Home
» Lý luận phê bình
» Phạm Ngọc Thái: Một nhận định- đánh giá về thơ Nguyễn Quang Thiều qua đọc "Sự mất ngủ của lửa"
Phạm Ngọc Thái: Một nhận định- đánh giá về thơ Nguyễn Quang Thiều qua đọc "Sự mất ngủ của lửa"
Thứ Hai, 11 tháng 1, 2016
Muốn đọc và hiểu được thơ Nguyễn Quang Thiều cho dễ, trước hêt phải nhìn ra cách Nguyễn Quang Thiều thường hành trình để xây dựng cấu tứ cho một bài thơ. Thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là loại thơ tượng trưng, siêu thực hay cách tân cách tiếc gì hết? Một số người nói nó "Tây" quá, chỉ vì họ đọc thơ Thiều thấy khó hiểu. Nhiều bài ngôn ngữ, giọng điệu nghe từa tựa như kiểu người nước ngoài nói lơ lớ, ngọng nghịu... khi phát âm tiếng Việt.
Tác giả Phạm Ngọc Thái
Họ tên thật Phạm Ngọc Thái
Địa chỉ: 34 ngõ 194, phố Quán Thánh Hà Nội.
ĐT: 0168 302 4194.
Email: ngocthai1948@gmail.com
_____
MỘT NHẬN ĐỊNH - ĐÁNH GIÁ VỀ THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU
Qua đọc "Sự mất ngủ của lửa"
Muốn đọc và hiểu được thơ Nguyễn Quang Thiều cho dễ, trước
hêt phải nhìn ra cách Nguyễn Quang Thiều thường hành trình để xây dựng cấu tứ
cho một bài thơ. Thơ Nguyễn Quang Thiều không phải là loại thơ tượng trưng,
siêu thực hay cách tân cách tiếc gì hết? Một số người nói nó "Tây"
quá, chỉ vì họ đọc thơ Thiều thấy khó hiểu. Nhiều bài ngôn ngữ, giọng điệu nghe
từa tựa như kiểu người nước ngoài nói lơ lớ, ngọng nghịu... khi phát âm tiếng
Việt.
Tôi đã đọc khá nhiều thơ của Thiều, cả thơ đã xuất bản thành sách
và đăng trên mạng. Theo nhận định của tôi: "Sự mất ngủ của lửa" là
tập thơ hơn cả so với các tập thơ khác, trong đời thi ca Nguyễn Quang Thiều.
Được tác giả cho xuất bản lần đầu vào năm 1992 và nay, sau 23 năm lại cho tái
bản.
Phần nhiều các bài thơ của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả. Khi tả
cảnh, lúc miêu tả sự việc. Hầu hết là tả nổi... ít tư duy trong. Không ít bài
đến hết thơ cũng chỉ dừng lại ở sự miêu tả đó. Nhiều bài đọc mãi, đọc mãi... mà
vẫn không hiểu thơ nói cái gì? Sau đây, khi phân tích một số bài cụ thể, tôi sẽ
dẫn chứng về vấn đề này.
Giờ xin đi vào bình - "Sự mất ngủ của lửa" bao gồm 25 bài
thơ, phụ thêm 22 bức tranh họa của 15 hoạ sĩ, không kể bức tranh họa bìa sách. Nhưng với 22 bức tranh minh
họa đó cũng chỉ có ý nghĩa trang trí, hoặc tăng thêm sự quảng cáo mà bán sách,
hoặc để đọc cho đỡ rức mắt. Nhất là
với loại thơ viết câu cú thường rất dài của Nguyễn Quang Thiều. Bởi vậy, những
bức hoạ đó tôi không bàn đến trong bài bình luận này.
Khuôn khổ của một bài viết không thể bình tất cả các bài được, vì
quá dài. Nhưng để cho khách quan, trong 25
bài thơ của cả tập... tôi sẽ bình hẳn 10 bài. Thế đã là nhiều lắm rồi! Năm bài
đầu và năm bài cuối. Những bài đầu và cuối thường là các bài thơ trội nhất, các
tác giả hay chọn để sắp xếp khi cho in. Sau đó sẽ nhận định, đánh giá chung cho
cả tập.
NĂM BÀI THƠ ĐẦU TIÊN
1. Mở
đầu tập là bài "Sông Đáy": Quả nhiên, tuy
Sông Đáy chưa được gọi là bài thơ thật sự hay, nhưng đã là bài khá nhất tập.
Tôi để lại sẽ bình cuối cùng.
2. Sang bài "Ban mai": Chia
làm năm khúc với 20 câu. Tác giả tả khung cảnh một buổi sáng sớm ở làng quê.
* Khúc một -
Tả bóng đêm dần tan như bóng một con mèo nhung khổng lồ bước đi. Anh ta tỉnh
giấc dậy mỉm cười với sớm ban mai.
* Khúc hai - Những tiếng xôn xao
từ cánh đồng mờ sương lùa về. Có tiếng xe trâu chất đầy hương cỏ tươi lặng lẽ
đi qua.
* Khúc ba - Nghe như có tiếng ai
gọi ơi... ơi... ơi... từ những con đường quen thuộc. Anh ta lách mình qua khe
cửa nhòm ra.
* Khúc bốn - Tác giả mường
tượng... người nông dân bế anh ta lên đặt vào thùng xe. Người nông dân
cất cái giọng trầm trầm lên hát, như tiếng thóc khô chảy vào trong cót, như đất
ấm trào lên trong loé sáng của lưỡi cày.
* Khúc năm - Vẫn là hình ảnh
chiếc xe trâu một nửa đã ra ngoài sáng, một nửa còn trong đêm. Sau cái tiếng
gọi huầy ơ như người chợt thức ấy, những ngọn ban mai mơn mởn rướn mình.
Đấy
là toàn bộ bài thơ mà tôi đã diễn giải ra. "Ban mai là bài thơ tả cảnh một
buổi sớm quê, qua sự xuất hiện của chiếc xe trâu chở đầy cỏ tươi và người nông
dân theo xe đi trên đường. Ngôn ngữ diễn tả thuộc ngôn ngữ nói thông thường.
Tức là không phải ngôn ngữ bắn ra từ trong tâm linh hay cảm xúc của tư duy
trong - Nên các hình ảnh thường cứng khô, không có thần.
Tôi
xin đưa ra vài thí dụ để minh họa.
- Bài thơ "Mùa xuân
chín" của Hàn Mặc Tử: Mặc dù là bài thơ tả cảnh mùa xuân,
khi thi nhân da diết một nỗi lòng thương nhớ làng quê. Mô tả qua hình ảnh trong
hồi ức:
... Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc
bờ sông trắng nắng chang chang?
Sắc điệu "... trắng nắng chang chang" vẽ ra cảnh trắng toát bên con
sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Hình tượng của những câu thơ
đó được mô tả bằng thứ ngôn ngữ trào ra từ tâm linh, một thứ tư duy cảm xúc đã
thăng hoa... mà tạo nên sự rung cảm mãnh liệt, đẩy tình thơ đi đến viên mãn tột
cùng. Một bài thơ tả cảnh mùa xuân nhưng nó chứa chất, ôm bọc cả nỗi tình đời
sâu sắc bằng một nghệ thuật ngôn ngữ siêu đẳng, mới có thể trở thành bài thơ
hay!
Hoặc khi ông tả về bóng trăng với nỗi lòng hiu hắt:
Với sao
sương anh nằm chết như trăng
Đây chính là một câu thơ thần cảm tuyệt hay! Bóng trăng mà chứa cả linh hồn
cùng số phận thi nhân bên trong - Thứ ngôn ngữ siêu đẳng của thi ca, xuất thần
từ trong tâm linh... như Chế Lan Viên từng viết trong Di cảo:
Ở bên
kia bờ hư ảo - bờ thơ.
Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Quang Thiều là thứ ngôn ngữ diễn tả theo
lối kể lể thông thường, ngôn ngữ đại trà. Đơn giản là tả nổi bên ngoài, nên hồn
thơ không có thần cảm. Thí dụ, cũng ở bài "Ban mai" - khi tác giả
muốn nói về sự gắn bó thân thiết giữa mình với người nông dân ở quê, nhưng hình
ảnh diễn tả khô cứng:
Người
nông dân bế tôi lên và đặt vào thùng xe
(câu thơ 13)
Hoặc
khi tả cảnh trời đêm đang sáng dần, anh ta cũng dùng hình ảnh ví nhưng kể như
văn xuôi:
Bóng
tối đêm dần sáng như con mèo nhung không lồ bước đi uyển chuyển
(câu thơ thứ nhất)
Nếu
trong thi ca mà dùng toàn loại ngôn ngữ diễn tả nông nổi, sơ đẳng này - Thứ
ngôn ngữ không cần tư duy, thần cảm... thì khó lòng sáng tác nổi một câu thơ
hay, chứ đừng nói đến bài thơ hay? Thơ Nguyễn Quang Thiều hầu như chỉ dùng loại
ngôn ngữ kể lể sơ đẳng này.
Một ví dụ nữa, nói về những ngôn ngữ thi ca tầm bậc của các thi
nhân.
- "Thu điếu" của Nguyễn
Khuyến chẳng hạn? Tả về một đêm thu ngồi thuyền câu cá, cảnh
tình thì hiu hắt với nỗi cô đơn:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng
biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá
vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Nhất
là đến hai câu kết:
Tựa gối
buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu
đớp động dưới chân bèo.
Ta thấy đằng sau cảnh thu tĩnh lặng một tâm trạng khắc khoải chênh
vênh của người ẩn sĩ, chán nơi quan trường từ quan về nương náu chốn thôn
hương. Hình ảnh của hai câu thơ kết ấy thật sống động, như có thần... chứa cả
nội tâm ở bên trong. Đó chính là thứ ngôn ngữ bậc cao của thi ca.
- Tôi ví dụ thêm bài
"Qua Đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan - Bốn
câu đầu bà tả cảnh đèo:
Bước tới Đèo
Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây
chen đá, lá chen hoa,
Lom khom
dưới núi tiều vài chú,
Lác đác
bên sông chợ mấy nhà.
Cảnh đã rất sinh động và đẫm hồn nhưng vẫn chỉ là để tả cảnh trí.
Sang đến hai câu sau:
Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc
Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia
Thì cảnh tả ở đây đã ôm bọc cả nỗi nước tình nhà, sự da diết của bà
giữa chốn Đèo Ngang hoang vu. Ý tình trong hình ảnh thơ bộc lộ tâm can, cõi
lòng sâu xa nhất của người đi xa. Điển hình đến mức hoàn bích, cho nên tình thơ
mới sống mãi với thời gian và nền văn học nước nhà. Những câu thơ thần cảm ấy
phải được đẩy ra từ trong tâm linh. Như nữ sĩ Lâm Thị Mỹ Dạ từng viết:
Những
câu thơ run rẩy
Những
câu thơ trốn chạy...
Những
câu thơ... cháy rôi!
Thứ
ngôn ngữ tả cảnh vật theo lối kể bên ngoài như của Nguyễn Quang Thiều không thể
có được những câu thơ ôm chứa sâu sắc và hay đến như thế!
- TRỞ LẠI VỚI BẦI "BAN
MAI": Như tôi đã nói ở trên "Phần nhiều các bài thơ
của Thiều thuộc loại thơ... miêu tả" con người hoặc sự việc diễn
ra, ý nghĩa bên trong chưa có gì sâu xa. Độc giả khi đọc thơ Thiều cũng rất
khó hiểu? Không dễ nắm bắt như tôi đã trải rạch ròi ra như ở trên.
"Ban
mai" là một bài thơ tả cảnh vào loại bình thường, ý nghĩa cũng chưa có gì.
3. "Tiếng cười": Bài
thơ dài 24 câu, nói về sự bỏ nhà ra đi của người cha. Tác giả tả từ lúc còn
tuổi hai mươi cha đã bỏ mặc người vợ trẻ với một nỗi buồn đầy nước mắt, đứng
vùi chân trong cát... ra đi không ngoảnh lại. Chỉ có tiếng chó rộ lên từ xóm
tới đầu làng và con đò cô độc ở bến sông quê.
Khi cha trở về thì tóc... đã trắng. Đêm đêm cha lại ngồi hút thuốc lào:
Tiếng điếu rít lên muốn khoan thủng nỗi buồn
Khoan
vào phận con buốt nhức
Nhưng lý do ông buồn vì vợ con... hay tại hoàn cảnh như thế nào?
Bài thơ không nói. Chỉ thấy tác giả than:
Bốn anh
em con...
...
không phải là đích cuối cùng của đời cha
"Chỉ là bốn cột số"... trong nỗi buồn dằng
dặc của ông. Bởi thế, tuổi 70 rồi cha lại bước lên con đò chao đảo, bỏ gia đình
ra đi... trong sự hoảng hốt của những người con. Tiếng chó lại sủa từ đầu làng
về ngõ.
Nghĩa
là, không thể bàn về tính nhân văn hay ý nghĩa xã hội... trong bài thơ này?
Bởi vì, việc ông bỏ gia đình ra đi không phải vì nước non? mà cũng
chẳng phải tại gia đình? Như ý thơ thì... vợ con ông vẫn yêu thương ông cơ mà? Chỉ
biết là... 4 người con với ông không có nghĩa gì hết. Người vợ nhìn ông bỏ nhà
đi với một nõi buồn đầy nước mắt, đứng chôn chân trong cát. Còn do...
"tại phận" mà ông buồn? Thì phận làm sao? Bài thơ mới chỉ
vẽ lên cái cảnh cha rời nhà vào lúc nửa đêm, không giống người say rượu. "Đom
đóm bay quanh ông" như những vòng dây thép nung đỏ đứt tung ra,
rồi tiếng chó sủa v.v... để tác giả kết luận:
Tóc
cha trắng một tiếng cuời ngửa mặt
"...
tiếng cười ngửa mặt" là một tiếng cười tự mãn, tiếng cười thách
đố! Kết luận như thế này có vẻ cường điệu, cho kêu, cho thật... oách ! Chứ
không hợp lý? Cái tính cách của một ông bó vậy, có gì mà tự mãn? mà thách đố?
Người ta có thể suy luận: đó là một người cha kỳ cục, thậm chí là khùng... mới
có cái "tiếng cười ngửa mặt" như thế. Ngôn
ngữ và tình ý thơ chưa có sự thuyết phục. Theo tôi, tác giả viết chưa
thành. Tuy có màu sắc của một bài thơ tự sự, nhưng Nguyễn Quang Thiều chưa diễn
đạt nổi tư duy ra thơ, vẫn còn ở trong dạng bản thảo.
Bài
thơ hỏng.
4. Bài "Cái đẹp": Một
bài thơ gồm 15 câu thơ ngắn. Tác giả tả mấy gương mặt, cả đàn ông lẫn đàn bà
với một con bò đang kéo chiếc xe nặng nề đi trên đường - Qua đó để xây dựng
hình tượng về... "cái đẹp"!? Song bài thơ không lột nổi ý tưởng. Câu
cú, hình ảnh, ý nghĩa chưa có gì đáng bàn - Tôi bỏ qua cho bớt dài.
5. "Xô-nát
hoàng hôn trên biển": Đến bài này thì mới thực là rối
rắm. Một bài thơ dài tới 54 câu. Tác giả chợt loé lên ý tưởng của cảnh đánh cá
biển trong hoàng hôn, rồi dẫn dụ mặt trời như cái vòng quay lửa đang lăn. Khi
thì anh ta ví con sóng chìm tan trước mặt là con sóng chết; Lúc gọi những con
sóng vỗ triệu năm đó điên cuồng, mệt mỏi; Rồi những dây buộc chèo xiết đến toé
máu; Những tấm lưới bung ra và cả lũ cá dại khờ... vào cuộc chia ly!Nghĩa
là chia ly với sự sống, bị bắt và chết.
Thế thôi - Trong cái vòng ấy, mặt trời lăn thêm một vòng, một vòng
nữa thì chạm vào mặt biển... và đó là cơn đau đớn vĩ đại, nỗi khát khao vĩ đại
của lửa... và lúc đó lòng anh ta đau đớn nhất ? Ngôn ngữ thơ nói phóng đại, nói
to tát, nhưng ý nghĩa hình ảnh chẳng ra đâu vào đâu. Chủ đề không rõ ràng. Đọc
chán chê, rức cả mắt mà vẫn không biết Nguyễn Quang Thiều định nói về cái gì?
Tứ còn loạn nên rất khó bình. Rồi anh ta than rằng: Không chịu nổi lúc có một
bài ca lưu lạc trở về... Nhưng vì sao như vậy? Thì chịu. Phải gọi diêm vương
dưới âm phủ về giàng nghĩa.
- Nào là bài ca con thuyền vỡ.
- Bài ca những tấm lưới rách.
- Cả bài ca của những người đã chết
rơi xuống đáy biển... mà rơi như một chiều đang buồn ngủ... nhưng, không đau
khổ và không ân hận???
Thật vô lý và vô tâm!... Anh ta vơ tất cả những số phận bị hiểm hoạ phải
rơi xuống đáy biển ấy làm thành một bài ca, rồi bảo họ chết không đau khổ và
không ân hận !? Tình cảnh ra sao? Hiểm họa thế nào? Tại sao tất cả họ, ai
cũng... vui vẻ chết? Đấy là nhà thơ vui vẻ ca, chứ có phải ai cũng sẵn sàng
chết đâu?
Cái mà người ta gọi thơ Thiều như... "thơ Tây"? Cái mà
Hữu Thỉnh, ông Chủ tịch HNVVN chắc gì đã hiểu được mô tê về thơ của Thiều?
nhưng cứ nói quàng: Đọc xong thơ Nguyễn Quang Thiều, ông trở thành một
con người khác - và ông Chủ tịch kết luận: "như thế gọi
là thơ hay!"? Đúng là một ông Chủ tịch Hội, trình độ thẩm định
thơ ca có hạn "ăn ốc nói mò".
Trở lại với bài thơ. Tất cả cái mớ hình ảnh được miêu tả như thế, Nguyễn Quang
Thiều vơ vào mà tạo thành "Xô-nát hoàng hôn biển". Tả đủ mọi kiểu như
một tập an-bom hỗn độn. Suy lý tuỳ tiện, thả phanh. Đọc cứ nhoằng nhoằng, thấy
có vẻ kêu kêu... kêu kêu... chứ chả có hình ảnh hoặc câu thơ nào được gọi là súc
tích và hay.
Kết luận: Bài này cũng chỉ là một thứ thơ... ra rác !!! Ai nói không ra
rác, hãy bình thử tôi nghe?
TÔI BÌNH SANG NĂM BÀI THƠ CUỐI
6. "Câu hỏi cuối ngày" tr.75-76:
Trước hết phải nói, đây là một bài thơ viết rất vớ vẩn. Không những thế, tác
giả còn tỏ ra... hợm. Dù có bị dài, nhưng với bài thơ này tôi cũng xin chép cả
ra đây:
Tôi tựa lưng vào bức tường xám mốc
Đợi chuyến xe tan
tầm
Đó là khoảng thời
gian tôi đói nhất và buồn nhất trong ngày
Phía bên kia đường tôi đợi
Những chiếc lá tôi
không biết tên phủ đầy bụi
Những chiếc lá dịu dàng
rụng xuống
Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng
lên
Trong cơn mơ đói và buồn
Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng
qua
Như dao sắc phất vào tôi
Tôi nhói
lên một câu hỏi
Như
người ứa máu
Rằng nếu
tôi lấy họ
Tôi sẽ ngủ
với họ thế nào.
Và chuyến xe tan tầm lại
đến
Ọp ẹp và bẩn thỉu như
chiếc lồng vịt khổng lồ
Tôi vội vã bước vào trong đó
Các cô
gái buôn chuyến đang ngoẹo đầu ngủ
Tóc tai
quần áo sặc mùi cá khô
Giấc mơ
sẽ thế nào trong giấc ngủ thế kia
Và lòng
tôi nấc một câu hỏi
Như một
người sặc khói
Rằng nếu
tôi lấy họ
Tôi sẽ
ngủ với họ thế nào.
Có gì đâu, anh ta tả về một buổi chiều đợi chuyến xe tan tầm, chắc
là để về nhà. Nội dung của bài thơ chỉ tả rằng: Anh ta tựa lưng vào một bức
tường xám mốc, đợi xe trong sự đói và buồn. Ở bên kia đường chả có gì... ngoài
những chiếc lá phủ đầy bụi.
Nhưng
có điều kì quặc là, những chiếc lá "phủ đầy bụi" mà
lại... "dịu dàng rụng" ?... trong cái
tâm trạng... "vừa đói vừa buồn"?
- Đói và buồn... lại thấy những chiếc là
phủ đầy bụi... dịu dàng rụng xuống? Nguyễn Quang Thiều viết thơ với một
cảm xúc thật quái gở và giả tạo.
Nguyễn Du từng viết:
Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ
Chưa hết, khi những chiếc lá phủ đầy bụi ấy... "dịu dàng
rụng"? Thì: Cơn mơ buổi chiều vàng thẳm dâng lên /
(câu thơ 7) - "Cơn mơ vàng thẳm" là hình ảnh
của một cơn mơ đẹp...
("vàng
vọt" hay "vàng bệch" mới là màu biểu tượng cho sự úa tàn, buồn
chán)
- Đói và buồn mà lại có một... cơn mơ đẹp?
khi những chiếc lá "phủ đầy bụi"... "dịu dàng rụng" - Thơ
ơi là thơ!... Thiều ơi là Thiều!... Quả tình Nguyễn Quang Thiều viết thơ văng
mạng. Người ta bảo thơ Thiều đọc như "Tây" cũng vì tả như thế này
chăng? Một cách tả chẳng những vô lý, vô nghĩa mà lại còn sai bét cả.
Thế rồi - nhìn thấy mấy cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy phóng qua...
lòng anh ta nhói đau "như có dao sắc phất vào... như kẻ ứa
máu" - Anh ta than:
Rằng nếu tôi
lấy họ
Tôi sẽ
ngủ với họ thế nào ???
Có phải ai người ta cũng muốn lấy cái anh chàng nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều đâu? Họa chăng phải lắm tiền, nhiều của như Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng chẳng hạn? hoặc nguyên Tổng bí thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh... "
liêm khiết, đạo đức" đến mức, khi về hưu rồi mới xây cả một cơ ngơi nhà
cửa dát vàng, dát bạc hoành tráng, sàn lát đá hoa cương... nguy nga như cung
vua, chiếm cả nhân tình của con trai về làm vợ?
Tôi
nói tiếp phần cuối của bài - Hết cái đoạn anh ta tả về các cô gái phóng xe máy
qua rồi thì, chuyến xe tan tầm đến. Anh ta lại tả về chiếc xe tan tầm đó: Nó "ọp
ẹp và bẩn thỉu như chiếc lồng vịt khổng lồ" - vào trong thấy:
Các cô gái buôn chuyến đang
ngoẹo đầu ngủ
Tóc
tai quần áo sặc mùi cá khô
Cũng một
ý nghĩ như trên, nhưng lần này Thiều không "ứa máu" nữa, mà:
...
nấc lên một câu hỏi
Như một
người sặc khói
Rằng nếu lấy họ, thì anh ta sẽ phải ngủ với họ thế nào ??? Hết
thơ!
Đúng
là thơ với chả thẩn? Ai cũng đòi ngủ. Lại còn tỏ ra kênh kiệu, kệch cỡm:
Không hiểu: Tôi
sẽ ngủ với họ thế nào?
Thế
mà một số trong Hội nhà văn cứ khen rối, khen rít... Thơ hay?
Hữu
Thỉnh thì buông lời phán: Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc
cao? - rồi tuyên bố: Sắp tới tập thơ "Sự mất ngủ của lửa
" sẽ được tặng giải thưởng nhà nước là hoàn toàn xứng đáng? Một
Chủ tịch Hội nhà văn hài hước hết mức.
Mà
cũng chẳng có gì là lạ - Ngay chính Hữu Thỉnh từng đem cả tập "Thương
lượng với thời gian" thấp kém, cùng với tập trường ca biển làng nhàng,
tranh giành lấy cái giải thưởng Hồ Chí Minh đó sao? Thì tập thơ "Sự mất
ngủ của lửa" của Nguyễn Quang Thiều, họ có đem trao cho nhau cái giải
thưởng nhà nước... cũng đâu phải chuyện bất ngờ? Ngay nhà thơ Việt Phương, một
Hội viên HNVVN đã phải buồn chán từng than rằng: "Hội nhà văn Việt
Nam" đang bị thao túng bởi nhóm lợi ích". Đúng là những kẻ
mất nhân cách và đáng phỉ báng.
7. Bài "Thời gian": Là bài thơ Nguyễn Quang Thiều
tự sự về đứa con gái đang ốm của mình. Với tình phụ tử ấy nên tôi không muốn
bình nhiều, chỉ xin nói ít lời khái quát. Bài thơ chia làm bốn khúc, 15
câu thơ.
- Khúc đầu, giới thiệu tác giả ngồi bế
cô con gái đang sốt. Bố cũng sốt và con cũng sốt "Trò chuyện
với nhau bằng những cơn ho".
- Khúc hai, tả cái bếp lửa gần đó và
tiếng bẻ củi. Ngọn lửa linh thiêng cựa mình, hình như có bước chân đi quanh
đống lửa làm những làn tro ấm bay lên.
- Khúc ba, tác giả tưởng tượng ra một
mùa thu thắm đỏ... có con rắn nâu bò qua vườn trên lớp lá vàng... rồi anh ta
bỗng khóc cùng mùa hạ, khi thấy bóng mình quanh khu vườn đó?... Hoài niệm về
tuổi thơ hay quá khứ chăng? Không biết. Ý nghĩa khi tả những hình ảnh ấy để nói
cái gì? Con rắn nâu kia biểu tượng cho cái gì? Có quan hệ gì tới đứa con gái
đang sốt? Như " thơ kín mít " Âu Châu thế kỷ XIX vậy.
- Khúc bồn, trở lại với hình ảnh ban
đầu: Tác giả đang ngồi ôm con trước lửa. Một cơn sốt ôm một cơn sốt: Những
tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi / - Hết thơ.
Hình ảnh, ngôn ngữ và ý nghĩa thơ còn làng màng, sơ giản bên
ngoài... chưa rung cảm được trái tim đời. Bài thơ không đứng được với thời
gian.
8. Sang bài "Âm nhạc": Cũng là
một bài thơ tác giả tả về ngày đưa tang con gái. Thôi, nghĩa tử là nghĩa tận -
Bài thơ này tôi bỏ qua, không động vào.
9. "Tha phương": Bài thơ gồm 22 câu ngắn và
thuộc trong những bài thơ ngắn nhất tập. Tác giả nói về tâm trạng của người
sống tha phương, chắc là ở nước ngoài.
- Khúc thứ nhất tả con đường lạ, ngơ
ngác... vừa bước vừa vấp.
- Khúc thứ hai có 3 câu tả về
"nỗi khóc" - Ba câu là ba kiểu khóc: Khóc trong cỏ gai? Khóc
trong rơm rạ? và cuối cùng... khóc thành rêu? Tình thơ rất khó suy luận.
Những hình ảnh nhặt nhạnh này không có tính đặc trưng, điển hình... nên thơ
không thoát ý. Phân tích kỹ thì như tác giả cố bịa ra để thơ thêm màu sắc, chứ
không phải thơ ra từ trong cảm xúc? Còn nỗi khóc thư ba "Khóc
thành rêu": Tức là khóc liên miên, ngày này qua tháng khác - Ý nói,
những ngày sống tha phương tác giả... chỉ toàn khóc mà thôi !? Hình tượng
tả bị hỏng.
Đoạn thơ sau cũng tả vài hình ảnh để nói về nỗi đau, nỗi nhớ của kẻ
tha phương, rồi tác giả kết thơ:
Chỉ
mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa
Ngăn
ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương.
Nói chung bài thơ bình thường, dưới trung bình. Từ nội dung ý nghĩa đến ngôn
ngữ nghệ thuật... nhàng nhàng, nhàn nhạt.
10. Cuối tập là "Bài hát về cố hương": Một
bài thơ dài 33 câu, chia làm bốn khúc. Mỗi khúc đều được tác giả bắt đầu bằng
câu thơ:
Tôi hát
bài hát về cố hương tôi
- Khúc mở đầu: Tác giả giới thiệu hát
bài cố hương này vào lúc tất cả đã ngủ say, chỉ còn những vì sao và ngọn gió
hoang cùng thức.
Sau đó đến một só hình ảnh còn đọng trong tiềm thức - Nào là, có
tiếng nói mê của đàn ông bên mé tóc đàn bà; thoảng mùi sữa mẹ tràn vào đêm; rồi
những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên; cả tiếng ho
khúc khắc của người già với vườn cỏ khuya vẫn thức một mình
Đấy,
toàn bộ hình ảnh cố hương được gợi ra trong khúc một là thế!
- Khúc hai: Nói về ánh sáng của ngọn
đèn dầu để tác giả sáng tác văn thơ... cũng là ngọn đèn của cố hương mà ông bà
để lại, đẹp và buồn, cho tác giả biết yêu, biết khóc.
- Khúc ba: Nói về khúc ruột, (tức là cái
cuống rốn khi người mẹ sinh ra anh ta) đã chôn ở đó. Nó thành con giun đất bò
âm thầm dưới vại nước, bờ ao, quằn quại qua khu mồ dòng họ, qua bãi tha ma
người làng chết đói, đất đùn lên máu chảy ròng ròng.
- Khúc bốn: Khúc cuối cùng để kết thơ,
nói về những chiếc tiểu sành bên lò gốm. Một mai anh ta chết cũng sẽ nằm trong
đó - Và chí nguyện của tác giả là kiếp này là người, nhưng kiếp sau phải là
vật. Anh ta chỉ xin làm một con chó nhỏ... để canh giữ nỗi buồn, báu vật của cố
hương.
Tôi cứ đọc đi, đọc lại mãi bài thơ và luôn đặt ra một câu hỏi: Bài
thơ viết về vấn đề gì nhỉ? Ừ, thì viết về cố hương - Nhưng ý của bài thơ muốn
nói đến cái gì?
Khi
nói về hình ảnh của làng quê Việt Nam, người ta thường dùng hình tượng về "Cây
đa, bến nước, sân đình..." hay các hình ảnh mang tính đặc trưng,
đặc thù của quê hương đó.
Nhưng hình ảnh cố hương của Nguyễn Quang Thiều lại chỉ là: Tiếng
nói mê của những người đàn ông về đàn bà, những bầu vú của con gái tuổi mười
lăm đang mơn mởn, rồi tiếng ho khúc khắc của mấy ông bà già...
- Những hình ảnh này nhặt nhạnh ở cuộc
sống... nơi nào mà chẳng thấy, đâu phải là những hình ảnh để làm biểu
tượng? Chỉ có hình tượng về "dòng sữa thơm của mẹ" là chấp
nhận được.
Đến đoạn thơ tác giả nói về khúc
ruột, nó không tiêu tan mà thành con giun đất bò đi khắp nơi, khắp chốn... máu
chảy ròng ròng? - Vậy ta cũng có thể nói: khúc ruột đó nó không tiêu tan mà hoá
thành... con gián. Con gián bò khắp nhà, từ xó này qua xó khác - Hoặc hoá thành
con cáo cào bay khắp đồng trên, xóm dưới, phủ kín bầu trời cố hương v.v...
Nghĩa là, những hình tượng trong "Bài hát về cố hương" của Nguyễn
Quang Thiều còn mang tính lặt vặt, manh mún. Tác giả chưa khai thác được những
nét riêng biệt, để bài thơ có tính đặc trưng hay đặc thù của cố hương. Tầm vóc
thi ca thường, chưa gây được cảm xúc đối với người đọc.
*Giờ tôi quay trở lại bình vào bài
"Sông Đáy": Chính là bài thơ in đầu tiên của tập. Như tôi đã nói, Sông
Đáy tuy chưa đạt được là thơ hay, nhưng là bài thơ khá nhất tập. Tính đến nay,
Thiều chưa có một bài thơ hay nào.
Một
bài thơ về quê hương dài 24 câu, phần lớn là những câu thơ dài. Thơ dễ đọc,
cũng dễ hiểu. Cấu tứ bài thơ chia làm hai phần:
- Phần 1/. Tình cảm khi xa quê, tức là
xa sông Đáy.
- Phần 2/. Trở về.
Cái được của bài thơ là giầu cảm xúc, ngôn ngữ giản đơn hơn nhiều
so với những bài thơ khác. Tuy nhiên, liệu bài thơ có tồn tại nổi với tháng năm
không? Nó có giá trị về mặt thi ca như thế nào đối với nền văn học? Tôi sẽ bàn
sau. Giờ xin đi vào phân tích một số nét cụ thể.
a. Phần 1/. Xa quê
- Tác giả ví dòng sông Đáy đi vào cuộc đời như hình ảnh người mẹ vất vả, sau
mỗi chiều đi làm về người đẫm mồ hôi. Anh ta dụi mặt vào lưng áo người thấy mát
một mảnh sông đêm. Những năm tháng sống xa quê, vẫn nhớ đến hình ảnh mái tóc
của người mẹ trên bến mòn đứng đợi đã xoa dịu nỗi đau của lòng anh. Mẹ như cây
ngô cuối vụ khô gầy:
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo
Lòng anh ta như người hụt hẫng. Trong cơn mơ vang tiếng cá quẫy
tuột câu, như một tiếng nấc âm thầm vỡ...
Rồi
chiều chiều mong hình ảnh dòng sông dâng lên ngang trời. Đôi mắt nhớ thương của
anh ta trở thành như hai hốc đất, nơi những con cá bống đến làm tổ giàn giụa
nước sông.
b. Phần 2/. Trở
về gặp lại sông - Tác giả reo lên:
Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
Cảm xúc như những cánh buồm cổ tích bay xa về tức tưởi trong lòng-
Phần này tách ra làm hai đoạn:
ĐOẠN MỘT: Nghĩ về em. Tưởng tượng em
đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò vào một ngày sông bến vắng - Nhưng anh lại
chỉ gặp những bẹ ngô trắng trên bãi... nhớ về một trăng xưa, chiếc áo em tuột
rơi trên bến...
ĐOẠN HAI: Trở lại với hình ảnh người
mẹ. Mẹ giờ đã già như cát bên bờ. Ngỡ mùi cát khô như mùi tóc của mẹ, quì xuống
vốc cát áp vào mặt và... khóc! Cát từ mặt chảy xuống dòng dòng.
Đấy, toàn bộ bài thơ Sông Đáy mà tôi đã diễn giải ra. Tuy khá nhưng
bài thơ chưa có gì đặc biệt. Từ hình tượng đến ngôn ngữ cũng chưa có một câu
thơ nào thật hay - Với bài thơ này, Thiều cũng đã được một cái gì đó!... Nhưng
liệu rồi bài thơ có đứng nổi với thời gian không? Thì tôi nghĩ rằng cũng
khó. So với các bài thơ hay của thi đàn như: Mùa Xuân Chín, Đây thôn Vĩ
Dạ, Bẽn lẽn của Hàn Mặc Tử - Thu Điếu của Nguyễn Khuyến - Tương Tư hay Lỡ Bước
Sang Ngang của Nguyễn Bính - Tràng Giang Huy Cận - Tranh Loã Thể Bích Khê - Hay
như với Thuyền Và Biển của Xuân Quỳnh v.v... Thì Sông Đáy của Nguyễn Quang
Thiều còn kém rất xa.
KẾT LUẬN: "Sự
mất ngủ của lửa" là tập thơ vào loại trung bình và không có khả năng tồn
tại đối với nền văn học nước nhà.
- Nghĩa là thơ của Nguyễn Quang Thiều
sẽ ra rác - Vậy mà Hữu Thỉnh cứ tâng bốc: “Như thế mới gọi là thơ hay!
Thơ Nguyễn Quang Thiều có tính dân tộc cao, xứng đáng được tặng giải thưởng nhà
nước?” Thật là, một ông Chủ tịch Hội nhà văn ăn nói quàng xiên.
Hà Nội, tháng 1/2016
Phạm Ngọc Thái gửi đăng.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 19/12/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét