Home
» Giới thiệu sách
» Góc thư giãn
» Đạo Mẫu Và Tín Ngưỡng Thờ Tam Phủ, Tứ Phủ … – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Đạo Mẫu Và Tín Ngưỡng Thờ Tam Phủ, Tứ Phủ … – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015
Đạo thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và rất thuần Việt. Nói đến Đạo Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu, tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu, người ta không chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh với một trật tự chặt chẽ ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
ĐẠO MẪU VÀ TÍN NGƯỠNG
THỜ TAM PHỦ, TỨ PHỦ QUA TRẬT TỰ CÁC GIÁ HẦU
(Trích
trong cuốn Vào Chùa Lễ Phật – Những điều cần biết; Đặng Xuân Xuyến; VHTT 2007)
Đạo
thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời và rất thuần Việt. Nói đến Đạo
Mẫu người ta có thể liên tưởng ngay đến việc tôn vinh những vị nữ thần tối cao
mà người ta tôn là Thánh Mẫu hay Quốc Mẫu, tuy nhiên trong đạo thờ Mẫu, người
ta không chỉ thờ riêng các vị Mẫu mà còn tôn thờ cả một hệ thống các vị thánh
với một trật tự chặt chẽ (thể hiện trong các giá hầu đồng khi thỉnh các vị
Thánh Mẫu, Chúa Bà, Quan Lớn, Chầu Bà, Quan Hoàng, Tiên Cô, Thánh Cậu...).
Trong
các đền phủ của Đạo Mẫu, luôn có rất nhiều ban thờ các vị thần thánh, nhất là
NGỌC HOÀNG (thờ cúng với hai vị quan ở hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu), tuy
nhiên khi thỉnh đồng người ta không thỉnh NGỌC HOÀNG mà người ta chỉ thỉnh các
vị thánh sau:
A. TAM TÒA THÁNH MẪU:
Nếu
không kể đến Ngọc Hoàng thì ba vị Thánh Mẫu là ba vị Thánh tối cao nhất của đạo
Mẫu. Khi hầu đồng người ta phải thỉnh ba vị Thánh Mẫu trước tiên rồi mới đến
các vị khác, tuy nhiên khi thỉnh mẫu người hầu đồng không được mở khăn phủ diện
mà chỉ đảo bóng rồi xa giá, đó là quy định không ai được làm trái, và sau giá
mẫu, từ hàng Trần Triều trở đi mới đựoc mở khăn hầu đồng. Theo tín ngưỡng cổ
thì ba giá Mẫu hóa thân vào ba giá Chầu Bà từ Chầu Đệ Nhất đến Chầu Đệ Tam, nên
coi như Ba giá Chầu Bà là hóa thân của Ba giá Mẫu.
Ba
giá Mẫu trong Tứ Phủ gồm:
1.Mẫu
Đệ Nhất Thiên Tiên: Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa hay chính là Công Chúa Liễu
Hạnh. Đền thờ Mẫu Liễu có ở khắp mọi nơi nhưng quần thể di tích lớn nhất là Phủ
Dày, Vụ Bản, Nam Định (Mở hội ngày 3/3 âm lịch), tương truyền là nơi Mẫu hạ
trần với các đền phủ như Phủ Chính, Phủ Công Đồng, Phủ Bóng, ngoài ra còn có
Đền Sòng ở Thanh Hoá, Phủ Tây Hồ ở Hà Nội.
2.
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn: Đông Cuông Công Chúa. Tương truyền là vị Thánh Mẫu cai
quản Thượng Ngàn (rừng núi). Đền thờ chính Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là Đền Đông
Cuông, Tuần Quán thuộc tỉnh Yên Bái
3.
Mẫu Đệ Tam Thoải Cung: Xích Lân Long Nữ. Tương truyền là vị Thánh Mẫu, con Vua
Bát Hải Động Đình, cai quản các sông suối, biển, các mạch nước trên đất Nam
Việt. Người ta thường lập đền thờ bà ở các cửa sông, cửa biển để cầu cho biển
lặng sóng yên.
B. CHƯ VỊ TRẦN TRIỀU
Dân
gian ta có câu
"Tháng
tám hội Cha, tháng ba hội Mẹ"
Mẹ
ở đây là Mẫu Liễu Hạnh, còn Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, cùng với một số giá
gọi là hàng Trần Triều. Tuy nhiên theo tín ngưỡng dân gian thì bên Đạo Mẫu (Tam
Tòa Thánh Mẫu) và bên Trần Triều rất kị nhau, vì thế phải là người đồng nào có
căn mạng thì khi hầu đồng mới thỉnh và hầu về các giá Trần Triều sau giá Mẫu,
còn không thì thông thường người ta không thỉnh về hàng Trần Triều.
Chư vị Trần Triều gồm:
Chư vị Trần Triều gồm:
1.Đức
Thánh Ông Trần Triều: Hưng Đạo Đại Vương, được tín ngưỡng dân gian tôn làm Đức
Thánh Trần, giúp dân sát quỷ trừ ma, trừ dịch bệnh, thế nên ở đâu có giặc dã
dịch bệnh thì đều cầu đảo Ngài tất đựoc linh ứng. Khi hầu đồng về giá này, thanh
đồng (người hầu đồng) mặc áo bào đỏ thêu rồng, tay cầm thanh đao, ngoài ra theo
một tục cổ, khi hầu về giá Đức Thánh Trần Triều, người hầu đồng còn cầm dải lụa
đỏ rồi mô phỏng động tác thắt cổ. Đền thờ Ngài cũng có ở rất nhiều nơi nhưng
lớn nhất vẫn là đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương với hội mở ngày 20/8 âm lịch.
2.
Đệ Nhất Vương Cô: Cô là con gái lớn của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc
áo đỏ thêu rồng, đội khăn đóng, vấn khăn đỏ phủ lên, tuy nhiên có ít người hầu
giá này mà chỉ hay hầu về Đức Thánh Trần và Đệ Nhị Vương Cô.
3.
Đệ Nhị Vương Cô: Cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương. Khi về đồng hay mặc
áo xanh thêu rồng, đội khăn đóng, vấn khăn xanh phủ lên, có kiếm cờ giắt sau
lưng, hai tay cũng cầm kiếm và cờ, theo quan niệm, cô cũng là người có phép sát
quỷ trừ tà, người hầu về giá này thường đốt một bó hương rồi cho vào miệng ngậm
tắt lửa gọi là tiến lửa hay ăn lửa để tróc tà.
C. TAM VỊ CHÚA MƯỜNG
Trên
Toà Sơn Lâm Sơn Trang có 18 Chúa Bói, 12 Chúa Chữa, nhưng khi hầu đồng, chỉ
thỉnh ba vị tối thượng gọi là Tam Vị Chúa Mường, ba vị Chúa này là những người
phụ nữ nhân đức, cả đời làm việc phúc giúp dân chúng và triều đình nên được
người đời nhớ ơn và lập đền thờ.
Tam
vị Chúa Mường gồm:
1.
Chúa Đệ Nhất Thượng Thiên: Bà là người giúp vua trị quốc an dân, (Chúa Đệ Nhất
Tây Thiên) hơn nữa theo quan niệm tín ngưỡng thì bà là người nắm giữ sổ Tam
Tòa, trông coi mọi việc nên được tôn làm Chúa Thượng, ngoài ra thì những người
có tài cúng lễ đều là do bà dạy và ban lộc nên đều phải do bà Chúa Thượng dạy
đồng. Tuy nhiên Chúa Đệ Nhất rất ít khi ngự đồng. Thông thường, trong lễ khai
đàn mở phủ mà có dâng đàn Chúa Bói thì người ta thường thỉnh bà về chứng tòa
Chúa Đệ Nhất. Khi ngự đồng, chúa mặc áo đỏ (áo lụa thêu phượng hoặc áo gấm),
cầm quạt khai quang. Chúa Tây Thiên không có đền thờ chính mà chỉ được thờ trên
Đền Hùng thuộc tỉnh Phú Thọ và bà cũng được thờ cận bên Mẫu Tây Thiên ở Tam
Dương, Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhất Tây Thiên là ngày 10
tháng 05 âm lịch (tương truyền là ngày Chúa giáng hạ trần phàm).
2.
Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ (Chúa Nguyệt Hồ): Bà là người có tài xem bói, tương
truyền, mỗi khi đức vua ra trận đều nhờ người đến thỉnh bà bấm đốt tay xem xét.
Trong Tam Vị Chúa Mường thì bà Chúa Nguyệt là bà Chúa Bói danh tiếng bậc nhất
và rất hay ngự đồng. Thông thường, khi có mở đàn Chúa Bói mà không thỉnh được
cả Tam Vị Chúa Mường về ngự thì người ta thường hay thỉnh bà về chứng cả ba tòa
Chúa (màu đỏ, màu xanh và màu trắng) còn bình thường thì Chúa về chứng tòa Chúa
Đệ Nhị. Khi ngự đồng, chúa mặc áo xanh, múa mồi. Đôi khi Chúa về ngự còn dùng
lá trầu quả cau để xem bói, phán bảo trần gian. Chúa Nguyệt Hồ được thờ chính
tại Đền Nguyệt Hồ ở gần ga Kép, chợ Bố Hạ, tỉnh Bắc Giang (tương truyền là
nguyên quán của Bà Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ). Ngày hội chính của Chúa Đệ Nhị
Nguyệt Hồ là ngày 15 và 16 tháng 02 âm lịch.
3.
Chúa Đệ Tam Lâm Thao: Dân gian thành kính gọi bà là Chúa Chữa, Chúa Ót:- Tương
truyền, bà là công chúa, con gái ruột của Vua Hùng, từ bé đã bị hỏng một bên
mắt. Tuy vậy bà vẫn một lòng giúp vua cha trị quốc, bà là người lo việc quân
nhu quân lương trong các cuộc chiến trận, ngoài ra bà còn là người có tài bốc
thuốc nam. Bà đi khắp vùng đem tài năng của mình để cứu giúp dân lành. Bà Chúa
Đệ Tam Lâm Thao cũng là một người có lòng mộ đạo, thường xuyên ăn chay niệm
phật để cầu cho quốc thái dân an. Như hai vị chúa trên, khi người ta dâng đàn
Chúa Bói thì thường thỉnh Chúa về chứng tòa Chúa Đệ Tam. Khi về đồng bà thường
mặc áo trắng, có nơi khi hầu bà thì múa mồi như Chúa Bà Đệ Nhị Nguyệt Hồ, nhưng
có nơi hầu Chúa lại chỉ dùng quạt khai quang. Chúa Lâm Thao được thờ chính tại
Đền Lâm Thao ở Cao Mại, Việt Trì, Phú Thọ (tương truyền là nơi khi xưa chúa lập
kho quân nhu quân lương và bốc thuốc cứu dân). Ngày hội chính của Bà Chúa Đệ
Tam Lâm Thao tương truyền là 25 tháng 12 âm lịch.
D. NGŨ VỊ TÔN ÔNG - CÔNG ĐỒNG QUAN LỚN
Là
các vị quan lớn trong Tứ Phủ, cai quan bốn phương và đều là các vị hoàng tử,
danh tướng, có công với quốc gia. Gọi là Ngũ Vị Tôn Ông vì theo hàng chính là
gồm 5 vị quan lớn, nhưng ở một số nơi khi hầu đồng người ta thỉnh 6 vị sau:
1.
Quan Đệ Nhất: Tương truyền là Tôn Quan Đại Thần, sắc phong tước Công Hầu, ngôi
Thượng Thiên. Khi ngự đồng mặc áo đỏ thêu rồng và chỉ làm lễ tế và chứng sớ
điệp.
2.
Quan Đệ Nhị: Quan Thanh Tra Giám Sát, sắc phong Thái Hoàng. Tương truyền là
người cai quản sơn lâm thượng ngàn, thông tri thiên địa, có thể lệnh sai Hà Bá,
Thủy Thần làm mưa làm gió. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng. Đền thờ Quan Đệ
Nhị là đền Quan Giám, Lạng Sơn. Chính hội là ngày 10 tháng 11 âm lịch.
3.
Quan Đệ Tam: Quan Tam Phủ, Bơ Phủ Vương Quan, sắc phong Thái Tử Đệ Tam, con Vua
Bát Hải Động Đình, là người nắm giữ kỉ cương nơi Long Cung, cai quản các con
sông trên khắp nước Nam. Theo tương truyền thì ông giáng trần cứu dân, trở
thành vị tướng thủy quân tài ba, trong một trận quyết chiến bên sông Lục Đầu,
ông hy sinh, bị giặc chém mất đầu, chiếc đầu bay sang bờ bên kia con sông Lục
Đầu, vì thế mới có hai đền thờ quan hai bên bờ sông Lục Đầu (Hưng Yên) là Đền
Lảnh Giang - nơi thờ mình và Đền Xích Đằng - nơi thờ đầu. Chính hội là ngày 24
tháng 6 âm lịch. Khi ngự đồng mặc áo trắng thêu rồng, tay cầm song kiếm.
4.
Quan Đệ Tứ: Là Quan Khâm Sai, sắc phong Thái Tử Thiên Cung, là người cai quản
Tam Giới Tứ Phủ, mười phương trời đất, kiêm cả đạo phật thiền gia. Khi ngự đồng
mặc áo vàng thêu rồng, cũng chỉ làm lễ và chứng điệp sớ. Tuy nhiên, ít người
hầu đồng về giá này.
5.
Quan Đệ Ngũ: Là Quan Tuần Tranh, sắc phong Công Hầu, là vị tướng tài dưới thời
Hùng Vương 18 cai quản miền duyên hải sông Tranh, giúp vua dẹp giặc Triệu Đà,
tuy nhiên do bị oan khuất nên Ông bị đày về vùng Kì Cùng,Lạng Sơn. Tương
truyền, quan Tuần Tranh là người cai quản thiên binh nhà trời, được nhân dân
thờ phụng ở khắp các cửa sông mà hai ngôi đền lớn nhất là Đền Quan Lớn Tuần
Tranh tại Ninh Giang, Hưng Yên (là nơi quê nhà) ở bên bờ sông Tranh và Đền Kì
Cùng, Lạng Sơn (là nơi ông bị đày) bên bờ sông Kì Cùng có cây cầu Kì Lừa. Khi
ngự đồng mặc áo lam thêu rồng cầm long đao để giúp dân tróc quỷ trừ tinh, tế độ
sinh linh. Ngày mở hội là ngày 25 tháng 5 âm lịch, là ngày Ông bị đi đày.
6.
Quan Điều Thất: Là hàng Quan thứ 7, giá Quan này chỉ một số nơi mới thỉnh về
ngự đồng (như Hải Phòng, Hưng Yên, Bắc Ninh). Tương truyền, Ngài cũng là con
vua Bát Hải Động Đình, giáng thế giúp dân. Khi ngự đồng mặc áo đỏ điều, thêu
rồng.
E. TỨ PHỦ CHẦU BÀ
Các
vị Chầu Bà trong Tứ Phủ là những phụ nữ nhân đức hay các nữ tướng có công với
dân với nước nên khi từ trần được nhân dân thờ phụng và được tôn thành các vị
Chầu Bà trong Tứ Phủ, được Vua Mẫu giao cho cai quản sông núi và mọi việc nhân
gian.
Hàng
Tứ Phủ Chầu Bà có 12 vị tuy nhiên cũng như ở một số nơi có sự khác nhau, thêm 2
vị nữa vào hàng thứ 3 và thứ 5.
Các
vị Chầu Bà gồm:
1.
Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhất khi thỉnh đồng.
Là vị Chầu tối thượng, đứng đầu hàng Chầu, ngự tại Ngọc Điện, Thượng Giới. Tuy
nhiên cũng ít người mở khăn phủ diện để hầu Chầu Đệ Nhất.
2.
Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Nhị. Bà vốn là Công
Chúa Thiên Thai, giáng hạ để cai quản thượng ngàn và tam thập lục châu. Khi ngự
đồng Chầu mặc áo xanh thêu hoa, đầu vấn khăn xanh, cài trâm hoa, tay cầm mồi
tượng trưng cho bó đuốc. Đặc biệt khi hầu về giá này còn có nghi thức Trình
Trầu: Các đệ tử ai có căn mạng hoặc đã tôn nhang bản mệnh, vào ngày hầu đồng
trong lễ Thượng Nguyên (đầu năm mới), ngồi phủ khăn đỏ, đầu đội mâm trầu cau để
"trước trình Phật Thánh sau trình Vua Cha, trình lên Tứ Vị Vua Bà, trình
đồng Tiên Thánh, trình tòa Sơn Trang, trình lên Thập Vị Quan Hoàng, Tiên Cô,
Thánh Cậu chứng mâm trầu trình". Khi Trình Trầu người ngồi lễ phải đặt lên
mâm trầu cau 12 tờ tiền đồng, tượng trưng dâng lên 12 giá chính của hàng
Chầu Bà là những vị giúp mình được đội trầu. Đền thờ Chầu Đệ Nhị là Đền Đông
Cuông, Tuần Quán, Yên Bái.
3.
Chầu Đệ Tam Thoải Cung: Được coi là hóa thân của Mẫu Đệ Tam, là Lân Nữ Công
Chúa, Ngọc Hồ Thần Nữ, vốn là con vua Thủy Tề, ngự tại Thủy Phủ Thiên Thai chốn
Thoải Cung, Tam Phủ. Bà được coi là người cai quản các sông suối biển hồ mạch
nước trên đất Việt. (Có nơi còn đưa Chúa Thác Bờ vào hàng Chầu Bà và người ta
thỉnh Chúa Thác Bờ sau giá Chầu Đệ Tam hoặc không thỉnh Chầu Đệ Tam mà thỉnh
luôn Chúa Thác Bờ. Tương truyền Chúa Thác Bờ vốn là tiên nữ giáng sinh tại nơi
thắng tích, dạy người Mường biết trồng trọt, đánh bắt cá dưới sông Đà. Khi ngự
đồng có lúc Chúa mặc áo trắng và khăn choàng trắng, có khi lại mặc váy đen áo
trắng đai xanh, bên hông có xà tích bạc, túi dao quai, một tay cầm mồi, một tay
cầm mái chèo. Đền thờ Chúa Thác Bờ là Đền Thác Bờ ở Kim Bôi, Hoà Bình.)
4.
Chầu Đệ Tứ Khâm Sai: Bà được phong danh là Chiêu Dung Công Chúa, giáng thế là
Chầu Bà Khâm Sai giúp dân, có quyền tra sổ Thiên Đình để đổi số nhân sinh...
Khi ngự đồng bà mặc áo vàng thêu rồng, một tay cầm kiếm, một tay cầm cờ để
đi cứu dân. Đền thờ bà là Đền Khâm Sai hay Phủ Bà Đệ Tứ (đền Cây Thị) ở Quý
Hương, An Thái, Vụ Bản, Nam Định.
5.
Chầu Năm Suối Lân: Bà là vị Chầu trên Sơn Trang Thượng Ngàn, trấn cửa rừng Suối
Lân dưới thời Lê Trung Hưng. Khi ngự đồng mặc áo xanh hoặc áo lam thêu hoa đỏ,
đầu vấn khăn chàm tím. Đền Chầu là đền Suối Lân, ngay bên cầu Sông Hóa 2 ở Lạng
Sơn, bên cạnh đền là suối Suối Lân. (Chúa Bà Năm Phương thường đựoc hầu ở Hải
Phòng và được thỉnh trước giá Chầu Năm Suối Lân. Tương truyền, Chúa vốn là Bạch
Hoa Công Chúa, bị trích giáng vào nhà họ Vũ ở cửa Cấm Giang, được giao là người
cai quản bản cảnh ngũ phương trong trời đất. Khi ngự đồng, có lúc mặc cả bộ
trắng, có khi chỉ phủ chiếc khăn phủ diện đỏ làm khăn choàng... Người ta thường
dâng Chúa bộ nón hài và đĩa hoa trắng, trong đàn mã mở phủ phải có một cỗ xe
trắng dâng Chúa Bà. Đền Chúa bà là Đền Cấm, Phố Cấm, Lê Lợi, Hải Phòng.)
6. Chầu Lục Cung Nương: Bà là Lê Triều Lục
Cung Công Chúa trên Thượng Ngàn, cũng như Chầu Năm, bà trấn cửa rừng Chín Tư.
Tương truyền bà có phép hô thần chú làm cả núi rừng chuyển động, tà ma phách
tán hồn xiêu, người trần gian ai không biết mà làm điều trái luân thường đạo
lý, độc ác, sẽ bị Chầu hành cho điên dại. Khi ngự đồng Chầu thường mặc trang
phục gần giống với Chầu Năm Suối Lân. Đền Chầu lập tại rừng Chín Tư, Hữu Lũng,
Lạng Sơn, gọi là đền Lũng, ngày mở hội là 20 tháng 9 âm lịch.
7.
Chầu Bảy Kim Giao: Tương truyền bà cũng là vị Chầu Bà của dân tộc “Mọi”, bà
giúp tộc “Mọi” biết làm ăn buôn bán nên được nhân dân nhớ ơn lập đền thờ. Khi
ngự đồng Chầu mặc áo gấm tím. Đền Chầu là Đền Kim Giao, Mỏ Bạch, Thái Nguyên.
8.
Chầu Tám Bát Nàn: Bà tên thật là Vũ Thục Nương, quê ở Tiên La, Đông Hưng, Thái
Bình. Bà là Nữ Tướng dưới thời Hai Bà Trưng, phất cờ khởi nghĩa tại quê nhà để
trả thù cho tướng công là Phạm Hương và cứu dân thoát khỏi Bát Nạn (8 nạn) nên
nhân dân suy tôn làm Bát Nàn Đại Tướng Quân (Bát Nàn là đọc chệch đi của từ Bát
Nạn), sau này (năm 43 SCN) bà hy sinh tại thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Nhân dân
thương tiếc và lập đền thờ bà ở 2 nơi là Đền Tiên La, Đông Hưng, Thái Bình và
Đền Đồng Mỏ, Lạng Sơn. Khi ngự đồng Chầu Bà mặc áo vàng, đội khăn đóng, sau
lưng giắt kiếm cờ, hai tay cũng cầm kiếm và cờ lệnh xông pha một mình phá mấy
vòng vây. Ngày mở hội lễ bà là ngày 17 tháng 3 âm lịch.
9.
Chầu Chín Cửu Tỉnh: Bà là Chầu Cửu (âm Hán: Cửu Tỉnh là Chín Giếng) cai quản
giếng âm dương điều hòa định thái. Khi ngự đồng Chầu mặc áo hồng, cầm quạt khai
quang. Đền Chầu ngự cũng là đền Sòng ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa.
10.
Chầu Mười Mỏ Ba: Bà là Nữ Tướng trấn giữ ải Chi Lăng, giúp vua Lê Thái Tổ giết
được tướng giặc Liễu Thăng, sau lại giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba, được triều
đình phong công, nhân dân nhớ ơn... Khi ngự đồng Chầu mặc áo vàng, đeo vòng bạc
đai xanh mĩ miều, chân quấn xà cạp, tay cầm kiếm, tay cầm cờ hoặc mồi. Đền Chầu
là Đền Mỏ Ba, lập ngay sát ải Chi Lăng, Lạng Sơn.
11.
Chầu Bé Thượng Ngàn: Đây là tên gọi chung các vị Chầu Bà người Thổ Mường, hầu
hàng thứ 11, được coi là các vị Chầu Bé đành hanh nhưng tài phép, cai quản Tòa
Sơn Trang, có Thập Nhị Bộ Tiên Nàng hầu cận. Khi ngự đồng mặc quầy (váy) xám;
áo (dân tộc thiểu số), đầu chít khăn thổ cẩm, chân quấn xà cạp, vai đeo gùi tay
cầm mồi soi đường.
Có
rất nhiều vị Chầu Bé ở các Đền khác nhau, nhưng người ta hay thỉnh nhất là các
vị sau: Chầu Bé Bắc Lệ, Chầu Bé Đông Cuông, Chầu Bé Đồng Đăng và Chầu Bé Tam
Cờ.
12.
Chầu Bé Thoải Cung: Bà cũng là chầu Bé nhưng là ở dưới Thoải chứ không phải
trên Thượng như các Chầu Bé ở hàng thứ 11 nên được thỉnh riêng đứng hàng thứ
12. Tuy nhiên cũng có rất ít người hầu về giá này.
G. TỨ PHỦ ÔNG HOÀNG
Cũng
như hàng Quan Lớn, các Ông Hoàng cũng là những hoàng tử hay danh tướng có tài
giúp dân giúp nước nên được nhân dân thờ phụng.
Hàng
Ông Hoàng gồm:
1.
Ông Hoàng Cả: Vốn là con Đức Vua Cha, giáng trần mang vẻ lịch sự tươi tốt, độ
cho dân chúng ấm no, hạnh phúc. Khi ngự đồng ông mặc áo đỏ thêu rồng kết thành
hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp, có phủ vỉ lép màu đỏ.
2.
Ông Hoàng Đôi: Còn gọi là Quan Triệu Tường. Ông là danh tướng họ Nguyễn, thời
phù Lê dẹp Mạc, có công lớn với nhà Lê. Khi ngự đồng mặc áo xanh thêu rồng kết
thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp, có phủ vỉ lép xanh, tay cầm lá cờ lệnh to
may bằng vải ngũ sắc. Đền thờ ông là Đền Quan Triệu ở Thanh Hóa.
3.
Ông Hoàng Bơ: Vốn là con vua Bát Hải Động Đình, thường phù trợ cho người làm ăn
buôn bán và những ngư dân đánh cá... Khi ngự đồng ông mặc áo trắng thêu rồng
kết thành hình chữ thọ, đai vàng, đầu đội khăn xếp có phủ vỉ lép trắng, tay cầm
đôi hèo hoa, cũng có khi một tay cầm quạt, một tay cầm mái chèo. Đền thờ ông
thường được lập ở các cửa sông.
4.
Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc: Ông vốn là thương gia bên Trung Quốc, từ nước Đại Yên
sang Nam Việt bán buôn và cứu giúp người nghèo khổ lên được suy tôn làm Ông Bơ
nhưng là Ông Bơ Bắc Quốc để phân biệt với Ông Hoàng Bơ Thoải của Việt Nam. Khi
ngự đồng ông mặc áo tàu đội mũ ô sa. Đền thờ ông là Đền Quan trên Bắc Giang.
5.
Ông Hoàng Bảy Bảo Hà: Ông vốn là con vua Thượng Đế Ngọc Hoàng, giáng vào nhà họ
Nguyễn, người Tày Nùng làm người con thứ 7. Ông là người có công giúp vua Lê
dẹp giặc trên vùng biên giới và giúp dân chúng khai hoang lập ấp, nên sau khi
ông hy sinh trôi dạt vào nơi bên phà Trái Hút, người dân lập đền thờ ông. Khi
ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp phủ
vỉ lép xanh lam, tay cầm đôi hèo hoa phi ngựa đi chấm đồng, nếu người nào được
ông ném cây hèo vào người thì coi như người đó đã được chấm đồng và phải ra hầu
Tứ Phủ, khi ông ngồi ngự có điệu hát dâng trà, rồi cả điệu hát miểu tả khi
thanh nhàn ông ngồi đánh tổ tôm, tam cúc. Đền thờ ông là Đền Bảo Hà, bên bến
phà Trái Hút, thị xã Lào Cai.
6.
Ông Hoàng Mười Nghệ An: Còn gọi là Ông Mười Củi, vốn là thần tiên trong chốn
Đào Nguyên, giáng trần trở thành vị tướng tài dưới thời nhà Lê. Không chỉ giỏi
cầm quân ông còn là người có tài năng về văn chương thơ phú ... Khi ngự đồng
ông mặc áo vàng thêu rồng kết thành hình chữ thọ, đầu đội khăn xếp có vỉ lép
vàng trên đầu, các đệ tử thường lấy tờ tiền cài vào que hương tượng trưng cho
việc dâng ông lá cờ. Những người muốn xuất ngoại, làm ăn buôn bán hoặc học hành
thành công đều đến cửa ông để xin lộc. Đền ông là Đền Chợ Củi, qua cầu Bến
Thủy, bên dòng sông Lam, Nghệ An.
H. TỨ PHỦ TIÊN CÔ
Tứ
Phủ Tiên Cô là một hàng gồm các cô tiên nàng theo hầu cận các Thánh Mẫu, Chúa
Mường, Chầu Bà. Các Tiên Cô là những cô gái đoan trang, liệt nữ, có công với
giang sơn xã tắc nên được nhân dân lập đền thờ phụng.
Tứ
Phủ Tiên Cô gồm:
1.
Cô Nhất Thượng Thiên: Cô là Tiên Nữ trên Ngọc Điện, hầu Vua Mẫu, thường giúp
trần gian có lời kêu cầu tấu thỉnh với các Tòa các giá trong Tứ Phủ. Có khi cô
giáng trần làm phép hóa ra thuốc trị bách bệnh, cũng có Cô Nhất rong chơi khắp
chốn từ Hà Nội, Hải Phòng đến Quảng Bình, Quảng Trị .... Khi ngự đồng cô mặc áo
lụa đỏ thêu hoa phượng, đội khăn đóng phủ vỉ lép đỏ, cài hoa, tay cầm đôi quạt
ngà như để quạt mát cho thế gian. Đền Cô Nhất thuộc tỉnh Nam Định.
2.
Cô Đôi Thượng Ngàn: Cô là Công Chúa Sơn Tinh, là vị Tiên Cô hầu Vua Mẫu ba tòa.
Cô đại tài, tiếng tăm lừng lẫy được Vua Bà yêu thương. Cô có rất nhiều đệ tử.
Khi ngự đồng cô mặc áo lá xanh, đầu vấn khăn kết thành hình hoa, có vấn vỉ lép
xanh, tay cầm mồi. Đền Cô nằm gần Đền Đông Cuông, trước cửa Đền Cô có giếng
nước quanh năm trong vắt. (Có nơi thờ Cô Đôi Cam Đường thay Cô Đôi Thượng Ngàn
với truyền thuyết: Cô là tiên nữ xinh đẹp, giáng sinh ở đất Đình Bảng, Bắc
Ninh, gia đình nối đời buôn bán vải tơ. Cô bán vải từ đường Quan Lộ, Chợ Dầu,
Đình Bảng với đủ các loại tơ lụa, vải sồi, lĩnh tía, chàm xanh, nâu non. Khi
ngự đồng cô mặc áo tứ thân xanh, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao (nón ba
tầm), trên vai là chiếc đòn gánh cong với hai đầu là đôi túi đẫy đựng vải. Tuy
cô quê ở Bắc Ninh nhưng lại hiển thánh tại thị xã Cam Đường, Lào Cai nên nhân
dân nhớ ơn đã lập đến cô là Đền Cô Đôi Cam Đường.)
3.
Cô Bơ Hàn Sơn: Còn gọi là Cô Bơ Bông. Cô là con Vua Thủy Tề hầu trong Cung
Quảng Hàn,rất xinh đẹp, lại đàn hát cũng hay nên được Đức Vương Mẫu phong là
Công Chúa Ba Bông hay Công Chúa Thủy
Cung, cùng quan sứ giả chọn ngày lành để giáng hiện thần tôn thành cô thiếu nữ
đất Hàn Sơn. Khi cô ngự đồng mặc áo trắng pha màu tuyết, đầu đội khăn đóng, vấn
khăn ngang ba màu, tay cầm đôi mái chèo để vân du khắp nơi, cũng có khi cô cầm
dải lụa để đi đo đất đo mây.
Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông ở Hà Trung, Thanh Hóa, ngay cửa sông. Mở hội vào ngày 12 tháng 6 âm lịch.
Đền thờ cô là Đền Cô Ba Bông ở Hà Trung, Thanh Hóa, ngay cửa sông. Mở hội vào ngày 12 tháng 6 âm lịch.
4.Cô
Tư Ỷ La: Theo tài liệu cổ thì cô Tư là Tiên Nữ theo hầu Mẫu Thượng. Cô xinh đẹp
dịu dàng, được Mẫu hết mực yêu quý. Khi thanh nhàn cô thường dạo chơi cảnh Tây
Hồ với chiếc áo lụa vàng tha thướt thêu hoa lá. Cô được thờ trên đền Ỷ La (Tuyên
Quang).
5.
Cô Năm Suối Lân: Cô là Tiên Nàng người dân tộc theo hầu Chầu Năm Suối Lân. Cô ở
Thượng Ngàn, là người cai quản con suối Suối Lân. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh
hoặc áo lam, đầu vấn khăn hình củ ấu và tay cầm đôi mồi lửa. Đền cô là ngôi đền
nhỏ cạnh đền Chầu Năm, bên bờ sông Hóa ở Lạng Sơn.
6.
Cô Sáu Sơn Trang: Cô là Tiên Nàng hầu cận Mẫu Thượng Trang Châu, cũng có nơi
nói cô là người kề cận Chầu Lục Cung Nương và gọi cô là Cô Sáu Lục Cung, nhưng
các tài liệu đều thống nhất cô Sáu là người có tài bốc thuốc cứu người, cô rất
ghét người ăn nói quanh co, điêu ngoa. Khi giáng đồng cô mặc áo lam ngắn vạt,
dài tay, chít khăn xanh, trâm cài, lược dắt, tay cầm bó mồi.
7.
Cô Bảy Kim Giao: Cô theo hầu Chầu Bảy Kim Giao trên đất Thanh Liên, Mỏ Bạch,
Thái Nguyên, cũng là người dân tộc “Mọi”. Cô hiển ứng, đêm đêm mắc võng đào
cùng các bạn tiên ngồi ca hát. Khi về đồng cô mặc áo lụa tím.
8.
Cô Tám Đồi Chè: Cô là thiếu nữ hái chè đất Hà Trung, cũng một lòng giúp vua,
tuy chưa được đền đáp nhưng cô được dân lập đền thờ là đền Phong Mục, Hà Trung,
Thanh Hóa, cách đền Cô Bơ Bông một con sông. Khi ngự đồng cô mặc áo xanh váy
xanh, đầu kết khăn xanh, cô múa mồi rồi múa dáng điệu hái chè.
9.
Cô Chín Sòng Sơn: Còn gọi là cô Chín Giếng, Chín Rồng, Chín Suối, theo hầu Mẫu
Sòng, có tài xem bói và có phép thần thông quảng đại…. Nhân dân cầu đảo linh
ứng liền lập đền thờ là Đền Cô Chín ở Thanh Hóa, cách đền Sòng Sơn khoảng 30km.
Khi ngự đồng cô mặc áo hồng phớt màu đào phai, có khi cô múa quạt tiến Mẫu, múa
cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Lễ vật
dâng cô: Nón đỏ hài hoa vòng hồng... (Có nơi thờ cô Chín Tít Mù thay cô Chín
Giếng nhưng khác ở điểm: Cô Chín Tít Mù ở trên Thượng Ngàn, có tài trị bệnh
bằng nước suối, tuy nhiên cũng rất ít người hầu về giá này. Đền cô Chín Tít Mù
lập ở đường lên Chầu Mười Mỏ Ba, ngôi miếu nhỏ có suối nước thiêng, ai kêu cầu
cô thì dâng cô nón đỏ hoặc nón xanh để xin thuốc chữa bách bệnh.)
10.
Cô Mười Mỏ Ba: Cô theo hầu Chầu Mười Mỏ Ba, giúp vua đánh giặc Ngô. Khi ngự
đồng cô mặc áo vàng cầm cung kiếm, cưỡi trên mình ngựa theo Chầu Bà xông pha
trận mạc. Cô cũng được thờ tại đền Chầu Mười.
11.
Cô Bé Thượng Ngàn: Cũng như Chầu Bé, các vị cô bé đều là những bộ nàng trên Tòa
Sơn Trang, hầu Mẫu Thượng Ngàn. Có rất nhiều cô bé trên khắp các cửa rừng lớn
nhỏ. Các cô về mặc quần áo thổ cẩm, chân quấn xà cạp, đeo kiềng bạc, tay cầm ô,
vai đeo gùi. Các cô bé gồm: Cô Bé Thượng Ngàn (Thị Xã Lạng Sơn), Cô Bé Suối
Ngang (Hữu Lũng), Cô Bé Đèo Kẻng (Thất Khê), Cô Bé Đông Cuông (Yên Bái), Cô Bé
Tân An(Lào Cai), Cô Bé Cây Xanh (Bắc Giang), Cô Bé Nguyệt Hồ (Bắc Giang), Cô Bé
Minh Lương (Tuyên Quang), Cô Bé Cây Xanh (Tuyên Quang) và Cô Bé Thác Bờ (Hòa
Bình)
12.Cô
Bé Thoải Phủ: Cô Bé ngự dưới tòa Thoải Phủ, chỉ tráng bóng chứ không mở khăn,
đứng hàng 12 trong các cô.
K. TỨ PHỦ THÁNH CẬU
Là
các vị cậu chết trẻ, tinh nghịch, thường phù hộ cho các gai đình buôn bán cũng
như những người muốn cầu học hành. Tứ Phủ Thánh Cậu gồm:
1.
Cậu Hoàng Cả
2.
Cậu Hoàng Đôi
3.
Cậu Hoàng Bơ
4.
Cậu Bé
a, Cậu Bé Đồi Ngang (Cậu Hoàng Quận)
b, Cậu Bé Đồi Non
Ngoài
ra ở mỗi bản đền lại có một cậu bé coi giữ gọi là cậu bé bản đền, trong đó
thường hay ngự đồng như: Cậu Bé Phủ Bóng, Cậu Bé Đông Cuông....
Các
cậu về (ngự đồng) thường mặc áo cánh các màu ứng với mỗi giá, đầu vấn khăn, hai
bên tay thường có hoa cài, chân quấn xà cạp, đi giày thêu. Các cậu về thường
làm lễ tấu rồi đi hèo hoặc múa lân.
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 06.6.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét