Tản Mạn Thái Quốc Mưu: 8 ngày ở Trung Quốc
Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015
Lãnh thổ Trung Quốc
trải dài trên 50 vĩ tuyến từ Bắc xuống Nam. Bao phủ cả vùng xích đạo, vùng
nhiệt đới, ôn đới và hàn đới. Từ Đông sang Tây, quốc gia nầy bao trùm 62 kinh
tuyến, rất nhiều núi rừng, cao nguyên, thảo nguyên, sa mạc, đồng bằng...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Thái Quốc Mưu
Còn có bút danh Liêu Tiên Sinh
Tên thật Thái Quốc Mưu
Ngày Tháng Năm sinh: 11/2/1941
Quê quán Thị xã Mỹ Tho (TP.Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang)
Định cư tại Mỹ ngày 22-2-1992
Hiện đang sống và làm việc tại Atlanta USA
Email: danviet1995@aol.com
_____
8 NGÀY Ở TRUNG QUỐC
8 NGÀY Ở TRUNG QUỐC
* Sơ lược Địa Lý, Lịch sử Trung Quốc:
Lãnh thổ Trung Quốc trải dài trên 50 vĩ tuyến
từ Bắc xuống Nam. Bao phủ cả vùng xích đạo, vùng nhiệt đới, ôn đới và hàn đới.
Từ Đông sang Tây, quốc gia nầy bao trùm 62 kinh tuyến, rất nhiều núi rừng, cao
nguyên, thảo nguyên, sa mạc, đồng bằng...
Nằm ở hướng Đông Nam châu Á, Trung Quốc có
diện tích 9.6 triệu cây số vuông - nhỏ hơn Canada, lớn hơn Hoa Kỳ, có đường
biên giới trên 20.000 cây số, chung với Việt Nam, Lào, Miến Điện, Ấn Độ,
Bhutan, Nepal, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyz Stan, Kazakhastan,
Nga, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên và có bờ biển dài 18.000 cây số. Và, Trung Quốc
là một trong những quốc gia có chiều dài lịch sử lâu nhất thế giới.
Chữ viết cổ của Trung Quốc được cải biến và
hiện nay đang sử dụng, có trên 4006 năm. Là một quốc gia có những nền văn minh
gần 3.600 năm.
Trong khi huyền thuyết phương Tây cho rằng
“Thượng Đế tạo ra Trời Đất và con người.”
Còn ở Trung Quốc, theo Lão Tử thì “Đạo sanh một, một sanh hai, hai
sanh ba, ba sanh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba đó là Tam
Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thâu nhận Sanh quang từ
ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ và
vạn vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều có cõng
một Âm và bồng một Dương.”
Còn theo cổ thư của Trung Quốc thì mô tả:
“âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một
dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm tính, tiêu
cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động lẫn nhau tạo nên
tất cả vũ trụ.”
Ngày nay khoa học đã chứng minh những huyền
thuyết đó, chỉ là cách nghĩ của những con người ở thời kì đồ đá thô sơ mà ra.
Ở Trung Quốc, các nhà khảo cổ học, đã tìm
thấy những con người hóa thạch cách đây trên 3 triệu năm. Đó là chứng tích có
thể chứng minh, Trung Quốc từng là một trong những cái nôi của loài người. Và,
Trung Quốc có ông Bành Tổ sống đến 800 năm.
Lãnh thổ Trung Quốc rộng bao la nên có rất
nhiều sắc tộc, và trước khi lập quốc, để sinh tồn, những sắc tộc ấy sống từng
bầy, từng đàn vừa để chia xẻ thức ăn vừa để bảo vệ lẫn nhau. Nhìn về một vài
góc cạnh, sự kết hợp nhau để chung sống là điều tốt, nhưng chính nó đã gây và
tạo ra nhiều mâu thuẩn, tranh giành giữa bầy, đàn nầy với bầy, đàn khác. Chiến
tranh xảy ra.
Thuở ấy, Nghiêu là người hiền, lãnh đạo đàn,
bầy hay hơn tất cả, đứng ra kết hợp các bầy, đàn lại và làm Vua. Khi Vua Nghiêu
già, yếu không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi lại cho người hiền khác đó là
Thuấn. Vua Thuấn truyền ngôi cho Vua Vũ. Lịch sử gọi xã hội thời ấy là “Xã hội
hòa thuận”.
Đến khi Nhà Hạ lập quốc thì cái “lệ” truyền
hiền bị phá vỡ.
*
Nhà Hạ:
Lập quốc từ thế kỷ 21 đến thế kỷ 16 trước
Công nguyên. Truyền 17 đời vua, kéo dài 400 năm. 16 đời vua trước là những vị
minh quân, lấy nhân nghĩa trị dân. Đến khi vua Kiệt lên ngôi, Kiệt là một hôn
quân, đam mê tửu sắc, bị Thành Thang đánh đổ lập nên Nhà Thương.
*
Nhà Thương:
Sau khi lật đổ Nhà Hạ, Vua Thành Thang lên
ngôi, lập thành Nhà Thương từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 11 trước Công nguyên. Nhà
Thương trị vì được 600 năm, với 31 đời vua.
Vua Thành Thang thấy được nhược điểm của
Vua Kiệt, đổi chính sách cai trị, lấy lòng nhân mà đãi dân chúng và nổ lực
chiêu hiền đãi sĩ, nhiều nhân tài tìm đến. Thời đó, Vua Thành Thang xây dựng
được nền kinh tế lớn mạnh cho con cháu nhiều đời sau.
Vua sau cùng của Nhà Thương là Trụ Vương là
một tên hôn quân bạo chúa, đam mê nhan sắc Đắc Kỷ, giết hại trung thần. Chu Võ
Vương hưng binh phạt Trụ, lập thành Nhà Chu.
*
Nhà Chu:
Nhà Chu, từ thế kỷ 11 đến năm 711 trước
Công nguyên. Sau khi diệt Trụ, Chu Võ Vương đóng đô ở đất Cảo, thuộc tỉnh Thiểm
Tây, vì vậy, các nhà sử học gọi là Nhà Tây Chu.
Nhà Tây Chu trị vì gần 800 năm, đến đời U
vương thì mất nước. U vương là một ông vua tuy không bạo tàn như vua Trụ, nhưng
say mê gái đẹp, đốt phong hỏa đài gạt chư hầu đổi lấy nụ cười nàng Bao Tự, nên
bị mất nước vào tay quân Khuyển Nhung.
Sau đó, Bình Vương, cháu nhiều đời của Chu
Vũ Vương, kết hợp một số quần thần cũ, lập nên Nhà Đông Chu, đóng đô ở Lạc
Dương, nhưng triều đình thoái hóa, hoàng đế chỉ còn là hư vị, chư hầu thao
túng, loạn lạc triền miên, gây ra thời Xuân Thu Chiến Quốc.
*
Thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Thời
nầy lại chia ra làm hai giai đoạn:
-
Xuân Thu từ năm 770 đến 476 trước Công nguyên.
-
Chiến Quốc, từ năm 476 đến 221 trước Công nguyên.
*
Thời Xuân Thu:
Các sử gia gọi thời Xuân Thu là lấy theo
tên một cuốn sách của Khổng Tử. Thời ấy, Trung Quốc bị cắt chia ra thành nhiều
mảnh vụn, với 150 nước. Trong đó, các nước lớn là Tề (Tề Hoàn Công); Tống (Tống
Tương Công; Tấn (Tấn Văn Công; Tần (Tần Mục Công, Sở (Sở Trang Vương) sách sử
gọi năm nước đó là Ngũ Cường, còn gọi năm vị vua đó là Ngũ Bá.
Các nước lớn, nhỏ, thường đem binh chinh
phạt nhau làm cho Trung Quốc thời kỳ đó vô cùng hỗn loạn, dân tình đảo điên,
khổ sở. Mãi đến năm 579 và năm 546 trước Công nguyên, Tấn với Sở ký hòa ước,
hoàn bình mới tạm thời vãn hồi vùng Trung Nguyên.
Sau đó, hai nước Ngô, Việt nổi dậy giành
quyền thống trị Trung Nguyên. Ban đầu nước Ngô đánh bại nước Việt. Việt Câu
Tiển, tin dùng Phạm Lãi, dùng mỹ nhân kế, đưa nàng Tây Thi sang Ngô. Nhà Ngô
không nghe lời của Ngũ Tử Tư, bị sụp đổ.
Theo sách sử, thời Xuân Thu có 36 vị vua bị
giết và 52 nước chư hầu bị xóa sổ.
*
Thời Chiến Quốc:
Cuộc chiến thời Xuân Thu kéo dài, cuối cùng
còn lại bảy nước mạnh nhất: Tề, Sở, Yên, Hán, Triệu, Ngụy và Tần. Thời đó, gọi
bảy nước đó là Thất Hùng.
Bảy nước đó, mở mang bờ cõi bằng cách gây
chiến tranh, cấu xé lẫn nhau và xâm chiếm rồi sát nhập các nước yếu hơn vào
nước mình để thống trị.
Nước Tần ở hướng Tây, diệt 12 nước, sát
nhập vào lãnh thổ Tần. Năm 256 trước Công nguyên, nước Tần lật đổ Nhà Đông Chu.
Năm 221 trước Công nguyên, nước Tần dẹp 6
nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, lập nên Nhà Tần.
*
Nhà Tần:
Sau khi lập đổ Nhà Đông Chu, kết thúc thời
Chiến Quốc. Thống nhất giang san, Tần Thủy Hoàng bãi bỏ và cải cách chính sách
cai trị. Quyền bính đều về trung ương, mở thành trang sử mới “trung ương tập
quyền” đầu tiên ở Trung Quốc.
Tuy thời gian cai trị chỉ có 15 năm (từ 221
đến 206 trức Công nguyên), nhưng Nhà Tần đã để lại nhiều sách lược quốc gia ảnh
hưởng lớn lao và các triều đại sau nầy vẫn noi theo.
Để bảo vệ biên giới phía Bắc, Nhà Tần cho
xây Vạn Lý Trường Thành. Một dãy trường thành cách nay đã trên 2.200 năm, vẫn
còn sừng sững, trơ gan cùng mây gió.
Khi lên ngôi, Tần Thủy Hoàng mới 13 tuổi,
chịu áp lực của Tể Tướng Nhiếp Chính Lã Bất Vĩ, nhưng Tần Thủy Hoàng rất thông
minh, am tường chính trị, đến 22 tuổi vị vua nầy nắm chặt quyền bính trong tay,
trở thành nhà chính trị đại tài.
Tần Thủy Hoàng chia Trung Quốc thành 36
quận, đứng đầu quận là một quan Thái Thú, tất cả những cơ sở từ địa phương đến
quận đều chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền Trung Ương. Ngoài ra còn
sửa đổi thống nhất đơn vị đo lường và chữ viết. Ông khuyến khích dân xuống phương
nam khai hoang lập nghiệp...
Khi xây Vạn Lý Trường Thành, Tần Thủy Hoàng
cưỡng bức hàng triệu người đến để làm dân phu, đa số thành phần đó là quan quân
chiến bại của sáu nước vừa mất. Vì vậy gây phẫn nộ trong giới nầy không ít, vì
thế nó ảnh hưởng đến đế chế Nhà Tần. Bọn sĩ phu 6 nước ấy xúi giục dân chúng
nổi dậy. Nhân cơ hội, Lưu Bang khởi nghĩa, lật đổ Nhà Tần lập Nhà Hán.
*
Nhà Hán:
Sau bốn năm giao tranh ác liệt với Hạng Võ
(từ 198 đến 202 trước Công nguyên), Lưu Bang chiến thắng. Bốn năm sau nữa dẹp
xong các phần tử đối nghịch (202-206). Lưu Bang lên ngôi lập nên Nhà Hán. Đế
hiệu là Cao Tổ. Và, Nhà Hán trị vì Trung Quốc đến năm 24 sau Công nguyên. Sử
sách gọi thời kỳ nầy là Nhà Tây Hán.
Trong thời gian trị vì Trung Quốc, Lưu Bang
rút ưu khuyết điểm của Nhà Tần mà kiện toàn quốc sách. Về mặt chính trị, đáng
chú ý nhất là ban hành đạo luật giải phóng nô lệ, giảm bớt sự phụ thuộc của
nông dân vào thương nhân, loại bỏ những sự rườm rà từ luật pháp Nhà Tần để kiện
toàn luật pháp Nhà Hán. Kêu gọi quân lính giải ngũ về quê và cấp nhà cửa ruộng
vườn cho họ sinh sống.
Khuyết điểm của Lưu Bang là ban phát nhiều
lãnh địa tự trị cho họ hàng và các tướng lãnh. Vì vậy, về sau mới có cuộc “Nổi
loạn của Bảy Vương Quốc”. Thời may, Hán Đế dẹp tan loạn nầy.
Vũ Đế, nối nghiệp Cao Tổ, mở rộng bờ cõi,
đồng thời chinh phạt, đánh tan giặc ngoại xâm. Khi đánh đuổi quân Hung Nô ra
khỏi biên giới, đẩy chúng đến tận sa mạc Gobi phía Bắc.
Vũ Đế là người sáng lập ra “Con Đường Tơ
Lụa”, để chuyển hàng hóa hai chiều Đông - Tây và ngược lại. Nhờ con đường tơ
lụa nầy mà hai dòng tư tưởng Đông - Âu gặp nhau.
Những năm cuối của Nhà Tây Hán, nhiều vị
hoàng đế còn thiếu niên đã ngồi trên ngai vàng, quyền thế lọt vào tay các nhiếp
chính. Vì thế, xảy ra nạn quần thần tranh giành quyền lực, vương quyền bắt đầu
suy sụp. Các cuộc nổi dậy chống Nhà Hán tràn ngập khắp Trung Nguyên. Đến năm
thứ 8, sau Công nguyên, Vương Mãng - một người có họ hàng với hoàng hậu, đứng
lên xưng vương. Năm 23, (sau Công nguyên) Vương Mãng bị quân nổi loạn giết
chết. Hai năm sau, Lưu Tú là cháu nhiều đời của Hán Cao Tổ, đứng lên kêu gọi
con cháu quần thần còn trung thành với Hán Đế và nông dân nổi dậy, lập ra nhà
Đông Hán.
*
Nhà Đông Hán:
Sau khi lên ngôi, Lưu Tú đóng đô ở Lạc Dương,
nổ lực cải tổ nền cai trị, nhưng gặp thời không may, hạn hán xảy ra nhiều nơi,
người dân trở nên đói khổ, Lưu Tú tận lực giải quyết bằng cách miễn và hạ mức
thuế xuống mức tối đa, tiếp tục thi hành luật giải phóng nô lệ, giảm bớt quyền
lực của thái giám và đào kinh dẫn nước, khuyến học, chẳng bao lâu nền kinh tế
phục hồi.
Ngoài ra, qua “con đường tơ lụa” Lưu Tú đã
phát triển ngoại giao với 50 nước phương Tây. Tiếp nhận nền khoa học, kỹ thuật
mới. Thời ấy, Trung Quốc đã biết gây mê trong phẫu thuật, giấy đã sản xuất theo
công nghệ. Hồi giáo, Phật Giáo cũng theo con đường tơ lụa xâm nhập Trung Quốc.
Trong 32 năm trị vì, Lưu Tú đã làm cho Trung Quốc trở nên cường thịnh.
Cuối thời Đông Hán, “giặc” Khăn Vàng và
nông dân nhiều nơi nổi dậy. Trong khi ở phương Bắc, Tào Phi (con Tào Tháo) lại
xưng vương nhà Ngụy. Trung Quốc lâm vao tình trạng phân chia.
*
Thời Tam Quốc:
Năm 220 (sau Tây
lịch), Tào Phi xưng Đế ở phương Bắc. Năm sau (221), Lưu Bị xưng Đế ở đất Thục.
Đến năm 229 thì Tôn Quyền xưng đế ở nước Ngô. Thế là, Trung Quốc bị chia cắt
làm ba vùng cai trị khác nhau. Sử sách gọi đó là “Thời Tam Quốc”.
Sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích (do
Lưu Bị và Tôn Quyền hợp lại đánh), kéo quân thẳng về phương Bắc mở mang nông
trại cho quân dân, xóa bỏ quyền lực của các đại điền chủ, của hoàng tộc và
những đặc quyền của thái giám, tận dụng nhân tài... Tào Tháo thật sự là một nhà
chính trị đại tài. Nhưng sử sách Nhà Hán gọi Tào Tháo là gian hùng, bởi vì,
quan Ngự Sử là người hưởng lộc của triều Hán. Hiện nay, các nhà sử học Trung
Quốc đang nghiên cứu và viết lại thực chất của Tào Tháo trong lịch sử Hán
Triều. Khi Tào Tháo mất, Tào Phi tiếm quyền xưng đế.
Trong khi ở Thục Hán Lưu Bị cũng cố gắng
xây dựng đất nước và kết hợp tốt với nhiều dân tộc thiểu số, thì ở Đông Ngô, Tôn Quyền phát triển mạnh nghề
biển.
Năm 263 nước Ngụy đánh tan nước Thục Hán,
Nhà Thục Hán chỉ tồn tại 42 năm, với hai đời vua. Năm 265, quan trọng thần của
Ngụy là Tư Mã Viêm lật đổ nước Ngụy xong, đánh chiếm luôn nước Ngô (năm 280)
lập thành Nhà Tấn. Thời Tam Quốc cáo chung.
*
Nhà Tấn:
Sau khi đánh tan Ngụy và Ngô (nước Thục đã bị
Ngụy thôn tính trước rồi) Nhà Tấn đóng đô ở Lạc Dương. Sử sách gọi là Nhà Tây
Tấn.
Nhà Tây Tấn chỉ tồn tại có 51 năm (từ năm
265 - đến năm 316, sau Tây lịch), đây là một triều đại rất nhiều hỗn loạn.
Những xung đột giữa các dân tộc và giữa các nhà quý tộc càng ngày càng dữ dội.
Họ ganh đua từ của cải; tranh nhau cách xa hoa. Trong cung đình bọn quan lại
tha hồ tranh nhau về quyền lực. Cuộc chiến tranh “không đổ máu” nầy kéo dài 16
năm, làm suy sụp kinh tế, xã hội và ngay cả vương quyền.
Trong khi bên ngoài, “rợ” Hung Nô tự xưng là
con cháu nhà Hán, hưng binh đánh chiếm Lạc Dương (năm 308). Những người trốn
thoát, chạy đến Tràng An, lập ra vua mới. Quân Hung Nô lại tràn ngập Tràng An
(năm 316), chấm dứt nhà Tây Tấn.
Nhà Tây Tấn có 4 vì vua, trị vì 51 năm.
*
Nhà Đông Tấn:
Sau khi Tây Tấn tan rã, một số hoàng thân
quốc thích và cựu thần cũ chạy về phía Đông sông Dương Tử. Một người trong
hoàng tộc xưng đế (năm 317) lập nên Nhà Đông Tấn. Chọn Kiên Khang làm Kinh Đô.
Những kẻ có công giúp dựng nên nhà Đông Tấn
là những người có đặc quyền đặc lợi, nhưng họ xuất thân từ những vùng khác
nhau, nên việc tranh chấp quyền bính, thế lực vô cùng hiểm ác. Họ trừ khử lẫn
nhau.
Những cuộc nổi loạn bên ngoài tràn ngập,
nhưng không được chính quyền quan tâm. Những bộ tộc đấu đá nhau tranh giành từng
mảnh đất đai, không ai giải quyết.
Khi tướng Lưu Du dẹp yên các cuộc nổi loạn,
bèn giết vua, tự xưng vương, lập nên Nhà Tống.
Nhà Đông Tấn có 10 đời vua, trị vì được 103
năm thì mất về tay Lưu Du.
Bấy giờ, Trung Quốc bước vào thời kỳ phân
chia mới, kéo dài suốt 272 năm.
*
Nam Bắc Triều:
Sau đời Tấn, Trung Quốc hoàn toàn bị phân rã.
Hai cực Nam, Bắc có nhiều thể chế khác nhau. Từ năm 420 đến ăm 589, lịch sử đất
nước nầy, Trung Quốc đã chứng kiến nhiều cuộc hưng thịnh, suy tàn nhiều nhất.
Ở phương Nam trong vòng 160 năm có bốn nước
kế tục nhau là Tống, Tề, Lương và Trần. Bốn nước nầy đều lấy Nam Kinh làm Thủ
Đô, nên sử sách gọi chung là Nam Triều.
Trong 160 năm ấy, những vì vua của các nước
trên thực sự có quyền lực trong khi các nhà phú hào, quý tộc lần hồi bị diệt
vong. Những nhà học giả, trí thức có đất dụng võ. Họ được trọng dụng.
Trên phương Bắc, Hoàng Đế Bắc Ngụy thống
nhất vùng sông Hoàng Hà (năm 439), lập ra Bắc Triều.
Người Bắc Triều thuộc giòng giống Thát Bạt,
nhưng rất yêu chuộng văn hóa Hán. Các vị vua Bắc triều lại khuyến khích dân
chúng nên ăn mặc theo người Hán, lấy vợ gã chồng cho người Hán, đồng thời cũng
cất nhắc người Hán làm quan trong triều. Vô hình trung, người Thát Bạt bị Hán
hóa lúc nào không hay.
Năm 581, tướng Dương Kiên ép vua Ngụy
nhường ngôi, lập nên nhà Tùy.
*
Nhà Tùy:
Dương Kiên lên làm vua, xưng là Văn Đế (năm
581) dời đô về Lạc Dương. Sau khi lên ngôi, Văn Đế liền quyết tâm thống nhất
đất nước, nổ lực kiện toàn quân bị, năm 589 đánh bại nước Trần phương Nam,
thống nhất Nam, Bắc. Khi lên ngôi, Văn Đế bỏ tất cả các đặc quyền đặc lợi của
hàng quý tộc và hoàng thân quốc thích, xóa khoảng cách giữa kẻ giàu người
nghèo, cắt đất đai người giàu cho bần nông theo tỷ lệ số người trong nhà, đồng
thời mở và kiện toàn khoa thi cử, chọn người hiền đức ra giúp nước. Hệ thống
thi cử của Nhà Tùy tồn tại suốt 1.300 năm sau.
Thời kỳ nầy, Phật Giáo phát triển mạnh mẽ,
những vị Đại Sư kiến thức uyên bác, đạo hạnh sâu rộng xuất phát nhiều nơi ở
Trung Nguyên.
Đáng tiếc, đến đời Dạng Đế, vì ăn chơi sa
đọa, loạn lạc nổi lên, đến năm 618 Dạng Đế bị Lý Uyên, kẻ tùy tùng thân tính
giết chết.
Nhà Tùy chỉ tồn tại có 38 năm với 2 đời
vua. Đây là một trong những triều đại ngắn nhất Trung Quốc.
* Nhà Đường:
Nhà Đường là một đế quốc hùng mạnh, giàu có,
phát triển nhất chẳng những trong lịch sử Trung Quốc mà cả trên thế giới vào
thời kỳ đó. Ảnh hưởng Nhà Đường trải rộng đến các lục địa Âu, Á và châu Phi.
Tràng An trở thành Trung Tâm Văn Hóa Đông - Tây.
Về phương diện Văn Hóa, Văn Học đã đưa
triều đại nầy vượt lên cao hơn hẳng tất cả các triều đại trước.
Nhà vua tước quyền cai trị thị tộc của các
địa phương. Hệ thống thi cử được hoàn thiện, việc thi cử được mở rộng tạo điều
kiện cho mọi tầng lớp đều có cơ hội tham gia thi cử...
Bộ Luật Nhà Đường được hoàn chỉnh năm 624.
Đây là Bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của Trung Quốc.
Đến đời vua Chiêu Tôn, vì không biết cai
trị, triều chính bị nhiễu loạn, kinh tế suy sụp. Toàn Trung sai bộ hạ giết
Chiêu Tôn rồi lập Ai Đế làm vua. Sau đó, Toàn Trung ép Ai Đế nhường ngôi cho
mình. Lập nên Nhà Hậu Lương.
Nhà Đường trị vì được 290 năm (từ năm 618
đến năm 907). Bị mất về tay Toàn Trung.
*
Thời kỳ Ngũ Đại và Thập Quốc:
Sau khi đế quốc Nhà Đường sụp đổ, Trung Quốc
thêm một lần nữa bị chia năm, xẻ bảy. Ở Miền Bắc có năm nước nhỏ, gồm: Hậu
Lương (907-923); Hậu Đường (923-936); Hậu Tấn (936-946); Hậu Hán (947-950) và
Hậu Chu (951-960). Mỗi nước chỉ cai trị một thời gian ngắn ngủi.
Trong khi ở phương Nam chia thành 10 nước,
gồm: Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Nam hán, Nam Bình, Tiền Thục, Hậu Thục và
Bắc Hán.
So với các nước phương Bắc, những nước
phương Nam tình hình chung được ổn định hơn nhiều.
Trong tất cả các nước ở hai cực, nước Ngô
Việt cai trị lâu nhất, 85 năm.
Sách sử gọi đó là thời kỳ Ngũ Đại và Thập
Quốc.
Trong suốt 53 năm (từ năm 907 đến năm 960)
ấy, Trung Quốc lâm vào cảnh hoàn toàn suy sụp.
Từ
năm 955, Phật giáo ở phía Bắc rất lớn mạnh, nhiều thanh niên vào chùa để trốn
lính (giống như thời kỳ trước 4/75, thanh niên trốn quân dịch, dưới sự bao che
của các linh mục ở xứ đạo, các nhà sư ở chùa (!). Vì thế, chính quyền quyết
định thế tục hóa trên 30 ngàn ngôi chùa. Đẩy bọn sư sãi ra đi...
Đến năm 960, tướng Triệu Khuông Dẫn tiến
hành cuộc bạo loạn, lên ngôi vua, xưng là Tống Thái Tổ. Khai nguyên nhà Tống.
*
Nhà Tống:
Nhà Tống lần lượt đẹp tan thời Ngũ Đại và
Thập Quốc.
Trên mọi phương diện, Nhà Tống được người
dân Trung Quốc xếp ngang hàng hoặc vượt cao hơn hai triều đại Nhà Hán và Nhà
Đường.
Trên ba trăm năm thống trị Trung Quốc, Nhà
Tống, vào thời kỳ đó, đã đưa đất nước nầy lên tột đỉnh vinh quang. Tất cả mọi
lãnh vực kinh tế, kỹ thuật, khoa học, trí thức, nghệ thuật... đều thi nhau tiến
hành tốt đẹp.
Thời kỳ nầy, các sử gia so sánh giống như
thời kỳ Phục Hưng ở châu Âu.
*
Bắc Tống:
Triệu Khuông Dẫn lên ngôi, đóng đô ở Biện
Kinh. Với nhiều kinh nghiệm chiến trường vị vua nầy nổ lực tổ chức một quân đội
“không có và không thể đảo chánh”. Giới lãnh đạo binh nghiệp, là những người
chịu kiểm soát chặt chẽ từ trung ương. Nhà vua nổ lực cải tổ hệ thống hành
chánh, tuyển dụng quan lại và tổ chức thi cử chọn nhân tài. Thay thế giới lãnh
đạo quân sự từ hàng quý tộc, chuyển sang những người có thực tài, nhờ đó đất
nước được ổn định và phát huy được nhiều mặt trong nhiều năm.
Từ năm 1086 về sau bất đầu có sự suy thoái
do sự bất đồng ở tầng lớp quan lại cùng với các cuộc nổi dậy của nông dân.
Trong khi đó, ba nước đối nghịch với Tống
là Liêu, Kim và Tây Hạ luôn đe dọa và xâm phạm biên cương. Đến năm 1126 quân
Kim bao vây rồi chiếm Biện Kinh. Năm 1127 vua Tống bị hạ bệ. Kết thúc triều Bắc
Tống. Nhà Bắc Tống lập quốc từ năm 960 đến năm 1127 thì mất nước. Trị vì được
167 năm.
*
Nhà Nam Tống:
Khi quân Kim bắt vua Khâm Tôn và gia quyến về
Kim. Cao Tôn trốn xuống phương Nam tiếp tục triều đại Nhà Tống. Sử gọi là Nam
Tống. Thực chất, triều Nam Tống không có quyền lực, luôn bất ổn và chỉ kiểm
soát được vùng phía Nam sông Dương Tử. Cao Tôn là ông vua nhu nhược, phá vỡ mọi
nổ lực cải tổ và tấn công của Tể Tướng Lý Cương. Trong khi đó, ở phía Bắc Trung
Quốc, ba nước Mông Cổ, Kim và Tây Hạ luôn thù địch, đấu đá nhau khốc liệt.
Khi quân Kim tràn xuống phía Nam sông Dương
Tử, Cao Tôn phải nghị hòa, chấp nhận triều cống.
Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ đánh bại quân
Kim, sau cùng chiếm hẳn nước Kim. Vua Mông Cổ bắt đầu ghé mắt đến Nhà Tống. Năm
1276, Mông Cổ chiếm được Lâm An. Kế thúc Tống trào.
*
Nhà Nguyên:
Sau khi thôn tính Nhà Tống, Hốt Tất Liệt lên
ngôi Hoàng Đế, nhưng ông ta không phải là người chính trị giỏi, nên việc cai
trị vẫn theo đường lối chính trị của các nhà vua Trung Quốc.
Trong thời gian 1340 đến 1350, chính trị
Nhà Nguyên bất ổn. quần thần chia rẽ trầm trọng, loạn lạc dấy lên, thiên tai
hoành hành. Những tay buôn lậu và nông dân do Chu Nguyên Chương cầm đầu đứng
lên lật đổ Nhà Nguyên. Vua cuối cùng Nhà Nguyên tháo chạy về Mông Cổ, trong khi
quan chức và dân Mông Cổ vẫn ở lại Trung Hoa, dần dần bị đồng hóa thành dân tộc
Hán.
Nhà Nguyên xâm chiếm và trị vì Trung Quốc
được 89 năm (từ năm 1279 đến năm 1368), với 11 đời vua.
*
Nhà Minh:
Sau khi lật đổ Nhà Nguyên, Chu Nguyên Chương
lên ngôi, ban đầu đóng đô ở Nam Kinh, sau di dời sang Bắc Kinh. Đây là triều
đại cuối cùng người Trung Quốc tự cai quản đất nước mình.
Vào thế kỷ thứ 15, Nhà Minh đạt được đỉnh
cao quyền lực: chiếm Mông Cổ, chinh phục Mãn Châu, cai quản Tây Tạng. Triều
Minh cũng là một trong các triều đại thịnh vượng nhất Trung Quốc.
Để
ngăn giặc Bắc phương, Nhà Minh cho sửa chữa và xây dựng hoàn tất Vạn Lý Trường
Thành đã bị dở dang từ các triều đại trước.
Năm 1644, Lý Tự Thành nổi dậy chiếm Bắc
Kinh. Khi ông còn đang thương lượng với tướng Nhà Minh là Ngô Tam Quế, thì tên
nầy rước quân Mãn Châu vào. Kết thúc Nhà Minh.
Triều đại Nhà Minh có 16 đời vua, trị vì
được 276 năm (từ năm 1368 đến năm 1644
*
Nhà Thanh:
Nhà Thanh vốn tộc Mãn Châu từng được người Nữ
Chân xây dựng và tuyên bố là Hậu Kim Triều năm 1616 tại Mãn Châu, năm 1636, đổi
tên thành "Thanh", và mở rộng vào lục địa Đông Á và các lãnh thổ xung
quanh, lập nên Đại Thanh Quốc. Bao gồm các quốc gia: Trung Quốc (1644-1659),
Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759)
Đại Thanh thống trị Trung Quốc từ năm 1644
đến năm 1911 (268 năm). Đây là triều đại phong kiến cuối cùng ở Trung Quốc. Sau
khi lật đổ Nhà Minh, vua Thanh cho thi hành chính sách trả lại đất đai, ruộng
vườn cho dân, đồng thời giảm tất cả các loại thuế khóa. Nhờ đó, nền kinh tế
nông thôn Trung Quốc phát triển nhanh chóng.
Trong các vì Vua Thanh cai trị Trung Quốc,
nổi tiếng tài ba lỗi lạc, chăm lo cho dân nhất là vua Càn Long. Càn Long chăm
lo đời sống người dân đến mức những dũng sĩ trong phong trào “Phù Minh, diệt
Thanh” khi nhận lệnh ám sát Càn Long đã vào đến cung điện nghe huấn dụ của Càn
Long phải hết long cứu đói, cứu lụt lội,… lại trở ra đành phải buông kiếm thốt
lên: “Ông vua nào cũng là vua, tại sao ta phải giết hại một ông vua hết lòng
chăm sóc lo lắng cho dân?”
Những vị vua cuối cùng của Nhà Thanh bất
tài, kiêu ngạo và bạo ngược vì thế năm 1911 Bác sĩ Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn)
làm cuộc cách mạng, lật đổ Nhà Thanh. Nhà Thanh cai trị Trung Quốc 268 năm với
10 đời vua.
* Nước Cộng Hòa Trung Quốc. (từ năm 1911
đến năm 1949) do Thống Chế Tưởng Giới Thạch cầm đầu trong cương vị Tổng Thống.
Năm 1950 (?) Tưởng Giới Thạch bị Mao Trạch
Đông đánh bại phải chạy sang đảo Đài Loan.
Sau khi chiếm lĩnh Trung Quốc, Mao Trạch
Đông đổi quốc hiệu thành Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, gọi tắt là Trung
Quốc. Áp đặt chế độ cai trị hà khắc lên tộc Hán từ ấy đến nay.
Như vậy, người khai sáng ra Nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc là Mao Trạch Đông. Nhưng, hiện nay người dân ở Trung Quốc,
xếp hạng những nhà lãnh đạo đất nước họ như sau:
- Thứ
nhất: Quốc phụ Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên)
- Thứ
hai: Đặng Tiểu Bình
- Thứ
ba: (không nhớ)
Và thứ tư:
- Mao
Trạch Đông.
Thế mới biết, bất cứ người lãnh đạo nào đem
đến cho người dân cuộc sống ấm no, sang giàu, người đó sẽ được nhân dân tôn
thờ. Ở Trung Quốc Đặng Tiểu Bình làm được điều đó. Còn ở Việt Nam - Ai đây?
* Du
Lịch:
Thông thường, tùy theo tuyến, nhưng đa số các
tuyến du lịch đến Trung Quốc thường được đưa đến tham quan các nơi: Quảng
trường Thiên An Môn, Tử Cấm Thành, Tây Hồ, Tô Châu, Hàn Châu, Ngũ Dương Thành,
Thượng Hải, Bắc Kinh, , Vạn Lý Trường Thành, Miếu Nhạc Phi, Công ty Tơ Lụa,
Tống Thành, Viện Ngọc Trai, Viện Phong Thủy Quốc Gia, tháp truyền hình Đông
Dương Minh Châu, Thái Y Viện, du thuyền trên sông Hoàng Phố, Hàn San Tự, Phố
Nam Kinh, Bắc Kinh Lộ, Chùa Phật Ngọc, Trà Long Tĩnh ở Mai Thôn Trang, Thập Tam
Lăng, v.v...
* Tử
Cấm Thành, gọi tắt là Cấm Thành, cho đến ngày nay, Cấm Thành vẩn còn là một bảo
tàng cung điện lớn nhất và hoàn hảo nhất ở Trung Quốc.
Triều đại Nhà Minh xây dựng cung điện nầy
từ năm 1406, phải mất 14 năm mới hoàn thành. Tất cả 24 đời vua cùng hoàng tộc
Nhà Minh đều cư ngụ nơi đây. Đến năm 1911, Phổ Nghi, vị vua cuối cùng Nhà Minh
bị buộc thoái vị, họ mới rời khỏi nơi đó.
Năm 1987 UNESCO (United Nations
Educational, Scientific, and Cultural Organi- zation (Cơ Quan Văn Hóa và Giáo
Dục Liên Hiệp Quốc) công nhận Tử Cấm Thành là Di Sản Văn Hóa Thế Giới.
Cấm Thành có dạng hình chữ Nhật (日), từ Bắc xuống Nam dài 960 mét, ngang
từ Đông sang Tây 750 mét. Bên trong có 9.999 (chín ngàn, chín trăm, chín mươi chín)
phòng, tổng diện tích mái nhà 150.000 mét vuông.
Bên ngoài đào một hào rộng 52 mét, gần sát
đó là một bức tường cao 9.9 mét bao quanh. Cấm Thành có 4 cửa Đông, Tây, Nam,
Bắc. Ở 4 góc thành có 4 tháp canh hình bát giác.
Để hoàn thành công trình vĩ đại trên. Nhà
Minh phải sử dụng 230.000 thợ thủ công và 1 triệu người lao động trong 14 năm.
Đá cẩm thạch dùng xây dựng trong Cấm Thành
được lấy từ ngoại ô Bắc Kinh. Loại đá năm màu được khai thác từ Hà Bắc. Gạch
lót được nung từ những lò gạnh nổi tiếng ở miền Nam Trung Quốc.
Gạch đỏ và màu đỏ tươi dùng xây tường lấy
từ tỉnh Sơn Đông. Gỗ quý lấy ở Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam và Vân
Nam.
Ngọ Môn Quan còn gọi là Ngũ Phụng Lầu ở
phía Nam - Tác giả thấy cần mở ngoặc ở đây để nói thêm, vì sao công chính (Ngọ
Môn Quan) đặt ở phương Nam?
Bởi, Bắc - Nam là hai cực đối diện, phương
Bắc nằm ở trên, phương Nam nằm phía dưới. Theo quan niệm của người Trung Quốc,
Thiên Tử (Con Trời) được Thượng Đế ủy thác xuống trần gian chăn trị muôn dân.
Do đó, chỗ ngồi của Hoàng Đế được đặt cao hơn tất cả mọi nơi (tức là phương
Bắc) và ngai vàng của Nhà Vua, khi ngồi luôn quay mặt về hướng Nam (nơi thấp
nhất) để dễ dàng cai trị.
Trong gia đình người Trung Quốc xưa (hiện
nay vẫn còn), nơi bàn ăn (hay bất cứ chỗ nào hội tụ đông người) gia chủ (hay
tộc trưởng) luôn luôn ngồi ở đầu bàn, mặt nhìn về hướng Nam, kẻ ngồi đối diện
với gia chủ hay tộc trưởng, mặt quay về hướng Bắc là người có vai vế thấp nhất.
Lịch sử nước ta, những vị vua thần phục và
chịu triều cống Trung Quốc, khi nhận được chỉ dụ của Hoàng Đế Trung Hoa, bắt
buộc phải quay mặt về hướng Bắc, quỳ xuống lạy ba lạy, rồi ngửa hai bàn tay,
nâng cao lên khỏi đầu mới nhận chiếu chỉ.
Cấm Thành được chia làm hai, nội điện và
ngoại điện. Bên ngoài Ngọ Môn Quan, mỗi bên có đặt tượng một con sư tử bằng
đồng, biểu tượng uy quyền bất tận và phẩm giá vô nhị của Nhà Vua.
Tượng con sư tử ở mé đông đang “hí cầu”
(chơi bóng) là đực. Quả bóng tròn tượng trưng cho toàn vẹn, thống nhất lãnh
thổ.
Tượng sư tử đối diện bên kia là con cái,
dưới chân nó có chú sư tử con, tượng trưng cho việc vĩnh viễn kế thừa ngôi báu.
Hiện nay, dù trong chế độ công sản, nhưng
tất cả những cơ quan công quyền ở Trung Quốc trước cửa đều có đặt một hay hai
tượng sư tử to lớn. Và, xem đó là biểu tượng quốc gia. Người Việt chúng ta,
thường hay bắt chước, thấy thế cứ mua (hay thỉnh) tượng sư tử đem về đặt trong
hay trước cổng nhà.
Trên thực tế đó là điều không nên. Vì, theo
lý giải của Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc, từ lâu người Trung
Quốc xem 4 linh vật tượng trưng cho uy quyền và nghề nghiệp là:
1. Rồng là biểu tượng của Bậc Quân Vương,
được thiết trí trong cung đình hoặc đồ dùng của Vua, Chúa.
2. Sư Tử biểu tượng của Quốc Gia, nên được
đặt ngay cửa chính ở tất cả các nơi cơ quan chính quyền.
3. Kỳ Lân, biểu tượng của uy quyền công lý,
hiện nay vẫn được đặt ngay cửa chính ở tất cả các Tòa Án.
4. Kỳ Hươu, biểu tượng của may mắn, thành
công và hạnh phúc được đặt ở trước cửa những cơ sở thương mại, tư gia, v.v...
Khi du lịch Trung Quốc, chỉ cần thấy các
linh vật ấy đặt ở đâu, là ta sẽ biết ngay ở đó là cơ quan công lực, tòa án hay
cơ sở thương mại.
Những ai đặt sư tử ở nhà là không đúng, vì
theo lý giải của Viện Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc, Sư Tử là chúa sơn lâm, là
con vật cao hơn tất cả các loài vật khác, nếu đặt tượng sư tử trong nhà, gia
chủ sẽ bị trấn áp, đè bẹp không thể vươn lên được. Chỉ có Quốc Gia mới có đủ uy
lực để chế ngự Sư Tử, vì người lãnh đạo quốc gia là Long Thể (mình Rồng), là
Thiên Tử (con Trời), thứ bậc cao hơn Sư Tử.
- Kỳ
Lân là linh vật biểu hiện của công bằng, uy quyền của luật pháp, không nên đặt
ở nhà, vì nghề thương mại là tìm tư lợi, không thể đòi hỏi công bằng... đặt Kỳ
Lân ở nhà thì ngành nghề sẽ không phát triển.
- Kỳ Hươu, biểu tượng của ngành nghề thương
mại, sự may mắn, hạnh phúc và thành công, rất thích hợp cho các ngành nghề, sản
xuất, thương mại.
Cho đến bay giờ, người Trung Quốc vẫn đặt
Kỳ Hươu trong nhà hay trước cửa cửa hiệu thương mại của mình. Và, họ cho rằng,
khi đến trước tượng Kỳ Hươu vừa cầu nguyện vừa vuốt tượng Kỳ Hươu mọi sự sẽ
được như ý.
Phong Thủy là một vấn đề hết sức huyền bí,
mọi bí ẩn về phong thủy cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Có điều, cho dù hiện
nay nước Cộng Hòa Nhân Nhân Trung Quốc là một quốc gia Cộng sản thứ thiệt,
chẳng những người dân mà ngay cả chính quyền cũng tuyệt đối tin tưởng và nâng
nó lên tầm vóc quốc gia. Nếu phong thủy chỉ là một thứ dị đoan, huyền hoặc, mơ
hồ thì làm thế nào nó chinh phục được các cấp lãnh đạo Cộng Sản và qua mặt được
các nhà khoa học Trung Quốc?
(Xin
nói thêm, những ai đã từng đến Seoul, thủ đô Hàn Quốc, sẽ không khỏi ngạc
nhiên, vì sao các nhà lãnh đạo đất nước nầy không làm việc ở cố cung mà xây
dựng dinh thự ở đối diện bên kia đường? Vì, theo phong thủy, phía sau cố cung
không có chỗ dựa, khó thể bền vững lâu dài; còn mặt trước bị ngăn trở bởi núi
non thì không thể phát triển. Dinh thự mới thì xây dựng ngược lại, phía sau dựa
vào núi lấy thế đứng, chỗ dựa bền vững, phía trước thoáng, bằng, thuận lợi cho
sự phát triển. Rất hợp với phong thủy. Khi mua nhà, những người hiểu biết ít
nhiều về phong thủy thường chọn nhà ở phía sau có núi, đồi hay ít ra sân sau
phai bằng phẳng, không chúi xuống. Phía trước, sân nhà cần hơi có độ cao để
tiến lên).
Tất cả những kiến trúc trong Tử Cấm Thành
đều có hai màu chính. Tường màu đỏ, tía, mái màu vàng. Tạo nên sự tương phản
mạnh mẽ, hài hòa, dễ bắt mắt. Và nó còn tượng trưng cho uy quyền và sự giàu
sang của đế chế.
Ở Trung Quốc (và trước kia, ở Việt Nam ta)
màu vàng tượng trưng cho quyền lực đế vương. Vì, theo thuyết ngũ hành, màu vàng
tượng trưng cho đất, chiếm vị trí trung tâm là biểu tượng của chính quyền trung
ương. Màu đỏ, biểu hiệu của tôn nghiêm, may mắn, tốt lành tượng trưng cho long
trọng và hạnh phúc.
*
Vạn Lý Trường Thành:
Vạn Lý Trường Thành, cách Bắc Kinh 75km về
hướng Tây Bắc, được xây dựng vào thời Chiến Quốc (từ năm 476 đến năm 221 trước
Công nguyên), đây là những đoạn tường chiến lược được xây dựng từng đoạn dọc
theo biên giới phía Bắc bởi những quốc gia thời đó. Đến năm 221 trước Công
nguyên, sau khi lên ngôi Tần Thủy Hoàng quyết định nối kết các đoạn tường ấy
thành một dãy dài. Vào thế kỷ thứ 16 Nhà Minh tiếp tục hoàn thành từ đèo Thượng
Hải đến tỉnh Tân Cương, tổng cộng chiều dài trên 6.700 cây số. Điểm cao nhất thuộc
vùng Balading cao 800 mét so với mặt biển.
Sử liệu cho biết, trên một triệu người, tức
khoảng 1/5 dân số Trung Hoa thời đó, đã bị xung công làm việc trên mười năm mới
hoàn thành bức tường ấy.
Có lẽ Vạn Lý Trường Thành là bức tường
chiến lược cổ nhất, dài nhất trên thế giới và cho đến nay nó vẫn còn tồn tại
từng phần ở nhiều nơi.
Theo thời gian, thiên nhiên xóa mờ dấu vết
những đoạn tường thành đã hoặc chưa tìm thấy được. Khi viếng Vạn Lý Trường
Thành, chúng ta chỉ thấy được một phần nhỏ bức tường do Nhà Minh xây dựng.
Những đoạn tường nầy ở gần Bắc Kinh, cao khoảng 6 - 7 mét, xây bằng những tảng
đá lớn và những viên gạch lớn được kết dính bằng đất và đá hòn. Trong khi, hầu
hết những đoạn tường khác chỉ xây dựng bằng đất với đá hòn (người viết chưa tra
cứu được Đá Hòn là chất gì? Phải chăng đó là những hòn đá trứng, tròn tròn,
nhỏ, rắn chắc, na ná như hột mít không?
Suốt chiều dài ở các điểm cao của bức tường
đều có xây cất tháp hiệu ở hai bên tường. Khi thấy kẻ thù xuất hiện, quân canh,
gác liền đốt lửa hiệu báo động.
Mặt tường rộng từ 4 đến 5 mét đủ để cho năm
con ngựa chạy ngang nhau. Dọc theo tường đều có hệ thống phòng ngự, các pháo
đài, lỗ châu mai đều xây dựng bằng gạch.
Vạn Lý Trường Thành được xây dựng theo hình
thể thiên nhiên, nó chạy qua núi, khe, đồi và các dốc đứng thẳng. Nhiều khối đá
dài cả 2 mét, nặng cả tấn cũng được đưa lên bằng sức người, ngựa, dê hoặc bằng
sức các thú vật khác. Số lượng gạch đá để xây Vạn Lý Trường Thành, người ta ước
tính có thể xây một bức tường quanh trái đất dày 1 mét, cao 5 mét (?).
Đoạn tường gần Bắc Kinh dài 629 cây số,
trong đó có khoảng 100 cây số là nơi còn tốt nhất, một vài chỗ ở đoạn tường nầy
đã được tái thiết hồi năm 1949.
Ngoài ra, đoạn tường thành Bát Đạt Lãnh ở
huyện Hoài Nhu cách Bắc Kinh 79 km là nơi du khách thường đến nhất. Đoạn tường
thành quanh Bắc Kinh được xây dựng khoảng 1.400 năm về trước. Phân đọan tường
thành vùng Bát Đạt Lãnh được Nhà Minh (1368 - 1644) xây dựng lại và hoàn tất
vào thế kỷ thứ 15.
Đoạn tường Simatai, cách Bắc Kinh 110 cây
số, dài 19 cây số, có tất cả 135 vọng gác. Đây là nơi tham quan rất ngoạn mục,
khi nhìn nó như con rắn khổng lồ uốn khúc lên đỉnh núi rồi vụt trườn mình xuống
vực sâu. Tháp gác Wangjinglou trên sườn núi cao 986 mét, đó là đỉnh Simatai
cũng là chỗ nguy hiểm nhất. Muốn đến vọng gác Wangjinglou, du khách phải đi trên một cầu vượt, ngang chưa đến 1
mét, không có tay vịn, phía dưới vực sâu 500 mét. Cho đến nay, ít có người dám
đặt chân lên tháp.
Đoạn tường thành Gubeilou dài 21 cây số,
nằm ở phía Đông cách trung tâm thành phố Bắc Kinh 128 cây số. Đoạn tường nầy
bắt đầu xây dựng năm 1368, đến năm 1567 Nhà Minh nối dài, mở rộng thêm. Hiện
nay nó vẫn còn giữ vẽ đẹp nguy nga, ngoại trừ một vài nơi bị pháo binh Nhật phá
hủy trong cuộc chiến năm 1937 - 1945, đoạn tường thành nầy vẫn đứng hiên ngang
trên các đỉnh núi với độ cao từ 400 đến 900 mét. Mặt thành của đoạn tường thành
rộng hẹp khác nhau, có nơi 5 con ngựa có thể chay ngang nhau và chỗ hẹp nhất
chỉ một người lách qua.
Từ tháng 7 năm 1984 đến tháng 9 năm 1986,
những nhà tài trợ trong và ngoài nước Trung Quốc đã đóng góp được 2.7 triệu
dollars để sửa chữa lại Vạn Lý Trường Thành. Chính quyền Trung Quốc khắc tên
những nhà tài trợ chính trên bia đặt tại Bát Đạt Lãnh và Mutianyu.
*
Thiên Đàn:
Thiên Đàn là nơi đặt bàn thờ riêng của các vị
vua Nhà Minh và Nhà Thanh. Chẳng biết từ thuở nào và chẳng biết phát xuất từ
đâu, các vua chúa Nhà Minh và Nhà Thanh bắt buộc phải đặt bàn thờ tại kinh đô
để phụng thờ Thượng Đế và cầu nguyện cho quốc thái dân an, mùa màng xinh tốt.
Năm 1420, vua Nhà Minh cho xây Thiên Đàn ở
phía Nam thành phố Bắc Kinh. Toàn bộ cấu trúc nầy có 273 mẫu tây.
Hình thể của công trình to lớn nầy thể hiện
Trời Đất. Phần phía bắc có hình tròn, phía Nam hình vuông. Một bức tường tròn bên
trong, được bao bọc bởi một bức tường vuông bên ngoài.
Mỗi tầng có 9 bậc tam cấp. Giữa mỗi tầng có
một hòn đá tròn được bao quanh bằng chín
vòng đá đồng tâm. Số viên đá vòng thứ nhất là 9, vòng thứ hai 18, vòng thứ ba
27, và... cứ thế cộng thêm 9 viên đá cho mỗi vòng kế tiếp, đến vòng thứ 9 có 81
viên đá. Cả lan can cũng có những vòng đá theo bội số như thế.
Theo cách suy luận của người Trung Quốc cổ,
Trời mang số lẻ, thuộc về dương, Đất mang số chẵn, thuộc về âm. Số 9 là số lớn
nhất của Trời mà con người có thể đạt đến được. Ngoài ra, số chín còn biểu hiệu
cho thành công, may mắn. Cho nên, Trời có chín tầng mây; ngai vàng vua ngồi có
9 bậc, gọi là cửu trùng...
Kho Nhà Trời là một công trình kiến trúc
độc nhất vô nhị ở Trung Quốc. Tất cả mái nhà, xà, rầm,... đều làm bằng gạch,
ngói tráng men. Nơi đây chứa tất cả các đồ dùng để cúng, tế lễ.
Ngoài việc kiến trúc rất độc đáo, sắc sảo
còn có hai hệ thống âm thanh khác thường: Tường Phản Âm và Đá Tam Âm.
Với tường Phản Âm trong Kho Nhà Trời, chỉ
cần một tiếng nói thật nhỏ ở bất cứ điểm nào gần tường, thì người ở bên kia bức
tường ở cách xa 50 mét vẫn nghe rõ được.
Đá Tam Âm đặt trước những bậc tam cấp ra
khỏi tòa nhà. Khi ta đứng trên hòn đá thứ nhất lên tiếng hoặc vỗ tay, âm thanh
sẽ phản hồi lại một lần. Nếu đứng ở hòn đá thứ hai mà làm như vậy thì âm thanh
phản hồi hai lần, nếu cũng làm như thế ở hòn đá thứ ba, âm thanh sẽ dội lại ba
lần.
Trong khuôn viên Thiên Đàn có khoảng 60
ngàn cây bách, trong đó có 40 ngàn cây trên 100 tuổi. Có những cây bách đã trên
500 tuổi, thân cành to lớn xoắn lại như hình chín con rồng, nên gọi là Bách Cửu
Long.
Bên trong Thiên Đàn có sảnh đường Cầu Mùa
Màng. Sảnh nầy xây trên nền đá cao 1.5 mét. Cao 38 mét, hình nón. Bên trong
trần nhà được trang trí các linh vật rồng, phượng rất tinh vi, nhưng, không có
rầm nhà, không hề có một cây đinh hoặc xi-măng.
Để chống đỡ công trình, toàn bộ kiến trúc có 28 cây cột bằng gỗ lớn.
Trong đó, 4 cây cột tượng trưng cho 4 mùa. Ngoài ra, còn có hai vòng cột nhỏ,
mỗi vòng 12 cây, sơn màu đỏ. Vòng thứ nhất tượng trưng cho 12 tháng trong năm,
vòng thứ hai tượng trưng cho 12 giờ trong ngày. Tổng số cột là 28, tượng trưng
cho 28 chòm sao trong vũ trụ (cách suy luận của người Trung Quốc thời ấy: “28
chòm sao tạo nên bầu trời” - Ngày nay khoa học chứng minh cách suy luận nầy
hoàn toàn sai, chẳng khác gì sự sai lầm từ cách suy luận của một vài tôn giáo).
*
Viện Bảo Tàng Quân Đội Nhà Tần:
Năm 1974, một nhóm nông dân đào giếng, gần
lăng tẩm Nhà Tần, tình cờ họ phát hiện được những mảnh tượng chiến binh. Sau
đó, các nhà khảo cổ học cho khai quật, đã tìm thấy hàng ngàn chiến binh, chiến
mã.
Số tượng quân nhân trên được tìm thấy trong
ba hầm liên tiếp. Hầm 1 có 6 ngàn quan, binh và chiến xa, hầm 2 có 1.400 kỵ
binh, trong đó có một số bộ binh và 90 chiến xa. Hầm thứ ba có 70 tượng.
*
Tây Hồ:
Đó là một cái hồ rộng 6 cây số vuông với chu
vi 15 km. Hồ được những ngọn đồi bao bọc ba phía. Đây là một nơi nổi tiếng và
thu hút du khách nhiều nhất ở Hàng Châu.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, hồ là một
viên ngọc từ trên Trời rơi xuống, trong thực tế, đó là một cái vịnh được hình
thành sau nhiều ngàn năm biến đổi bởi thiên nhiên. Mười ngàn năm trước diện
tích hồ lớn hơn bây giờ rất nhiều, sau nầy do bùn đất, phù sa lấp dần hồ bị thu
hẹp lại.
Nét đẹp Tây Hồ là sức quyến rũ của nó ở bốn
mùa trong năm, qua mọi thời điểm trong ngày và qua từng thời tiết khác nhau.
Tây Hồ có 10 điểm đẹp nhất, trong đó có hai
nơi vượt trội hơn cả, đó là Bình Minh Mùa Xuân và Thưởng Ngư Trên Hoa Cảng.
- Bình Minh Mùa Xuân, được xây dựng dọc
theo bờ hồ năm 1089, đó là những hàng đào, liễu và những bãi cỏ chạy dài 2.5
cây số. Khi những tiếng chuông chùa lanh lảnh vang lên trong nắng sớm, dưới
chiều tà hòa trong gió thoảng đong đưa cành liễu, trông chẳng khác gì bức tranh
thủy mạc thần kỳ.
- Thưởng Ngư Trên Hoa Cảng, cảnh nầy nằm
phía Tây ở cầu số 5 và cầu số 6. Nơi đó những tòa nhà xây từ thời Nhà Tống bao
quanh một bể nước nuôi cá chép vàng, quanh bờ trồng đầy các sắc hoa.
Chính Tây Hồ đã làm nên câu thành ngữ:
“Trên Trời có Thiên Đàng dưới đất có Hàng Châu”
*
Những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử
khác:
Ngoài những thắng cảnh nổi tiếng lâu đời như
đã kể trên, chúng tôi còn đến:
1.
Ngũ Dương Thành: Là tượng năm CON DÊ được xây dựng trên một đồi cao để kỷ
niệm một truyền thuyết: Ngày xưa, thiên tai làm cho người dân Trung Quốc đói
nghèo. Một hôm, nhà Vua thấy năm nàng tiên đem thóc xuống đổ đầy khắp đất nước
Trung Hoa. Xong năm nàng tiên ấy biến thành năm Con Dê chạy vào rừng. Từ đó,
nông dân rất được mùa màng. Nhớ ơn đó, Nhà vua cho xây dựng một tượng đài để kỷ
niệm.
2.
Mộ Nhạc Phi: Nhạc Phi là tướng trung thành của Nhà Tống, bị vợ chồng Tần
Cối ám hại chết. Đời vua sau biết rõ chân tình, sai lập miếu thờ. Bên ngoài
Miếu Nhạc Phi, có tượng hai vợ chồng Tần Cối đang quỳ và bị nhốt trong một vòng
rào sắt nhỏ . Trước kia tượng hai tên gian thần nầy làm bằng xi-măng, bị khách
du lịch đến tham quan dùng đá, sắt gõ vào đầu, tượng bị bể. Hiện nay tượng được
đúc bằng sắt thép.
3. Hàn
San Tự (寒山寺) Hàn San Tự là một ngôi chùa cổ, nhỏ ở sâu trong rừng rậm,
nằm ở ngoại thành Cô Tô, phía tây của trấn Phong Kiều, Tô Châu, thuộc tỉnh
Giang Tô. Chùa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ VI, trong niên hiệu Thiên
Giám (502-519) thời vua Lương Vũ Đế nhà Lương với tên gọi ban đầu là Diệu Lợi
Phổ Minh Tháp viện.
Trong loạn Thái Bình Thiên Quốc chùa bị phá
hủy và được xây lại năm 1905. Đến khoảng niên hiệu Trinh Quán (627-649) thời
Đường Thái Tông, tên gọi Hàn Sơn mới được đặt, nhằm tưởng nhớ đến nhà sư trụ
trì nơi đây. Sau những thăng trầm, Hàn Sơn tự đã được các triều từ Tống tới
Thanh gìn giữ, tu bổ cho đến ngày nay.
Hàn San Tự sẽ không được khách du lịch biết
đến nhiều nếu không có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.
Nhà thơ Trương Kế sống vào thời Nhà Đường, khi
An Lộc Sơn khởi nghĩa, Trương Kế xuống thuyền lẫn tránh giặc giã, dong thuyền
khắp nơi. Một hôm đến Cô Tô ông nằm một mình trên con thuyền nhỏ, với nỗi lòng
người xa xứ, ông cảm tác bài Phong Kiều Dạ Bạc:
楓 橋 夜 泊
月 落 烏 啼 霜 滿 天
江 楓 魚 火 對 愁 眠
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鐘 聲 到 客 船
(张 继)
Phong Kiều Dạ Bạc
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Trương Kế)
Trong bài thơ nầy, câu cuối làm cho nhiều
người thắc mắc, cho rằng tác giả ép vận vì: “Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền” (nghĩa: nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San). Bởi, thông thường nhà
chùa chỉ gióng chuông vào khi hoàng hôn và lúc trời hừng sáng, không bao giờ
gióng chuông ở thời điểm nửa đêm. Từ đó, sinh ra điển tích. Khi Trương Kế hạ
bút đề hai câu:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
vừa làm xong hai câu nhà thơ hết tứ, bí
vận.
Trong thời điểm đó, dưới ánh trang lưỡi
liềm có một nhà sư, phía sau là một chú tiểu đang theo lối mòn lên núi, trong
lúc đi đường, nhà sư cảm hứng, xuất khẩu hai câu (người viết không nhớù tên tác
giả và cũng không nhớ rõ bài thơ, do đó, có thể có sai lầm, xin bạn đọc miễn
thứ):
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung,
Bán tợ ngân câu bán tợ cung.
Vừa viết xong hai câu, nhà sư cũng bí tứ,
đọc đi đọc lại hai câu thơ vừa sáng tác, đọc đến nỗi chú tiểu theo sau cũng
thuộc làu. Đến Hàn San Tự, trong khi nhà sư lấy nghiên bút tìm tứ cho bài thơ
dang dở, thì chú tiểu ra sau chùa, rửa chân ở hồ bán nguyệt. Chú tiểu thấy nửa
vành trăng trên trời chiếu xuống lòng hồ nửa vầng trăng khác, cậu ta cảm hứng
đọc:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn.
Bán trầm thu thủy bán trầm không
Thấy mình tự nhiên làm được hai câu thơ,
chú tiểu khoái chí, vào chùa đứng sau lưng sư phụ. Chú thấy đã nửa đêm rồi mà
thầy mình chẳng chịu vào trong an nghĩ, nên chú bèn lên tiếng đọc đại hai câu
thơ chú vừa làm. Không ngờ, hai câu thơ ấy phối hợp với hai cây thơ của nhà sư
trở thành bài thơ quá hay! Nhà sư bèn vỗ tay bôm bốp, nói to: “Hay! thật là
hay! Có lẽ thi bá Lý Bạch giục khẫu đồ đệ nên đệ tử mới làm được hai câu thơ
nầy!”. Nói xong, nhà sư đích thân chạy lên lầu gióng lên ba tiếng chuông tỏ
lòng nhớ ơn Lý Bạch.
Trong khi đó, Trương Kế đang bí vận, nằm
lim dim ngủ, chợt nghe tiếng chuông từ Hàn San Tự vọng đến, ông vỗ tay la lên,
“tứ đây rồi” bèn ngồi bật dậy cất bút viết tiếp hai câu sau:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Do điển tích trên bài thơ mới có tiếng
chuông chùa gióng lên giữa đêm. Có lẽ
đây là câu chuyện góp vào để hình thành một giai thoại văn chương làm cho văn
học Trung Hoa thêm phong phú!
Đến Hàn San Tự, du khách thường hay lên lầu
chuông gióng chuông, bất kỳ người đó thuộc tôn giáo, quốc gia nào. Họ xem đó
như là một kỷ niệm.
Theo lệ, mỗi người chỉ được gióng ba tiếng
chuông để cầu Phúc, Lộc, Thọ. Nếu ta gióng 4 tiếng chuông, lập tức các nhà sư
sẽ đem dao kéo lên mời xuống cạo đầu. Vì theo quy ước, gióng liên tiếp bốn
tiếng chuông là dành để cho người xin thí phát quy y.
*
Tống Thành:
Đó là một công trình tân tạo kiến trúc theo
mô hình thành Nhà Tống ngày xưa.
Vào viếng Tống Thành, chúng ta sẽ được
chứng kiến những sinh hoạt: quán ăn, tiệm thuốc Bắc, chỗ làm đậu hủ, quan, quân
mặc y phục Nhà Tống đi đi lại lại... Hoạt cảnh “Gieo cầu kén chồng” rất được du
khách xem đông đảo.
Tối đến vào xem một chương trình ca vũ nhạc
rất đặc sắc. Sân khấu di động là cả một công trình to lớn, những hàng ghế ngồi
phía trước, thỉnh thoảng chạy dang ra hai bên rồi chạy trở về chỗ cũ, phía dưới
sân khấu những diễn viên từ từ nhô cao, và từ phía trên từ từ đáp xuống, không
phải một, hai mà hàng mấy chục người, hai bên cánh gà bỗng dang rộng ra làm sân
khấu, diễn viên lơ lửng cùng khắp.
*
Ngũ Châu:
Ở Trung Quốc có 4 câu thành ngữ, để nói về
cái nhất ở mỗi địa phương:
- Ăn ở Quảng Châu
- Chơi ở Tô Châu
- Lấy vợ Hàng Châu
- Uống ở Qúy Châu
- Chết ở Liễu Châu
- Quảng Châu thuộc (dường như là thủ phủ)
tỉnh Quảng Đông mà Quảng Đông là nơi nổi tiếng chế biến thức ăn ngon nhất chẳng
những ở Trung Hoa mà ở khắp nơi. Không có thứ gì người Quảng Đông không thể chế
biến thành món ăn ngon. Người Trung Quốc, có câu chuyện vui: “Giả sử bắt được
một người từ hành tinh khác, thì ở Quang Đông, người ta sẽ tìm cách nấu nướng,
ở Bắc Kinh thì nghiên cứu, tìm tòi”. Đại để, câu nói nầy có nghĩa người Quảng
Đông thứ nào có thể ăn được thì họ chẳng tha.
- Chơi ở Tô Châu, vì Tô Châu có nhiều thắng
cảnh đẹp.
- Lấy vợ Hàng Châu, vì gái Hàng Châu đẹp,
dịu dàng và là quê hương của tứ đại mỹ nhân, là: Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng
thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN; Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN;
Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3; Dương Quý Phi. Thời nhà Đường,
719-756.
- Uống ở Quý Châu, vì ở đó có rượu Mao Đài
rất nổi tiếng. Nhưng đó là quan niệm của thời xa xưa, vì khi dùng qua rượu Mao
Đài, chúng tôi cảm thấy nó thua rất xa các loại rượu Tây hiện tại.
- Chết ở Liễu Châu, vì Liễu Châu có một
loại gỗ làm quan tài rất tốt, chôn ngàn năm không mụt. Với quan niệm “Sống gởi,
thác về”, người Trung Hoa rất quan tâm đến việc chôn cất của mình. Đến Liễu
Châu, vào những nơi bán vật kỷ niệm, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi trông
thấy những chiếc quan tài nhỏ, xinh xắn bày bán trong tủ kính.
*
Viện Ngọc Trai:
Đó là một nơi trưng bày tất cả các thứ ngọc
trai, từ bé đến lớn. Khi vào đó, chúng ta sẽ được mời trà và được xem tận mắt
mỗ trai lấy ngọc. Ông Giám Đốc viện khi cầm con trai lên định mỗ, nói: “Ai nói
đúng trong nầy có mấy viên ngọc, tôi sẽ tặng viên lớn nhất cho người đó.” Đa
số, một, hai, ba, năm viên... trong khi con trai ấy có 33 viên ngọc lớn nhỏ,
sắp thành hai hàng, thẳng băng. Những ai muốn du lịch Trung Quốc, nên nhớ kỹ
điều nầy để hy vọng được tặng viên ngọc trai.
*
Thái Y Viện:
Nguyên là nơi làm việc của các quan Ngự Y của
các triều vua ngày trước. Bây giờ là nơi tập trung các Đông Y Sĩ nổi tiếng của
Trung Quốc để nghiên cứu ngành Đông Y.
*
Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia:
Nơi đây tập trung các
nhà địa lý, phong thủy bậc thầy để nghiên cứu môn học kỳ bí nầy cho Nhà Nước để
chính quyền đem ra áp dụng vào thực tế.
*
Bắc Kinh Lộ:
Tức là Đại Lộ Bắc Kinh, nơi đây khách du lịch
sẽ thấy được sự sạch sẽ trên đường phố Trung Quốc như thế nào! Chẳng phải người
ta biết giữ gìn sạch sẽ nơi công cộng mà do lao công quét dọn thường xuyên.
Lượng khách du lịch đến Bắc Kinh thật là khủng
khiếp. Hãy làm con toán, chỉ tính ở Quảng Châu mỗi ngày có 16 chuyến xe lửa đến
Bắc Kinh, mỗi chuyến 16 toa, mỗi toa 200 khách. Ngoài ra còn những chuyến bay
và từ những nơi khác đến, Vì thế, đường phố lúc nào cũng nghẹt cả người.
Nhân nói về Bắc Kinh, tác giả xin nói thêm,
chúng ta thường nghe “Vịt quay Bắc Kinh” là món ăn ngon. Thực tế, chẳng có gì
đặc biệt hơn vịt quay bán ở các chợ. Có điều, vịt quay Bắc Kinh người khi chiêu
đãi, nhà hàng thái từng miếng mỏng để thực khách cuốn bánh tráng, chẳng khác gì
ta cuốn bánh tráng với thịt heo, tôm, tép luộc hay thịt bò xào...
Ngoài ra, còn đến Mai Thôn Trang để thưởng
thức Trà Long Tĩnh, đến Xí nghiệp Tơ Tầm xem lụa và...
Cuối cùng xin thưa, khi đi du lịch Trung
Quốc chỉ nên với mục đích duy nhất là “đi cho biết đó biết đây”. Tuyện đối,
không nên mua bất cứ vật gì để làm kỷ niệm. Trong kinh doanh, dân Tàu có nhiều
cách chiêu dụ khách du lịch rất bài bản và hấp dẫn. Nhẹ lòng mua về coi như “tiền
mất, tật mang”, chắc chắn sẽ hối hận dài dài.
Bài viết nầy nhằm mục đích kể lại một cuộc
hành trình với gợi ý cho những ai có cơ hội du lịch Trung Quốc nắm được một vài
sự kiện để làm hành trang cho cuộc hành trình. Tuy nhiên, chắc chắn còn có rất
nhiều thiếu sót.
Xin cảm thông.
Thái
Quốc Mưu
----
Tham khảo:
-
Sử Ký Tư Mã Thiên
-
Tủ sách Khoa Học
-
Wikipidea
----
Mời xem một số hình ảnh!:
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ USA ngày 31.10.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét