
Họ tên Nguyễn Ngọc Châu
Địa chỉ: 312 Lê Thánh Tông quận Ngô Quyền Hải Phòng
Mobille: 84 0126 9284620
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
HUẤN LUYỆN
***
***
- Hoàn ơi! Tao chết mất. Không thể nào chịu được nữa rồi!- Khoảng khuỵ chân định ngồi xuống nhưng rồi hắn ngã dúi xuống cỏ, quăng cây gỗ lăn long lóc, tấm thân cao một mét bẩy nhăm vật ngửa ra sườn đồi, mồm ngáp ngáp như con cá trê bị kéo lên khỏi mặt nước.
”Tên này đói quá thật”- Nhìn tư thế thảm hại của hắn tôi nghĩ bụng rồi cũng đặt cây gỗ trên vai mình xuống đất. Chẳng kịp nghĩ ngợi gì, đi ngay xuống đám ruộng trồng dưa định bụng kiếm một quả cho hắn nhá tạm. Xuống đến nơi thì hoá ra không phải ruộng dưa mà là ruộng trồng bí đao, toàn những quả còn bé như những trái mướp. Tôi sững lại nhưng khi ngó quanh không thấy bóng một chủ nhân nào quanh đó, liền cúi xuống vặt đại hai quả bí non đem lên. Thằng cha khổng lồ chân đất sét chộp vội lấy một quả, hắn gõ vào mỏm đá cho vỡ làm đôi rồi cứ thế dùng bộ răng bàn cuốc mà thao tác nhanh không tả được!
Không biết mùi vị của bí đao non khi ăn sống ra sao, nhưng hiệu quả không thua gì trái đào tiên của Tây Vương Mẫu! Sau khi cạp nhẵn quả thứ nhất với già nửa quả thứ hai thì Khoảng ngồi lên được, sau đó lom khom đứng lên, cuối cùng hắn lại có thể vác cây gỗ củi lên vai như truớc, đi một lèo về doanh trại còn nhanh hơn cả tôi và Nam. Lúc này hắn lại là tay “xế - lô” đã nâng chiếc cối đá lỗ kềnh càng lên khỏi đầu để khoe mẽ trước mặt Chính uỷ sư đoàn, hôm ông ta đến thăm và nói chuyện với D65 chúng tôi với câu nói: ”Đây là hình tượng thần Atlax* mang cả trái đất trên vai, nhưng tôi nghĩ có lẽ cũng không nặng nề bằng nhiệm vụ của chính uỷ, khi phải huấn luyện một đơn vị toàn những tay dài lưng tốn vải thành một đội quân thiện chiến và kỉ luật!”
Tôi và Nam há hốc mồm vì chưa bao giờ thấy ai thốt ra được một câu nịnh có cánh đến thế!
Cứ cách hai chủ nhật chúng tôi lại bị trưng dụng nửa ngày nghỉ vào việc lên rừng kiếm củi cho nhà bếp của đại đội, và việc tay Khoảng bị đói quá như trường hợp trên đã thành chuyện thường ngày ở huyện. Cũng là phải lẽ vì tính theo trọng lượng cơ thể thì hắn cần có suất ăn bằng một phẩy năm lần suất của tôi, trong khi chúng tôi cũng đã vét đĩa theo cả hai trục tung hoành, cuối cùng còn làm một đường contour - nghĩa là đường bao - cho trọn vẹn chữ điền (đã lính thì phải tráng, người xưa nói thế mà!), vậy nên mọi hy vọng ăn nhờ vào khẩu phần người khác đều bằng không.
Nhưng một lần ăn trộm bí cho hắn cũng là quá đủ, phải nghĩ cách gì xoay xở nếu không thì chết lây cho cả hai thằng khác trong tổ “tam tam” (giá cứ gọi là tổ ba người sẽ dễ hiểu biết bao nhưng Ta-vá-rit-sơ - tiếng Nga nghĩa là" đồng chí", một từ thông dụng vào thời đó - chính trị viên đại đội quê gốc Thái Lọ, vẫn tự hào về việc tử vi ba đời đều có hình chiếc muôi múc cháo, lúc nào cũng dùng từ này coi như thuật ngữ kinh điển chính thống của chủ nghĩa Mác-Lê, nên chúng tôi cũng đành gọi theo vị này cho chung ngôn ngữ). Theo lời chính trị viên thì “tổ tam tam là đơn vị nhỏ nhất, cơ bản nhất trong quân đội, ví như nguyên tử hay phân tử gì đó là đơn vị cơ bản tạo thành mọi vật. Về chuyện nguyên tử với phân tử thì các đồng chí giỏi hơn tôi, nhưng tổ tam tam mà yếu thì tiểu đội cũng yếu rồi đâm ra trung đội cũng yếu, đại đội với tiểu đoàn cũng yếu.. “
Đến đây thì tay Khoảng có ý kiến xen ngang:
- Suy rộng nữa là làm yếu quân đội, có thể dẫn đến tổ quốc suy vong! Vậy nên lúc bình thời cũng như lúc xung trận cả ba người phải như một, lúc nào cũng phải rất chi là mạnh, các đồng chí rõ chưa?
- Rõ! - Cả tôi và Nam đều đáp rất dõng dạc, vì theo kinh nghiệm đó là cách tốt nhất để chấm dứt những giải thích dài dòng văn tự của ta-vá-rít-sơ này.
Mặc dù không được tuyến tính cho lắm theo trình tự, nhưng để mọi người dễ hình dung ngữ cảnh, tôi thấy cần phải thêm mấy lời phi lộ như sau: Đó là vào mùa hè năm 1972, là lúc chiến cuộc dữ dội nhất trước khi hội nghị Paris được kí kết, nên mọi thành phần tạm hoãn, tạm miễn nghĩa vụ quân sự cho đến lúc đó đều được động viên. Hầu hết các chàng tuổi trẻ hoặc tuổi sồn sồn, thuộc dòng hào kiệt hay không hào kiệt, nếu gia đình chưa có ai đi bộ đội cũng đều phải xếp bút nghiên theo việc đao cung, vậy nên chúng tôi trở thành tân binh của F304B - Sư đoàn huấn luyện đóng ở loanh quanh đâu đó trong phạm vi tỉnh Bắc Thái. Tiểu đoàn chúng tôi mang mã số 65 - gọi tắt là D65 - nên mỗi khi có ai hỏi “Các đồng chí thuộc D nào đấy?” bọn này thường đáp “Dê cụ đây!”
Tôi chỉ biết được thế vì từ điểm giao quân, tất cả đã lên tàu hoả vào lúc 11 giờ đêm, trưa hôm sau đoàn tàu quân sự dừng ở giữa miền đồi núi hoang dã toàn lau sậy, xuống tàu được lệnh tiếp tục hành quân bộ theo những con đường mòn xuyên rừng xuyên núi, đến chiều hôm sau mới tới địa điểm này. Tôi mù tịt về việc mình đã đi qua những đâu và hiện giờ đang ở nơi đâu.
Lần đầu phải hành quân theo đội hình, các anh binh bét mệt đến mức không còn tí năng lượng dư nào cho chiếc lưỡi hoạt động, cứ im thin thít chẳng muốn thăm hỏi chuyện trò gì, chỉ mong sao có lệnh được nghỉ ngơi mươi phút. Mấy lần tôi định quăng đi cây đàn ghi ta đã gắn bó với mình hàng chục năm trời, may có tay chuẩn uý thuộc khung huấn luyện đẫ mang giúp nó hộ tôi, sau tôi được biết tên cậu ta là Khuê, cũng là cái tên duy nhất của bộ khung huấn luyện mà tôi còn nhớ được cho đến ngày nay. Dọc đường chỉ thấy toàn lau sậy, một vài lối mòn với rừng thưa lác đác những “co mậy đông” khá to theo cách gọi của mấy người dân tộc kiếm củi, ban đầu tôi cứ nghĩ là tên loài gỗ đó, nhưng sau khi thấy tay Khoảng hỏi loại cây nào họ cũng đều đáp vậy mới biết chính họ cũng không biết tên, còn nghĩa của “co mậy đông” là “cây gỗ rừng!”
“Dê cụ” có hơn 300 tân binh, đều là giảng viên đại học, kĩ sư mới tốt nghiệp chưa kịp rời trường và sinh viên từ năm thứ hai đến năm cuối, nên tuổi tác chênh lệch nhau kha khá. Chỉ số IQ và lượng tri thức cóp nhặt được trong đầu mỗi anh binh nhì cũng không đồng đều như các đợt tuyển quân thông thường. Tôi phải xin lỗi bạn đọc vì thỉnh thoảng có xen vào vài từ tiếng Nga và các ví von dùng hình tượng văn học trong thần thoại Hy - La thịnh hành vào thời đó, vì đối với bọn có vài ba xâu chữ vắt vai bao giờ cũng thích dùng những từ nhập ngoại là lạ, tỉ như bây giờ ta vẫn nghe những tên "Gala cười" hoặc "Video clip" đâm thành quen tai, trong khi hoàn toàn có thể dùng những từ tiếng Việt rất chuẩn xác để thay thế, nhưng nếu cố tránh không dùng tôi e sẽ không tái hiện được không khí của một thời chiến tranh ấy. Một thời đạn bom chết chóc mà người ta vẫn yêu những câu thơ của Xi-mô-nôp* "Em ơi em cứ đợi, dù tuyết rơi gió nổi, dù nắng cháy em ơi. Bạn cũ đã quên rồi, đợi anh hoài em nhé!" và dù đạn đã lên nòng chờ địch vẫn thấy rất đẹp cảnh "đầu súng trăng treo".
Cả ba trong tổ “tam tam” của chúng tôi đều thuộc lò “Đại học Xây dựng”, Nam đang là cán bộ giảng dạy, hắn với tôi cùng học phổ thông với nhau, nhưng do tôi đi làm công nhân mấy năm nên khi vào năm thứ nhất trường Đại học Xây dựng thì hắn đã bắt đầu giảng cho chúng tôi về môn toán cao cấp. Tôi vừa tốt nghiệp xong, nhà trường giữ lại làm phụ giảng trong thời gian đầu, còn tay Khoảng đang học năm thứ ba mặc dù hắn cùng vào năm thứ nhất với tôi. Trước đó hắn có thâm niên bốn năm tài xế, chữ nghĩa học được ở phổ thông trung học đã bị lực li tâm của vô - lăng làm văng đi nhiều, vậy nên mới bị lưu ban hai năm liền. Xét theo luân lý của Khổng Tử “kẻ sĩ sau một tháng sôi kinh nấu sử khi gặp nhau phải trọng nhau thêm một bậc”, hoặc theo trình độ đào tạo thì xếp thứ tự sẽ phải là Nam - Hoàn - Khoảng. Nhưng thực tế thì chẳng biết mèo nào cắn mỉu mào, sau này chúng tôi còn thấy khối lần, hai tay nhiều chữ hơn bị thằng cha Khoảng vo viên bỏ túi rất ngon lành.
Nói chung xoay xở kiểu gì cũng phải dựa vào dân ở chung quanh, mà việc dân vận ở đây không phải dễ dàng vì các xóm dân cư đều ở khá xa khu doanh trại tạm bợ của đơn vị huấn luyện. Hơn nữa trước chúng tôi đã có mấy khoá tân binh huấn luyện ở đây, mỗi khoá như vậy tân binh nào cũng vài ba lần có nhiệm vụ vào nhà dân xin tre, xin củi hoặc mượn mõ các thứ tạp nham về dùng cho công việc đột xuất của đơn vị. Việc xảy ra quá thường xuyên nên lòng tốt của người ta cũng phải giảm dần, ban đầu chắc đúng là "quân với dân như cá với nuớc" còn bây giờ “Nước” chả mặn mà gì khi thấy “Cá” thập thò ở cổng vườn nhà họ. Tuy nhiên vẫn còn hy vọng vì ngay sau quả đối khá cao ở phía sau doanh trại tôi đã nhìn thấy có mấy mái nhà, sau hàng tre thấp thoáng dây phơi có những thứ ‘chuyên dùng” cho phái yếu. Coi như là đã có bột, chỉ cần làm sao trổ tài gột nên chút hồ là được, cùng lắm thì đem hai bộ com- lê kỉ niệm thời còn giảng dạy của Nam và tôi, vào đổi chác lấy chất bột gì đó để nhồi vào bụng, tránh những cơn giảm huyết áp đột ngột do dạ dày quá lép, như lần tay Khoảng phải cạp mấy quả bí non.
Sau hôm lấy củi bắt đầu một tuần tập hành quân xa với đầy đủ đồ lề, vũ khí. Tiểu đoàn đã được Chính trị viên lên lớp về những khó khăn thực tế của cuộc hành quân bộ dọc đường Trường Sơn mà chúng tôi sẽ phải đương đầu ngay sau đợt luyện quân này. “Trách nhiệm của chúng tôi là đưa các đồng chí với sứt mẻ không đáng kể vào bổ xung cho lực lượng của chúng ta ở tiền phương, vậy nên một giọt mồ hôi đổ ở đây sẽ bớt đi một giọt máu cho chính các đồng chí trong cuộc hành quân sắp tới”- Ông ta nói vậy và chúng tôi cũng nhận thấy không có lí do gì để phản bác.
- Kiểm tra lại tất cả các trang bị. Không được để thứ gì lỏng lẻo! Toàn tiểu đội nghe rõ chưa!?- Tiểu đội trưởng nhắc nhở.
- Rõ!
- Nghiêm! Đằng sau quay! Tất cả chạy đều. - Chạy!- Mệnh lệnh này tiếp theo mệnh lệnh thứ nhất hai phút sau đó.
Theo đội hình trung đội hành quân, mười hai binh bét của tiểu đội chúng tôi với ba lô con cóc chứa đầy cát, xẻng cán gập, bi đông nước, súng tiểu liên AK 47 hoặc nòng dài CKC, thêm hai quả lựu đạn đeo ở thắt lưng bắt đầu chạy lên đồi theo hạ sĩ Tiểu đội truởng dẫn đầu, áp đuôi là binh nhất tiểu đội phó. Được khoảng hai mươi mét thì có tiếng leng keng vang lên. Không quay đầu lại, Tiểu đội truởng nói to:
- Đồng chí nào đánh rơi xẻng quay lại nhặt ngay, nhặt xong bám sát ở phía sau đội hình. Khẩn trương!
Chiếc xẻng rơi là của Nam, chạy ngay trước tôi. “Giáo sư” luống cuống tạt ngang để ra khỏi hàng, báng cây CKC của tay hậu đậu này đập vào chiếc bi đông của tôi đeo ở sườn bên phải. Thêm hai tiếng bịch bịch nữa (tiếng bịch thứ hai là lúc chiếc bi đông rơi xuống đất rồi lăn long lóc).
- Đồng chí nào đánh rơi bi đông, quay lại nhặt ngay. Sau khi nhặt bám sát phía sau đội hình! - Vẫn là tiếng dõng dạc của hạ sĩ Tiểu đội truởng và hắn cũng không quay đầu lại, tiếp tục duy trì đúng tốc độ chạy ban đầu.
Tôi vừa tạt ngang thì đã gặp tiểu đội phó. Cậu binh nhất má còn hoi sữa này dúi đồng thời chiếc bi đông vào tay tôi và xẻng vào tay Nam. Cả hai không có thời giờ dừng lại để gài buộc xẻng và bi đông vào vị trí cũ, cứ tay xách nách mang thở hào hển cố chạy theo đội hình tiểu đội cho đến tận đỉnh đồi mới có lệnh dừng. Tôi mệt tưởng chết, còn “giáo sư” Nam nếu không có tiểu đội phó hỗ trợ đùn đẩy đằng sau lưng chắc hẳn đã lăn quay ra sườn đồi, mặc dù biết rằng làm thế cả tổ tam tam sẽ phải chạy bù lên đồi một lần nữa sau buổi tập, vì đó là nghiêm lệnh của chính trị viên tiểu đoàn huấn luyện.
- Bọn mình bây giờ đúng là trạch bỏ giỏ cua, tha hồ cho cán bộ khung đe nẹt, hoạnh hoẹ, áp dụng mọi thứ kỷ luật khắc nghiệt nhất. - Khoảng làu bàu, hắn ấm ức về chuyện một tay binh nhất văn hoá lớp bốn cũng có quyền ra lệnh cho mình làm cái này cái nọ - Ngay hồi tớ còn làm xế - lô thì chưa cần cầm đến chiếc ma-ni-ven bọn nhãi như thế này cũng đã phải nhảy điệu cô - tếch ra ngoài tầm với ngay tức khắc - Con hùm bụng rỗng đang nhớ lúc làm chúa rừng xanh!
- Tranh thủ mà nghỉ đi, ếch chết tại miệng!- Nam bảo.
- Chết ở đây thế quái nào được. Sau khi đi khỏi đây đứa nào chết mới chết!
- Tiếp tục hành quân sau ba phút nữa. Toàn trung đội chuẩn bị -tiếng chuẩn uý Khuê- trung đội phó từ phía trên vang xuống.
- Tiểu đội kiểm tra trang bị, chuẩn bị hành quân- Lệnh của tiểu đội trưởng. Cậu ta chạy xuống xem xét lại cách đeo buộc trang bị của toàn đội hình, đặc biệt là của Nam và của tôi.
- Trung đội hành tiến! Bước!
Mãi đến bốn giờ chiều hôm đó D65 mới quay về đến doanh trại. Bữa trưa ăn dã ngoại dưới rừng bạch đàn, do tổ cấp dưỡng (nhưng hình như ai cũng thích đùa gọi mấy cô lính này là tổ cấp dê!) đi đường tắt đón sẵn. Nghỉ ngơi, tắm rửa xúm xít xung quanh mấy cái giếng phải kéo hơn chục sải mới thấy chiếc gầu xuất hiện. Ăn cơm chiều lúc năm giờ rưỡi, đúng bảy giờ tối toàn đại đội đã phải nghiêm chỉnh ngồi ở lán lớn nghe cán bộ huấn thị và đọc báo cho đến chín giờ, rồi đúng mười giờ toàn quân phải tắt hết đèn đóm, lên sạp nằm im như cá ướp muối.
Để rèn luyện được thói quen này chúng tôi đã phải trả giá bằng ba cuộc báo động: khi thấy có tiếng ồn ào, thậm chí tiếng lào xào sau muời giờ đêm, lập tức trực ban trung đội nổi còi báo động. Thế là cả trung đội (hai lần đầu còn là cả đại đội) nháo nhào chồm dậy nai nịt, đeo vác đồ đạc trang bị chạy một vòng quanh đồi mới có lệnh báo yên. Trước khi được vào ngủ trở lại, đại đội cho biết đó là hình thức vừa là nhắc nhở vừa là rèn luyện, để các đồng chí tân binh hiểu rằng kỉ luật là sức mạnh của quân đội và thời kì huấn luyện là giai đoạn phải áp dụng kỉ luật thép để rèn bản lĩnh.
"Bản lĩnh cái thổ tả!" - tôi nghe Khoảng xế - lô làu bàu ở sau lưng.
Tôi đặc biệt được anh em trong đại đội tín nhiệm trong việc đọc báo, "hữu xạ tự nhiên hương" mà. Trước đó có một vài cậu cũng xung phong hay được chính trị viên chỉ định lên đọc báo, vì ai cũng muốn được nghỉ sớm nên các tay này thường nằn nèo hay tự động bỏ bớt bài không đọc. Thái Lọ rất nghiêm khắc về giờ giấc, thấy còn sớm là lập tức có bài hoặc tài liệu gì đó để đọc bổ xung cho đúng chín giờ mới nghỉ, có hôm còn vượt quá giờ mấy phút.
"Đã béo lại khéo ghẹo mỡ!"- Khoảng bực bội thốt ra, chẳng hiểu hắn phê phán ai. Tôi đọc thì báo nào, tin gì cũng rành rọt trơn tru, quan trọng nữa là hết sớm được mười lăm phút. Đã mang sẵn vẻ hài lòng trên mặt, mười lăm phút còn lại trước chín giờ Thái Lọ không biết làm gì, nói gì nữa nên thường xuê xoa cho đơn vị giải tán sớm đôi chút so với qui định. Tất nhiên chính trị viên thấy tôi đọc hết các bài đã đánh dấu mà chưa hết giờ, lần sau thế nào cũng thêm vào một vài bài, nhưng thêm thì thêm tình hình cũng không thay đổi. Mẹo của tôi rất đơn giản: đánh dấu ít bài thì đọc chậm, nhiều bài thì tăng tốc độ cho tương ứng. Còn một bí mật nữa có lẽ vượt quá tầm kinh nghiệm của Ta-vá-rít-sơ này nhưng tôi giữ kín.
Một hôm họp tổ tam tam Khoảng bảo:
- Nam này, đừng tưởng tay Hoàn chỉ biết mơ mộng với cây ghi ta thôi nhá! Nhiều mẹo lắm đấy. Riêng vụ đọc báo hắn luôn luôn bỏ phần giữa của từng đoạn một, chỉ dõng dạc mấy câu đầu tiên với mấy dòng cuối thôi. Thái Lọ có chồng ghế mà ngồi cho cao hơn nữa cũng chẳng vượt được tầm mưu mẹo của Ghi-ta-rí-sờ-tờ ("tay chơi ghi ta"- tiếng Nga) này đâu. Lão có nghe kịp nội dung đâu mà biết các bài báo đã được đọc theo kiểu nhảy cóc!
- Kệ hắn, có thế thì mới có thêm ít phút để hắn chơi ghi ta cho mà nghe. Nói chung thì có ai để ý đến nội dung, chỉ thấy đọc xong các bài là khoái rồi.- Nam nói.
- Nhưng cậu nếu thấy cần nghiên cứu thì bảo hắn mượn báo về cho mà đọc. Hoàn nó mượn thì ta-vá-rít-sơ Thái Lọ đá-đa ("đồng ý" - tiếng Nga) ngay - Nam nói thêm với vẻ tỉnh khô.
- Mốc xì!- Khoảng nhăn mũi. Kể cũng lạ, tay Khoảng này đã rời vô lăng vào truờng đại học năm năm rồi mà ngôn từ vẫn đặc giọng xế-lô!
Tuy vậy tôi và Nam cũng không phải vào xóm sau đồi để thực thi dân vận vì mấy cô binh nhất ở tổ "cấp dê" tỏ ý khá quan tâm đến nhóm này. Chẳng gì thì nhóm ba tên của chúng tôi trông cũng được mắt hơn các tổ khác. Tôi được nhiều người của trường Xây Dựng hồi đó biết đến, do cây đàn ghi ta chơi độc tấu đã gần chục năm. Nam có tư thế trí thức đàng hoàng, quí tộc kiểu Bá tước Pie Pê-du-khốp - một nhân vật tốt bụng, hăng hái giúp đỡ mọi người nhưng ngây thơ đến độ hơi ngô nghê trong tiểu thuyết "Chiến tranh và Hoà bình" của Lep Tôn-xơ-tôi. Còn Khoảng cao to, đẹp trai, biết xốc vác khi cần thiết, đôi khi cũng khá lém lỉnh trong những pha nịnh đầm mang sắc thái ái tình cải lương mùi mẫn.
Huấn luyện được non tháng thì tổ "cấp dê" biết hết tên bọn này. Khi có đôi chút giờ rảnh (thường chỉ mươi, mười lăm phút) chúng tôi cũng hay giúp họ nhặt rau, bổ củi, dạy các nàng để cùng hát với nhau những bài "nhạc xanh" của các nước Đông và Bắc Âu thịnh hành hồi đó. Thông thường thì cán bộ khung (từ binh nhất nấu ăn đến thiếu uý chính trị viên đại đội) có sinh hoạt riêng, luôn giữ một khoảng cách nhất định với tân binh, có lẽ để dễ duy trì kỉ luật trong nhiệm vụ huấn luyện.
Mấy cô lính ở tổ cấp dưỡng chan hoà hơn. Cô tiểu đội trưởng có giọng hát khá tốt, bảo chính trị viên cũng muốn khi kết thúc huấn luyện có được một vài tiết mục văn nghệ để tham gia với tiểu đoàn, sư đoàn nên tôi không thấy ai nhắc nhở gì về những chuyện thì thụt giữa tổ tam tam chúng tôi với họ. Từ đó mỗi khi có việc phải tốn nhiều ca - lo, trước khi đi các nàng thường dúi cho ít lương khô hay củ khoai, mẩu sắn (chủ yếu chúng tôi giành cho Khoảng, còn tôi và Nam tuy cũng đói nhưng chưa bao giờ thấy đói đến mức không thể chịu đựng).
Đang trong tuần tập xạ kích, bắn súng trường CKC và tiểu liên AK. Thành tích nói chung là đạt và giỏi vì từ năm đầu tiên vào đại học, chúng tôi đã có một đợt tập quân sự nghiêm túc tại nhà trường. Hai loại vũ khí đơn giản này "không là con bu - gi cụt gì" theo ngôn ngữ của Khoảng xế-lô, nhưng thành tích chung của tổ tam tam không khá vì "Bá tước" Nam không thể nào điểm xạ được theo kiểu đều đặn hai viên đạn một lần trên cây AK. Mọi cố gắng đều vô hiệu, chàng Pie An – nam - mít này vẫn bị "tắc cú", nghĩa là bắn ra chỉ có một viên hoặc "dòn tan pháo tép" cỡ bốn năm viên một lần nhấn cò. Tuy nhiên đại đội trưởng và chính trị viên đều có vẻ phởn phơ vì trường hợp hãn hữu này thì đại đội nào cũng có. Qua hơn tháng huấn luyện quan hệ giữa khung và lính mới cũng đã có phần tiệm cận, khác xa với cảm giác hôm đầu tiên khi nghe đại đội huấn thị:
- Nhiệm vụ của chúng tôi là trong một thời gian ngắn huấn luyện các đồng chí thành những chiến sĩ có kỉ luật, biết cách đánh thắng giặc để cứu nước, bổ xung kịp thời cho chiến truờng. Tất cả những gì ngoài nhiệm vụ đó ra đều không được chấp nhận. Những đồ đạc cá nhân không phục vụ chiến đấu đều phải tinh giản tối đa, ví dụ như những thứ kia, (ta-vá-rít-sơ sĩ quan chỉ vào mấy quyển sách dày cộp không hiểu là từ điển hay toán học cao cấp của Nam và một cậu khác), phải quẳng bỏ. Các đồng chí không được phép nói tiếng Tây. Nga hay Tàu gì cũng vậy! Tôi nhắc lại không đồng chí nào được dùng tiếng nước ngoài để phản đối hoặc nói xấu cán bộ...
Đang ở môi truờng bắt buộc phải tranh thủ mọi thời gian để học tập nghiên cứu, rơi vào tình thế này đúng là "trạch bỏ giỏ cua" không sai!
- Thôi thì xếp bút nghiên theo việc đao cung, đó là tiền định rồi! - Vào giờ nghỉ sau cơm chiều, trước sinh hoạt tối Nam ngậm ngùi quăng cuốn sách tiếng Nga dày cộp xuống con kênh chảy xiết.
- Cái ông này, tôi đang định đem nó vào xóm đổi lấy cân lạc để chủ nhật này nhờ tổ "cấp dê" làm kẹo. Phí của giời, mười đời không có! - Khoảng tiếc rẻ. Cha này rất thực dụng, chắc hắn chưa bao giờ cảm thấy khoé mắt cay cay vì một nguyên nhân lãng đãng gì. Nếu thấy có hiện tuợng "đỏ con mắt bên phải, nháy con mắt bên trái" thì trăm phần trăm là hắn vừa chấm nhầm phải đĩa mù tạt mà thôi!
Tôi ngó theo cuốn sách, nghĩ tới cây ghi ta của mình, chắc rồi cũng phải theo phương án của xế - lô, cũng may là mấy lần tập di chuyển nơi đóng quân, tay Khuê - chuẩn uý trung đội phó - đều nhẹ nhàng đón nó ở vai tôi đem đi đâu đấy, sáng hôm sau cây đàn lại được treo vào cột lán cạnh vị trí tôi nằm như cũ.
Vật bất li thân của Nam đã mất tăm dưới dòng kênh. Nghe nói con kênh này đào từ đời nhà Lê hay nhà Mạc gì đó, dài lắm, mà đến bây giờ vẫn cấp tháo nước với lưu tốc lý tưởng. Thật đáng nể các cụ tổ ngày xưa trong việc đo dẫn cao độ thuỷ chuẩn. Sau các cụ hàng mấy trăm năm, có máy kinh vĩ, trắc đạc hẳn hoi với những vị cử nhân tốt nghiệp Đại học Xây dựng - Thuỷ lợi mà vẫn có những "con kênh ta đào không thấy nước chảy qua!"
Buổi chiều tôi thường đem cây đàn ra chơi. Ngồi bên tôi là Nam và mấy cậu khác cùng đại đội. Xa xa có mấy cô gái trong tổ nuôi quân, họ cũng nghe nhưng thường giữ một khoảng cách, chỉ vào những phút tập văn nghệ hiếm hoi mới cười đùa vòi vĩnh, hoặc trêu cợt tôi và Nam mà thôi.
Đôi khi rảnh rỗi trung đội phó Khuê cũng đến đứng cùng nhóm nghe đàn. Đó là một sĩ quan trẻ chỉ độ hai mươi hai mốt- tôi đoán thế - kém chúng tôi đến bốn năm tuổi mà đã được phong chuẩn uý sĩ quan trong khi các thiếu uý, trung uý cấp đại đội, tiểu đoàn đều cỡ đầu ba trở lên. Tôi thấy mến cậu ta, không chỉ vì chuyện cây đàn mà thực sự cảm thấy phong cách của người sĩ quan phải như thế, dù rằng tôi còn hết sức xa lạ với nghiệp nhà binh. Kĩ thuật tác chiến cá nhân nào của Khuê cũng giỏi, cậu ta hướng dẫn các thao tác rất rạch ròi, động tác dứt khoát, dễ làm theo. Riêng về môn võ thể dục thì hết chê, vì có cố gắng và khéo léo đến đâu các tân binh và cả các cán bộ khung khác cũng chỉ thuộc và thực hiện được từng động tác rời rạc, trong khi trung đội phó Khuê nối tất cả các động tác lại thành một bài võ, đẹp, uyển chuyển và mạnh mẽ như Mai hoa quyền của các nữ hiệp trong phái võ Nga Mi bên Tầu. Nếu số phận tránh cho người sĩ quan trẻ này khỏi đường tên mũi đạn, chắc là cậu ta sẽ tiến xa trong binh nghiệp.- Tôi thầm nghĩ.
Giai điệu xanh của dòng Đa-nuýp gợi nhớ những ngày thanh bình bên con sông Ngụ, nơi sinh viên sơ tán với những cô thôn nữ ra sông gánh nước. Nam đang nhè nhẹ hát theo bằng giọng nam trung khá gợi cảm của hắn: "Yêu người thiếu nữ bên sông chèo đò, yêu vì đôi mắt em không phai mờ, cho dòng sông xanh lặng trôi lững lờ". Tôi biết "Giáo sư" đang nhớ tới cô bạn là sinh viên năm thứ ba khoa Cảng, trước đây chàng nàng vẫn thường quấn quít.
Chuyển sang "Du kích sông Thao" với dòng chảy dặt dìu của "Hồng Hà mênh mông đưa nước tới chân làng quê". Sang đến phần hành khúc dồn dập của các du kích quân thì Nam đứng lên, có vẻ không thích đoạn này. Nhưng "Bá tước Pie" chợt bảo tôi:
- Hoàn này, mấy hôm nay tay Khoảng thường lẩn đâu ấy nhỉ? Hắn có bảo với cậu là đi đâu không?
Theo qui định thì lúc sinh hoạt, luyện tập hay nghỉ ngơi về nguyên tắc tổ ba người đều phải luôn luôn cùng có mặt để quản lý và giúp đỡ lẫn nhau. Dạo này xế - lô thường hay lảng đi đâu đó nhưng lúc ăn cơm hay sinh hoạt tối bao giờ cũng xuất hiện đúng giờ. Chỗ "đâu đó" của hắn tôi thừa biết, nhưng vì chưa có trục trặc gì nên cũng không có ý kiến.
Đó chính là khu nhà tranh ở sau quả đồi phía sau trại huấn luyện, trong đó có một bà cụ, chị con dâu là vợ bộ đội đã ba năm nay không có tin tức của chồng, và cô út xinh xắn tên là Thoan đang học cao đẳng Sư phạm về nghỉ hè.
Cả ba chúng tôi đã vài lần vào trong đó mượn quanh gánh đi lấy gạo, ban đầu còn định gạ đổi chác mấy thứ đồ dân sự mang đi từ lúc chưa lĩnh quân trang để giải quyết vấn đề dạ dày cho tay Khoảng, nhưng sau có sự quan tâm của tổ nuôi quân nên vấn đề đó không phải đặt ra. Trong những ngày chủ nhật hiếm hoi chúng tôi cũng thường vào đó luộc khoai, nướng sắn, tán tỉnh cho vui trong khi Khoảng trổ thần lực Hec-quyn* để lập kì công bổ củi. Hai chị em cô Thoan đều quí chúng tôi vì thấy phong thái khác với những đợt huấn luyện truớc đây, khi hiểu rõ hơn họ càng có phần thương và trọng. Sau này Thoan cũng hay qua chơi với tổ nuôi quân, giúp họ nhặt rau, chia thức ăn vào các chiếc đĩa kim loại ba bốn ngăn quân dụng. Giữa màu vàng cứt ngựa, chiếc áo hoa lẻ loi nổi lên như bông hải đường nở sớm giữa mùa đông tàn lụi.
Khoảng mết em Thoan nên tuyên bố với tôi sẽ săn đón với "một trăm phần trăm năng lượng giành cho liu-bốp*". Hắn biết Nam có mối tình để lại ở năm thứ ba khoa Thuỷ lợi - Cảng nên chỉ ngại sự tham gia của tôi mà thôi. Tôi bảo "Nu, pa-ga-di!*" nhưng hắn đâu biết khi chia tay với cô bạn thân nhất ở ga Hương Canh, bước lên đoàn tầu quân sự tôi đã quyết định khoá mọi ngăn tim và vứt chìa khoá xuống sông. Sau chiến tranh nếu còn sống thì sẽ có ngày một cô chép vàng, hoặc nàng mè ranh lửng lơ nào đó ngậm chiếc chìa khoá ấy trong mồm, diễu qua mắt mình để đòi tiền chuộc, còn nếu số phận chỉ định phải là vật hiến tế thì cứ coi là tiền định.
Vài tuần nay tôi không vào khu nhà tranh có hai trái tim vàng ấy nữa, vì một lần vào mượn đôi thùng gánh nước vô tình đã gặp Quế- cô chị dâu của Thoan- đang tắm trong chiếc nhà tắm quây không được kín đáo cho lắm. Phải nói Quế là người đàn bà đẹp, hừng hực sức sống, trông rất bắt mắt đối với đàn ông. "Trông nàng lúc nào cũng tơn tớn, nếu chồng mà ở nhà thì đội tuyển này phải thi đấu cả trận lượt đi lẫn trận lượt về cùng ngày, không kể hiệp phụ, phạt đền luân lưu và những phút đá bù giờ"- đó là nhận xét của Khoảng xế-lô. Tôi đứng chết trân, rất muốn xem chút nữa vì cho đến lúc đó chưa hề biết người đàn bà không mặc quần áo như thế nào, nhưng lòng tự trọng - không, tính rát gái và sợ người ta nhìn thấy hành vi của mình thì đúng hơn - đã khiến tôi giật lùi một bước rồi từ từ quay lui. Hình như Quế có biết là tôi sang nhưng giả vờ không nhìn thấy.
Quanh con đường mòn về doanh trại, tôi thấy tiếc rẻ nhưng những chuyện như thế này tôi đã biết từ hồi còn là sinh viên ở khu sơ tán. Vợ lính vắng chồng lâu ngày tránh sao được những phút yếu lòng, thằng đàn ông nào vô lương tâm cứ cố đấm sẽ dễ có khả năng được ăn xôi.
- Thôi, mình dính vào làm gì, quên đi cho khoẻ - Lúc ấy tôi đã cố xổ toẹt vụ việc nhưng quả thật đêm hôm đó, thân hình hồng hào đầy đặn với bao nhiêu bí hiểm của người phụ nữ cứ hành hạ mãi tôi trong giấc ngủ.
Trước kẻng ăn chiều Khoảng đã có mặt ở doanh trại. Mấy hôm nay hắn có vẻ phởn, khác với vài tuần trước lúc nào cũng đăm đăm toan tính. Đó là lúc chính trị viên tiểu đoàn thông báo "quân ta chiến thắng ở Quảng Trị, quân nguỵ phải rút chạy sâu vào phía trong, giới tuyến đã bị xoá. Tình hình sắp tới sẽ có nhiều chuyển biến, chiến công đang chờ đón các đồng chí..."
- Sắp tới chỗ ấy sẽ là cái cối xay thịt đấy, các "thày" ạ, Thiệu đang tuyên bố sẽ tái chiếm bằng được Quảng Trị - Khoảng nói với tôi và Nam - Cối xay nó không phân biệt thịt thuộc nguồn nào đâu. Mọi vì sao rồi sẽ biến mất trong hố đen vũ trụ.
Tôi nhìn Nam nhún vai.
- Cái gì phải đến nó sẽ đến. Lo, chẳng lo răng bò vẫn trắng- Nam nói.
- Tuỳ các ông, nhưng nghĩ mẹo phòng thân vẫn hơn.
Hôm nay Khoảng có vẻ hớn hở, sau bữa chiều hắn khoe với tôi và Nam:
- Chiều nay bà cụ nhân thể đi thăm dì dà gì đó đã đưa em Thoan lên truờng. Em nhận lời đợi tôi về, nàng bảo chỉ cần anh còn sống trở về, què cụt gì em cũng nuôi được.
- Các bà đầm được sinh ra từ chiếc xương suờn của A-đam, không biết đàn bà An Nam sinh ra từ cái gì nhỉ?- Nam hỏi tôi.
- Nếu có dịp cậu thử hỏi cô sinh viên năm thứ ba của cậu xem nàng trả lời ra sao- Tôi đáp.
Tôi nói dấm dớ vậy mà thiêng! Ngay hôm sau Nam đã có cơ hội nhưng hắn lại không hỏi được.
Hôm đó tiểu đội phân công tôi và Nam đi lấy gạo. Gạo mua hay lĩnh (tôi cũng không rõ) ở một kho lương thực quốc doanh, cách chỗ đóng quân khoảng dăm sáu cây số. Như trên đã nói, hồi ấy và ngay cả bây giờ tôi cũng không biết đường đi lối lại ở khu vực luyện quân ra sao, giờ đây chỉ có thể nói ang áng, vì về sau lúc chúng tôi được xe của Hải quân về đón đi đột ngột, cũng vào ban đêm. Việc đầu tiên là phải xoay xở thứ gì để đựng gạo, xưa nay đơn vị chỉ giao việc rồi tân binh phải tự kiếm ra thứ gì đó để có thể hoàn thành nhiệm vụ, đa phần là vào mượn trong dân.
Những lần đầu tổ tôi thường bỏ quân trang ra ngoài đem ba lô đi đựng tất tật cả gạo lẫn muối, nhưng chả tên nào nghĩ đến chuyện giặt ba lô nên bây giờ chiếc nào cũng bị chuột nhắt thăm hỏi, bỏ củ khoai tây vào cũng rơi đừng nói là gạo. Tôi không muốn vào nhà Quế nên bảo Nam vào trong đó, mượn quang gánh và hai chiếc thúng to rồi sẽ thay nhau gánh từng đoạn.
Nam đi ngay, chẳng bao giờ chối việc. Có điều "Bá tước Pie Pê-du-khốp" không có duyên với các công chuyện của "nông nô" nên chẳng lần nào hắn hoàn thành được những việc tương tự. Đã có còi tập họp đội đi lấy gạo do một cán bộ khung dẫn đường, Nam cuống lên nhưng tôi kéo tay hắn bảo cứ đi, đã có cách.
Kho gạo có vẻ thuộc về một thị trấn huyện nhưng đang trong giai đoạn sơ tán nên tiêu điều, không có gì đáng để tâm. Tôi cởi quần dài túm hai đầu ống rồi nhồi vào vừa đủ hai mươi cân gạo, "bao gạo" hình củ nhân sâm này khoác qua cổ tôi như một thằng cu con chễm chệ trên vai ông bố, đi lại thoải mái có điều phải diện theo “thời trang Táo công” mà thôi. Không còn cách nào khác nên "Bá tước" cũng đành theo mốt của tôi làm tay cán bộ khung phải vừa buồn cười vừa ... phục.
Rời kho được hai cây số thì có ba cô gái trên hai chiếc xe đạp đi ngược chiều. Tôi kéo Nam đi ra lề cỏ, quay mặt ngắm mây cho khỏi ngượng nhưng "Bá tước" tự dưng cuống lên, "Nhung đấy!"- hắn nói như thể có báo động khẩn cấp máy bay địch.
Hơi bị đông vấn đề rồi đây- Tôi nghĩ. Chắc chắn là cô sinh viên năm thứ ba của "giáo sư" lên thăm chàng, có thể đã đến doanh trại nhưng biết là đi lấy gạo nên ra đón trên đường này. Tình thế thật là bi hài. Hồi còn ở trường tôi chỉ biết loáng thoáng chuyện của họ, thực tâm không chú ý lắm, nhưng những ngày vừa qua đôi lúc Nam có nói chuyện về nàng với tôi. Đó là một cô nàng xinh đẹp, con nhà giàu (nhà có một hiệu ảnh lớn khá nổi tiếng), rất thông minh, nhậy cảm. Tuy tính tình nhõng nhẽo, có chút đỏng đảnh do gia đình cưng từ nhỏ nhưng rất hợp gam với "Bá tước". Nếu vẫn là cán bộ giảng dạy ở trường đại học thì chuyện hai dòng suối ấy nhập thành sông sẽ êm đềm như con sông Ngụ, chẳng bao giờ phải nổi lên một cù lao nhỏ. Nhưng từ ngày bị thần Arex* điểm danh tình hình nghe chừng không được xuôi chèo mát mái cho lắm.
Ba cô gái đi qua tốp binh nhì lếch thếch (nhưng chẳng vì thế mà các chàng binh bét này không có mấy lời trêu chọc). Nam quay mặt đi vì có lẽ trong sách thánh hiền chưa có trường hợp nào, ghi rằng giáo sư có thể mặc quần xà lỏn giao tiếp với học trò nữ (đấy là suy nghĩ của "Bá tước Pie", nếu là tôi thì cứ phớt tỉnh Ăng-lê coi như tình cờ gặp bạn trên bãi biển là xong!). Tôi tuy quay mặt ra ngoài ruộng nhưng vẫn quan sát thấy là họ nhận ra Nam. Cô đi một mình dừng lại chống chân xuống đường nói gì đó, còn hất đầu về phía chúng tôi nhưng cô ngồi trên gạc-ba-ga hất tay ra hiệu đi thẳng, lưỡng lự vài phút rồi cả ba cô đi khuất sau quãng đường cong.
Đinh ninh rằng các cô ngượng chưa muốn gặp nên tôi và Nam quên rằng mình đang phải vác hai mươi kí gạo trên vai, cả hai phi nước mã hồi về doanh trại truớc "đại quân" đến mười lăm phút. Khi họ về đến nơi chúng tôi đã đàng hoàng trong bộ quân phục có hai miếng tiết - quân hàm của binh nhì - trên ve áo.
- Các anh ơi, hơn tiếng trước đây có ba chị đi xe đạp đến hỏi anh Nam, chúng em đã chỉ đường cho họ đi đón các anh. Các anh không gặp các chị ấy à?- Hạ sĩ Thuần trong tổ "cấp dê" từ trong bếp gọi với ra.
- Chắc các bạn ấy sắp về đến đây rồi, nhớ cho thêm ba suất khách nhá! - Tôi đáp thay Nam vì "Bá tuớc" đang hết sức bồn chồn.
Tuy nhiên họ không quay lại, lí do gì về sau chắc Nam cũng biết nhưng không kể cho tôi nghe, chỉ thấy sau đó ít hôm hắn bảo "Tớ lại vứt thêm một thứ nữa xuống kênh Nhà Mạc rồi".
Tôi bắt tay hắn: "Tớ còn vứt thứ ấy trước khi biết có kênh Nhà Mạc. Những gì đang xảy ra đều là tiền định, quên đi cho khoẻ!"
Cả tiểu đoàn chuyển sang ăn chế độ bồi dưỡng trước khi vào chiến trường, "cấp dê" suốt ngày nháo nhào bận bịu, hương bếp bốc ra đã có vẻ tửu quán, không thanh tịnh mùi "đại táo" như xưa.
-"Ăn cơm mắm cáy thì ngáy khò khò, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy"- Khoảng lẩm bẩm khi thấy lính tráng hồ hởi như trâu bò được ngày phá đỗ, con cháu được ngày giỗ ông.
-"Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy"- Tôi cũng bắt chước hắn dẫn ra một câu thành ngữ An Nam nhưng với dáng vẻ rất Ăng-gờ-lâu Xác-xông (dân Anh gốc)
Hai tuần cuối của đợt huấn luyện đầy ắp những sự kiện giật gân (sự thực là như vậy, tôi hoàn toàn không có ý sắp xếp để hy vọng câu độc giả đọc cho đến cùng, câu chuyện về một đề tài đã có nhiều nhà văn nổi tiếng khai thác như thế này). Trong khi chúng tôi bắt đầu ăn chế độ bồi dưỡng thì tình hình chiến trường nóng lên từng ngày, công việc "tái chiếm Quảng Trị" của Thiệu bắt đầu. Mật độ các cuộc không kích Bắc Việt tăng lên rõ rệt, hầu như ngày nào chúng tôi cũng nhìn thấy trên đầu mình có máy bay tiêm kích, cường kích bay qua. Có hôm là những cuộc không chiến giữa ta và địch, hôm thì tên lửa ta bay cao tít đuổi theo chúng để lại những vệt trắng như các mũi tên bạc của nữ thần Artêmix* ngang dọc trên bàu trời. Ban ngày chúng tôi thường phải vào rừng cây để học các kĩ năng tác chiến, tránh việc máy bay địch bắn hoặc bỏ bom bừa bãi xuống khu lán trại.
Hôm đó là tối thứ bảy nhưng đại đội yêu cầu không được rời doanh trại quá ba trăm mét đề phòng có báo động chuyển quân. Khoảng hơn mười giờ đêm, tôi vừa ngủ say thì đủ mọi thứ tiếng động nổi lên đột ngột: còi báo động của trung đội, kẻng sơ tán ra khỏi doanh trại của tiểu đoàn, tiếng súng cao xạ, tiếng bom lẫn lộn nhưng hoảng nhất (tôi phải thú nhận là đã thực sự hoảng hốt đêm hôm đó) là những vật thể đỏ, to và dài như ống bương bay lừ lừ sát sạt trên khu trại. Chúng toả ánh sáng màu da cam ma quái như cả không gian đang bốc cháy hoặc chúng tôi vừa rơi vào tâm điểm của núi lửa bất ngờ tung ra phún thạch. Theo bản năng tôi chỉ kịp vớ khẩu súng AK của mình lăn ngay xuống đất, rồi theo chiến hào mới đào từ nhà ngủ toả ra đỉnh đồi để thoát đi, chiếc chăn chiên còn quấn theo người lằng nhăng mãi tôi mới đạp ra được.
Cảnh tượng hy hữu đó chỉ xảy ra trong khoảng ba bốn phút nhưng tiếng súng và bom vẫn tiếp tục lải rải. Tôi đã lên đạn cây AK nhưng chẳng biết bắn gì hay bắn ai, thời gian vừa rồi tiểu đoàn chỉ phổ biến lệnh sơ tán nhanh khỏi doanh trại và bắn máy bay bằng mọi loại súng có thể phòng không, nếu chúng công kích bất ngờ. Sau khi bình tĩnh lại tôi quan sát chung quanh rồi di động theo chiến hào về phía có đồng đội. Tôi gặp "Bá tước", thấy hắn cũng đã bình tĩnh nhưng không có súng trong tay. Nam thú nhận vì vội và hoảng quá nên cứ theo mọi người nhào đại ra ngoài, quên không mang súng, hắn định vào lán để lấy súng ra nhưng tôi giữ lại bảo chờ xem sao đã, cả hai cùng tìm Khoảng nhưng hắn không ở đấy. Nam nói có lẽ đã vào kia và hất đầu về phía khu nhà tranh của chị em cô Thoan.
Khoảng mười phút sau chuẩn uý Khuê thông báo lệnh của tiểu đoàn qua loa pin cầm tay "Bộ đội tiếp tục ở ngoài hào đề phòng máy bay địch. Vừa rồi là tên lửa tầm thấp của ta mới được Liên Xô trang bị, bí mật cơ động đến bố trí đón lõng địch ở đây từ chiều hôm qua. Ta đã tiêu diệt được hai chiếc F4 trong trận này. Trong khi đơn vị tên lửa di chuyển đi vị trí khác, bộ đội sẵn sàng đánh địch bằng súng bộ binh nếu máy bay địch quay lại".
Đợi Nam vào lán lấy súng đem ra, tôi nói với Nam là đi gọi Khoảng rồi theo con đường mòn mờ sáng ánh trăng vào khu nhà không còn xa chỗ tôi đang đứng. Cửa ngôi nhà tranh hé mở, tôi không vào mà từ ngoài quan sát qua cửa sổ. Thật không thể tin được mắt mình lúc đó: một thân hình đàn ông cao to (tôi nhận ngay ra đó là Khoảng xế - lô) đang hùng hục bên trên người đàn bà loã thể, mặc cho chị ta dãy dụa tìm cách thoát ra hắn vẫn như con nhân dương* tận hưởng khoái lạc trên thân xác người thiếu nữ là vật hiến tế. Máu dồn lên mặt nhưng chợt nghĩ dẫu sao cũng là chuyện của hai người nên tôi không lên tiếng, nhưng ngay đó tôi thấy người đàn bà vùng được một tay đang bị đè xuống phản quờ quạng với lên đầu giường, chị ta (chính là Quế) rút ra được chiếc quạt giấy gọng tre cật khá dài vụt như điên dại vào kẻ đang chiếm hữu mình với tiếng hổn hển:
- Mày có thôi ngay đi không. Tao sẽ ra báo cáo...
- Thôi đi nào, để yên nào, tôi không cho ai biết đâu mà ngại.
- Tao thách mày đấy. Mày... mày...
Tôi đằng hắng một tiếng, thấy con nhân dương vội bật dậy liền quay người về doanh trại, vẫn còn nghe thấy tiếng nức nở sau lưng:- Đồ khốn nạn! Mày còn mặt mũi nào nhìn thấy con Thoan nữa...
Sau lưng tôi, cách một quãng Khoảng xế - lô đang tập tễnh bước theo. Mấy ngày liền tôi không thể nhìn được mặt hắn còn hắn cũng phấp phỏng lo sợ. Tôi không có thói quen báo cáo báo cầy những chuyện như vậy còn Quế cũng không ra, có thể cô ta xấu hổ hoặc lo ngại điều gì. Thấy Nam có vẻ ngạc nhiên về việc Khoảng trở nên ít nói, ngoài giờ luyện tập sinh hoạt tôi thường mượn bàn cờ về chơi vài ván vì "Bá tuớc" cũng rất ham môn này. Dần dần tôi bình thản trở lại, coi như mình bắt buộc phải cộng sinh với một con nhân dương mà thôi.
Kĩ thuật tác chiến chúng tôi học cuối cùng là các môn lựu đạn, bộc phá và thủ pháo. Đã xong môn ném lựu đạn không có sự cố gì. Môn này cũng đã được học từ thời còn là sinh viên, tôi vẫn còn nhớ lần một tiểu thư của lớp Thuỷ lợi vung tay ném, nhưng trái lựu đạn đã rút kíp đáng lẽ bay về phía truớc chí ít cũng phải mười lăm mét không hiểu sao lại văng sang bên phải, chỗ đặt bàn của Ban Giám khảo làm các quan chức này phải nhảy vội xuống hố ở gần đó như đàn ếch ộp, còn cô bé thì may mắn được trợ giáo đứng gần ôm lấy cùng lăn xuống hố đào sẵn ở sau lưng thí sinh. Tất cả cùng hút chết nên sau đó Ban huấn luyện phải tạm dừng kiểm tra cho đào các hố cá nhân ngay bên dưới mỗi bàn giám khảo!
Môn bộc phá chỉ cần không phải là người bẩm sinh quá nhát, thì châm lửa vào đầu dây cháy chậm một lần là ăn ngay và có thể rút ra khá xa tầm sát thương rồi bộc phá mới nổ, kĩ thuật cột buộc thuốc nổ và ngòi nổ không có gì đặc biệt. Riêng với thủ pháo phải hết sức lưu ý việc đặt kíp nổ sao cho khi ném đi chiếc kíp đã bị kích sẽ bay đi cùng với quả thủ pháo. Sơ ý một chút là kíp nổ tụt ra ngoài khối thuốc, lưu lại trong tay người ném cùng với đoạn dây giật và sẽ xảy ra thương vong. Tiểu đội truởng và tổ truởng tổ ba người có trách nhiệm phải kiểm tra kĩ xem lỗ giành cho kíp đã khoét đủ độ sâu và chuẩn xác chưa, sao cho sau khi hai mảnh của khúc gỗ tròn xẻ dọc được kẹp lại buộc chặt vào nhau thành chuôi quả thủ pháo, thì kíp nằm gọn gàng đúng trong lỗ do mình khoét.
Trước hôm thực hành thủ pháo thật chúng tôi đã kiểm tra lẫn nhau xem hai mảnh gỗ kẹp giữ kíp đồng thời là chuôi thủ pháo đã được gia công ra sao và cảm thấy yên tâm nhưng không hiểu sao sự cố lại xảy ra chính với Khoảng xế - lô.
Hôm ném thủ pháo thật tôi thấy hắn rất bồn chồn, chẳng lẽ thằng cha đã có linh cảm? Hắn cứ thấp thỏm muốn tranh ném trước Nam rồi trước tôi nhưng cuối cùng, sau khi cả hai chúng tôi đã ném nổ ngon lành, hắn mới ngập ngừng bước lên vị trí xuất phát, vẻ lóng ngóng khác với mọi ngày. Trung đội phó Khuê chỉ huy buổi tập hô:
- Đồng chí Khoảng chuẩn bị thủ pháo... Ném!
Khoảng vung tay khá mạnh, thủ pháo bay đi nhưng có vật gì kêu xì xì còn treo lại ở đầu sợi giây giật đang quấn ở ngón tay của hắn. Chết rồi, kíp nổ đã tuột ra không bay đi cùng với khối thuốc. Xế-lô cuống lên, hắn vung cánh tay xoay lắc cho sợi giây văng ra nhưng chiếc kíp lại quấn vào sát bàn tay phải. Mọi người đứng gần đấy đều kinh hãi quay vội đi để tránh kíp nổ văng vào mắt, chỉ riêng chuẩn uý Khuê xông tới. Trung đội phó nhanh như cắt móc được tay vào đoạn giây giật thật mạnh. Giây đứt rời nhưng đồng thời chiếc kíp cũng nổ một tiếng rất đanh.
Chúng tôi xô đến khi thấy cả hai đều loạng choạng, máu me toe toét. Khoảng bị cụt hai phần ba ngón út và ngón giữa tay phải cũng bị thương, tôi thấy một đoạn giây còn thắt quanh ngón trỏ nhưng ngón đó lại không việc gì, nhưng còn bị một vết thương ở cánh tay trái. Trung đội phó Khuê bị thương vào mu bàn tay phải và má, hai chỗ đều bị khoét lỗ bằng đồng xu, may không sâu lắm.
Tổ cứu thương lập tức băng và tiêm kháng sinh cho cả hai người. Một số đồng chí ở trung đội thực hành bãi bên cạnh cũng chạy sang hỏi han, trong khi đó tôi chợt nhìn thấy quả thủ pháo không nổ của Khoảng liền nhặt lên, cho vào chiếc ba lô lộn ngược đựng phụ kiện tập của tiểu đội. Phải nửa giờ sau việc thực hành thủ pháo mới có thể tiếp tục như cũ.
Đêm ấy tôi cứ nghĩ ngợi về truờng hợp bị thương của Khoảng, có cái gì đó không bình thường. Sáng hôm sau trong lúc Nam đi cùng Khoảng sang gian giành cho quân y để thay băng tôi tò mò tách đôi chuôi quả thủ pháo không nổ ra xem xét.
Tôi phát hiện thấy chỗ lỗ khoét dành cho kíp có một lớp giấy đệm vào, vì thế mà kíp nổ nằm nổi giữa hai mảnh gỗ, nên mới có thể tuột ra ngoài theo rãnh giành cho sợi dây giật. Sao lại thế được nhỉ? Có bàn tay phá hoại hoặc thù hằn cá nhân gì ở đây chăng?
"Bá tước" đã về, tôi nháy hắn cùng ra khu "cầu cạn" trao đổi với nhau về phát hiện vừa rồi. Nam hiểu ngay vấn đề, theo hắn chắc đấy là chủ tâm của xế - lô vì đã có lần trong câu chuyện vui về khám nghĩa vụ, Khoảng có kể về trường hợp một người họ hàng nào đó bị đá đè nát các ngón của bàn tay phải, vẫn hăng hái xung phong đi bộ đội. Tay công an hộ tịch phụ trách khu vực rất hoan nghênh và cho biết là ở một số nước người ta hay thiết kế ngược với nước mình, ví dụ xe ô tô lại để tay lái sang bên phải, vũ khí của họ ngắm bằng mắt trái nên người nào thuận tay trái thì sử dụng rất tuyệt vời. Nghe nói họ đã viện trợ cho ta đánh Mỹ bằng những vũ khí đặc biệt ấy, rất chi là tối tân!
Nam bảo Khoảng còn cười hê hê kể rằng thằng chả hôm ấy sợ vãi đái, không biết là tay hộ tịch lỡm mình. "Hà hà! Thịt gà, đàn bà, cua bể phải dùng tay thì mới ngon, các cụ bảo thế. Dùng tay nào cũng vẫn ngon nhưng bắn súng mà thiếu ngón tay phải thì làm sao mà ngon được, đúng không các thày?"- Đó là câu kết luận của hắn.
Thôi rồi, khỏi phải suy lý gì thêm. Cao đàm này chắc chắn không do Mao Tôn Cương* tiên sinh đưa ra mà made in* Khoảng xế - lô chính hiệu! Một trong những cách xoay xở để không bị hút vào hố đen vũ trụ- Tôi nghĩ.
Hơn nửa tháng sau thì đợt ăn bồi dưỡng kết thúc. Vết thương trên má chuẩn uý Khuê đã khỏi. Xem chừng tay sĩ quan trẻ này không bị xấu giai đi chút nào mà trông càng có vẻ phong sương hoành tráng, giới thuyền quyên chắc chắn coi hắn là đấng truợng phu lý tưởng- Nam nhận xét như vậy. Bàn tay của Khoảng cũng đã lành, không ai lăn tăn gì về vụ việc của hắn, chỉ có tiểu đoàn trưởng phải thêm một lần rút kinh nghiệm và nhắc nhở chung trong yêu cầu về an toàn tập luyện đồng thời biểu dương tinh thần dũng cảm vì đồng đội của chuẩn uý Khuê. Hôm ấy nếu Khuê chậm chút nữa khả năng Khoản sẽ mất cả bàn tay phải.
Toàn tiểu đoàn có hai ngày để chuẩn bị hành quân xa, chúng tôi được phong binh nhất và tôi được chỉ định là một trong những tiểu đội trưởng hành quân vì hầu hết bộ khung sẽ ở lại trại nhận tân binh mới.
Bất ngờ vẫn chưa hết. Hôm xuất quân, vào lúc năm giờ ba mươi sáng chúng tôi đã tập hợp đầy đủ ngoài bãi thì bỗng nhiên có hai chiếc mô - tô - ba chở một trung tá và ba đại uý tiến thẳng vào bãi. Sau mươi phút trao đổi với Ban chỉ huy tiểu đoàn huấn luyện, vị trung tá mới đến tiến ra trước hàng quân tuyên bố Bộ Quốc Phòng yêu cầu một số tân binh có tên dưới đây tham gia một nhiệm vụ đặc biệt. Đồng chí nào được đọc tên khẩn trương xếp thành hàng năm sau lưng đồng chí đại uý đã đứng sẵn làm chuẩn, để sau đó tiểu đoàn xuất quân đúng theo lịch trình. Ông ta sẽ đích thân phổ biến nhiệm vụ cho những người được chỉ định và toán này sẽ đi sau các đồng chí khác một chút.
Tôi, Nam với dăm cậu khác cùng lò Xây dựng và khoảng bốn chục người nữa ở các trường khác có tên trong danh sách đó. Chúng tôi bước ra, lòng hồi hộp không biết là có chuyện gì. Hơn hai trăm năm chục chiến sĩ còn lại của tiểu đoàn dồn lại hàng rồi bắt đầu lên đường. Tôi nhìn thấy Khoảng ở xa xa định chạy ra chia tay nhau nhưng một đại uý cản tôi lại. Trong lòng tự dưng thấy thương hắn lẻ loi, đôi lúc thằng cha đáng ghét thật nhưng dù sao cũng chia ngọt xẻ bùi với nhau trong những ngày đầu tiên của cuộc sống biến động này. Quay nhìn "Bá tuớc" thấy hắn cũng có vẻ gì đó bùi ngùi dù chưa biết sắp tới đây sẽ ra sao.
Nhóm thuộc danh sách gọi ra, sau đó lại tiếp tục bị phân chia. Vị thiếu tá của Bộ Quốc Phòng cho biết những người trong danh sách đều là các kĩ sư đã hoàn tất việc đào tạo chuyên môn tại các truờng đại học nên được phân đi các quân binh chủng thực hiện những nhiệm vụ kĩ thuật quốc phòng. Ông ta nói rõ nhiệm vụ của chúng tôi rất quan trọng và không kém hiểm nguy, có thể phải chấp nhận hiểm nguy hơn các anh em khác.
Tôi, Nam và tám người nữa được phân về Hải quân, đa phần là kĩ sư xây dựng công trình Cảng, những người khác là kĩ sư vô tuyến, máy tầu... Hôm ấy chúng tôi không đi ngay mà từng toán một được các quân binh chủng đưa xe về đón đi lải rải trong vài ngày.
Tối hôm ấy, lúc tôi và Nam ăn xong đang rửa bát trong bếp thì hạ sĩ Thuần, cô gái xinh xắn bầu bĩnh, tổ trưởng tổ nuôi quân bỗng dưng gọi "Anh Nam!". Cô đưa vào tay Nam một cục vuông vuông bọc kĩ bằng giấy báo, bên ngoài cùng là chiếc khăn quàng phụ nữ. Nam tò mò mở hết các lớp giấy, hoá ra bên trong là cuốn "Toán học cao cấp" tiếng Nga, chính là cuốn sách "Bá tước" đã vứt xuống kênh Nhà Mạc hồi nào. Hai chúng tôi đều ngạc nhiên quay sang cô gái, không hiểu sao mắt cô rưng rưng, cô sụt sịt:
- Hôm ấy thấy anh vứt quyển sách đi em vừa thương vừa tiếc... Em đang giặt áo vội chạy theo bờ kênh, may là nó mắc lại ở cánh phai cách chỗ ấy khá xa. Sách bị ướt, em đã dùng ca nước nóng là cho anh mấy lần nhưng vẫn chưa hết các nếp nhăn. Hôm nay em nghĩ rằng anh lại cần đến nó...
Trông cảnh cả chàng cả nàng đều cảm động cũng hay hay, tôi bảo Nam:
- Chúc mừng "châu về Hợp Phố*" nhá! Này, cậu lật bên trong mà xem, tớ đoán là thứ cậu vứt thêm xuống kênh cũng gói ghém cả trong đó đấy!
Sau đó tôi đánh bài chuồn cho họ tự nhiên hơn. Chí ít cũng là cách tôi đền cho hắn về vụ đưa ra sáng kiến mặc “thời trang Táo công” để lấy quần dài đựng gạo hôm nào.
Thưa bạn đọc! Tôi định viết thêm phần vĩ thanh để nói đôi điều nữa về những nhân vật trên sau chiến tranh, nào là chuyện tôi đến thăm "Bá tuớc Pie" thấy phu nhân của hắn chính là hạ sĩ Thuần ngày nào, chuyện Khoảng xế-lô không những chui qua hố đen không việc gì mà còn suýt trở thành anh hùng quân đội, rồi nói tí ti về vụ chuộc chìa khoá của tôi chẳng hạn, nhưng tôi e bạn đọc đã hết kiên nhẫn nên xin được chấm hết câu chuyện về những ngày huấn luyện rất đáng ghi nhớ đối với những ai đã là tân binh của "dê cụ" - D65 ngày đó…
----
Ghi chú:
Atlax*: Vị thần bị thần Dớt (Thượng đế) trừng phạt bắt phải vác trên vai mình cả bầu trời mãi mãi (thần thoại Hy Lạp)
Xi-mô-nôp*: Nhà thơ Nga đã viết bài "Đợi anh về" được Tố Hữu dịch sang tiếng Việt
Hec-quyn*: Dũng sĩ đã lập 12 kì công trong thần thoại La mã.
liu-bốp*: Ái tình (tiếng Nga)
Nu, pa-ga-di*: "Này, cứ để xem" hoặc "Hãy đợi đấy!" (tiếng Nga)
Arex*: Thần Chiến tranh (thần thoại Hy lạp)
Ăng-gờ-lâu Xác-xông*: dân Anh chính gốc
Artêmix*: Nữ thần săn bắn (thần thoại Hy Lạp)
Nhân dương*: quái vật mình người đầu dê (thần thoại Hy Lạp)
Mao Tôn Cương*: nhà trí giả có các bình luận cho từng chương hồi của Truyện Tam Quốc diễn nghĩa.
made in*: sản xuất bởi../ mang nhãn hiệu (tiếng Anh)
Châu về Hợp Phố*: Vật mất đi tìm về chủ cũ hoặc điều tốt đẹp lại trở lại như xưa với một nơi nào đó (theo điển cố Trung Hoa).
----
Ngọc Châu
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 27/11/2010
ngocchaunvhp@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 27/11/2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét