Tìm hiểu về Ngũ Hành Tương Sinh – Bài viết Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015
Khi nghe nói Ngũ hành tương sinh, ví dụ như
Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim thì hiểu
nôm na là hành này bồi đắp, nuôi dưỡng cho hành kia được lớn mạnh và phát
triển. Chẳng hạn hành Kim nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Thủy lớn mạnh và phát
triển, hành Thổ nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Kim lớn mạnh và phát triển...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
TÌM
HIỂU VỀ NGŨ HÀNH TƯƠNG SINH
(Trích trong TỬ
VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)
Khi nghe nói Ngũ hành tương sinh, ví dụ như
Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim thì hiểu
nôm na là hành này bồi đắp, nuôi dưỡng cho hành kia được lớn mạnh và phát
triển. Chẳng hạn hành Kim nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Thủy lớn mạnh và phát
triển, hành Thổ nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Kim lớn mạnh và phát triển...
Giải thích về ý nghĩa của Ngũ hành tương
sinh, có thể hiểu đơn giản như sau:
- Mộc sinh Hỏa: Mộc là cây cối, có Hỏa ẩn
phục bên trong, xuyên thủng Mộc sẽ sinh ra Hỏa. Vì thế mới nói Mộc sinh Hỏa.
- Hỏa sinh Thổ: Hỏa đốt cháy cây cối thành
tro, tức là Thổ. Vì thế mới nói Hỏa sinh Thổ.
- Thổ sinh Kim: Kim bị vùi lấp trong đất đá
nên có Thổ tất có Kim. Vì thế mới nói Thổ sinh Kim.
- Kim
sinh Thủy: Khí của Kim chảy ngầm trong núi, hoặc nhiệt độ làm kim loại nóng
chảy. Vì thế mới nói Kim sinh Thủy.
- Thủy sinh Mộc: Nhờ có nước mà cây cối
sinh trưởng được nên mới nói Thủy sinh Mộc.
Khi tìm hiểu về nguyên lý của Ngũ hành, cũng
cần lưu ý một điều: Không phải cứ tương sinh là được tốt, mà phải hiểu Ngũ hành
tương sinh được coi như là tốt giữa hai hành đó với nhau.
Trong mối quan hệ tương sinh đó sẽ có hai
tình trạng sinh xuất và sinh nhập chứ không thể cùng tình trạng là sinh xuất
hay sinh nhập. Có nghĩa, sự tương sinh chỉ có tính chất một chiều.
Chẳng hạn: Kim sinh Thủy chứ Thủy không
sinh Kim, Thổ sinh Kim chứ Kim không sinh Thổ.
Cũng có quan điểm cho rằng, sự tương sinh
sẽ diễn ra hai chiều. Chẳng hạn: Mộc sinh Hỏa và Hỏa cũng có thể sinh Mộc. Quan
điểm này được lập luận: Thủy sinh Mộc bởi nước đã giúp đất bớt khô, làm cho cây
cối sinh trưởng tốt, còn Hỏa làm cho trời nóng, cây cối khỏi cóng rét nên cũng
có thể nói Hỏa sinh ra Mộc. Quan điểm này không thực tế bởi cách lập luận như
thế thật hết sức miên man, khiên cưỡng nên không thuyết phục.
Quan hệ sinh một chiều sẽ dẫn đến có sự
khác biệt giữa hai hành trong mối tương sinh đó. Cái này sinh cho cái kia thì
đó là sự sinh xuất, có nghĩa tình trạng sinh xuất sẽ thể hiện sự thua thiệt,
vất vả để phù trợ cho cái được sinh (tình trạng sinh nhập). Cái này được sinh
do cái kia sẽ được lợi, được phù trợ do cái kia đem lại. Hiểu nôm na, đơn giản:
hành sinh xuất là cha mẹ, hành được sinh là con cái. Vì cha mẹ sinh ra con cái
nên hết lòng vì con cái, bồi đắp và nuôi dưỡng cho con cái phát triển, còn con
cái, được cha mẹ sinh thành, dưỡng dục nên người, sau này sẽ báo đền ơn nghĩa
của cha mẹ, tuy nhiên, sự báo đáp đó không thể ngang bằng với công lao trời
biển của bố mẹ.
So sánh như vậy để bạn đọc dễ hình dung về
mối quan hệ Ngũ hành tương sinh, dễ đưa ra lời kết luận khi nghiên cứu về vấn
đề này, đặc biệt là trong văn hóa tín ngưỡng như Tử vi, Lý số...
Trong quan hệ vợ chồng, sự tương sinh giữa
hai bản mệnh là rất cần thiết vì có sự tương sinh thì vợ chồng mới yêu thương,
hòa thuận, mới cùng nhau vun đắp cuộc sống gia đình được viên mãn. Tuy nhiên,
bản mệnh của người vợ phải ở tình trạng sinh xuất cho bản mệnh của người chồng
thì sự tương sinh ấy mới thật sự là tốt đẹp, hoàn mỹ. Sự sinh xuất đó sẽ giúp
người chồng gặp nhiều may mắn, con đường công danh, sự nghiệp của người chồng
sẽ ít gặp những trắc trở, hoặc nếu có gặp thì sẽ dễ dàng vượt qua. Trường hợp
này, dân gian gọi là người có số vượng phu ích tử. Ngược lại, bản mệnh người vợ
được sinh nhập từ bản mệnh của người chồng thì người vợ sẽ được người chồng yêu
thương, chở che, bao bọc. Vì ở tình trạng sinh xuất nên người chồng không
nhận được sự giúp đỡ của vợ, dù chỉ là “nhờ lộc tuổi của vợ” ... Dù sao, bản
mệnh của hai vợ chồng rất cần có sự tương sinh về ngũ hành để cuộc sống gia
đình được hạnh phúc.
Vì có tính chất Âm (-), Dương (+) của Ngũ
hành nên khi nói đến tương sinh, cần chú ý đến nguyên tắc về Âm - Dương của 2
hành tương sinh đó. Sự tương sinh chỉ sảy ra khi hai hành đó có tính chất
Âm (-), Dương (+) khác nhau, ví dụ:
Âm Kim sinh Dương Thuỷ
Dương Thổ sinh Âm Kim
chứ nhất quyết không có chuyện:
Âm Kim sinh Âm Thuỷ
Dương Thổ sinh Dương Kim
Có quan điểm cho rằng: Sự tương sinh chỉ
sảy ra một chiều, theo hướng khí Âm (-) sinh khíĐương (+), chứ không thể khí
Dương (+) sinh khí Âm (-). Chẳng hạn: cùng là Thổ và Kim nhưng chỉ có Âm Thổ
sinh Dương Kim, chứ Dương Thổ không sinh được Âm Kim. Quan điểm này không chấp
nhận được vì đã hiểu không đúng về nguyên lý Âm Dương trong dịch lý. Cổ nhân
nói: Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, Âm cực sinh Dương và Dương cực
sinh Âm. Ví dụ: Không khí là Dương, nước là Âm. Trong không khí (Dương) có hơi
nước (Âm) và trong nước (Âm) có bọt khí (Dương).
Dịch lý cho rằng: Âm Dương thuận lý (tức là
khí Âm (-) và khí Dương (+) dung nạp, hòa hợp nhau) để biến sinh ra vạn vật,
con người. Triết lý Âm - Dương khẳng định: Âm và Dương là hai thực thể ngoại
tại, tự thân chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ: Không khí khi gặp lạnh sẽ tạo thành
mưa, nước khi gặp nóng sẽ bốc hơi tạo thành khí; hoặc hết ngày thì đến đêm, hết
mưa thì sẽ nắng.... Vì thế, quan điểm cho rằng chỉ có khí Âm (-) mới sinh được
khí Dương (+) còn khí Dương (+) không thể sinh được khí Âm (-) là sai với
thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Bên cạnh việc căn cứ vào Âm Dương của Ngũ
hành, cần phải cân nhắc, xem xét đến yếu tố thứ 3 là bản chất lý tính của Ngũ
hành (tức nạp âm thủ tượng, còn gọi nạp âm ngũ hành) của các hành đó để đưa ra
kết luận: Thực chất mối quan hệ tương sinh của các hành đó như thế nào? Không
thể cứ thấy đặc tính Ngũ hành tương sinh là khẳng định luôn các hành đó tương
sinh, cũng không thể chỉ thấy thuận lý Âm (-) Dương (+) thì cho rằng như thế là
được.
Biết rằng Thủy sinh Mộc nhưng phải biết đó
là Thủy gì, Mộc gì ... chứ không thể cứ thấy Thủy với Mộc là khẳng định đó là
tương sinh. Phải biết bản chất lý tính của các hành đó là gì để căn cứ mà luận
giải. Chẳng hạn Bình Địa Mộc (Mậu Tuất - Kỷ Hợi: Cây đất bằng) rất cần có Thiên
Hà Thủy (Bính Ngọ - Đinh Mùi: nước mưa trên trời) tưới xuống để tốt tươi, lớn
mạnh, ngược lại, nếu Bình Địa Mộc gặp Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất - Quý Hợi: Nước
biển rộng) thì cây non mới đâm cành trổ lá làm sao mà tồn tại nổi.
Tương tự như vậy, khi nói Hỏa sinh Thổ cũng
không thể hiểu Hỏa nào cũng sinh được Thổ, ví dụ, Thiên Thượng Hỏa (Mậu Ngọ -
Kỷ Mùi: Lửa trên trời) không sinh được Bích Thượng Thổ (Canh Tý - Tân Sửu: Đất
trên vách) mà còn làm cho Bích Thượng Thổ bị hủy diệt.
Ngay cả khi bản chất lý tính của Ngũ hành
được tương sinh nhưng chắc chắn sẽ có ý kiến khác nhau, thậm chí còn trái
ngược. Chẳng hạn, lấy tuổi Mậu Tuất với tuổi Bính Ngọ làm ví dụ.
- Ý kiến thứ nhất cho rằng rất đẹp vì được
tương sinh hai cấp độ (đặc tính và lý tính).
- Ý
kiến thứ hai cho rằng không được đẹp lắm vì không thuận lý Âm Dương.
- Ý kiến thứ ba cho rằng bình thường, vì
Ngũ hành từ khí mà ra nên Âm (-) Dương (+) là quan trọng. Dù được tương sinh ở
2 cấp độ nhưng sự nghịch lý Âm (-) Dương (+), coi như vứt bỏ.
Đây chính là sự phức tạp của thuyết Âm
Dương Ngũ hành, làm cho người mới tìm hiểu, tiếp cận với Lý số học sẽ như lạc
vào một trận đồ bát quái, khó tìm được đường ra.
Như vậy, mối quan hệ tương sinh của Ngũ
hành không đơn giản như cách hiểu nôm na theo sơ đồ tương sinh đã nêu ở trang
trước, mà khá phức tạp. Cũng lưu ý rằng, khi tìm hiểu về Ngũ hành tương sinh,
bạn đọc nhất định phải chú ý đến 3 yếu tố sau:
1. - Đặc tính của Ngũ hành và tình trạng
sinh xuất - sinh nhập.
2. - Tính chất Âm - Dương của Ngũ hành.
3. - Bản chất lý tính của Ngũ hành (còn gọi
là nạp âm Ngũ hành).
Trong dân gian, có quan điểm cho rằng chỉ
cần yếu tố thứ (3) là đủ, không cần thiết phải thêm 2 yếu tố (1) và (2), vì như
thế chỉ thêm phức tạp, rối rắm. Nhưng cũng có quan điểm lại chú trọng tới yếu
tố (1) và (2), bỏ qua hoàn toàn yếu tố nạp âm của Ngũ hành vì cho rằng như thế
chỉ tăng thêm sự rối ren không cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, sự kết
hợp cả 3 yếu tố là điều cần thiết, không nên coi nhẹ bất kỳ yếu tố nào.
Chúng ta đều biết nạp âm Ngũ hành là sự
phân chia ra 30 hành chi tiết của 5 hành cơ bản, để giải thích những sự phức
tạp của quá trình sinh - khắc một cách hợp lý hơn khi áp dụng năm sinh để dự
báo sự xung - hợp của tính tình con người.
Chúng tôi nghĩ rằng: Trong các trường hợp,
khi bản chất lý tính của ngũ hành được xác định rõ ràng (nạp âm ngũ hành), thì
sự kết hợp cả 3 yếu tố để luận giải sẽ tăng thêm độ chính xác, tin cậy của lời
giải đoán, nhưng trong các trường hợp khác, khi lý tính của ngũ hành không thể
xác định thì việc cân nhắc 2 yếu tố (1) và (2) là điều tiên quyết. Chẳng hạn,
khi luận giải về giá trị của các sao trong lá số tử vi, người luận giải đương
nhiên phải căn cứ vào đặc tính ngũ hành của các sao và vị trí Âm Dương của các
sao để đưa ra lời kết luận. Trong những trường hợp như vậy, chỉ chú trọng tới
yếu tố thứ 3 sẽ làm cho người đoán giải hoàn toàn rơi vào bế tắc.
Chúng tôi đưa ra nguyên tắc hội tụ 3 yếu tố
trên để bạn đọc linh hoạt trong từng trường hợp. Chúng tôi cũng sẽ không đề cập
lại vấn đề này khi bàn về Ngũ hành tương khắc, tương hòa hay quy luật chế hóa
của Âm Dương ngũ hành ở những trang sau.
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 11.9.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét