Home
» Lý luận phê bình
» Phạm Khang: Thơ và những lời bàn thời thế để đời của nhà sử học Lê Văn Hưu
Phạm Khang: Thơ và những lời bàn thời thế để đời của nhà sử học Lê Văn Hưu
Thứ Hai, 18 tháng 1, 2016
Lê Văn
Hưu (1230 – 1323), người làng Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, là nhà sử học đầu tiên nổi tiếng ở nước ta. Lê Văn Hưu thuộc đời thứ
7 của ông Trấn quốc Bộc xạ Lê Lương thời Đinh – Lê đã nổi tiếng hào trưởng vùng
Châu Ái. Không những giỏi về lịch sử, ông còn được biết đến là nhà văn có tài.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Nhà thơ Phạm Khang
Họ tên thật Phạm Xuân Khang
Hội viên Hội VHNT Thanh Hóa.
đã xuất bản 9 tập thơ, 4 tiểu thuyêt, 1 tập ký sự.
Học văn tại Nga. Dịch giả văn học thế giới.
ĐT: 0122.220.69.89
Email: phamkhangnhavan@gmail.com
_____
THƠ VÀ NHỮNG LỜI BÀN THỜI THẾ ĐỂ ĐỜI
THƠ VÀ NHỮNG LỜI BÀN THỜI THẾ ĐỂ ĐỜI
CỦA NHÀ SỬ HỌC LÊ VĂN
HƯU
Lê Văn Hưu (1230 – 1323), người làng Phủ Lý,
xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, là nhà sử học đầu tiên nổi
tiếng ở nước ta. Lê Văn Hưu thuộc đời thứ 7 của ông Trấn quốc Bộc xạ Lê Lương
thời Đinh – Lê đã nổi tiếng hào trưởng vùng Châu Ái. Không những giỏi về lịch
sử, ông còn được biết đến là nhà văn có tài. Thuở nhỏ chăm học, thông minh.
Chuyện kể rằng, lúc còn nhỏ đi học qua lò rèn ở chợ, ông thấy dùi sắt muốn xin,
thợ rèn ra vế đối, Lê Văn Hưu đối lại lưu loát, ông thợ rèn thích chí bèn
thưởng cho cái dùi đóng sách vở và tiền: “Than
trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò làm nên dùi vở;
“Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi,
viết lúi húi thi đậu trạng nguyên”.
Năm
1247, nhà Trần mở khoa thi lất ba người đỗ đầu, ông đỗ thứ hai (Bảng nhãn) cùng
với Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Sau ông làm quan ở Viện Hàn lâm, kiêm Giám tu
Viện Quốc sử. Theo lệnh của Vua năm 1272 ông soạn xong bộ Đại Việt sử ký, chép
và luận bàn từ triều Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đây là bộ sử chính thức đầu tiên
ở nước ta được đông đảo các nhà sử học, giới nghiên cứu trong và ngoài nước dựa
vào để soạn lại lịch sử, nghiên cứu về thể chế, chính trị, con người, phong
tục, núi sông… Đại Việt xưa và Việt Nam ngày nay.
Khi
làm sử nước nhà, Lê Văn Hưu đã thể hiện một quan điểm thẩm mỹ bằng một ngòi bút
giàu cảm xúc và gây xúc động cho người đọc. Ông luôn tôn trọng và tự hào với
những công lao gian khổ, oanh liệt của cha ông trong quá khứ. Lê Văn Hưu nhiệt
liệt ca ngợi hành động anh hùng của Hai Bà Trưng “hô một tiếng mà Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành ở
Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng” đáng để cho
“những bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay chịu làm tôi tớ cho ngườiphương Bắc”
phải nhìn vào mà hổ thẹn. Ông ca ngợi Ngô Vương Quyền lần đầu tiên khai sáng
nền tự chủ cho dân tộc, người mà chỉ “một
cơn giận làm yên được dân nước mình, mưu đã hay mà đánh cũng hay”. Là người
mang hoài bảo to lớn với yêu cầu thống nhất quốc gia, ông tán thưởng công lao
dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Tiên Hoàng gom non sông về một mối. Ông so sánh kỳ
tích đánh giặc Tống và tiễu trừ nội loạn của Lê Đại Hành với sự nghiệp xây dựng
đất nước, cố kết lòng dân, sáng suốt trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ “làm cho lòng người vui vẻsuy tôn, làm cho
vận nước dài lâu” với tinh thần khách quan, tự hào dân tộc mãi lưu danh. Lê
Văn Hưu có nhiều bình luận trong sử rất độc đáo và rất hay. Dưới đây chúng tôi
xin trích dẫn một vài bình luận tiêu biểu được nhà nghiên cứu Hán – Nôm Bùi Vĩ
tổng hợp:
1.“Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua,
bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ…bất giác cảm thấy hổ thẹn…Xin trời vì
nước Việt ta sớm sinh thánh nhân, tự làm hoàng đế nước nhà, để khỏi bị người
phương Bắc cướpvét.” (Lời bàn về thời ngàn năm Bắc thuộc).
2.“Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của
nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Thao, mở nước xưng
Vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một lần nổi
quân mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng Vương, chưa
lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu
đã được nối lại.” (Lời bàn về sự nghiệp tự chủ của Ngô Vương Quyền).
3.“Đinh Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt
hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các
hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở
nước, dựng đô, đổi xưng Hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ dần đầy
đủ, có lẽ ý trời vì nước Việt mà lại sinh ra bậc thánh triết để tiếp nối quốc
thống của TriệuVương chăng?” (Lời bàn về sự nghiệp thống nhất đất nước của
vua Đinh Tiên Hoàng).
4.“Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc,
tóm quân Biện Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà
bờ cõi định yên. Công đánh dẹp, chiến thắng, dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng
không hơn được.” (Lời bàn về sự nghiệp của vua Lê Đại Hành).
5.“Lê Ngọa triều giết anh, tự lập làm vua, bạo
ngược với dân chúng để thỏa lòng hung ác đến nỗi mất nước, mất ngôi, không phải
là sự bất hạnh của nhà Lê mà lỗi ở Lê Đại Hành không sớm đặt Thái tử và do
Trung Tông không biết giữ từ khí mới chớm nên đến nỗi thế.” (Lời bàn phê
phán Lê Hoàn không biết dạy con).
6.“Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm, Tông
miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đã dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức,
lại trùng tu chùa quán ở các lộ và độ cho làm tăng hơn ngàn người ở kinh sư,
thế thì tiêu phí của cải và sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà
kể. Của cải không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há
chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là việc làm
phúc chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn lo con cháu xa xỉ lười
biếng, thế mà Lý Thái Tổ để phép lại như thế, chả trách đời sau xây tháp cao
ngất trời, dựng cột chùa đá, điện thờ phật lộng lẫy hơn cung vua. Rồi người
dưới bắt chước, có kẻ hủy thân thể, đổi lối mặc, bỏ sản nghiệp, trốn người
thân, dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước lúc nào cũng chùa chiền, nguồn
gốc há chẳng phải từ đây.” (Lời bàn phê phán Lý Công Uẩn lãng phí của nước,
vơ vét của dân khiến cho đất nước bị chìm đắm vào thờ Phật).
7.“Phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc
được người hiền tài, đức độ và được mùa, ngoài ra không có gì đáng gọi là điềm
lành cả. Huống chi, chim quý, thú lạ, không nuôi ở Quốc đô, cũng là lời khuyên
răn của các vua đời trước để lại. Thần Tông nhân Nguyễn Lộc và Nguyễn Tử Khắc
dâng hươu trắng cho là vật điềm lành, cho Lộc tước Đại Liêu Ban, cho Tử Khắc
tước Minh Tự thì cả người thưởng và người nhận đều sai cả.
Tại sao vậy? Thần Tông vì dâng thú mà cho
quan tước, thế là lạm thưởng, Lộc và Khắc không có công mà nhận thưởng, thế là
dối vua.(Lời
bàn phê phán việc ban thưởng, lối xu nịnh không công bằng).
Những lời bàn trên của Lê Văn Hưu đến nay mỗi chúng ta khi đọc đều có
thể lấy đó để tự răn mình, học tập và đặc biệt là vẫn nguyên tính thời sự của
nó. Chao ôi! Cái đen trắng, nguy cơ vẫn luôn song hành trong một xã hội hiện
đại mà nhiều lúc nhớ lại, ngẫm ra ta không khỏi giật mình, đau đớn và sợ
hãi.
Lại
nói về chuyện văn chương, Lê Văn Hưu để lại bằng văn bản học các tác phẩm của
ông không nhiều. Nổi bật lên vẫn là bài thơ “Tây hồ huyệt” (theo sách “Nho thần
di cảo”), ở đó ông cảm thán, gửi niềm tâm sự trong cái thế thái nổi trôi nhân
tình, cuộc thế bể dâu tan tan… hợp hợp:
Tây Hồ huyệt
(Phiên âm)
Tây Hồ nguyệt bang
Ngũ du thủy chí
Thế sự phân long
Khí chung thành tượng
Hưu hà vô yên?
Hoa phi lưỡng dạng,
Mục nhàn đắc châu
Văn sư vũ hạng…
Sơn phong phù cung,
Thủy hội đương tiến,
Xứ giai hữu huyệt
Văn võ lưỡng toàn.
Bản dịch của Bùi Vĩ:
Huyệt táng ở Tây Hồ
Tây Hồ
trăng soi
Năm dòng nước tới
Thế tựa chia rồng
Khí hun đúc tượng
Cớ sao không yên?
Hoa bay đôi dạng
Mắt nhàn được châu,
Văn tài, võ tướng…
Ngọn núi phò cung
Nước về đương tiến,
Xứ đều có huyệt,
Văn võ song toàn.
Cuối đông 2015
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Thanh Hóa ngày 18/01/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét