Home
» Biên khảo - Tư liệu
» “Chợ Quán, Chợ Cầu, Chợ Dinh, …” trong khúc hát ru vùng Trị Thiên – La Thụy sưu tầm và biên tập (LaGI)
“Chợ Quán, Chợ Cầu, Chợ Dinh, …” trong khúc hát ru vùng Trị Thiên – La Thụy sưu tầm và biên tập (LaGI)
Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2019
Hầu như
những ai từng sinh ra và lớn lên từ mảnh đất Quảng Trị, Thừa Thiên đều thuộc
lòng “Điệu Hò Ru Em” hay “Khúc Hát Ru Em” đặc trưng vùng Trị Thiên, một bài ru
thân thương quen thuộc thường được bà, mẹ hoặc chị đưa trẻ vào giấc ngủ khi nằm
nôi. Bản thân tôi từng được say muồi giấc ngủ trẻ thơ, những khi bà nội tôi
đong đưa những tao nôi cất giọng hò ru ngọt ngào, êm ái… như ngày xưa bà đã từng
ru ba tôi, các cô chú tôi và chị em tôi. Đặc biệt hơn, bà lại hát ru những đứa
con tôi – chắt nội của bà tròn giấc ngủ ngon. Giọng hò ru của bà lắng đọng và
thấm đượm vào sâu thẳm tâm hồn chúng tôi. Khúc hát ru theo thể lục bát, trong
đó tên các chợ như chợ Quán, chợ Cầu, Nam Phổ, chợ Dinh, Triều Sơn, Mậu Tài… được
nhắc đến với những sản vật riêng của mỗi chợ đó:
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả La Thụy
Tên thật: Đoàn Minh Phú
Nghề nghiệp: Giáo viên
Địa chỉ: 79 -1/8 Hoàng Hoa Thám Thị xã La Gi, Bình Thuận.
Mobile: 0937142001
Email: phudoan56@gmail.com
_____
“CHỢ QUÁN, CHỢ CẦU, CHỢ DINH, …”
TRONG KHÚC HÁT RU VÙNG TRỊ THIÊN
La Thụy sưu tầm và biên tập
***
Hầu như những ai từng sinh ra và lớn lên từ mảnh đất Quảng Trị, Thừa Thiên đều thuộc lòng “Điệu Hò Ru Em” hay “Khúc Hát Ru Em” đặc trưng vùng Trị Thiên, một bài ru thân thương quen thuộc thường được bà, mẹ hoặc chị đưa trẻ vào giấc ngủ khi nằm nôi. Bản thân tôi từng được say muồi giấc ngủ trẻ thơ, những khi bà nội tôi đong đưa những tao nôi cất giọng hò ru ngọt ngào, êm ái… như ngày xưa bà đã từng ru ba tôi, các cô chú tôi và chị em tôi. Đặc biệt hơn, bà lại hát ru những đứa con tôi – chắt nội của bà tròn giấc ngủ ngon. Giọng hò ru của bà lắng đọng và thấm đượm vào sâu thẳm tâm hồn chúng tôi.
Tác giả La Thụy
Tên thật: Đoàn Minh Phú
Nghề nghiệp: Giáo viên
Địa chỉ: 79 -1/8 Hoàng Hoa Thám Thị xã La Gi, Bình Thuận.
Mobile: 0937142001
Email: phudoan56@gmail.com
_____
“CHỢ QUÁN, CHỢ CẦU, CHỢ DINH, …”
TRONG KHÚC HÁT RU VÙNG TRỊ THIÊN
La Thụy sưu tầm và biên tập
***
Hầu như những ai từng sinh ra và lớn lên từ mảnh đất Quảng Trị, Thừa Thiên đều thuộc lòng “Điệu Hò Ru Em” hay “Khúc Hát Ru Em” đặc trưng vùng Trị Thiên, một bài ru thân thương quen thuộc thường được bà, mẹ hoặc chị đưa trẻ vào giấc ngủ khi nằm nôi. Bản thân tôi từng được say muồi giấc ngủ trẻ thơ, những khi bà nội tôi đong đưa những tao nôi cất giọng hò ru ngọt ngào, êm ái… như ngày xưa bà đã từng ru ba tôi, các cô chú tôi và chị em tôi. Đặc biệt hơn, bà lại hát ru những đứa con tôi – chắt nội của bà tròn giấc ngủ ngon. Giọng hò ru của bà lắng đọng và thấm đượm vào sâu thẳm tâm hồn chúng tôi.
Khúc
hát ru theo thể lục bát, trong đó tên các chợ như chợ Quán, chợ Cầu, Nam Phổ,
chợ Dinh, Triều Sơn, Mậu Tài… được nhắc đến với những sản vật riêng của mỗi chợ
đó:
"Ru tam, tam théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim
Kim xa, kim ở bên Tàu
Ở gần Hà Nội gặp chắc giữa đàng"
Với
những người cùng thế hệ tôi và lớn tuổi hơn trở về trước, khi cất giọng ru em
thì lời ru vương vấn một ít thổ âm, phương ngữ của vùng Trị Thiên có hơi cổ xưa
như :“tam, théc, muồi, mạ, chắc”.
“Tam”
có nghĩa là em, như “eng tam” là anh em. “Théc” có nghĩa là ngủ. Cụm từ “théc
cho muồi” nghĩa là ngủ cho say. Chín muồi (rất chín, đạt đến độ ngon nhất), ngủ
muồi (ngủ rất ngon, rất say). “Mạ” có nghĩa là mẹ. “Chắc”có nghĩa là nhau (“gặp
chắc” là gặp nhau.)
Hai
câu:
"Kim xa, kim ở bên Tàu
Ở gần Hà Nội gặp chắc giữa đàng"
Có
lẽ là hai câu ghép nối thêm, vì ngoài việc tiếp nối ý “Mậu Tài bán kim” thì vần
gieo không ăn khớp với nhau giữa các câu lục và câu bát (Kim – Tàu – chắc).
“Khúc
hát ru em” này do bà nội tôi hát ru chị em tôi, rồi hát ru các con tôi. “Chắc”
là phương ngữ Quảng Trị có nghĩa là “nhau”. Nếu hát “nhau” thì ăn vần với tiếng
“Tàu” ở câu lục phía trên. Nhưng người dân địa phương như bà nội tôi có khi họ
hát ru theo cảm xúc và phương ngữ địa phương nên vô tình lạc vận…
Giọng hát ru của bà nội tôi in sâu vào tâm khảm tôi, nếu có sự thô mộc, chơn chất hay lạc vận thì đó cũng là đặc trưng của dòng chảy văn học dân gian, văn học truyền khẩu khi chưa được bậc thức giả ra công giũa gọt để có tính nghệ thuật cao hơn.
Giọng hát ru của bà nội tôi in sâu vào tâm khảm tôi, nếu có sự thô mộc, chơn chất hay lạc vận thì đó cũng là đặc trưng của dòng chảy văn học dân gian, văn học truyền khẩu khi chưa được bậc thức giả ra công giũa gọt để có tính nghệ thuật cao hơn.
Và
hai câu này cũng có dị bản:
"Kim xa, kim ở bên Tàu
Chỉ về Hà Nội gặp nhau tình cờ"
Qua
dị bản này ta thấy có dấu ấn của bậc thức giả trong việc chỉnh sửa tu từ để ý
liền lạc hơn, từ “kim” đến “chỉ” và không dùng phương ngữ để ăn vần với nhau.
Khúc
hát ru vùng Trị Thiên này, bây giờ người địa phương hát thì mọi người khắp vùng
trên đất nước đều nghe và hiểu cả vì chỉ còn duy nhất phương ngữ “muồi” mà
thôi.
"Ru em, em ngủ cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim
Kim xa, kim ở bên Tàu
Chỉ về Hà Nội gặp nhau tình cờ."
Giọng
hát ru ở video clip có đôi chút khác biệt về địa danh Triều Sơn, Mậu Tài... so
với khúc hát ru đã dẫn phía trên.
Như
ở nói ở trên, tên các chợ như chợ Quán, chợ Cầu, Nam Phổ, chợ Dinh, Triều Sơn,
Mậu Tài…được nhắc đến với những sản vật riêng của mỗi chợ đó. Không ít người miền
Trung và một số học giả cho rằng toàn bộ các chợ được nêu trong khúc hát ru này
đều ở Thừa Thiên Huế cả. Thế thì lý do gì mà người Quảng Trị cũng hát ru em
“cho mẹ đi chợ” xa tận Thừa Thiên Huế dữ vậy.
Có
hai nguyên nhân dẫn đến việc nhiều học giả, nhà nghiên cứu bị cuốn vào vùng đất
Thừa Thiên để lần tìm hai địa danh còn lại mà bỏ quên các địa danh khác:
-
Nguyên do thứ nhất: Ngoài sự hiện diện hai đặc sản nổi tiếng (Nam Phổ, chợ
Dinh) còn có sự tác động không nhỏ bởi hai câu dị bản được chắp nối thêm: …
"Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón Mậu Tài bán kim."
Nón
và kim (thêu, khâu, may) cũng là hai đặc sản thuộc Thừa Thiên Huế.
-
Nguyên do thứ hai, một nguyên nhân hết sức quan trọng đó là chúng ta quên tìm
hiểu bối cảnh lịch sử, sự xác lập địa lý vào thời điểm bài ca dao ra đời.
Vào
thời nhà Lê, năm 1466, vua Lê Thánh Tông đặt dải đất của Châu Thuận và Châu Hóa
thành hai phủ là: Phủ Tân Bình và Phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hóa. Phủ Triệu
Phong gồm 6 huyện: Vũ Xương, Đan Điền, Kim Trà, Tư Vang, Điện Bàn và An Nhơn (từ
Cửa Việt vào Điện Bàn). Nói về phủ Triệu Phong đến thế kỷ XVIII chỉ còn 5 huyện
đó là huyện Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền, Hải Lăng và huyện Đăng Xương (theo
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn). Không dừng ở đó đến năm 1801, vua Gia Long lấy
3 huyện: Đăng Xương, Hải Lăng và huyện Minh Linh lập thành dinh Quảng Trị.
Điểm
qua đôi dòng sử liệu trên, ta thấy có sự giao thoa, chồng lấn, thay đổi các địa
danh, vùng miền qua từng thời kỳ giữa Thừa Thiên Quảng Trị và Quảng Nam (Phủ
Triệu Phong)
Chỉ
cần thoát khỏi sự thu hút theo đơn vị hành chánh cấp tỉnh hiện nay, chúng ta dễ
dàng tìm ra những địa danh có tính thuyết phục cao hơn.
(Theo
bài viết “Tìm hiểu các địa danh qua một bài ru cổ” của Khê Giang đăng trên tạp
chí Cửa Việt số 284, tháng 5 năm 2018)
Chúng
tôi tìm hiểu thêm qua những tài liệu khác tên các chợ được nêu trong khúc hát
ru thì thấy những địa danh chợ trên, có ở Quảng Trị, thậm chí có ở cả Quảng
Nam, Bình Định và Sài Gòn. Đặc biệt, chợ Cầu ở Quảng Trị đang là một di tích
văn hóa được xếp hạng quốc gia.
Xin
điểm qua từng tên chợ trong khúc hát ru em này:
* MUA VÔI CHỢ QUÁN, CHỢ CẦU:
- CHỢ QUÁN:
+
Chợ Quán ở Quảng Trị: Cách Thừa Thiên Huế đúng một con sông (Ô Lâu), chợ Quán
xưa nằm trên địa phận của xóm Quán thôn Mỵ, làng Trường Sanh, nay thuộc xã Hải
Trường, huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Đây là một ngôi chợ cổ nằm trên đường
Thiên lý Bắc - Nam, chợ xuất hiện dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1620 - 1687)
tuy nhiên do vị trí giao thông không thuận lợi nên quy mô phát triển không bằng
các chợ khác trong vùng, sau nhiều lần di chuyển chợ cũng trở lại vị trí ban đầu
lúc mới thành lập, hiện nay chợ được mang tên là Bến Đá.
+
Chợ Quán ở Quảng Nam: Ngược vào phía Nam tại làng Thanh Chiêm, Điện Bàn, Quảng
Nam có một ngôi chợ mang tên chợ Quán rất phồn thịnh, địa danh này được ghi lại
trong địa bộ của làng, tại đây có các cơ sở nghề truyền thống nổi tiếng như nghề
đúc đồng, bánh tráng, mì Quảng… Chợ Quán ban đầu nằm ở giữa làng, sau dời ra bến
đò trên sông Thu Bồn gọi là chợ Củi. Vào cuối thế kỷ XIX, cùng với chợ Phong Thử
và Đo Đo, chợ Quán được triều Nguyễn xếp hạng thuế thứ 9, khoảng thập niên sáu
mươi của thế kỷ trước chợ được đổi tên thành chợ Cầu Mống rồi chợ Tổng: “Bao giờ
cầu Mống gãy đôi/ Sông Thu hết nước em thôi thương chàng!”.
+
Ngoài ra, ở Sài Gòn cũng có địa danh Chợ Quán. Trong bài học thuộc
lòng “Sài Gòn” ở sách giáo khoa tiểu học ở miền Nam trước 1975, tác giả Bảo Vân
viết:
“Phường Chợ Quán, khóm Cầu Kho,
Bến xe Lục Tỉnh, con đò Thủ Thiêm”
+
Chợ Quán ở Thừa Thiên, Huế: Chợ Quán ở làng Tân Quán, gần vùng Nguyệt
Biều, còn chợ Cầu gần làng Thanh Lương. Hai chợ này ở gần bến nước cả sông
Hương và sông Hồ, nên dễ dàng xây lò đốt vôi. Ngoài ra họ còn lưu tâm chế biến
ra thứ vôi ăn trầu rất tinh vi như: sau khi đốt một lò vôi xong, khi ra lò họ lựa
sơ qua những sò trắng vất riêng ra một bên, còn bao nhiêu thứ sò ngũ sắc đã bị
đốt đến nhiệt độ đúng mức thì đống hàu ấy tự rệu ra thành thứ vôi bột để xây cất.
Cong thứ sò trắng đã cất riêng kia thì lại được sàng sấy rất kỹ, qua hai lớp
sàng và dần. Sau đó còn phải vất hết sỏi cát, rác rến, dơ bẩn. Xong xuôi còn phải
đưa vào lò đốt lại một lần thứ hai để cho các thứ sò trắng này phải “ngướu rệu”.
Lại sàng sẩy một lần nữa chỉ còn lại dưới “dần” lần cuối cùng là thứ sò tinh vi
để sú với nước. Khi sú xong người chuyên môn lấy tay trà trộn, chỉ nhận thấy
trong tay thứ bột mềm dẻo mịn màng. Nếu lấy dao ăn trầu mà cắt thì không còn có
thể mà nghe một hột cát nào trong bánh vôi. Như thế mới được gọi là vôi chợ
Quán, chợ Cầu.
Thời
xưa đi mua vôi ăn trầu là cả một vấn đề xê dịch đáng ngại, phải qua năm sông bảy
đò. Đôi khi qua đò, lại nên duyên nên nợ cho mấy o đi mua vôi ăn trầu. Bởi thế
nên có hai câu hò sau:
“Không đi thì nhớ thì thương
Đi rồi lại nhớ Thanh Lương, chợ Cầu!
Không đi thì thảm thì sầu
Đi rồi lại nhớ chợ Cầu, Thanh Lương!…”
(“Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu” - Trang web Tin Tức Huế)
Nhiều
người Huế chưa hề nghe biết “làng Tân Quán ở gần vùng Nguyệt Biều”. Có lẽ Tân
Quán là tên gọi xưa của làng Lương Quán chăng? Hiện nay ở Huế đang có “Nhà vườn
Lương Quán” – Nguyệt Biều, phường Thủy Biều, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
(được công nhận là địa điểm du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế theo Quyết định số
2791/QĐ-UBND ban hành ngày 21/12/2018)
Theo
ông Nguyễn Đình Liễu trong bài viết “Điệu hò ru con xứ Huế” thì:
“Chợ
Quán là nói tắt của làng Lương Quán, vùng Nguyệt Biều. Ai cũng biết Thừa Thiên
có đá vôi, thời Pháp thuộc đã khai thác nhà máy vôi Long Thọ, sản xuất vôi dùng
vào việc xây cất nhà cửa, cầu cống.”
Theo
học giả An Chi thì làng Lương Quán từ xưa đến nay chưa hề tồn tại một ngôi chợ
nào.
+ CHỢ CẦU
*
Chợ Cầu ở Quảng Trị đang là di tích văn hóa quốc gia
-
Chợ Cầu nguyên nằm ở khu đất trước đình Hà Thượng nay thuộc thị trấn Gio Linh.
Chợ được lập vào năm Canh Tỵ dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1667) là ngôi đình
cổ nhất của tỉnh Quảng Trị.
Đình
làng Hà Thượng nằm về phía Ðông của làng Hà Thượng, thị trấn Gio Linh, cách quốc
lộ 1A chưa đầy 1km. Di tích đã được Bộ VHTT (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) xếp hạng quốc gia theo Quyết định số 154/QÐ-BVHTT ngày 25 tháng 1 năm
1991. Ðình tọa lạc trên một khu đất rộng với tổng diện tích là 8.450m2. Toàn bộ
khuôn viên bao gồm một tòa đại đình và 4 ngôi miếu thờ 4 vị thần. Toàn bộ kiến
trúc tòa đại đình hiện còn có sự phân bố mặt bằng khác biệt so với các ngôi
đình ở miền Bắc và những ngôi đình miền Trung được khởi tạo muộn ở các thế kỷ
XVIII - XIX. Mặt bằng đại đình bố trí theo chiều dọc, mặt tiền mở ra từ gian
chái, cửa chính quay về hướng Ðông (một hướng rất lệch so với hướng kiến trúc của
người Việt). Cấu trúc bộ khung gỗ chịu lực được thực hiện theo mô thức của một
ngôi nhà rường 3 gian, hai chái, phân bố theo 6 hàng cột như vẫn thường thấy ở
kiến trúc cổ vùng đồng bằng Trị - Thiên. Không gian bên trong ngôi đình được
phân thành hai phần: phần tiền đường gồm không gian của gian chái trước và hai
gian ngoài dùng làm nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp, ăn uống; phần hậu liêu gồm
không gian của gian chái sau và một gian trong dùng làm nơi thờ cúng, tế tự. Hệ
thống cổng và tường thành phía trước đình xây bằng gạch, xi măng; nền móng khá
cao được xây bằng đá bazan ngăn khuôn viên của đình với khu vực chợ Cầu. Chợ Cầu
Quảng Trị đã từng đi vào thơ ca:
“Vôi trắng nghìn năm lời ước hẹn
Đỏ au cổ tích chẳng nhòa phai
Chợ Cầu giao cảm cùng sông núi
Viên mãn cho người một sớm mai…”
Võ Văn Hoa (Chợ Cầu ở thị trấn Gio Linh Quảng Trị)
*
Chợ Cầu ở Thừa Thiên, Huế:
-
“Còn chợ Cầu, có nhiều cách nghĩ, có thể là chợ trên cây cầu, chợ cầu làng
Thanh Lương... nhưng theo tôi nghĩ đó là chợ Cầu Hai, vì vôi có 2 nguồn, có thể
từ núi đá vôi và cũng có thể từ vôi động vật thân mềm như hàu, trai... mà Cầu
Hai Phú Lộc thì những loài này rất nhiều. Ngày nay vùng Lăng Cô vẫn còn nung
hàu lấy vôi đó.”
(Điệu
ru con xứ Huế và địa danh liên quan - Trần Trung)
- Ông Nguyễn Đình Liễu trong bài viết Điệu hò
ru con xứ Huế cho rằng: “Chợ Cầu làm tôi liên tưởng đến… cầu ngói Thanh Toàn
thuộc làng Thanh Thủy, huyện Hương Thủy, đóng bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm
dương. Từ Vĩ Dạ đi về hướng Gia Lệ, Vân Thê đường về đầm Hà Trung (còn gọi là đầm
Chuồn), các bạn sẽ băng qua chiếc cầu lợp ngói bắc ngang nhánh sông nhỏ, đã được
lưu danh bất tử qua câu hò: “Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với, một đoàn
cho vui...”
+ Cầu
ngói Thanh Toàn không là nơi họp chợ mà chỉ có hội làng.
- Về
chợ Cầu, có tác giả cho rằng: “Chợ Cầu ở làng Phú Lương, Quảng Thành. Tên gọi
này có lẽ xuất phát từ địa thế của chợ, chợ nằm bên cây cầu có tên Đan Điền,
cây cầu nổi tiếng bậc nhất ở châu Ô thời bấy giờ”, từ suy diễn này tác giả minh
họa bằng trích dẫn chép từ Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An: “Cầu ở chợ làng Đan
Lương, huyện Đan Điền, phía đông chợ có một con ngòi, ngang ngòi có một nhịp cầu,
đầu cầu là nhà ở. Nhịp giữa cầu nổi cao như sống lưng cá kình rất tiện lợi cho
người qua lại. Sớm hôm không ngớt, đúng là cái cầu số một của châu Ô vậy”.
Do
tính đặc thù trong giao thương xưa, chúng ta không lấy làm lạ khi có rất nhiều
vùng miền có chợ và cầu cùng chung một tên (do các chợ đều tập trung ở gần cầu
và bến đò, rất tiện lợi giao thông thủy - bộ), nhưng việc gán cho một ngôi chợ
(Đan Lương) nằm ở gần một chiếc cầu (Đan Điền) có tên hẳn hoi để trở thành địa
danh chợ Cầu cần xác minh.
* MUA CAU NAM PHỔ
Cách
cầu Trường Tiền khoảng hơn 3km về phía biển Thuận An, làng Nam Phổ (xã Phú Thượng,
huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) cạnh dòng sông Hương thơ mộng, từ Đập Đá đi
xuống. Làng trồng rất nhiều cây cau cao vút, vì gần nước nên cau rất ngon và
sai quả. Nhiều câu ca dao đã minh chứng cho sự nổi tiếng của cau Nam Phổ từ
xưa, chẳng hạn:
“Cam
Xã Đoài gửi vô thì cau Nam Phổ đóng bồ gửi lại, hàng lại trao hàng xa ngái quản
chi”.
Đất
Nam Phổ là đất phì nhiêu, nhưng mật độ dân số quá cao, mà đất thì chật nên người
dân xem tấc đất là tấc vàng, phải gia công vun, xới, bón, tưới, mà trồng thứ
cau “bánh dầy” với bốn tiêu chuẩn như sau mới đáng gọi là cau Nam Phổ: Mỏng vỏ,
nhỏ xơ, tơ lòng, trong ruột.
“Tơ
lòng” là khi bổ cau ra, thấy lòng cau có những đường tơ nho nhỏ chạy quanh,
chia thịt cau ra đúng như đường huyết nhỏ xíu trong làn da trắng của người.
“Trong
ruột” là khi bổ trái cau ra sáu miếng hay tám miếng thì ở giữa trung tâm trai
cau có một vòng “màng mạc” trong giống như có nước. Có đủ bốn tiêu chuẩn ấy và
phải là dáng “bánh dầy” mới là cau Nam Phổ.
Cái
tên Nam Phổ đồng thời gắn liền với đặc sản truyền thống Huế: bánh canh và các
loại bánh nậm, bánh ít, bánh bèo, bánh ướt, bánh lọc... Cau Nam Phổ nổi tiếng từ
xưa, nhưng nay người làng chỉ trồng để làm đẹp sân nhà, không còn là nguồn sinh
kế nữa.
* MUA
TRẦU CHỢ DINH
Chợ
Dinh được lập trên đất làng An Quán, nay thuộc phường Phú Hậu, thành phố Huế, nằm
bên bờ của một nhánh sông Hương đổ về theo đường Chi Lăng, chợ chỉ đông buổi
sáng, từ chợ đi về khoảng 200m có bến đò qua Nam Phổ, Vĩ Dạ bên kia sông Hương,
gọi là bến đò Chợ Dinh. Năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Khoát lập phủ chính ở Bác Vọng,
Phú Xuân. Một năm sau, chúa chính thức dời Dinh phủ vào An Quán. Chợ nằm phía
đông phủ, nên gọi là chợ Dinh. Vùng chợ Dinh xưa quanh năm rợp vườn cây trái,
nơi trồng trầu ngon nổi tiếng trong vùng.
*.
Trong
lịch sử, từng có một phố chợ Dinh, một chợ Dinh, cùng một Dinh Ông. Khi lên
ngôi, vua Gia Long đã cho đào kênh Đông Ba biến vùng đất ở phía bên kia bao bọc
bởi một nhánh của sông Hương, có từ thời các chúa Nguyễn, thành ốc đảo và trên
bản đồ thực hiện năm 1819, L.Rey gọi là đảo Chợ Dinh. Cũng chính vua Gia Long
đã cho bắc cây cầu gỗ An Hội và sau đó năm 1837, vua Minh Mạng đổi thành Gia Hội.
Đây là cơ sở cho sự ra đời của phố Chợ Dinh xưa, bắt đầu từ cầu Gia Hội (đường
Chi Lăng hiện nay). Phố Chợ Dinh có “chợ Dinh bán áo con trai”. Và khi quan Thượng
thư Trần Tiễn Thành đến xây dựng tư dinh ở phía bên kia đường đối diện thì chợ
được đặt tên chợ Dinh.
(Theo
Đan Duy - Báo Thừa Thiên Huế số ra ngày 12/10/2011)
Mua
trầu chợ Dinh.
Đó
là Trầu Cau (có khi gọi là Trầu Mọi) ở xứ Cùa, tỉnh Quảng Trị đưa vào do người
dân tộc bán về Dinh, Trầu Quế (có hương vị cay) màu lục, lá dày. Trầu “xà lẹt”
lá dài và nhọn như lá tiêu, có nhiều sứa, màu hơi vàng vàng, phải người sành ăn
mới dùng được vì nó hôi lại có mùi hăng, vị chát, không quen ăn đến phỏng miệng.
Trầu Hương (thơm ngon) lá lục, thường người ta bán ở Huế cao giá hơn các thứ trầu
kia.
Loại
Trầu Hương này đi đôi với cau Nam Phổ, là hai món hàng “quí phái”, nhiều khi đắt
giá đến nỗi mấy O đi chợ phải lên giọng than phiền bằng câu:
“Cau Nam Phổ mỗi trái mỗi giác
Trầu Hương mỗi ngọn mỗi tiền”!
Nhưng
vì sao phải đi chợ Dinh mới mua được trầu ngon đủ hương vị cho người sành điệu
nhóp nhép? Số là chợ Dinh lúc bấy giờ cũng như chợ Đông Ba hồi đó là nơi hẹn hò
khách bốn phương về chầu chúa Nguyễn.
Ngoài
ra, trong “khúc hát ru em” vùng Trị Thiên có hai câu được cho là chắp nối thêm
vì so câu bát bên trên “Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh” thì không ăn vần
(dinh - trai) và lại có những dị bản:
“Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”
CHỢ DINH BÁN ÁO CON TRAI.
Chợ Dinh “bán áo con trai” với giai thoại một
vị quan trong triều Nguyễn muốn chợ Dinh chỉ bán áo con trai để cầu tự.
Có
người cho rằng “áo con trai” hoặc “cháo con trai” ở đây chính là thịt con trai,
con hến, vì chợ Dinh nằm cạnh Cồn Hến, người dân khai thác hến ở dưới sông đem
lên đây để bán.
Theo
nhà báo Đan Duy đăng trên Báo Thừa Thiên Huế số ra ngày 12/10/2011 như thế này:
“Thời của “Chợ Dinh bán áo con trai” cũng là thời chiếc áo vải thô nặng trịch.
Trong cảnh vạt áo vá vai, chuyện áo quần cho con trẻ, các bậc cha mẹ nghèo cũng
không có cách nào hơn, thường phải tận dụng đồ phế thải của người lớn để may lại.
Áo may đơn giản, không cầu kỳ trai gái, cốt có để mặc. Nắm bắt nhu cầu đó của
người đời, một số kẻ tìm mua quần áo cũ đem về may lại đồ con nít đủ cỡ, rồi
đem “bỏ chợ” như một nghề kiếm sống. Chiếc áo phi nam phi nữ kia, muốn cho dễ
ngó thì có anh thợ nhuộm, cứ thuê nhuộm đủ màu để người mua tha hồ lựa chọn.”
* Ở
đây có dị bản so với khúc hát ru em đã đăng ở phần trên:
“Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh “bán nón quan hai
Bán thao quan mốt, bán quai năm tiền”
TRIỀU SƠN BÁN NÓN
Theo
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn thì:
“Nón
dứa ở Thuận-hóa cách chế nón khác các nơi. Thôn Tam-giáp-thượng và làng Triều-sơn
ở huyện Phú-vinh (Tư Vinh) dệt nón rất là nhỏ và mỏng”.
Làng
Triều Sơn trước đây gọi là Triều Sơn xã, thuộc huyện Tư Vinh. Sau này chia
thành bốn giáp Đông, Nam, Tây, Trung mà ta thường gọi là Triều Sơn Đông, Triều
Sơn Nam (thuộc xã Hương Vinh, Hương Trà), Triều Sơn Tây (phường An Hòa, thành
phố Huế), Triều Sơn Trung (xã Hương Toàn, Hương Trà).
MẬU TÀI BÁN KIM
Theo
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn:
“Làng
Võng-thì huyện Phú-vinh chuyên nghề làm cuốc sẻng dao búa. Làng Mậu-tài chuyên
nghề làm giây thau giây sắt”.
Có
thể giây thau giây sắt này là nguồn gốc của nghề làm kim khâu hiện tại. Làng Mậu
Tài hiện nay thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế (đối diện
Làng Triều Sơn Đông bên kia sông Hương).
Có những dị bản khác về địa danh như Triệu Sơn, Mẫu Sơn, Chợ Sơn, Quan Tài chẳng hạn:
Có những dị bản khác về địa danh như Triệu Sơn, Mẫu Sơn, Chợ Sơn, Quan Tài chẳng hạn:
“Mẫu Sơn bán nón, Mẫu Tài bán kim”
“Khúc
hát ru em” này lại có dị bản, thường được người dân Phú Lộc, Thừa Thiên hát ru
mấy câu cuối như sau:
“Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán
kim
Kim Liên ơi hỡi Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê
Hà Khê gió thổi đường đê
Chim kêu vượn hú bốn bề nước non”
Trong
truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng có hai câu:
“Kim Liên ơi hỡi Kim Liên.
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”
Không
rõ có sự giao thoa văn hóa với nhau không? Mà ngọn đồi Hà Khê chính là nơi tọa
lạc của ngôi chùa Thiên Mụ nổi tiếng ở Huế.
“Ngôi
chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, ngọn đồi hình chữ nhật có thế Sơn Triều Thủy
Tụ vô cùng đẹp và hữu tình. Nhìn từ xa ngọn đồi Hà Khê giống như một con rùa và
chùa Thiên Mụ chính là mai rùa, đang đứng cúi đầu uống nước trên sông Hương.
Chùa Thiên Mụ xây trên đồi Hà Khê tiếp tục được bảo tồn đến tận bây giờ.”
(Theo
bài viết: “Câu chuyện chùa Thiên Mụ và đồi Hà Khê” đăng trên trang web dulichhuedanang.com)
*.
Xin
mời nghe thêm một dị bản về “khúc hát ru em” vùng Trị Thiên:
“À ơi ơi ơi…
Ru em em théc cho muồi…
Để mạ đi chợ… À ơi ơi ơi…
Để mạ đi chợ… mua vôi ăn trầu…
À ơi ơi… mua vôi chợ Quán mà chợ Cầu…
Chứ mua cau mà Nam Phổ… à ơi ơi ơi…
Mua cau Nam Phổ… mua trầu chợ Dinh…
À ơi ơi ơi… chứ Chợ Dinh bán áo con
trai…
Triệu Sơn bán nón à ơi ơi…
Triệu Sơn bán nón… Mậu Tài bán kim…
.
À ơi ơi ơi…
Chứ mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử…
Vợ trông chồng… à ơi ơi ơi… vợ trông chồng…
ra đứng núi là Vọng Phu…
À ơi ơi ơi… chứ biết răng chừ bóng xế
trăng lu…
Nghe con ve kêu mùa hạ… À ơi ơi ơi…
Nghe con ve kêu mùa hạ chứ biết mấy thu
em gặp chàng”.
“Khúc
hát ru em” dị bản này, thực ra chỉ là việc ghép hai khúc hát ru lại mà thôi.
Nói tóm lại, tên các chợ trong “khúc hát ru em” này của vùng Trị Thiên như Chợ Dinh, Triều Sơn, Nam Phổ, Mậu Tài đều nằm ở Thừa Thiên, Huế chứ không ở Quảng Trị; còn chợ Cầu, chợ Quán ở Quảng Trị. Ngoài ra, tại làng Thanh Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam có một ngôi chợ mang tên chợ Quán rất phồn thịnh, địa danh này được ghi lại trong địa bộ của làng, tại đây có các cơ sở nghề truyền thống nổi tiếng như nghề đúc đồng, bánh tráng, mì Quảng… Chợ Quán ban đầu nằm ở giữa làng, sau dời ra bến đò trên sông Thu Bồn gọi là chợ Củi.
Nói tóm lại, tên các chợ trong “khúc hát ru em” này của vùng Trị Thiên như Chợ Dinh, Triều Sơn, Nam Phổ, Mậu Tài đều nằm ở Thừa Thiên, Huế chứ không ở Quảng Trị; còn chợ Cầu, chợ Quán ở Quảng Trị. Ngoài ra, tại làng Thanh Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam có một ngôi chợ mang tên chợ Quán rất phồn thịnh, địa danh này được ghi lại trong địa bộ của làng, tại đây có các cơ sở nghề truyền thống nổi tiếng như nghề đúc đồng, bánh tráng, mì Quảng… Chợ Quán ban đầu nằm ở giữa làng, sau dời ra bến đò trên sông Thu Bồn gọi là chợ Củi.
Người
dân Trị Thiên nói chung đều thuộc nằm lòng khúc hát ru này, không chỉ riêng người
dân xứ Huế mới thuộc. Tên các chợ có lẽ hình thành trong bối cảnh lịch sử, sự
xác lập địa lý vào thời điểm khúc hát ru ra đời. (Năm 1466, vua Lê Thánh Tông đặt
dải đất của Châu Thuận và Châu Hóa thành hai phủ là: Phủ Tân Bình và Phủ Triệu
Phong thuộc xứ Thuận Hóa. Phủ Triệu Phong gồm 6 huyện: Vũ Xương, Đan Điền, Kim
Trà, Tư Vang, Điện Bàn và An Nhơn (từ Cửa Việt vào Điện Bàn). Ta thấy có sự
giao thoa, chồng lấn, thay đổi các địa danh, vùng miền qua từng thời kỳ giữa Thừa
Thiên Quảng Trị và Quảng Nam (Phủ Triệu Phong).
Video
clip tôi hát ru cháu nội út ngủ do con trai tôi (cha đứa bé) quay ngẫu nhiên
cách đây hai năm. Tôi hát mộc không có nhạc cụ đệm, và “được” quay bằng điện
thoại cùi bắp nên giọng hát vốn không hay vì thế nghe càng dỡ, nhưng đó cũng là
kỷ niệm với khúc hát ru được “truyền thừa” một cách “vô thức” từ bà nội mình dù
bà đã khuất bóng mấy chục năm rồi. Tình yêu con cháu và gia đình nồng đượm, như
cũng “truyền thừa từ” đó!
La Thụy sưu tầm và biên tập.
----
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
* “Tìm hiểu các địa danh qua một bài ru cổ” -
Tác giả Khê Giang (tạp chí Cửa Việt số 284, tháng 5 năm 2018).
* Điệu ru con xứ Huế và địa danh liên quan -
Tác giả Trần Trung.
* Ai đến Gio Linh nhớ ghé chợ Cầu - Tác giả
Thiên Hà (trang web “Quảng Trị online”).
* Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu (trang web Tin Tức
Huế)
* Chợ Dinh bán áo con trai - Tác giả Đan Duy
(báo Thừa Thiên Huế số ra ngày 12/10/2011).
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ La Gi, Bình Thuận ngày 25/10/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét