Có một dòng sông như thế - Phạm Đức Nhì (USA)
Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015
Trong
một chuyến về thăm quê hương, nhờ trang Web Trần Nhương tôi đã
quen biết nhà thơ, họa sĩ Trần Nhương (chủ trang Web). Nhà
thơ kiêm họa sĩ này rất cởi mở, vui vẻ, và nhiệt tình giúp tôi có dịp
gặp gỡ, trò chuyện với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong đó có nhà
thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam. Biết quê
vợ tôi ở Đồ Sơn, anh Trần Nhương đã mách nước cho
tôi đến tìm gặp một nhà thơ nổi tiếng của Hải Phòng, làm chủ khách
sạn Hoa Thành Đạt đồ sộ ở Đồ Sơn, nhà thơ Trịnh
Anh Đạt.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Quê
quán: Việt Nam
Hiện
định cư tại Galveston, Texas
Email: nhidpham@gmail.com
_____
CÓ MỘT DÒNG SÔNG
NHƯ THẾ
Trong
một chuyến về thăm quê hương, nhờ trang Web Trần Nhương tôi đã
quen biết nhà thơ, họa sĩ Trần Nhương (chủ trang Web). Nhà
thơ kiêm họa sĩ này rất cởi mở, vui vẻ, và nhiệt tình giúp tôi có dịp
gặp gỡ, trò chuyện với các nhà văn, nhà thơ Việt Nam trong đó có nhà
thơ Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam. Biết quê
vợ tôi ở Đồ Sơn, anh Trần Nhương đã mách nước cho
tôi đến tìm gặp một nhà thơ nổi tiếng của Hải Phòng, làm chủ khách
sạn Hoa Thành Đạt đồ sộ ở Đồ Sơn, nhà thơ Trịnh
Anh Đạt. Trịnh Anh Đạt và tôi đã mau chóng vượt qua được
cái hàng rào xã giao khô cứng. Chúng tôi có nhiều buổi ngồi uống chè
Núi Đối nói chuyện thơ, đọc và nghe thơ của nhau. Hai anh
em đã thân nhau và trao đổi với nhau khá nhiều điều sâu kín. Qua
Trịnh Anh Đạt tôi nhận được giấy mời tham dự ngày
thơ Nguyên Tiêu và gặp, trò chuyện với một số nhà thơ trong Hội
Nhà Văn Việt Nam. Rời các sân thơ Văn Miếu tôi may mắn được tháp tùng
một nhóm các nhà thơ miền Bắc đi ăn khuya. Bên chén chè, ly rượu các
anh đã cho phép tôi bước vào khung trời thơ rất riêng tư, rất chân
thật của mỗi người. Sau đó, nhân cuộc triển lãm mỹ thuật của một
số họa sĩ Hải Phòng tôi lại được gặp các anh một lần nữa. Những
cuộc trò chuyện bên lề này đã giúp tôi vỡ lẽ ra nhiều điều
thú vị; sự hiểu biết về thơ ca của tôi cũng được
mở rộng thêm. Tôi đã được các tác giả tặng nhiều tập văn,
thơ có giá trị tham khảo. Anh Đạt cũng cho tôi một phần khá nhiều
trong số thơ anh sưu tập. Và đặc biệt, anh đã cao hứng viết
tặng tôi một bài thơ kỷ niệm Ngày Thơ Nguyên Tiêu tại Văn Miếu.
PHÚT
BÌNH YÊN VĂN MIẾU
(Tặng Phạm Đức Nhì, nhà thơ Mỹ gốc Việt)
Anh
từ Texas về đây
Bạn
thơ dang rộng vòng tay đón chào
Bỏ qua
thủ tục ngoại giao
Toàn
thằng lính trận thuở nào choảng nhau!
Người mẻ trán,
kẻ sứt đầu
Trở giời
trái gió ngấm đau một mình
Duyên
thơ nối nhịp ân tình
Rời tay
súng, chẳng phải rình rập ai
Vào nơi
trọng dụng hiền tài
Qua
Khuê Văn Các sánh vai cùng người
Thơ hay
vụt thả đỏ trời
Rưng
rưng ánh mắt rạng ngời lửa thiêng!
Vượt
lên giông bão trăm miền
Quê
hương ơi! Phút bình yên diệu kỳ!
Văn Miếu Quốc Tử Giám
Nguyên Tiêu Canh Dần
Trịnh Anh Đạt
Sau
khi tôi trở về Mỹ, anh Đạt và tôi cũng thỉnh thoảng điện
thoại thông báo cho nhau những nét mới trong sinh hoạt văn
học ở trong nước và hải ngoại. Tháng 10 năm 2010 gia đình
anh Đạt qua Mỹ dự lễ cưới của con gái ở California. Sau
khi chu du vài thành phố có đông người Việt tỵ nạn anh Đạt
gọi điện thoại hỏi tôi:
"Chiến tranh đã chấm dứt hơn 30 năm mà sao người Việt hải
ngoại vẫn còn ác cảm, vẫn đối đầu với những người Cộng Sản?”
Tình
cảm của anh Đạt dành cho tôi sâu đậm như thế nên tôi thấy
mình có bổn phận phải cho anh câu trả lời thành thật.
Sau
30/4 /1975 chính sách cải tạo đã làm cho người dân miền Nam ngỡ ngàng
choáng váng. Sau kỳ hạn 2 tháng, rồi 3 năm, hàng trăm ngàn cựu quân nhân,
viên chức chính quyền miền Nam vẫn biền biệt không về, vẫn còn phải chịu đọa
đày trong các trại tập trung rải rác khắp nơi trên đất nước. Lúc đó gia đình
những người đi cải tạo mới biết mình bị lừa. Sự lừa dối ấy, cùng với những hệ
quả đau thương khác của chính sách cải tạo, dường như đã đâm một nhát dao vào
ngực người dân miền Nam, đã đào một con sông ngăn cách lòng người Nam Bắc. Vết
thương ấy giờ vẫn còn đang rỉ máu; con sông ấy giờ vẫn còn rất rộng và chưa có
cầu nối liền hai bờ. Và tôi viết tiếp câu trả lời bằng một bài thơ.
BỜ VẪN
QUÁ XA
(trả lời một người bạn)
(Tặng bạn thơ Trịnh Anh Đạt và cô vợ người Hoa)
Tôi, người lính Lữ
Đoàn 1 Nhảy Dù
năm 75, 29 tháng tư
khi đoàn tàu chở đơn
vị tôi
chuẩn bị rời Vũng Tàu
hướng ra Đông Hải
thương cha mẹ già,
đàn em dại
tôi bước lên bờ
ở lại quê hương
nhưng cha mẹ già chưa
được gặp
cũng chưa thấy mặt
đàn em
các anh, những người
chiến thắng
súng dí sau lưng
đẩy tôi vào trại tập
trung
rồi bằng những lời
dối trá
trái tim vô tình
tia nhìn thù hận
các anh cướp mất của
tôi
những tháng năm đẹp
nhất cuộc đời
tôi có người bạn
đói lòng moi mấy củ
khoai
các anh đập nát xương
bàn tay
mãi mãi mang thương
tật
một người khác
lâu ngày thèm thịt
chụp vội con nhái bên
đường
bỏ vào mồm nuốt chửng
báng súng AK
các anh lao vào ngực,
vào bụng
cho đến khi con nhái
phòi ra
con nhái lúc vào màu
xanh
lúc ra thành màu đỏ
tôi trở về trên đôi
nạng gỗ
nhìn nhà dột, cột
lung lay
cha chết đọa đày
các em tứ tán
mẹ tuổi già, sức yếu
vẫn giãi nắng, dầm
sương
tôi cắn răng lìa bỏ
quê hương
tìm sự sống
trở về thăm quê mấy
lần
trên đường từ Nam ra
Bắc
tôi cũng đôi khi nếm
được
chút dư vị của chiến
tranh
tôi gặp cả thương
binh
từ hai phía
kẻ chống nạng, người
ngồi xe lăn
kẻ mất tay, người sẹo
đầu, vẹo cổ
họ buồn tủi vì phải
sống đời đói khổ
nhưng không thấy ai
lên tiếng oán hờn
với họ, giữa chiến
trường
“chuyện thường tình
mũi tên hòn đạn.”
ở Mỹ, tôi quen vợ
chồng người Hoa
vợ giáo chức, chồng
luật sư
yêu nhau tha thiết
nhưng định mệnh trớ trêu, oan nghiệt
cô vợ bị hiếp dâm
ít lâu sau đẻ thằng
con
đen như cột nhà cháy
anh chồng ôm mặt khóc
như điên như dại
chạy ra khỏi phòng
sanh
vợ tay nắm chặt thành
giường
ngất lịm
trở về nhà
cô vợ trẻ người Hoa
đã có thể gạt nước
mắt cho đi đứa con khác màu da
để mỗi ngày người
chồng
khỏi thấy vết thương
lòng
bị chà đi, xát lại
nhưng các bạn tôi làm
sao có thể chặt bỏ bàn tay của mình?
làm sao có thể cắt bỏ
lá phổi của mình?
nên mỗi lúc trở trời,
đau đớn
lại nhớ đến các
anh
không giống những
thương binh
(mũi tên hòn đạn vô
tình)
các bạn tôi mang
thương tật
bởi đôi tay độc ác
bởi trái tim độc ác
của các anh
sau chiến tranh
đối xử với những
người ở bên kia chiến tuyến
nhưng cùng tiếng nói,
màu da
biết bao nhiêu phương
cách đưa ra
các anh chọn phương
cách tàn độc nhất
các anh đã tự đào
dòng sông ngăn cách
nay lại ngồi chễm chệ
trên bờ
í ới vẫy chúng tôi
qua
tiếc rằng…… bờ vẫn…
quá xa.
Thấy
tôi mon men ở bên này bờ sông Trịnh Anh Đạt đã lội ra đón tôi ở giữa dòng. Cứ
mỗi dạo ngồi bên nhau uống chè nói chuyện thơ, dòng sông ấy trong tôi lại hẹp
đi một ít. Một lần tôi ngồi ăn kẹo, uống chè với anh Đạt và vợ anh- chị Hoa-
nói chuyện tình yêu, gia đình, nuôi dạy con cái. Không khí thật đầm ấm, vui vẻ.
Tôi có cảm giác như mình đang ngồi trong nhà mình, trò chuyện với những người
thân trong gia đình mình. Lúc ấy dòng sông trong lòng tôi cứ hẹp dần, hẹp dần.
Cuối cùng chỉ còn như sợi tơ óng ánh trên mặt đất. Tiếc thay, còn quá ít Trịnh
Anh Đạt, quá ít Trần Nhương. Và vẫn chưa ai nghĩ đến chuyện bắc cầu. Hình như
họ còn chưa biết, hoặc chưa muốn công nhận, đã hiện hữu một dòng sông như thế.
Viết xong tháng chạp năm Canh Dần
(tháng 1 năm 2011)
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hải ngoại ngày 06.10.2015
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hải ngoại ngày 06.10.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét