Phạm Công Thiện kỳ tuyệt một thiên tài – Bài viết Tâm Nhiên (KG)
Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2019
Có
những con người đến rồi đi qua mặt đất, trần gian này như một cơn giông tố bão
bùng, sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh
khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo
như vậy. Đấy là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ
kỳ tuyệt thiên tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong
một thư gởi Phạm Công Thiện, đề ngày 8.8.1966: “Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng
văn chương ở một đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài.
Điều đó thật phi thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.”
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Trước 1975: Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn
Sau 1975: Cao đẳng Sư phạm Quy Nhơn
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ : 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
PHẠM CÔNG THIỆN KỲ TUYỆT MỘT THIÊN TÀI
Bài
viết Tâm Nhiên
Tưởng niệm 8 năm ngày mất của ông!
(08/3/2011-08/3/2019)
***.
Có
những con người đến rồi đi qua mặt đất, trần gian này như một cơn giông tố bão
bùng, sấm sét, gây chấn động kinh hồn, làm bùng vỡ một điều chi kỳ vĩ, tinh
khôi trên bầu trời tâm thức nhân loại, Phạm Công Thiện là một con người độc đáo
như vậy.
Đấy
là một giáo sư, tư tưởng gia, nhà văn, nghệ sỹ hay một thi sỹ kỳ tuyệt thiên
tài, như đại văn hào Henry Miller từ Hoa Kỳ đã phát biểu trong một thư gởi Phạm
Công Thiện, đề ngày 8.8.1966: “Mới ở tuổi 25 mà là khoa trưởng văn chương ở một
đại học nổi tiếng trong xứ sở của ông, quả nhiên là thiên tài. Điều đó thật phi
thường quá, quả thật khó tin, thật như chuyện huyền thoại.”
Đúng
vậy, một con người đã đến và đi như huyền thoại giữa cuộc sống thiên diễn, đầy
biến động trên quê hương đất nước Việt Nam. Làm sao nói về con người kỳ diệu
này? Vào một chiều tháng 6, bắt đầu mùa hạ năm 1941, Phạm Công Thiện ra đời bên
dòng sông thơ mộng Cửu Long, một dòng sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng,
ngút ngàn chảy xuống dọc ven bờ phố thị Mỹ Tho, một thị xã nhỏ nhắn, lặng lẽ
hiền hòa ở miền Nam.
Thi
sỹ lớn lên từ đó, từ thuở nhỏ vốn bẩm sinh thông minh xuất chúng, học một biết
mười, đến độ thông thạo nhiều ngôn ngữ, đọc hàng đống sách đủ loại Đông Tây kim
cổ… Suốt ngày đêm cứ mặc sức mơ mộng, rong chơi và tha hồ tắm sông lội nước,
nằm ngắm mây trời bay lãng đãng, xa xôi…
Rồi
bất thình lình, đột ngột một hôm vụt đứng dậy, xuất hiện trên văn đàn Việt Nam
như một tài năng kiệt xuất, lỗi lạc, biết nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Hán, Phạn, Pali, Tây Tạng, Tây Ban Nha… Từ thuở mới 13, 14 tuổi, chàng đã có
những bài tiểu luận tham gia, cộng tác với các tạp chí Phổ Thông, Dân Ta, Bông
Lúa, Giữ Thơm Quê Mẹ, Văn, Văn Nghệ, Bách Khoa… Những bài viết triết lý, thi
ca, viết về các nhà thơ, nhà văn trên thế giới, khiến Nguyễn Vỹ (chủ bút tạp
chí Phổ Thông, Dân Ta) và học giả uy tín Nguyễn Hiến Lê đều nể phục, xem là
thần đồng, một hiện tượng vô cùng hy hữu giữa thế kỷ XX.
Năm
1957, mới 16 tuổi đã xuất bản Tự Điển Anh Ngữ Tinh Âm, 20 tuổi viết Ý Thức Mới
Trong Văn Nghệ Và Triết Học, 23 tuổi, viết Tiểu Luận Bồ Đề Đạt Ma, 25, 26 tuổi,
viết Hố Thẳm Tư Tưởng, Im Lặng Hố Thẳm, Ý Thức Bùng Vỡ, Bay Đi Những Cơn Mưa
Phùn, Trời Tháng Tư, Ngày Sinh Của Rắn, Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực, Nikos
Kazantzaki, Rainer Maria Rilke, Henry Miller và dịch thuật từ tiếng Anh, tiếng
Đức những tác giả vĩ đại Krishnamurti, Nietzsche, Heidegger, Rainer Maria
Rilke, Henry Miller, Hoelderlin… làm chấn động toàn thể giới văn nghệ sỹ, trí
thức Sài Gòn, miền Nam thời bấy giờ.
Thời
kỳ ấy, từ 1966 đến 1970, mới 25 tuổi, Phạm Công Thiện đã làm Khoa trưởng Văn
khoa Đại học Vạn Hạnh, đồng thời là giám đốc soạn thảo Chương trình giảng dạy
cho tất cả các phân khoa Xã hội Nhân văn và chủ biên tạp chí Tư Tưởng đã khơi
nguồn mạch sáng tạo, trào dâng chất ngất cho giới văn nghệ. Mở ra thể điệu
phiêu bồng trên cung bậc văn chương, tư tưởng, thiền học, triết lý, thi ca bát
ngát diệu thường.
Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật nổi tiếng, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.
Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn. Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành. Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố Thẳm Tư Tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.
Trước đó, nhà thơ cũng đã từng làm những chuyến giang hồ tứ chiếng, xách túi thơ bầu rượu ngao du sơn thủy qua New York, California, Paris, Thụy Sĩ, Hy Lạp, Ba Tư, Ý Đại Lợi rồi, từng diện kiến, tiếp xúc với những nhân vật nổi tiếng, lừng lẫy trên thế giới như Krishnamurti ở Paris, Henry Miller ở Los Angeles.
Văn chương, nghệ thuật, triết lý, thi ca, những tác giả kỳ cựu, những bậc cao thủ thời đó đều tập trung về Đại học Vạn Hạnh, tạo nên một bầu không khí sinh động vô vàn. Đang là thần tượng của đám sinh viên các Đại học Vạn Hạnh, Văn Khoa, Sài Gòn, Huế, Đà Lạt thì đùng một cái, Phạm Công Thiện bỏ ngang chức Khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, lên đường viễn phương hành. Làm cuộc ra đi vô mục đích, nhảy tung vào Hố Thẳm Tư Tưởng không đáy bồng bềnh, lênh đênh qua tận bên kia bờ đại dương vào năm 29 tuổi, tức năm 1970.
Đó
là lúc Ý Thức Bùng Vỡ làm thay đổi cả một nếp sống bình sinh, hay cũng là một
thái độ phản kháng cuộc chiến tranh tương tàn tương sát, đang diễn ra ở xứ sở
Việt Nam đến độ khốc liệt, kinh hoàng, khủng khiếp nhất trên khắp hai miền Nam
Bắc phân tranh. Cuộc nội chiến làm sụp đổ tan tành, tan hoang hết mọi sự trong
tiêu điều, điêu linh, trầm thống...
Sống
trong thời buổi loạn ly, bị khổn vây bầu không khí ngột ngạt như vậy, một hồn
thơ sâu thẳm, nhạy cảm như chàng làm sao không rơi vào trạng thái cô đơn? Cô
đơn rờn lạnh hiu hắt, lặng buốt cả tim hồn thổn thức, cũng như bao thanh niên
khác, chàng tìm đến tình yêu cho khuây khỏa bớt u sầu.
Yêu
nhau cảm động dường nào để cho lòng xao xuyến, xốn xang, chan chứa một điều chi
da diết, trong tiếng hát liêu trai của nàng ca sỹ yếu gầy. Hình ảnh người ca sỹ
yếu gầy ấy đã đi vào thi ca chàng một cách trữ tình, lãng mạn giữa trầm trầm,
mê mê bóng sương nhòa tha thiết trong hồn lệ rưng rưng:
Cô đơn về trắng sương rừng
Anh nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa run lặng lẽ bên thềm bơ vơ
Tiếng ru vàng xuống đôi bờ
Hoang vu anh đứng đợi chờ chim kêu
Tay gầy ôm chặt tình yêu
Anh về phố gục những chiều hư vô
Đời đi trên những nấm mồ
Đau thương em hát cơ hồ khăn tang
Phố chiều thả bước lang thang
Như con sông nhỏ mơ màng biển xanh
Nửa đêm khói đốt đời anh
Yêu em câm lặng khô cành thu đông
Lời
em như một dòng sông
Đôi bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
Mưa chiều nước chảy triền miên
Một con chim dại lạc miền hoang lương
Về đâu thương những con đường
Lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
Hè
xưa phố cũ tuy buồn bã mà vẫn có một vẻ đẹp não nùng của thứ tình yêu diêu
mang, lãng đãng. Chàng thi sỹ đa tình đa cảm, trót vương mang dáng dấp nàng thơ
gầy guộc, có đôi mắt sầu mộng, u huyền nào đó trên cao nguyên, nghi ngút sương
mù bay trắng cả rừng thông. Cũng có thể, từ bên trời Tây phương nhớ về Đông
phương với bao niềm xót xa không bờ bến. Bềnh bồng, phiêu phưỡng trong tâm
trạng tương tư theo từng cơn gió thổi từ đồi tây sang đồi đông, từ đồi thông
qua đồi thu, suốt mười năm trời mơ mộng, nhớ thương, tưởng vọng trong rưng rức
ngậm ngùi:
Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về theo giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông
Dòng
thơ phơ phất trôi đi, dĩ nhiên là ẩn ngữ chập chùng, bóng bẩy… Thi sỹ thả hồn
mơ mộng, sầu nhớ trong niềm đau nhói buốt chia ly, xa cách người yêu dấu cũ mơ
màng? Bản sầu ca lãng mạn đẹp mơ hồ trong giọng hát vô thanh, mặc sức cho chúng
ta tưởng tượng, hiểu ý thơ theo mỗi cách riêng biệt của mình.
Phải
chăng, đó là cõi thơ huyền mộng, hư ảo, tự thuở nào xa ngút ở trên rừng Phi
Nôm, Đà Lạt hay dưới vùng biển Vạn Giã, Nha Trang? Bỗng nhớ một chiều mưa thấp
thoáng tần ngần, thi nhân rời bãi biển cát trắng, gõ nhịp bước đơn hành, đi về
con đường quanh sườn đồi cao Hải Đức, bỗng sực thấy cây khế bừng rộ hoa tim tím
bên triền dốc đá hoang thưa:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Hoa
nở rồi tàn cũng như những nàng con gái mộng mơ đến rồi đi. Tuy vậy, vẫn còn
quyến rũ mị kỳ, cứ ám ảnh chập chờn, thoang thoảng, phảng phất những làn hương.
Trước ngày lên đường viễn phương hành, thi nhân leo lên đồi Hải Đức, Nha Trang
(nơi ngày xưa vào năm 1963, chàng chán ngán cõi đời đi xuất gia, làm đệ tử thầy
Trí Thủ ở đó, với pháp danh Nguyên Tánh) ngồi một mình trên đồi cao, nhìn xuống
biển cả muôn trùng vắng lặng, lắng hồn cô đơn, tịch mịch để nghe vọng về bao
nỗi đời ly tán, đớn đau, bàng hoàng trong rưng rưng, nhức nhối:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim chiền chiện hót ngang trời đau
thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi
cao bạt gió hai đường âm u…
Âm
u hai đường, đông tây đôi ngã thê lương, còn chi đâu mà nói nữa. Thôi thì cánh
chim ngàn cứ tung bay cho hết bầu trời tính mệnh bao la của mình. “Bổn phận của
mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.”
Văn hào Nikos Kazantzaki đã nói như vậy, cũng như triết gia Heidegger làm những
câu thơ như âm thầm khích lệ thi sỹ lên đường: “Bước tới và chịu đựng. Sự thất
bại và câu hỏi. Trung thành với lối đi duy nhất của mi.”
Thi
sỹ Phạm Công Thiện đã cảm nhận chân thiết lời thơ đó, nên hùng tâm tráng khí,
im lặng thực hiện một cách mãnh liệt cuộc lữ phi thường, khởi sự tấu khúc độc
hành ca trên lộ trình hướng về hố thẳm uyên mặc hay uyên nguyên khơi mở.
Buông
tay vào hố thẳm, mở ra những phương trời hoằng viễn, uyên tư như Rimbaud, Henry
Miller, Nietzsche, như Hoelderlin, Whitman, Blaise Cendras, như Nerval, Van
Gogh, William Blake, như Emerson, Faulkner, Dostoievsky… những đồng thanh tương
ứng với thi sỹ nên luôn luôn xuất thần, ngất trời túy lúy, phóng cuồng ca phiêu
đãng, hoan say. Cháy và chảy, cháy và chảy mãi trong hồn, như một lần lúc 24
tuổi, chàng đã từng nhắn gởi cho giới trẻ thanh niên Việt Nam: “Gởi một người
đọc không quen, cùng cháy một thứ lửa thiêng như tôi, cùng được nuôi bằng một
thứ nước điên nào đó, chảy trôi như tôi, cùng sống như tôi đang sống: Cháy và
chảy, cháy và chảy không ngừng…”*
Không
ngừng trôi chảy, thi nhân làm cuộc lữ lên đường qua Paris, tiếp tục chuyến đi
tuyệt mù viễn xứ vào những phương trời xa lạ. Bước đi một mình một bóng, đơn
thân độc mã quá đỗi phong trần, lang thang suốt muôn chiều phiêu lưu, phiêu
lãng ngàn phương. Hừng hực ngọn lửa thiêng suốt ngày đêm bừng cháy trong trái
tim, đồng thời một dòng sông xanh ngát luôn tuôn chảy bất tuyệt ở trong hồn,
nên chàng thi sỹ đã hào hứng ra đi, tấu khúc viễn hành ca khắp ngàn phương muôn
lối:
Tôi đi đông chìm
Trời âm u thung lũng khô
Nhiều mây chim bay không nổi
Tôi đi
Dưới kia sụp đổ
Núi Cấm nổ tôi ra
Cửu Long ca từ Tây Tạng
Dòng
sông Cửu Long bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, chảy gập ghềnh qua các xứ miền
Miến Điện, Lào, Campuchia và xuôi dòng cuồn cuộn, cuốn lũ phù sa qua Mỹ Tho,
Việt Nam, thành phố quê nhả, một thời tuổi nhỏ của thi sỹ rồi cuối cùng tuôn
tràn ra đại hải, trùng dương. Chính dòng sông Cửu Long ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn
thi nhân nên chàng luôn mang theo rạt rào trôi chảy suốt trong lòng trên khắp
mọi miền viễn xứ.
Như
ngôi sao băng vụt ngang trời, một mình làm cuộc phiêu lưu, vút bay qua Paris,
kinh đô Pháp quốc, có lúc rong rêu sống lưu lạc ở Đức, Do Thái rồi lại về
Paris… Không phải để hưởng thụ vinh hoa phú quý gì mà trái lại, tự nguyện sống
không nhà, không cửa, tựa như nhánh lục bình trôi phập phềnh trên dòng sông
Seine xanh biếc mộng:
Mộng ở đầu cây mơ lá cây
Dòng sông ngừng chảy đợi mây bay
Kêu nhau nhỏ nhẹ sầu năm ấy
Chim hải hồ bay trắng tháng ngày
Ngày
tháng lang bạt kỳ hồ đó, Phạm Công Thiện đi từ bế tắc này đến tuyệt lộ khác như
chính chàng tâm sự: “Giai đoạn sống ở Paris dạo ấy là giai đoạn bế tắc nhất
trong đời tôi. Một ngàn chữ không cuốn theo bước đi tôi, không tiền, không nhà,
không nghề nghiệp, không tình yêu, không tương lai, không gì cả... Tôi là một
số không to tướng, di động giữa những đường phố Paris. Đó là lần đầu tiên trong
đời tôi hiểu được thế nào là đói, là nghèo, là khổ, là tuyệt vọng…
Đi
từ bế tắc này đến bế tắc khác, nhưng tôi vẫn cảm thấy rằng tôi đã sống đến độ
vỡ đê, yêu đời đến độ gần đứt mạch máu. Vâng, trong cuộc đời hai mươi chín năm
trên trái đất này, chưa bao giờ tâm hồn tôi thanh bình, trong sạch xanh lơ tựa
bầu trời mùa hạ, như những ngày sống ở Paris dạo đó.”**
Thời
gian vừa bi đát, long đong, vừa thơ mộng, bồng bềnh ấy, kéo dài suốt mấy tháng
trời. Cũng may sau đó, chàng được sự giúp đỡ tận tình của nhà thơ Thi Vũ, Nh.
Tay Ngàn, họa sỹ Vĩnh Ấn, Trần Quang Hiếu rất nhiều và đặc biệt nhất là nhà văn
Henry Miller đã chiếu cố chàng hết lòng, bằng những tấm ngân phiếu gởi từ Hoa
Kỳ cũng như Lê Khắc Thanh Hoài, một nàng thơ định mệnh đã đến với chàng, tự
nguyện sống chung một cách gần gũi, cận kề, gắn bó, vô ngần mật thiết. Đó là
một thiên tình sử đẹp đầm đìa, chia sẻ bao mây hồng gió xám đẫm sương mưa:
Một chút mây và một chút mưa
Hồn em thở nhẹ cõi xa xưa
Buồn bay lên mấy hàng dây thép
Mây trắng em còn phơi ban trưa…
Từ sông Seine bèo bọt chợ trời
Băng qua cầu bỗng nhớ Montreuil
Đồi Montmartre hẹn em tiền kiếp
Một chút buồn như có gì rơi
Dường
như đã có hẹn hò nhau đâu từ tiền kiếp xa xôi nào đó rồi, đến bây giờ mới trùng
ngộ, tao phùng lại bên bờ sông Seine, nên chi mới gặp nhau là cả hai đều tự
động cuốn hút, nhập vào nhau ca hát chan hòa. Lê Khắc Thanh Hoài, gái Huế, một
nhạc sỹ dương cầm, viết văn làm thơ đã sống chung chạ với chàng như vợ chồng
suốt hơn mười năm trời đằng đẵng ở thành phố Toulouse, miền Nam nước
Pháp.
Đó
là cuộc tình lâm ly, đầy tình tiết ly kỳ, gay cấn, hấp dẫn mà nàng đã viết lại
thành cuốn tiểu thuyết Chuyện Một Người Đàn Bà… Năm Con. Chúng ta hãy nghe nàng
thơ nói về Phạm Công Thiện: “Chàng tìm đến tình yêu cũng như chàng tìm đến tôn
giáo. Tình yêu cũng phải thần thánh và linh thiêng. Như giọt nước cam lồ tưới
tẩm làm tan biến khổ não ưu phiền. Như sức mạnh của thần chú xô người qua bên
kia bờ giải thoát. Tình yêu cũng phải có mãnh lực đó. Mãnh lực chuyển hóa và
thăng hoa.”***
Thăng
hoa và chuyển hóa là những nốt nhạc trên cung bậc tình yêu vô điều kiện. Với
người thi sỹ thượng thừa, tuy họ sống trọn vẹn, quăng ném cả thân tâm, đắm đuối
hết mình, hết sức vào đối tượng yêu thương, nhưng mà họ không hề muốn chiếm
hữu, chiếm đoạt gì cả, thành thử không bị đắm chìm hay dính mắc, chẳng nặng nề
ôm giữ làm của riêng mình.
Tình
yêu vô điều kiện ấy, hầu như rất ít người trong chúng ta lãnh hội và thực hiện
được phải không? Gần kết thúc cuốn truyện dài, chàng nói với nàng: “Ở nơi chốn
hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có
thể vang lên những âm thanh dịu dàng đằm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời,
từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể, hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không
Thể. Từ đó, cố vượt ra ngoài tầm nhìn và sự hiểu biết cạn cợt của chính mình.
Điều mình thấy như vậy, biết như vậy nhưng không chắc đã là như vậy. Hãy có cái
nhìn và sự hiểu biết từ cái điều Không Thể mà Có Thể đó.”***
Cho
nên dù rất mặn nồng gắn bó, hòa âm tâm huyết, trải qua biết bao niềm thích thú,
ru hồn lên tuyệt đỉnh hân hoan, nhưng rồi cũng ngậm ngùi chia tay trong lặng lẽ
âm thầm. Chấp nhận cuộc sống ly thân, nàng tự sắp xếp, xoay xuở công việc mưu
sinh để cưu mang, nuôi dưỡng năm đứa con còn nhỏ dại, ăn học thành tài.
Tuy
nhiên, cũng nhờ cuộc tình thâm thiết, sinh động đó mà chàng chuyên tâm vào
nghiên cứu, hoàn thành tốt nghiệp Tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne, rồi
sau đó giảng dạy triết học Tây phương tại đại học Toulouse ở Pháp quốc. Thời kỳ
này kéo dài suốt mấy năm tràn đầy hào hứng, tưng bừng, đám sinh viên Tây tôn
sùng, kính phục chàng còn hơn thần tượng.
Thế
nhưng, lại một lần nữa, từ trên tuyệt đỉnh vinh quang, đang sống trong hạnh
phúc, đang được ngưỡng mộ, đang là thần tượng của đám sinh viên Anh, Pháp, Mỹ,
Đức… chàng lại vất bỏ giảng đường đại học để ra đi như ngày xưa đã vất bỏ lại
sau lưng đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Thật là quá đỗi lạ lùng, giống như triết
gia Nietzsche rời bỏ đại học Bases để lên vùng thượng sơn sống ẩn dật, suốt
mười năm trời vô ngôn, chìm trong im lặng và im lặng.
Những
nhận xét của Lê Khắc Thanh Hoài về Phạm Công Thiện thật chí lý: “Tất cả những
gì mà một con người bình thường trên thế gian này khát khao đeo đuổi, như tiền
tài và danh vọng, thì lại chinh là những điều mà chàng luôn luôn muốn chối bỏ,
khước từ, chạy trốn. Chàng chỉ muốn ngoảnh mặt quay lưng, ném quăng những danh
từ ấy thật xa thẳm, ra ngoài tâm tư, trí tuệ mình.”***
Đúng
là như thế, quả nhiên là chàng thực hiện y như vậy. Đã qua rồi thời gian gọi là
công thành danh toại ấy, kể từ năm 1983, chàng thi sỹ tự ý khước từ danh vọng
cao sang, chối bỏ giảng đường đại học nổi tiếng để bay vèo qua Los Angeles, Hoa
Kỳ, tự nguyện dấn thân vào phương trời vô sở trú, vô sở cầu, vô sở đắc, chẳng
thể nghĩ bàn.
Chàng
lại tiếp tục Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất, như một tác phẩm thâm
thúy, chàng viết năm 1988 ở Garden Grove. Đường của thơ là những nẻo đường
ngược gió, là quán trọ, hiên chùa tá túc qua đêm. Đêm và ngày trôi qua như giấc
mộng, như sương rơi, như chớp lóe… Nghe hơi thở nhẹ vỡ bùng. Từ vô thủy đến vô
chung cõi về. Nàng thơ huyền mộng đê mê. Thế thôi chuyển cuộc muôn bề chia
phôi:
Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa
đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
Có còn chi nữa mà thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa
trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong
kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn
Đại Huyền biến ngưỡng triều tôn
Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao
Án nga nga nẵng bạch hào
Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim
Trái
tim bốc lửa tam muội làm cháy tan hết những luật lệ phép tắc, những lề thói
khuôn khổ, lối mòn cũ rích của xã hội máy móc khô khan, cạn kiệt hết bầu sinh
khí, chàng thi sỹ muốn ra đi, khai phá một con đường huy hoàng sáng tạo tân kỳ,
mới lạ hơn.
Đứng
trên tuyệt đỉnh cô liêu, một chiều hoang vu nọ, chàng bỗng nghe văng vẳng những
lời ẩn ngữ, mật ngôn huyền bí và chợt thấy thấp thoáng tiền kiếp mình ở tận xứ
miền tuyết trắng Tây Tạng hoang sơ. Biết mình là hành giả Mật tông trong các
dãy hang động trên tuyệt mù Hy Mã Lạp Sơn nên trái tim Bát Nhã ứng hiện những
nàng tiên huyền diệu, dạo khúc cung đàn mười tám tiếng lòng Không Định rung
ngân, khiến cho thi sỹ chỉ còn biết đọc thần chú lim dim dung nhiếp:
Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm
Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không
Án đa la tịch mịch hồng
Mười phương xuất hiện những đồng sinh
thiên
Bát Nhã là gái thiên tiên
Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao
Gió lùa thơm tóc tơ đào
Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn
Trời mưa chim ngủ trên ngàn
Sắt son tình cũ nước tràn sang sông
Tiếng
đàn tiêu dao, vô thanh mà vang ngân bất tận, lan dài theo cuộc lữ kỳ cùng, rung
hồn rúng chuyển gió sương ngàn, khắp vùng thung lũng, sơn khê. Ơi chao! Một đóa
hồng hoa vụt trổ im lìm như những nàng thiên nữ giáng trần, sà nhẹ vào hồn tim,
để cho thi nhân xuất thần bay phiêu linh, phiêu hốt trong bồi hồi rộn rã, phập
phồng:
Đã đi rồi có đi không
Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy
hương
Đi đâu mà lại lên đường
Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
Một
bông hồng nở bốn bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào tim
Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần
Xuất
thần, xuất cốt, xuất tinh huyết, tinh hoa trên cuộc lữ dặm dài. Phải chăng, năm
nàng tiên nữ là ẩn ngữ ám chỉ cho năm nàng thơ đã từng xuất hiện, đi qua một
cách cụ thể trong đời chàng, nhưng có lẽ không phải vậy mà là ám chỉ một cái gì
thâm thúy hơn. Đi vào cõi thơ nhiều tượng trưng, ẩn dụ, hoán dụ này, tha hồ
chúng ta hiểu ra nhiều cách bất ngờ thú vị. Tuy nhiên, dẫu sao thì dẫu, cuộc
đời của thi nhân vẫn dạt dào cảm hứng từ những nàng thơ trên mặt đất trần gian
này. Tình yêu vẫn là tiếng lòng muôn thuở, là chất liệu cho nhà thơ mở rộng
phương trời bay bổng sáng tạo, như triết gia Nietzsche tuyên bố: “Những trực
kiến, nhập kiến sâu thẳm nhất đều xuất phát từ tình yêu.”
Hay
như đạo sỹ Osho: “Tình yêu có thể tạo ra thiên đường ngay bây giờ và ở đây. Đây
là cốt tủy thông điệp của tôi: Hãy thương yêu nhiều hơn nữa, nhiều đến mức mà
bản thân bạn đơn giản trở thành một dòng suối tình yêu mà không là gì
khác.”
Còn
Phạm Công Thiện thì: “Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo
sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc: “Tại sao chúng ta biến tình dục
thành ra một vấn đề?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở
thành vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình yêu, tình
thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai? Tình dục không phải chỉ là cảm
giác, tình dục là sự tuôn chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự
Sống.”****
Vâng,
đúng là như vậy, tình yêu, tình dục cùng chung một suối nguồn tuôn chảy mênh
mông, không giới hạn giữa đúng hay sai, tốt hay xấu, sạch hay dơ…gì hết cả. Một
khi tình yêu dịu dàng phát sinh từ cái đẹp trinh tuyền của tình thương nguyên
sơ, nguyên thủy, thì những hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu, thể hiện qua những
thục nữ, thuyền quyên, những nàng thơ, tiên nữ, duyên dáng mỹ miều, yểu điệu
hồng nhan là rất đáng trân trọng mà thi nhân gặp gỡ, tao ngộ, trùng phùng, gọi
là Con Gái:
Càng xa càng mông lung
Tới gần vẫn lạ lùng
Nhắm mắt sao lạ quá
Mở ra ồ không cùng
Linh
hồn con gái, phải chăng là nhiệm huyền thi vị như vậy, khiến cho chàng thi sỹ
mơ màng, mộng mị trong từng trận trận chiêm bao, ảo dị phiêu phiêu:
Một người nằm thở quạnh hiu
Mơ mòng thiếu nữ cô liêu giáng trần
Gió khuya đập cửa bất thần
Giựt mình thức dậy mấy lần chiêm bao
Có nàng tiên dáng cao cao
Nước da mòng mọng hao hao bông hường
Cái đêm lành lạnh chiếu giường
Gió lùa hương lạ bên đường tạt qua
Đêm qua thương nhớ người ta
Tối
nay tơ tưởng thiên hà bơ vơ
Tháng ngày tôi nhớ bâng quơ
Những nàng con gái bao giờ gặp đâu
Gặp
nhau bao giờ chưa, hỡi những sắc nước hương trời, những kỳ hoa dị thảo, những
hương đồng cỏ nội khắp lâm tuyền, biên ải, ngoài bến gió bờ sương ở mọi chốn
muôn nơi, hỡi những thuyền quyên Hương, Uyên, Hoài, Loan, Sương… diễm tuyệt,
một thuở nào quyến rũ, du dương tận xứ miền Liên Chiểu hay ngút ngàn sương khói
Đà Lạt quá mang mang:
Bầy chim bạc má gọi đàn
Thương nhau gặp lại trên ngàn đỉnh cao
Trở về Đà Lạt ngó đào
Ghé thăm Liên Chiểu thuở nào yêu nhau
Hãy
yêu thương nhau đi hỡi nhân loại đang sống trên quả địa cầu mầu nhiệm này. Hãy
hát bản tình ca muôn thuở đại bi tâm. Thầm cảm nhận, thấm thía hương vị mị kỳ
của tình yêu tương đối và tuyệt đối, rồi từ đó, thi nhân tự nhiên như nhiên
chuyển dần sang ngạt ngào, tuyệt bích tình thương.
Thấu
thị nhân sinh, tình yêu đã thăng hoa thành tình thương vô hạn. Tình thương yêu
tối thượng như mây lan tỏa khắp mười phương, chan chứa trộn lẫn trong giọng
chim Ca lăng tần già hòa quyện tiếng kêu thanh tao, thánh thót nhập hồn sương
khói vô vi, trở thành bồ đề tâm diễm tuyệt miên trường:
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy cúng dường
Lôi bồ đề tâm dậy
Chấn động khắp mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô lượng
Lôi bồ đề tâm dậy
Địa động cả mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy đại dương
Lôi bồ đề tâm dậy
Sấm sét nổ mười phương
Chim ca lăng kêu sương
Tôi sụp lạy vô thường
Lôi
bồ đề tâm dậy
Sấm chẻ đứt Kim Cương
Khi
thi nhân quỳ xuống, sụp lạy tất cả muôn loài vạn vật, đất trời thiên vạn cổ là
lúc Bồ đề tâm bừng dậy tỏa chiếu hào quang rạng rỡ khắp muôn phương. Bồ đề tâm
chính là đại bi tâm, có thể làm sụp đổ tất cả mọi ác pháp. Hành động quỳ lạy
hết thảy mọi sự như thế, thể hiện một tâm hồn đã nhập diệu vào vô ngã, vắng
lặng cái tôi, vắng lặng mọi so đo chân giả, xa lìa mọi giả danh, tham chấp, chỉ
còn cái đang là tỏa sáng ánh thái dương.
Đó
là sự chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, như thi sỹ từng phát biểu:
“Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài
tại Pháp quốc. Đến năm 1983 qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn
ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa
vắng gần hai mươi năm.
Từ
năm 1983 cho đến năm 1994, trên mười một năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động
toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los
Angeles, sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc Châu, tôi vẫn trở lại
với thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên, tự tại với những cơn
động đất thường xuyên của đời mình.
Cái
“tôi” ở trên đã trở thành một cái gì khác. Không biết là cái gì ? Cũng chẳng
bận tâm biết đến làm gì, chỉ biết ở đây và ở đó vẫn còn động đậy nhẹ nhàng
những bước chân thầm kín, những bước chân lặng lẽ, thong dong bình thản trở về
sự im lặng.”*****
Trên
ngõ về im lặng, im lặng vô ngần giữa bốn bề, mười phương yên tĩnh tịch nhiên,
như nhan đề một tập thơ của chàng Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im, viết trên
khắp nẻo phiêu bạt giang hồ thế giới và được Hương Tích thư quán của Tuệ Sỹ
xuất bản, năm 2009 tại Sài Gòn.
Sự
im lặng nhập thần xuất cốt, vô cùng cảm hứng là những trạng thái kỳ diệu mà
Phạm Công Thiện thỉnh thoảng rơi vào một cách phiêu diêu, ngay từ lúc còn tuổi
thiếu niên, như một thời sống bồng tênh trên núi rừng phố hoa Đà Lạt, khoảng
năm 1960. Một chiều hiu hắt nọ, đang nằm đọc sách thiền, hoát nhiên chàng đứng
bật dậy, quỳ lạy đất trời, khi bắt gặp Thiền tông: “Tôi quỳ xuống lạy lung
tung, tôi lạy gió, lạy mưa, lạy nắng, lạy không khí, lạy cái ghế, lạy cái bàn,
lạy vách tường, lạy đóa hoa trong ly, lạy cái giường. Ồ tôi hạnh phúc, sung
sướng, yêu đời, yêu cả vũ trụ. Cảm tạ hết mọi đau khổ, mọi bất công, mọi bi
kịch, cảm tạ hết, cảm tạ bất tận. Tôi đã tìm được tất cả những gì đã đánh mất
từ mấy ngàn năm nay.”**
Hay
một lần nơi thành phố Garden Grove ở California, năm 1988, trong căn phòng
trống trải, cô tịch vô vi, thi nhân cũng nhập diệu, thấy mình hóa thân trùng
trùng giữa mười phương pháp giới vô ngần: “Trong tận cùng sâu thẳm của kiếp
người, nó không khác người khác, nó là tất cả mọi người đang di động trên trái
đất, nó là tất cả những định tinh và hành tinh, nó là con sâu, cái kiến, con
bướm, con quạ, trái cam, chiếc lá. Nó là cơn gió thổi vèo qua kẹt cửa, nó là
luồng ánh sáng và đêm tối. Nó là cơn ác mộng trong đêm khuya và cơn bừng tỉnh
lúc rạng đông… Nó là một cảm giác, một tư tưởng, một ý tưởng và một cử chỉ. Nó
là mỗi chữ, mỗi tiếng, mỗi lời trong tất cả ngôn ngữ loài người…
Nó
là sức mạnh vũ bão của tất cả năng lực vũ trụ, sự tập trung tư tưởng mãnh liệt
nhất của tất cả tư tưởng nhân loại, tập thành khủng khiếp của tất cả đạo lý và
triết lý…Nó là nguyên lý đồng nhất tối thượng, đồng thời là sự chuyển hóa tối
hậu của chính nguyên lý đồng nhất và bước nhảy tịch liêu vào cõi tịch mịch của
một đóa hoa hồng tơi tả…”******
Rồi
một lần kia, nhà thơ cô đơn rờn lạnh, bước lê la, tha thẩn dạo chơi những ngày
cận kề cuối năm ở tận góc bể chân trời, ven bãi biển Laguna Beach bên Mỹ Châu
xa xăm bỗng nhập thần mộng, thấy thi hào Nguyễn Du và Thúy Kiều hiện về thấp
thoáng, chập chờn trong cơn gió thoảng vi vu:
Năm tàn nằm mớ Nguyễn Du
Kiều trôi đâu mất la phù dặm khơi
Cuốc kêu bảng lảng tháp hời
Nhắc tên người cũ rã rời cuối năm
Trầm
tư bên một góc quán cà phê ở Glebe, trên vùng đồi cao Earlwood, nhìn xuống dòng
sông xanh, gần thành phố Sydney ở tận bên kia bờ Úc Châu, thi nhân chợt nghe ra
tiếng ngựa hý, tiếng đàn vô thanh của Mã Minh và thấy Long Thọ lang thang dưới
ánh trăng thái cổ ảo huyền:
Con ngựa ô lồng lộn Mã Minh gãy đàn
Long Thọ thở dài nhật nguyệt lang thang
Ta là con chích chòe ngủ say cành ổi
trắng
Nắng rừng mai ai lượn hạt cho chim
Rồi
lại một chiều rong rêu, phiêu diêu cùng họa sỹ tài tình Vĩnh Ấn bên dòng sông
Seine, bồng bềnh trên những lượn sóng rực ngời hoa nắng ven thành phố Paris,
thi sỹ bỗng thấy Van Gogh nhập cốt, ứng hiện huyền hòa:
Úm tô rô Van Gogh hiện ra
Úm ba la u linh ma ha
Đất nứt nở ra bầy quạ trắng
Hồn thiêng Van Gogh nhập vào ta…
Van
Gogh là một họa sỹ dị thường, có một đời sống mãnh liệt, đầy sáng tạo. Vâng,
sáng tạo là một nghệ thuật tối thượng, là bước đi tuyệt cùng tự giải phóng, tự
giải thoát bản thân khỏi nhà tù do chính mình tự tạo cho mình, như văn hào
Henry Miller cũng đã từng tuyên bố: “Kẻ sáng tạo kêu gọi con người trực nhận
rằng, tất cả mọi tự do có sẵn trong bản thân rồi. Rằng con người không cần phải
bận tâm lo lắng đến vận mệnh thế giới (vì đó không phải là vấn đề của hắn) mà chỉ
nên lo giải quyết vấn đề riêng tư của chính riêng mình, tức là vấn đề giải
phóng, giải thoát, chứ không phải vấn đề nào khác cả.”
Henry
Miller lấy giải thoát làm đề tài tối thượng và Phạm Công Thiện cũng tương ứng
trên tinh thần giải thoát, giải phóng ấy, cho nên thênh thang, xuôi ngược bước
đi, nhảy múa trên thông lộ phong quang sáng tạo vô lường. Tường tận thấy rõ cái
thực tại ở đây ngay bây giờ, thở cùng linh khí của nhật nguyệt thiên thu, tái
tạo từng điệu thở, từng ý niệm, nổ tung mọi cố chấp, xô cửa huyền vi mà bước
qua phương trời tự do tự tại. Giải thoát mọi dính mắc, buộc ràng, chỉ còn sáng
tạo, sáng tạo bao la và đã tựu thành những tác phẩm độc đáo vô ngần: Đi Cho Hết
Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất, Khơi Mạch Nguồn Thơ Thi Sỹ Seamus Heaney, Một Đêm
Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du Đại Thi Hào Dân tộc, Đối Mặt Với Một Ngàn
Năm Cô Đơn Của Nietzsche, Chỉ Còn Tiếng Thơ Trên Mặt Đất, Triết Lý Việt Nam Về
Sự Vượt Biên, Khai Ngôn Cho Một Câu Hỏi Dễ Hiểu: Triết Học Là Gì? Nét Đẹp Tinh
Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo, Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát
Sáng Rực Khắp Bốn Phương, Từ Bát Nhã Đến Pháp Hoa, Những Bước Chân Nhẹ Nhàng
Trở Về Sự Im Lặng, Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im…
Những
tác phẩm tâm huyết ấy là những bước nhảy phi thường, thượng đẳng, vượt qua sự
chuyển hóa toàn diện của tâm thức đến độ vô sư tự ngộ, bùng vỡ ra một điều chi
trên cung bậc Bất nhị giữa như thị, như nhiên, đang là ngay ở đây thôi:
Những gì không vói tới
Thì có sẵn đó rồi
Bao nhiêu danh vọng hời
Vài ba cụm bèo trôi
Ba mươi năm nằm dài
Một hôm đứng phắt dậy
Bất nhị xòe tầm tay
Bất ngờ tôi sụp lạy
Hôm qua vẫn trở lại
Dĩ vãng là hôm nay
Ngày mai là hiện tại
Hiện tại chết mỗi giây
Đấy
là những bài thơ ngắn gọn, tuy đơn sơ, giản dị nhưng đi thẳng vào lòng người
một cách tự nhiên, thể hiện cốt cách đặc thù, riêng biệt, hàm dung ý thiền “một
là tất cả, tất cả là một” của tinh thần Hoa Nghiêm. Tất cả ý thức và vô thức
của con người bị phá vỡ tung ra, xoay tròn trôn ốc mất hút trong trùng trùng
duyên khởi của toàn thể sự sự vô ngại pháp giới. Một giây phút kéo dài cả triệu
kiếp, một bước đi là nghìn tỷ dặm, một cái nhìn là thiên thu bừng dậy, thấy
phép lạ hiện hữu ngay trên một đóa hoa dại hay trên một cục đá vô tri…
Khi
tiềm ẩn nguyên khí, nội lực thâm hậu thì bậc cao thủ, cự phách thường kiệm lời,
ít nói mà linh hoạt, tùy hứng như trẻ thơ, hồn nhiên đùa rỡn, xem cuộc đời như
một trò chơi. Còn kẻ thi sỹ xuất chúng, thì ít nhất cũng sờ đụng tới hố thẳm và
đỉnh cao tâm linh của chính mình. Đỉnh cao và hố thẳm tâm linh ấy, Phạm Công Thiện
đã từng va chạm, giáp mặt trong một bình sinh hy hữu nào đó, cho nên cả trời
thơ đất mộng, dạt dào bao nhựa sống thâm trầm, nhập vào trong từng điệu thở
tinh khôi:
Lùa nhẹ vào một mối
Đập mạnh một nhát thôi
Tất cả đều bày phơi
Trí tuệ sáng rực ngời
Muốn
có được ánh sáng quang minh, trí tuệ rực ngời đó thì chẳng phải chạy tìm đâu xa
mà chính ngay nơi tận đáy lòng mình. Chính nơi mình đang cư ngụ, lưu trú, ngay
nơi những nghịch cảnh, thử thách mà mình phải giáp mặt ngày đêm một cách anh
dũng, không nao núng. Nghịch cảnh là môi trường sống, hoàn cảnh sống của mình
thường bị nhiều chướng duyên đối nghịch, nhưng cũng chính từ những nghịch cảnh
đó mà mình chịu đựng, kiên nhẫn vượt qua, biết chuyển hóa nó thì liền hoát
nhiên liễu ngộ, bừng sáng tuệ giác siêu việt. Khi thấy rõ tận tường được điều
đó rồi thì xem mọi sự ở đời như sống chết, đến đi, hơn thua, đúng sai, phải
trái, giàu nghèo, thành bại… đều là nhân duyên giả hợp, chẳng hề sợ hãi, lo âu
chuyện còn hay mất:
Thất bại giữa đời này
Chết sáng ngời trên cao
Bông tàn phai cõi đất
Mọc lại giữa trăng sao
Nhảy thẳng vào sự việc
Chẳng có gì đáng tiếc
Sự việc lớn lao nhất
Là hiện tiền tịch diệt
Thực
tại hiện tiền là ngay đây bây giờ, ngay trong mỗi phút giây là chứa đầy vĩnh
cửu, ngay trong từng hơi thở ra vào là đủ cả nghìn năm. Chỉ cần một chút tơ
tưởng móng lên thôi là cả ba nghìn thế giới, sơn hà đại địa hay thiên tiên,
thánh nữ liền hiển lộ ngay trước mắt tức thì:
Chỉ cần một ý tưởng
Khắp vũ trụ mười phương
Sáng bừng lên vô lượng
Thiên tiên hiện đầu giường
Phải
chăng đó là cái thấy siêu phàm, thông tuệ của một tâm hồn bao la, thông suốt lẽ
sâu xa, thấy bằng con mắt Hoa Nghiêm, trùng trùng duyên khởi giữa mười phương
pháp giới diệu kỳ?:
Mỗi bước chân ra đi
Triệu vũ trụ thiên di
Mỗi chỗ tôi ngồi lại
Sáng bừng lên diệu lý
Chân
lý vi diệu đó, thi nhân bỗng phát hiện chẳng ở đâu xa mà ngay tại đây bây giờ,
nơi chốn phù du, bụi cát hỗn mang này, ngay giữa những niềm vui, nỗi buồn, sung
sướng hoặc đau khổ trong cõi bao dung, huyền diệu của thức tâm:
Trăm năm đời hờ hững
Đêm ngày buồn lơ lửng
Linh địa là tại đây
Nơi chỗ tôi đang đứng
Linh
địa là mặt đất thiêng liêng này, nơi thi sỹ đang sống từng phút, từng giây đầy
trọn vẹn. Sống từ đồng bằng sông Cửu Long đến cao nguyên sương mù Đà Lạt, từ Mỹ
Tho, Sài Gòn, Nha Trang đến Paris, Los Angeles, Chicago, từ Monterey Park,
Garden Grove, Long Beach đến New York, Bellflower, Washington, từ San Gabriel,
Alhambra, Houston đến Sydney, Earlwood, Glebe… ngút ngàn viễn xứ xa xôi:
Thoắt đi một đời người
Buồn hoài cũng thế thôi
Trăm năm là giây phút
Chưa đi đã tới rồi
Phiền
muộn, buồn rầu chi nữa, khi hàng triệu tỷ năm trôi qua và giờ đây ngưng đọng
trong cái đang là, nơi người em thi ca từ vô lượng kiếp trở về, đang mỉm cười
nguyên sơ, rạng ngời mới lạ:
Mười lăm tỷ năm qua
Từ vạn triệu thiên hà
Bây giờ ta mới tới
Gặp lại em hôm qua
Cuộc
trùng phùng, kỳ ngộ thật vô cùng thú vị, tuyệt hảo tân kỳ như một kẻ đốn ngộ vô
ngôn vì thấy toàn thể vũ trụ là chốn đạo tràng, đầy đủ chư Phật, Bồ tát, Thần
linh đều viên dung cùng một ngọn ngành thanh tịnh:
Tất cả là đạo tràng thần linh
Ta ngồi tham ngưỡng cội vô hình
Thênh thang phù thế làm chim ó
Bay lượn tháng ngày cõi lặng thinh
Bay
lượn giữa phong quang trời đất, nhật nguyệt hay thả trôi trên dòng sông Mật
tông thấm đẫm tình Mẹ đại bi, đại trí Tãra xanh biếc huyền mộng chan hòa. Cả vũ
trụ mênh mông là một tu viện rồi thì về chùa hay xa chùa cũng trong vòng tay
bao dung mở rộng:
Tãra mười tiếng đại không
Ảo thân nằm giữa dòng sông Mật thừa
Về chùa một dúm muối dưa
Xa chùa cũng thế: Hứng mưa mỉm cười
Hầu
như suốt cuộc đời Phạm Công Thiện thường gắn bó, thân mật, cận kề với những
ngôi chùa ở quê hương cũng như các ngôi chùa nằm dọc ven đường lang bạt trên
toàn thế giới. Chàng ở chùa nhiều hơn là ở nhà, từ chùa Hải Đức ở Nha Trang đến
chùa Vạn Hạnh ở Sài Gòn, từ chùa Việt Nam ở Los Angeles đến chùa Viên Thông ở
Bellflower, từ chùa Diệu Pháp ở Monterey Park đến chùa Liên Hoa ở Garden
Grove...
Cửa chùa là cửa Không, Không là Không Tánh nên tha hồ vào ra thoải mái, chẳng hề vấn vương, chướng ngại gì cả. Cho nên từ Bát Nhã đến Pháp Hoa, từ Kim Cang đến Hoa Nghiêm, từ Thiền tông đến Mật tông, Phạm Công Thiện lại tùy duyên cất cao giọng sư tử hống trong các pháp đường, thiền viện ở Mỹ Châu và Úc Châu.
Cửa chùa là cửa Không, Không là Không Tánh nên tha hồ vào ra thoải mái, chẳng hề vấn vương, chướng ngại gì cả. Cho nên từ Bát Nhã đến Pháp Hoa, từ Kim Cang đến Hoa Nghiêm, từ Thiền tông đến Mật tông, Phạm Công Thiện lại tùy duyên cất cao giọng sư tử hống trong các pháp đường, thiền viện ở Mỹ Châu và Úc Châu.
Mặc
dù, mới buổi sáng giảng kinh Kim Cang thao thao bất tuyệt trên thiền đường, rồi
buổi chiều thõng tay vào chợ, uống rượu ngâm thơ túy lúy cùng bọn văn nghệ sỹ,
giang hồ tứ chiếng đó đây mà phong thái vẫn nhàn nhã, tự tại, tiêu dao. Mỉm
cười buông bỏ, buông xả, trút xuống hết trên những bước chân nhẹ nhàng, trở về
sự im lặng để bước đi trầm hùng sư tử, tự do vô sự. Vô sự như “chim hải hồ bay
trắng tháng ngày” bay khắp thiên thanh vĩnh thúy rồi đậu xuống mái hiên chùa
rêu phong, tịch mịch, ngồi làm thơ kính tặng cõi thinh không lồng lộng:
Mồng tơi mây ngủ hiên chùa
Dâm bụt rực đỏ hai mùa gặp nhau
Hơi rừng thơm nức chiêm bao
Đêm thâu nín thở ngó vào bài thơ
Toàn
thể cuộc đời là bài thơ, có không, sống chết là bài thơ, gặp gỡ, ly biệt là bài
thơ, phiền não, an lạc là bài thơ, khổ đau, hạnh phúc là bài thơ, chiêm bao, thực
tại là bài thơ hay vô thượng chánh đẳng, chánh giác cũng đều là thơ thơ hết
thảy, thơ ở trong thơ:
Tượng Phật ở bàn thờ
Dọn dẹp để trống trơ
Tôi vẫn lạy chỗ trống
Chỗ trống thành bài thơ
Chính
cuộc đời của Phạm Công Thiện là một bài thơ quá tuyệt vời bát ngát, quá tuyệt
mỹ lý thú, quá tràn trề mê say, ngợp đầy hào sảng, rạt rào vô hạn, đã khơi dậy
nguồn cảm hứng dồi dào, thắp lên ngọn lửa thiêng huy hoàng rực rỡ, bừng cháy
bất tận giữa lòng nhân thế tuyệt trần:
Hứng lúc nào cũng đến
Giờ nào cũng giờ hên
Ngồi thẳng lưng mà viết
Vạn tơ tưởng bồng bềnh
Viết
là sống. Sống một lần Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng như Krishnamurti hay sống
Alexis Zorba Con Người Chịu Chơi như Nikos Kazantzakis hoặc sống Chơi Giữa Mùa
Trăng như Hàn Mặc Tử: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng
phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình
yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.”
Thể
điệu sống ấy, thật giống hệt với thi sỹ Phạm Công Thiện xiết bao! Thật vậy,
chẳng những giống như Hàn Mặc Tử về phong cách nhập cuộc tha thiết, kiệt tận
bình sinh, dốc hết toàn thể xương xảu máu me vào ly rượu tình yêu, nồng say óng
ả mà Phạm Công Thiện còn tương ứng, tương cảm với Rimbaud, từng trải qua Một
Mùa Địa Ngục bi tráng, bi hùng, với Whitman chỉ một Lá Cỏ cũng đủ chứa đựng cả
vô tận đất trời, với Heidegger Về Thể Tính Của Chân Lý vi diệu, với Hoelderlin
Quy Hồi Cố Quận tâm linh, với Nietzsche Zarathustra Đã Nói Như Thế trên ngõ về
vĩnh cửu và nhất là với Henry Miller, một tâm hồn thượng đẳng mà Phạm Công
Thiện luôn luôn kính phục và ca tụng hết lời:
“Đối
với tôi, Henry Miller còn vĩ đại hơn cả Walt Whitman, hơn cả Dante, Shakespeare
và Goethe. Vĩ đại một cách bí mật, một cách thần diệu và vượt ra ngoài cả văn
minh, văn hóa và văn chương của toàn thể nhân loại, vượt ra ngoài Thiện và Ác,
Đạo và Phi Đạo.
Đứng
trên đảnh núi cao nhất của nhân loại, Henry Miller cùng cười to tiếng với Duy
Ma Cật, với Milarepa, với tất cả những gì chưa bao giờ xuất hiện trên toàn thể
không gian, thời gian của cái gọi là Thực Tại và của cái gọi là Hư Vô.
Tương
lai của toàn thể nhân loại phải bắt đầu lại với Henty Miller thì mới may ra
chuyển hóa toàn diện trái đất này thành viên ngọc mani (như ý) trong trẻo của
Quán Thế Âm Bồ Tát. Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã
đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thức và vô thức
của con người trên mặt đất…
Đọc
Henry Miller là nghe lại tiếng nói của Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Vệ Đà, Kinh
Bát Nhã, Kinh Kim Cang, Kinh Hoa Nghiêm, tắm mình trong không khí u trầm của
Đạo Đức Kinh, đùa hát trong tiết điệu của Nam Hoa Kinh, ca ngợi mặt trời trong
Kinh Ai Cập, thờ lạy buổi chiều trong Kinh Á Rập và Do Thái, nhảy múa với cái
chết trong Kinh Tây Tạng, làm ái tình trong Kinh Mật Tông, say rượu ngọt trong
Kinh Hy Lạp…
Tất
cả đều là Kinh, tất cả đều là Đạo, tất cả đều là Thơ, tất cả đều là hơi thở của
vũ trụ, tất cả đều là linh thiêng và đều huyền dị. Tất cả đều im lặng, sự im
lặng trong khiết, thoát ra từ hố thẳm vạn đại.”
Lần
đầu tiên qua Hoa Kỳ lúc mới 23 tuổi, một người duy nhất mà Phạm Công Thiện muốn
gặp là Henry Miller và chàng đã toại nguyện. Henry Miller nói chàng là hậu thân
của thi sỹ Rimbaud, khiến chàng hốt nhiên bùng vỡ ra một điều gì kỳ tuyệt và từ
đó, chàng sống trên cung bậc xuất thần liên tục, hân hoan với cái đang
là.
Đang
là thì “không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu” dù cuộc lữ bắt đầu khởi sự từ vô
lượng kiếp rồi, dù có đi vòng quanh hết quả địa cầu này thì cũng đẻ thấy lại
cái tâm hồn mình, như Henry Miller nói: “Chỉ có một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất
mà thôi, đó là đi vào bên trong tâm hồn sâu kín, thăm thẳm trong lòng mình và
đi vào giữa lòng mình thì thời gian, không gian, ngay đến hành động cũng không
quan trọng gì cả.” Thì ra là vậy, thật đơn giản mà độc đáo vô cùng.
Cuộc
đời Phạm Công Thiện nhiều huyền thoại ly kỳ, ngoạn mục, chúng ta hãy nghe chính
Phạm Công Thiện tự giới thiệu về mình lúc 25 tuổi, trong tập thơ Ngày Sinh Của
Rắn, An Tiêm xuất bản 1966:
“Sinh vào năm rắn bên dòng sông Cửu Long. Vì tranh luận học vấn với giáo sư nên bỏ học trường lúc 13 tuổi. Viết sách lúc 14 tuổi, làm giáo sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang.
“Sinh vào năm rắn bên dòng sông Cửu Long. Vì tranh luận học vấn với giáo sư nên bỏ học trường lúc 13 tuổi. Viết sách lúc 14 tuổi, làm giáo sư sinh ngữ từ lúc 16 tuổi đến 20 tuổi tại những trường ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Đà Lạt, Nha Trang.
Quyển
sách khảo luận đầu tiên được xuất bản vào lúc 16 tuổi, viết quyển Ý Thức Mới
Trong Văn Nghệ Và Triết Học lúc 20 tuổi. Học triết lý tại trường đại học Yale
để trình tiểu luận Ý Niệm Về Chân Lý Trong Tư Tưởng Platon Và Heidegger tại hội
thảo triết lý ở Yale. Tiếp tục học triết lý tại trường đại học Columbia.
Khinh bỉ giáo sư và bỏ học bổng của Viện Giáo Dục Quốc Tế, bị viện mời đi gặp bác sỹ phân tâm học, được mời khéo vào nhà thương điên, lại tranh luận với bác sỹ phân tâm học về giá trị và giới hạn của phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của Mỹ quốc.
Khinh bỉ giáo sư và bỏ học bổng của Viện Giáo Dục Quốc Tế, bị viện mời đi gặp bác sỹ phân tâm học, được mời khéo vào nhà thương điên, lại tranh luận với bác sỹ phân tâm học về giá trị và giới hạn của phân tâm học hiện đại, chỉ trích đời sống nông cạn của Mỹ quốc.
Sống
lang thang lay lất ở xóm nghệ sỹ Greenwich Village tại New York, đã gặp Henry
Miller tại Pacific Palisades ở California, được Henry Miller nhận là Rimbaud
tái sinh lại ở thế kỷ XX. Sau đó được một văn sỹ Do Thái cho tiền để trốn qua
Paris, không giấy tờ, không hành lý, sống bơ phờ ở Bretagne.
Học
văn chương tại trường đại học Rennes, khinh bỉ giáo sư rồi lại bỏ đi và sống
lang thang, lay lất khắp hang cùng ngõ hẻm ở Paris, làm chochard đi ăn mày, ngủ
dưới gầm cầu, ngủ trên vĩa hè, đói lạnh long đong và bỏ làm luận án tiến sỹ tại
Pháp. Được Henry Miller gởi tiền nuôi sống và được Henry Miller cho tiền rời bỏ
Paris để sống lang thang giang hồ tại Thụy Sĩ, Ý Đại Lợi, Ba Tư, Hy Lạp, Thái
Lan, vân vân…
Lúc
ở Paris thì nhập bọn với nhóm nghệ sỹ trẻ ở Popoff, la cà vất vưởng ở xóm Saint
Séverin và Saint Germaindes Prels, đã gặp Krishnamurti hai lần tại Square Rapp.
Hiện đang sống chờ đợi điên và chờ đợi chết.
Triệt
để đứng ngoài tất cả ý thức hệ chính trị, đứng ngoài mọi sự tranh chấp tôn
giáo, khinh bỉ tất cả văn hóa nhân loại, thù ghét tất cả mọi tổ chức xã hội. Vô
cùng kiêu hãnh, chỉ đi một mình và tự nhận là thiên tài độc nhất của Việt Nam.”
Cùng
nòi giống, cùng dòng máu Henry Miller, lấy giải thoát làm đề tài tối thượng,
nên Phạm Công Thiện cũng nhiệt liệt, hiên ngang theo dõi cuộc phiêu lưu, thám
hiểm vào nội tâm thầm kín, để khai phá ra những bí mật bên trong thế giới tâm
linh sâu thẳm của chính mình.
Từ
đó, cuộc lữ thênh thang sáng tạo và sáng tạo miên man trên con đường mây trắng
tự do, gió trăng đồng vọng, rung ngân lên văng vẳng những cung đàn lã lướt dưới
gót chân của chàng thi sỹ dị thường. Bước đăng trình vạn lý du, có đôi lúc cũng
dừng lại nghỉ ngơi một vài quán trọ ven đường như giảng dạy triết lý, văn
chương ở đại học Toulouse, Pháp quốc hay thuyết trình Thiền tông, Mật tông ở
các thiền viện trên khắp miền viễn xứ California, Mỹ Châu, Úc Châu.
Có
một thời gian ngắn, chàng lui về Gorden Grove, một thành phố nhỏ vùng biển,
sống với một nàng thơ kiều diễm và viết tác phẩm Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu
Trên Mặt Đất. Rồi năm tháng gần cuối đời, chàng quay về quy ẩn, nhập thất lâu
dài ở vùng ngoại ô phố thị Houston, Hoa Kỳ.
Tiến
sỹ Nhật, Nohira Munehiro, khi làm luận án tiến sỹ, lấy đề tài Ý Thức Mới – Phạm
Công Thiện, Tư Tưởng Gia Việt Nam, cho biết các nhà học giả uyên thâm xứ hoa
Anh Đào đều ca tụng Phạm Công Thiện là Long Thọ của Việt Nam. Nhà văn Henry
Miller thì cho rằng, Phạm Công Thiện là hậu thân của Rimbaud, một thi sỹ tiên
tri thấu thị của nước Pháp. Nhà thơ Lê Giang Trần, Phan Tấn Hải bên Mỹ thì tôn
vinh, tấn phong Phạm Công Thiện là bậc Bồ tát nghệ sỹ…
Còn
riêng Phạm Công Thiện thì tự nhận mình chỉ là nhà thơ, một thi sỹ thuần túy mà
thôi: “Ngôn ngữ của tôi là ngôn ngữ của thi sỹ, ai muốn hiểu sao đó thì hiểu…
Thơ là linh hồn của tất cả âm nhạc, hình ảnh của thơ là vô hình đột chuyển
thành ra hiện hình và hiện ảnh: Hiện hình và hiện ảnh của thơ chính là hiện
cảnh linh động, hiện thực hơn tất cả những cảnh sắc và phong cảnh hiện
tiền…
Thơ
không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả. Thơ chỉ là thơ và thơ tự
nói về thơ, từ trong thơ đến trong thơ, cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở
trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là thơ.”
Vâng,
tất cả chỉ là thơ, khi thấy muôn sự, muôn vật trên cõi đời này chỉ là thơ và
thơ thôi, thì lúc ấy mới bừng lên chân thực nghĩa vô lượng, vô biên của Diệu
Tâm thâm hậu, của Nhất Chân pháp giới, trùng trùng duyên khởi Hoa Nghiêm. Thấy
tất cả mọi sự đều tốt đẹp và tốt đẹp như tánh thể bản nguyên Chân Thiện Mỹ. Vì
thế, cho nên thi nhân vẫn tiếp tục sáng tác, sáng tạo không ngừng trên tinh
thần phá chấp triệt để, nhập hoan hỷ địa thênh thang:
Tháng ngày làm thơ chơi
Hồn bay thẳng ra khơi
Bạch phát ngút ngàn tới
Thu phong tắt nghẹn lời
Cứ gọi đại là thơ
Làm lúc nào chẳng nhớ
Cho một cô gái nhỏ
Chưa gặp nhau bao giờ
Muốn gì mà có ngay
Thì tai nạn vạ bay
Không thèm muốn gì nữa
Đời tràn ngập thơ hay
Khi
thơ hay bay ngập tràn mặt đất trần gian, thì ngôn ngữ Việt Nam cũng bay về ngợp
trời xanh bát ngát, làm trang nghiêm cho nụ cười thanh tịnh, ngời sáng ánh
quang minh. Thế là trên cung bậc hân hoan sáng tạo, người thi sỹ kỳ tuyệt của
chúng ta đã xuống tận hố thẳm sâu hun hút cũng như đã lên tột đỉnh cao chất
ngất của tâm linh và chợt bừng ngộ, thấy ra toàn thể cõi đời chỉ là một cuộc
đại hòa điệu chơi tối thượng, một trận khiêu vũ nhịp nhàng hoan hỷ địa theo thể
điệu du hý tam muội lồng lộng, phiêu bồng.
Sống
là chơi, chết là chơi, mê gái là chơi, đến đi là chơi, lý sự là chơi, yêu ghét
là chơi, khen chê, tốt xấu là chơi, vui buồn, sướng khổ là chơi, được mất, thật
giả là chơi, hơn thua, phải trái là chơi, đúng sai, thành bại là chơi, thịnh
suy, dị đồng là chơi, tịnh động, khó dễ là chơi, mê ngộ, cao thấp là chơi, có
không, mộng thực là chơi, tỉnh thức, say sưa, uống rượu lu bù, túy lúy ca là
chơi, điên cuồng rực rỡ, hú vang, gầm thét dữ dội là chơi, phiêu bạt giang hồ
khắp thế giới là chơi, biết nhiều thứ tiếng, ngôn ngữ ngoại quốc là chơi, giảng
dạy triết lý, thi ca, thiền học là chơi, làm giáo sư các đại học ở Việt Nam,
Pháp, Mỹ là chơi, làm đại đức, thiền sư Nguyên Tánh là chơi, làm hành giả Thiền
tông, Mật tông là chơi, làm văn nghệ sỹ là chơi, mần thơ, viết văn, tùy bút,
tiểu luận chi chi cũng là chơi chơi hết thảy mà thôi. Ơi chao! Một cuộc đại hòa
điệu chơi trùng trùng vô thủy vô chung giữa mênh mông vô tận, bất khả tư nghì…
Cuộc
đại hòa điệu chơi tới ngày 8. 3. 2011 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ, thi sỹ biết
trước giờ ra đi vào buổi chiều, nên nhẹ nhàng, thung dung qua chơi bên miền cõi
vô cùng.
Trước
giờ phút Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im này, tôi sực nhớ lại một chiều mùa hạ
năm 1969, tôi đã tìm đến gõ cửa viếng thăm và được Phạm Công Thiện nhiệt tình,
hoan hỷ tiếp chuyện trong phòng riêng ở Đại học Vạn Hạnh, một lần duy nhất
trong đời. Vậy thì bây giờ, không gì hơn, tôi xin đọc bài thơ Thênh Thang Phạm
Công Thiện, thay lời tiễn biệt thi sỹ về chốn miền vĩnh viễn, thiên thu:
Lãng tử phiêu bồng không chỗ trú
Không chốn dung thân giữa phong trần
Nên đi thỏa thích trời vô định
Đỉnh cao hố thẳm ngút phù vân
Dốc hủ Đông Tây tràn tư tưởng
Nghiêng bầu kim cổ ngập quang minh
Uống cạn ngàn năm bao tinh túy
Đại hòa điệu chơi với muôn tình
Tình thiên thu ấy đầy ứng hiện
Xuất thần nhập cốt rộn bừng say
Đốt lửa hồn thiêng ngời tỏa sáng
Bát ngát điều chi chợt hiển bày
Cười thênh thang quá đường không lộ
Tung hoành ngang dọc khắp năm châu
Bước chân nhẹ nhàng về im lặng
Mà nghe rúng động cả địa cầu.
----------
* Phạm Công Thiện. Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ
Và Triết Học. Tái bản lần thứ ba. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1966
** Phạm Công Thiện. Henry Miller. Phạm Hoàng
xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Lê Khắc Thanh Hoài. Chuyện Một Người Đàn
Bà… Năm Con. Thời Đại xuất bản 2012
**** Phạm Công Thiện. Triết Lý Việt Nam Về Sự
Vượt Biên. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1995
***** Phạm Công Thiện. Những Bước Chân Nhẹ
Nhàng Trở Về Sự Im Lặng. Phương Đông xuất bản 2008
****** Phạm Công Thiện. Đi Cho Hết Một Đêm
Hoang Vu Trên Mặt Đất. Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 1988
Thơ Phạm Công Thiện (chữ nghiêng) trích trong các tác phẩm:
Thơ Phạm Công Thiện (chữ nghiêng) trích trong các tác phẩm:
Ngày Sinh Của Rắn. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn
1966
Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im. Văn Hóa Sài
Gòn xuất bản 2009
----------
© Tác giả giữ bản quyền.
(Bài viết này đã đăng ngày 19/09/2013)
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 09/03/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét