Nguyễn Đình Trọng Dịch thơ chữ Hán của Bác Hồ ra thơ lục bát
Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Ta nay chẳng thích ngâm thơ
Nhân vì trong ngục thời giờ rảnh rang
Ngâm cho khuây khoả thời gian
Đợi cho ngày được hoàn toàn tự do.
Thông tin
cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả
Nguyễn Đình Trọng
Bút
danh Sông Kôn
Địa chỉ:
14/11 Nhất Chi Mai, P.13, Q. Tân Bình
ĐT:
01233123789 - 08 38 123 789
Email: tucchip@gmail.com
_____
Bài 1.
Nguyên
tác
開 卷
Phiên âm
KHAI QUYỂN
Lão phu
nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
DỊCH NGHĨA
Già này vốn
không thích ngâm thơ
Nhân vì
trong ngục không có gì làm
Hãy mượn
việc ngâm thơ cho qua ngày dài
Vừa ngâm
vừa đợi thời giờ tự do.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
MỞ ĐẦU NHẬT KÝ TRONG TÙ
Ta nay chẳng thích ngâm thơ
Nhân vì trong ngục thời giờ rảnh
rang
Ngâm cho khuây khoả thời gian
Đợi cho ngày được hoàn toàn tự do.
----------
Bài 2.
Nguyên
tác
午
Phiên âm
NGỌ
Ngục trung
ngọ thụy chân thư phục
Nhất thụy
hôn hôn kỷ cú chung
Mộng kiến
thừa long thiên thượng khứ
Tỉnh thời
tài giác ngọa lung trung.
DỊCH NGHĨA
Trong lao
giấc ngủ trưa thật khoan khoái
Một giấc
say sưa mấy tiếng đồng hồ
Mơ thấy
cưỡi rồng bay trên trời
Tỉnh dậy
mới biết mình đang nằm trong lao.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
BUỔI TRƯA
Trong lao ngủ đến say sưa
Miên man một giấc ngủ trưa mấy giờ
Thấy cưỡi rồng bay lững lờ
Tỉnh ra mới biết đang mơ trong tù.
------
Bài 3.
Nguyên
tác
暮
Phiên âm
MỘ
Quyện điểu
phi lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn
mạn độ thiên không
Sơn thôn
thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma
hoàn lô dĩ hồng.
DỊCH NGHĨA
Chim mỏi
cánh về rừng tìm cây ngủ
Chòm mây lẻ
chầm chậm trôi trên không
Thiếu nữ
xóm núi xay ngô
Xay ngô vừa
xong lò than đã đỏ.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
CHIỀU TỐI
Chim bay mỏi cánh về rừng
Mây bay lơ lửng mấy từng lô xô
Có cô thiếu nữ xay ngô
Xay xong lửa đã rực lò than đêm.
----------
Bài 4.
Nguyên
tác
粥 攤
Phiên âm
CHÚC THAN
Lộ bằng thụ
ảnh lương âm hạ
Nhất duyện
mao lư thị tửu lâu
Lãnh chúc
bạch diêm cung thực phổ
Hành nhân quá
thử tạm đình lưu.
DỊCH NGHĨA
Dưới bóng
cây râm mát bên đường
Một túp lều
tranh ấy là “tiệm rượu”
Cháo nguội
và muối trắng thành thực đơn
Khách đi
đường qua đây tạm dừng nghỉ.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
HÀNG CHÁO
Ven đường dưới bóng cây xanh
Đơn sơ một túp lều tranh “tửu lầu”
Cháo hoa, muối trắng bấy lâu
Đường xa khách tạm cạn bầu tâm tư.
----------
Bài 5.
Nguyên
tác
落 了 一 隻 牙
Phiên âm
LẠC LIỄU NHẤT CHÍCH NHA
Nhĩ đích
tâm tình ngạnh thả cương
Bất như lão
thiệt nhuyễn nhi trường
Tòng lai dữ
nhĩ đồng cam khổ
Hiện tại
đông tây các nhất phương.
DỊCH NGHĨA
Tâm tình
của anh cứng rắn mà kiên cường
Không như
lão lưỡi mềm mà dài
Trước nay
đã cùng anh đồng cam khổ
Bây giờ
phải xa nhau mỗi người một phương.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
RỤNG MỘT CHIẾC RĂNG
Tính anh cứng rắn kiên cường
Chẳng như lão lưỡi không xương úi
xùi
Cùng nhau cay đắng ngọt bùi
Giờ thì lại phải ngậm ngùi xa nhau.
----------
Bài 6.
Nguyên
tác
清 明
Phiên âm
THANH MINH
Thanh minh
thời tiết vũ phân phân
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tự do hà xứ hữu
Vệ binh dao chỉ biện công môn.
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tự do hà xứ hữu
Vệ binh dao chỉ biện công môn.
DỊCH NGHĨA
Tiết thanh
minh mưa phùn dày hạt
Trong ngục người tù buồn đứt ruột
Ướm hỏi nơi nào có tự do?
Lính gác chỉ tay về phía xa cửa công đường.
Trong ngục người tù buồn đứt ruột
Ướm hỏi nơi nào có tự do?
Lính gác chỉ tay về phía xa cửa công đường.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
TIẾT THANH MINH
Thanh minh lất phất mưa bay
Tù nhân buồn bã đắng cay nỗi lòng
Hỏi rằng có tự do không?
Vệ binh chỉ thẳng ra công đường tìm!
----------
Bài 7.
Nguyên
tác
結 論
Phiên âm
KẾT LUẬN
Hạnh ngộ anh
minh Hầu Chủ nhiệm,
Nhi kim hựu thị tự do nhân;
Ngục trung nhật ký tòng kim chỉ,
Thâm tạ Hầu công tái tạo ân.
Nhi kim hựu thị tự do nhân;
Ngục trung nhật ký tòng kim chỉ,
Thâm tạ Hầu công tái tạo ân.
DỊCH NGHĨA
May gặp
được Chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt
Mà nay ta
lại là người tự do
Nhật ký
trong tù chấm dứt từ đây
Cảm tạ khôn
xiết công ơn tái tạo của ông Hầu.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
KẾT THÚC NHẬT KÝ TRONG TÙ
Chủ nhiệm họ Hầu anh minh
Tự do mang lại cho mình hôm nay
Nhật ký… kết thúc từ đây
Cảm tạ khôn xiết ơn này Hầu Công.
----------
Bài 8.
Nguyên
tác
新 出 獄 學 登 山
Phiên âm
TÂN XUẤT NGỤC HỌC ĐĂNG SƠN
Vân ủng
trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính, tịnh vô trần.
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọngNam
thiên ức cố nhân.
Giang tâm như kính, tịnh vô trần.
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọng
DỊCH NGHĨA
Mây ôm dãy
núi, núi ôm mây,
Lòng sông như gương, không chút bụi
Một mình bồi hồi dạo bước trên đỉnh núi Tây Phong
Trông về phía trời Nam xa xăm nhớ bạn xưa.
Lòng sông như gương, không chút bụi
Một mình bồi hồi dạo bước trên đỉnh núi Tây Phong
Trông về phía trời Nam xa xăm nhớ bạn xưa.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
MỚI RA TÙ TẬP LEO NÚI
Mây ôm núi, núi ôm mây
Lòng sông gương sáng chẳng vây bụi
trần
Bồi hồi dạo núi Tây Phong
Trông về đất Việt chạnh lòng cố
nhân.
----------
Bài 9.
Nguyên
tác
元 宵
Phiên âm
NGUYÊN TIÊU
Kim dạ
nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
DỊCH NGHĨA
Đêm nay,
Rằm tháng Giêng, trăng vừa tròn,
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.
Nước sông xuân tiếp liền với màu trời xuân.
Giữa nơi khói sóng thăm thẳm, bàn bạc việc quân,
Nửa đêm trở về, thuyền chở đầy ánh trăng.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
RẰM THÁNG GIÊNG
Rằm Giêng vành vạnh trăng tròn
Xuân sông Xuân nước trời còn thêm
Xuân
Mờ sương bàn bạc việc quân
Quay về khuya ánh trăng dâng đầy
thuyền.
----------
Bài 10.
Nguyên
tác
七 九
Phiên âm
THẤT CỬU
Nhân vị ngũ
tuần thường thán lão
Ngã kim
thất cửu chính khang cường
Tự cung
thanh đạm tinh thần sảng
Tố sự thung
dung nhật nguyệt trường.
DỊCH NGHĨA
Người chưa
đến năm mươi thường than già
Ta năm nay
đã sáu ba còn khoẻ mạnh
Tự mình rèn
luyện sống thanh đạm thoải mái
Còn sống
dài dài với thời gian.
Nguyễn Đình Trọng dịch ra
thơ lục bát:
TUỔI BẢY LẦN CHÍN
Chưa năm mươi tuổi than già
Ta bảy lần chín vẫn là đang trai
Rèn mình thanh đạm dẻo dai
Ung dung sống tháng năm dài bình
yên.
Nguyễn Đình Trọng dịch
Nguyễn Đình Trọng Email: tucchip@gmail.com
ĐT: 01233 123 789
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.HCM ngày 03.02.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét