Người đàn ông đồng tính – Bài viết Đặng Xuân Xuyến (HN)
Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2019
Từ
lúc cất tiếng khóc chào đời, những bé trai đã được bố mẹ và gia
đình rèn rũa, dạy bảo theo khuôn mẫu văn hóa truyền thống: Cương
cường, dũng mãnh, lạnh lùng và quyết đoán. Có nghĩa, là đàn ông
thì không được “bám váy” mẹ, không được “yếu đuối”, không được khuất
phục trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Văn hóa truyền thống không
chấp nhận quan điểm của các nhà tâm lý học hiện đại, như Elisabeth
Badinter chẳng hạn, thừa nhận: “Giới tính nữ là giới tính cơ
bản. Người nam được hình thành bằng sự đấu tranh với tính nữ nguyên
thủy ngay từ khi còn trong bào thai. Vì giới tính nữ là giới tính cơ
bản nên trong người đàn ông vừa có tính nam vừa có tính nữ. Muốn
phát triển thành người đàn ông là một cuộc đấu tranh không ngừng ở
mọi lúc.”.
Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Họ tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh sống tại Hà Nội
ĐT: 0903413075
Email: baothang_xuanxuyen@yahoo.com.vn
_____
NGƯỜI ĐÀN ÔNG
ĐỒNG
TÍNH
-
Trích trong ĐIỀM YẾU CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG MẠNH MẼ
của Đặng Xuân Xuyến; Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin; 2006 -
*
Từ
lúc cất tiếng khóc chào đời, những bé trai đã được bố mẹ và gia
đình rèn rũa, dạy bảo theo khuôn mẫu văn hóa truyền thống: Cương
cường, dũng mãnh, lạnh lùng và quyết đoán. Có nghĩa, là đàn ông
thì không được “bám váy” mẹ, không được “yếu đuối”, không được khuất
phục trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Văn hóa truyền thống không
chấp nhận quan điểm của các nhà tâm lý học hiện đại, như Elisabeth
Badinter chẳng hạn, thừa nhận: “Giới
tính nữ là giới tính cơ bản. Người nam được hình thành bằng sự đấu
tranh với tính nữ nguyên thủy ngay từ khi còn trong bào thai. Vì giới
tính nữ là giới tính cơ bản nên trong người đàn ông vừa có tính nam
vừa có tính nữ. Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc
đấu tranh không ngừng ở mọi lúc.”. Trong những tác phẩm của
mình, (đúng hơn là những công trình nghiên cứu khoa học) bà đã đưa ra
những phác thảo về khuôn mẫu người đàn ông trong thế kỷ XXI đối lập
khá nhiều với những gì mà văn hóa truyền thống đã khắc họa.
Trong
lời giới thiệu tác phẩm NHÂN DẠNG NAM của Giáo sư Elisabeth Badiner,
dịch giả Nguyễn Xuân Khánh viết: “Xã
hội hiện đại dựa trên cơ sở bình đẳng nam và nữ, nó nhất thiết dẫn
tới chỗ tạo ra sự giống nhau giữa hai giới. Mục đích công bằng chính
trị ấy xuất sinh từ quyền con người. Chính từ sự bình đẳng ấy, trên
thực tiễn ta nhận thấy bản chất con người gồm cả tính nam và tính
nữ. Người đàn bà đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực trước kia chỉ dành
cho người nam, họ trở nên lưỡng tính và giống người nam. Đảo lại
người nam cũng lưỡng tính như vậy.”. Có lẽ vì thế mà không
ít quý ông rất sợ phải sống với chính con người giới tính thật của
mình. Họ sợ những phút giây mềm yếu trong con người: Sợ tính nữ
nguyên thủy biến họ thành người yếu đuối, đồng tính, nhu nhược, hèn
kém trong bất kỳ thời điểm nào. Mà điều đó, gia đình, xã hội và
chính bản thân người đàn ông, bằng lý trí không cho phép được sảy ra.
Nghiên
cứu về người đồng tính, các nhà tâm lý kết luận: Đời sống tình
cảm của người đồng tính nam thường chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người
mẹ và mang nhiều tính nữ. Còn người đồng tính nữ thường chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ người bố và mang nhiều tính nam. Đây chính là điểm
cơ bản đầu tiên của người đàn ông đồng tính.
Chúng
ta đều biết, sự hình thành và phát triển tính nam của người đàn ông
không chỉ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa truyền thống với những
chuẩn tắc khắc nghiệt mà còn chịu sự chi phối sâu sắc của huyền
thoại tình mẫu tử. Sự đối đầu giữa khuôn mẫu người đàn ông truyền
thống với huyền thoại tình mẫu tử, trong nhiều trường hợp đã làm
méo mó, biến dạng tâm sinh lý và giới tính của người đàn ông khi
trưởng thành. Thuyết bản năng mẫu tử, hay còn gọi huyền thoại tình
mẫu tử, đã “hợp thức hóa việc loại trừ người cha”, “tăng cường sự
cộng sinh giữa mẹ và con trai”, làm cho tính nữ nguyên sơ trong bé trai
bị kéo dài, dẫn tới sự phát triển lệch lạc về tâm sinh lý và giới
tính, cản trở và triệt tiêu tính nam của người đàn ông đang hình
thành trong đứa trẻ. Chính vì vậy mà người Anh, một thời gian khá
dài đã phản đối gay gắt sự “độc nhất” của người mẹ trong việc chăm
sóc và nuôi dưỡng bé trai. Elisabeth Badinter, giảng viên triết học
trường Polytenchnique (Pháp) nhấn mạnh: Lý thuyết bản năng mẫu tử đã
gây tha hóa và tội lỗi đối với phụ nữ và tỏ ra tàn hại đối với
trẻ nhỏ, đặc biệt đối với trẻ em trai. Qua nghiên cứu nhiều công
trình khoa học và các tác phẩm văn học (trên 3.000 tác phẩm văn học
và thân thế các danh nhân nổi tiếng), bà đưa ra kết luận: Trong số những người đàn ông đồng
tính, rất nhiều người sống gần gũi với mẹ và chịu ảnh hưởng sâu
sắc từ người mẹ. Bà khuyến cáo: Hãy để bé trai thường xuyên
gần gũi và chịu ảnh hưởng từ người bố, sẽ giúp bé trai thuận lợi
cho việc phát triển tâm sinh lý người đàn ông của đứa trẻ.
Trong
các công trình nghiên cứu về tính nam của người đàn ông, Giáo sư
Elisabeth Badinter đều cảnh báo sự thái quá trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng bé trai của các bà mẹ sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành
và phát triển tính cách người đàn ông của bé trai sau này. Tất
nhiên, sự “độc chiếm yêu thương” bé trai của các bà mẹ - như chúng tôi
đã trình bày trong mục NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRẺ CON - không thể hoán đổi bé
trai từ người dị tính sang là người đồng tính mà chỉ là một trong
những căn nguyên “mở đường” cho sự phát triển từ khuynh hướng tình
dục đồng tính sang hành động đồng tính ở các bé trai. Đây là điều
mà các bà mẹ cần lưu tâm khi chăm sóc và nuôi dưỡng bé trai yêu quý
của mình.
Kensey,
bác sỹ người Mỹ, qua những cuộc điều tra xã hội học cho rằng: Cứ 3
người đàn ông Mỹ thì ít nhất 1 người đã từng có “trải nghiệm” quan
hệ luyến ái đồng giới. Còn người Anh thì “rất nhiều” người là dân
đồng tính.
Luận
điểm của Kensey khá gần với kết luận của Giáo sư Elisabeth Badinter
về lý do tại sao người Anh lên án thuyết bản năng mẫu tử, nhưng tỷ
lệ người đồng tính và quan điểm khuyến khích “phát triển đồng tính”
mà bác sỹ Kensey đưa ra thì không thể chấp nhận. Tuy nhiên, kết quả
Kensey đưa ra đáng để chúng ta suy ngẫm về hiện tượng những chú “gà
cồ” không thể cất tiếng gáy đang có xu hướng gia tăng trong xã hội
hiện đại.
Theo
thống kê của các nhà khoa học thì trên thế giới thì tỷ lệ người
đồng tính chiếm khoảng 3 - 5 % dân số nhưng số liệu đó chưa hẳn đã
chính xác. Kết quả phát hiện điều tra uy quyền của Mỹ lại cho con
số hoàn toàn khác về đồng tính nam: 35% thuần khiết yêu người khác
giới, 55% đã trải nghiệm đồng tính luyến ái, số còn lại hoặc là
đồng tính luyến ái hoàn toàn hoặc là lưỡng tính luyến ái. (Tâm sinh lý nam nữ; trang 296; Ma Xlao
Lian; Nhà xuất bản Hà Nội; 2004; Thùy Liên dịch). Còn giới
nữ thì sao? Kết quả điều tra của Kinxi và Hăngri cho biết: “- Có
khoảng 12% phụ nữ thực sự đồng tính luyến ái hoặc tỏ rõ mong muốn
được đồng tính luyến ái.” (Tâm
sinh nữ phụ nữ; trang 488; Vương Quốc Vượng; Nhà xuất bản Hải Phòng;
2003; Hà Kim Sinh dịch.).
Gần
đây, các nhà khoa học về tâm lý và tình dục trên thế giới đã công
bố kết quả điều tra (độ tuổi từ 15 tuổi trở lên) ở thành phố San
Francisco (Hoa Kỳ) thì người đồng tính nam ở đây có tỷ lệ cao nhất
thế giới, khoảng 20% dân số (nam giới) của thành phố. (Theo báo Thanh Niên số 100 (3761), ra
ngày 10/04/2006 và báo Công an thành phố Hồ Chí Minh số 1422, ra ngày
11/04/2006).Như vậy, tỷ lệ người đồng tính (nam) đang gia tăng ở
mức báo động.
Các
nhà tâm lý tình dục học nhấn mạnh: Điểm chung của người đồng tính
là sự “mặc cảm tội lỗi”, tâm lý hoảng loạn, dễ bị tổn thương. Do “không giống ai” trong việc lựa chọn
“đối tượng tình dục” và tình yêu của họ không được xã hội chấp
nhận nên người đồng tính luôn sống trong tâm trạng mặc cảm, sợ sệt.
Với người dị tính (tình yêu thuần khiết với người khác giới), sự
thể hiện tình cảm của mình với “đối tượng” thường công khai, được
xã hội chấp nhận (trong một chừng mực, hoàn cảnh nhất định), còn
người đồng tính thì ngược lại: Âm thầm, lén lút vì sự kỳ thị của
xã hội. Đây chính là lý do làm người đồng tính dễ bị tổn thương,
luôn sống trong tâm trạng hoảng loạn và “mặc cảm tội lỗi”.
Một
điểm chung nữa thường thấy ở người đồng tính là: Không ai dám “tự
thú” mình là người đồng tính, trừ phi họ là người đồng tính ở cấp
độ “nặng” không thể giấu được, hoặc họ dũng cảm công bố khuynh hướng
tình dục của mình để được sống thanh thản, thoải mái hơn. Ngay cả
những người đồng tính với nhau, nhất là những người thuộc diện đồng
tính kín, còn gọi là đồng tính “ẩn”, dù “đọc” ra “chất” của nhau
cũng khó khăn trong việc họ thừa nhận mình là người đồng tính. Văn
hóa truyền thống, nhất là nền văn hóa Á Đông đã gây áp lực rất
lớn, buộc người đồng tính ở mọi cấp độ phải giấu đi giới tính
thực của mình, để đáp ứng những “chuẩn mực” của xã hội: Xây dựng
gia đình, sinh con đẻ cái...
Văn
hóa truyền thống, cộng với sức ép của cuộc sống cũng gây áp lực
rất lớn tới những người thân của người đồng tính. Khi được hỏi về
giới tính của bố, mẹ, con, em, chồng, vợ, bạn hữu... dù biết rõ
người thân của mình thuộc diện “lửng lơ 8 vía” thì họ vẫn dứt khoát
phủ nhận, cố chứng minh cho bằng được sự rõ ràng về giới tính của
người thân, để “bảo vệ danh dự” cho người thân của mình.
Trong
cuộc sống, có những người bỗng dưng thay đổi đối tượng tình dục, từ
dị tính sang đồng tính với lời bao biện do tiếp xúc nhiều với người
đồng tính vì công việc, vì stress hoặc vì bất hạnh trong cuộc sống
vợ chồng nên đã “vô tình chuyển hệ”... Họ đưa ra những lý lẽ, rằng
đã từng yêu rất nhiều người khác giới, rằng đã xây dựng gia đình từ
khi còn rất trẻ, thậm chí đã hai, ba lần xây dựng gia đình và
“chuyện ấy” luôn được bạn đời “tấm tắc” không chê vào đâu được... Tóm
lại họ không thừa nhận mình là người đồng tính mà đổ lỗi cho hoàn
cảnh. Họ không biết hoặc có thể họ biết nhưng cố tình phủ nhận
những “xung năng tình dục đồng giới” tồn tại trong cơ thể họ đang ở
dạng tiềm ẩn nên việc thừa nhận sự mập mờ về giới tính của họ
(bấy lâu) là điều không tưởng. Thực chất, nếu là người có giới tính
rõ ràng thì họ không thể “bị” người khác lôi kéo vào các mối tình
đồng giới, trừ phi vì mục đích kinh tế, vụ lợi.
Cũng
có người “bị” đồng tính nhưng không biết mình là đồng tính, bởi họ
vừa lớn lên là xây dựng gia đình, rồi sinh con đẻ cái, có cuộc sống
“bình thường” như bao gia đình dị tính, có khác chăng là trong con
người họ luôn có cảm giác bị bức bối, hụt hẫng và thiếu thiếu...
một “thứ gì đó” rất quan trọng nhưng cũng rất mơ hồ về lĩnh vực
tình cảm, nên cuộc sống gia đình của họ không được suôn sẻ. Giáo sư
Elisabeth Badinter giải thích: “Thông
thường những người đàn ông này cưới vợ hoàn toàn thực tâm, không
biết những xung năng đồng tính luyến ái của mình. Cưới vợ và có con
dưới mắt họ là một giấy chứng nhận về sự bình thường. Phần lớn
họ chỉ nhận ra sự đồng tính luyến ái của mình khi đã cưới vợ và
làm bố. Sự có ý thức đến dần dần, đau đớn và tạo mặc cảm tội
lỗi một cách khủng khiếp (Nhân dạng nam, trang 352). Báo cáo
điều tra của ông Frader Green cho chúng ta biết rõ hơn về
nưgời đồng tính: “Trong số người
đồng tính, có 20% thuộc dạng tinh thần, chưa từng có quan hệ tình
dục (có nghĩa chỉ “yêu thích” người cùng giới trong suy nghĩ, tình
cảm), có 35% thỉnh thoảng có quan hệ tình dục đồng giới và 15%
thường xuyên có quan hệ tình dục đồng giới (...) Những khúc mắc tâm
lý giới tính của những “người vợ”là đàn ông và những “người chồng”
là đàn bà càng nghiêm trọng hơn. Họ thường rơi vào thế làm chủ trong
dạng đồng tính luyến ái.” (Tâm sinh lý nam nữ, Ma Xlao
Lian; trang 200). Với nhóm người này, khi gặp “đối tượng đặc biệt”
trong hoàn cảnh cũng “đặc biệt” sẽ lao vào cuộc tình đồng giới rất
mãnh liệt. Ngôn ngữ dân gian gọi họ là kẻ “đa hệ”, còn thuật ngữ
của các nhà tâm sinh lý tình dục học gọi họ là người “lưỡng tính luyến
ái”, có nghĩa họ là người có nhu cầu quan hệ sinh lý với cả 2
giới.
Điểm
chung nữa thường thấy ở người đồng tính là sợ sự đồng tính. Không
ít người cho rằng sở dĩ bị đồng tính là do những người đồng tính thích
như vậy. Thực ra, người đồng tính không thích như vậy và họ không có
quyền lựa chọn khuynh hướng tính dục. Với người dị tính, chuyện
đồng tính chỉ thực sự “ghê sợ” khi có sự “tiếp xúc thân mật” hoặc
“thể hiện tình cảm” từ đối tượng cùng giới nhưng với người đồng
tính, sự “ghê tởm” đó luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động.
Mặc
dù ghê sợ sự đồng tính nhưng người đồng tính không thể “triệt tiêu”
được ham muốn quan hệ sinh lý với người đồng giới. Họ lập hàng rào
ngăn cản “tình yêu đồng giới” nảy nở nhưng chính họ lại tự động phá
bỏ vì ý chí không thắng được tình cảm. Bằng lý trí, họ lẩn tránh
những gì liên quan tới chuyện đồng tính, thậm chí trốn chạy người
họ say đắm nhưng những xung năng tình dục đồng tính thúc giục, đến
chừng mực nào đó khiến họ bị khuất phục, gục ngã thật thảm hại.
Đó chính là mâu thuẫn, là nỗi đau không thể vượt qua của người đồng
tính. Và đây cũng là điểm chung nữa của người đồng tính.
Trong
cuộc sống, có người biết rõ mình có khuynh hướng tình dục đồng
tính, hoặc mơ hồ thấy những “bất ổn” về nhu cầu tình cảm và sinh
lý đang tồn tại trong con người, nên “cố gắng” hoàn thiện tố chất
đàn ông của mình theo chuẩn mực của văn hóa truyền thống nhưng lại
quay sang miệt thị, tấn công những người đồng tính khác. Trong mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống, khi có cơ hội, họ sẽ lôi người đồng tính
hoặc chuyện của người đồng tính ra để gây cười, để khẳng định mình
“rõ ràng” về giới tính. Tại sao họ làm vậy? Giáo sư Elisabeth
Badinter giải thích: “Thực ra,
sự sợ đồng tính liên quan tới nỗi sợ thầm kín của những ham muốn
đồng tính luyến ái của chính riêng bản thân họ (...). Nỗi sợ đồng
tính luyến ái vạch trần ra điều mà nó tìm cách che đậy.”. (Nhân
dạng nam, trang 240). Giáo sư Elisabeth Badinter cũng khẳng định: Những
người đàn ông thực thụ thường không có thái độ ác cảm khi giao tiếp
với người đồng tính vì họ tự tin vào tố chất đàn ông của họ, không
sợ tính nam của mình bị đe dọa. (Bà cũng không quên chua rằng, người
có tư tưởng “bài người đồng tính” mạnh mẽ thường là người thuộc
dạng “dân trí thấp”, chỉ số thông minh không cao.). Tuy nhiên, theo thiển
ý của người viết, “bản năng tự vệ” trong con người họ - người đàn
ông dị tính - vẫn có những biểu hiện để tạo ra “khoảng cách” nhất
định khi tiếp xúc với người đồng tính.
Nguyên
nhân dẫn đến đồng tính từng được các nhà khoa học cho rằng do gen,
hooc môn hoặc nhiễm sắc thể trong cơ thể bị xáo trộn, biến đổi. Nhưng
qua các thực nghiệm khoa học, các cuộc điều tra và thăm dò dư luận
thì lời khẳng định đó bị sụp đổ.
Khi
giải phẫu kiểm tra gen của người đồng tính, người ta thấy nhiễm sắc
thể không thay đổi mà chỉ có sự biến đổi rất nhỏ về gen. Còn hooc
môn chỉ có sự thay đổi về ngưỡng cảm thụ nội tiết tố tình dục vào
tuổi dậy thì. Đấy chưa phải là căn nguyên cho hành động đồng tính
phát triển.
Đi
xa hơn, các nhà tâm sinh lý tình dục đã tiến hành các cuộc khảo
sát, điều tra xã hội học về đồng tính luyến ái. Người ta thấy có
những gia đình, qua mấy thế hệ không có ai là người đồng tính nhưng
bỗng dưng xuất hiện một chú “gà cồ” lạ hoắc không chịu cất tiếng
gáy. Người ta cũng thấy có gia đình hoặc vợ hoặc chồng là người
đồng tính nhưng con cái của họ sinh ra giới tính lại rất rõ ràng.
Qua
các cuộc thử nghiệm tự nguyện, người ta tiêm hooc môn nam cho người
đồng tính nam, hooc môn nữ cho người đồng tính nữ thì kết quả trái
với mong muốn: Họ (người đồng tính) không thay đổi khuynh hướng tính
dục, trái lại càng kích thích sự “thèm khát gần gũi” với người
đồng giới nhiều hơn, mạnh hơn. (theo Elisabeth Badinter). Điều đó
khẳng định gen, hooc môn không phải là nguyên nhân gây ra đồng tính
luyến ái ở con người. Điều đó cũng khẳng định: Đồng tính luyến ái
không mang tính di truyền.
Vậy
nguyên nhân nào dẫn tới chuyện người đàn ông yêu người đàn ông, người
đàn bà yêu người đàn bà? Câu trả lời vẫn lửng lơ, bỏ ngỏ vì cho
đến tận giờ này các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra câu trả lời thống
nhất. Chúng ta tạm bằng lòng với cách giải thích của bác sỹ Kensey,
người Mỹ, mặc dù cách giải thích của ông vẫn còn khá chung
chung: Có sự biến đổi nhỏ nào
đó ở bán cầu đại não đã ảnh hưởng tới thiên hướng tình dục.
Ông cho rằng, đa số nhân loại có khuynh hướng tình dục đồng tính nhưng
để thành người có hành động đồng tính, tức người đồng tính, phụ
thuộc vào hai yếu tố: Khuynh hướng tình dục đồng tính nặng hay nhẹ
và tác động của môi trường gia đình, xã hội tới cá thể đó như thế
nào. Quan điểm của ông khá gần với quan điểm của Peopper Schwartz
và Dominic Cappello trong tác phẩm MƯỜI CUỘC NÓI CHUYỆN (Nguyễn Thị
Hương Giang dịch - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2006): “Trên thực tế, có một số lượng lớn
đàn ông và đàn bà phát hiện ra rằng mình bị những người đồng giới
thu hút, họ có thể là bạn bè hoặc là những người quen chứ không
phải là người khác giới. Họ chẳng bao giờ hé miệng cho bạn bè hay
ngay cả cho bản thân họ biết đâu.” (trang 235). Như vậy, khuynh
hướng đồng tính mặc dù ở con số khá cao nhưng may thay, nhờ có văn
hóa truyền thống, với những chuẩn tắc khắt khe về giới tính và đạo
đức mà hành động đồng tính không trở nên phổ biến.
Đồng
tính luyến ái tồn tại từ xa xưa và có ở mọi tầng lớp trong xã
hội, nhưng người ta thường thấy tỷ lệ người đồng tính cao ở giới
nghệ sỹ, kinh doanh, chính trị... Thực ra, tỷ lệ người đồng tính ở
các giới như nhau, nhưng nhóm người trên do họ là những người hoặc
thành đạt, hoặc là người của công chúng nên đời tư của họ dễ bị để
ý, “khai thác”, chính vì thế mà mọi người mới ngộ nhận về nhóm
người này có tỷ lệ đồng tính cao hơn các nhóm khác.
Câu
chuyện về nam ca sỹ Quang Dũng chúng tôi trích dẫn dưới đây không ám
chỉ anh là người đồng tính mà chỉ lưu ý điều: Người thành đạt,
nhất là khi lại là người của công chúng, thường “được” dư luận “quan
tâm thái quá” đến cuộc sống riêng tư, mà sự “quan tâm” ấy, đôi khi vô
tình đã hủy hoại tương lai của một con người:
Ca
sỹ Quang Dũng nổi tiếng nhờ hát nhạc Trịnh đã làm dư luận “rối tung
rối mù” về lối sống “lạ hoắc” của mình. Người ta không chỉ “chửi”
anh là “chảnh bà cố nội”, là “bon chen”, là “tàn nhẫn” mà còn xì
xèo, bàn tán về khuynh hướng tình dục của anh rất “lập dị”, “khác
người”.... Không ít chuyện “đồn thổi” ác ý làm Quang Dũng mất niềm
tin vào cuộc sống và luôn trong tâm trạng chán nản. Khi được hỏi: “- Gần đây có lời đồn anh liên quan
đến một vụ scandal về giới tính với một cậu bé ở Hải Phòng không
phải là chuyện tiếu lâm chứ? Tất nhiên anh có thể không nhận!”.
Quang Dũng thốt lên cay đắng: “- Sao
cuộc sống lại nặng nề đến vậy? Có lúc tôi không biết giải quyết
mọi việc thế nào, tôi đều tự hỏi mình đó có phải là sự trả giá
khi tôi theo nghiệp ca hát hay không nữa? Trong thời gian đấy bạn bè
thân họ cũng hiểu sai về tôi, đồng nghiệp thì nhìn tôi với ánh mắt
ngồ ngộ, tôi chẳng biết phải giải thích với họ thế nào, đành im
lặng! (Nghĩa Lương - Người đẹp Việt Nam số 158 ngày
15/10/2005). Là người của công chúng nên “lời đồn” ác ý ấy dù đúng
hay sai cũng làm cho hình ảnh của Quang Dũng bị hoen mờ.
Trong
tác phẩm MỘT THẾ GIỚI KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ, nhà văn Bùi Anh Tấn miêu tả
khá thành công tâm lý nhân vật Nguyễn Thành Trung khi phát hiện mình
là người đồng tính. Là một sĩ quan trẻ, đẹp trai, tài giỏi, được
nhiều người yêu mến, lại sinh trưởng trong một gia đình gia giáo nên
anh rất ghê tởm những “gã pê đê bệnh hoạn”, luôn tìm cơ hội để mạt
sát, thẳng tay đánh đập những “gã pê đê bệnh hoạn” không thương tiếc.
Tại sao Nguyễn Thành Trung làm vậy khi trong anh có “thứ tình cảm
khác lạ” đó từ thủa học trò? Nguyễn Thành Trung làm vậy để trốn
chạy con người thực của mình, để khẳng định mình là thằng đàn ông
đích thực. Nguyễn Thành Trung sẽ làm được điều đó nếu không có buổi
tối định mệnh ở quán cafe của những “gã pê đê bệnh hoạn”: Khuôn mặt
đẹp trai, ga lăng nhưng đậm đặc chất đàn ông và giọng nói du dương,
trầm bổng của Hoàng “hoàng tử” đã làm anh chao đảo... Sau những dằn
vặt, những “đấu tranh tư tưởng”, anh đã tự tìm đến với Hoàng “hoàng
tử” và lao vào cuộc tình đồng giới với tất cả sự khao khát bị dồn
nén lâu ngày. Những giằng xé, những đấu tranh tư tưởng của Nguyễn
Thành Trung được Bùi Anh Tấn mổ xẻ, phân tích và dẫn giải khá sâu
sắc, và có lẽ với những kiến giải của mình, nhà văn (đồng tính)
Bùi Anh Tấn đã giúp đọc giả nhìn nhận vấn đề đồng tính luyến ái
bằng ánh nhìn nhân văn và con người hơn.
Công bằng mà nói, người đồng tính là
những người chịu nhiều thua thiệt, đau khổ trong cuộc sống. Trong con
mắt mọi người, dù người đồng tính có tài giỏi, tử tế đến đâu, có
ích cho gia đình và xã hội thế nào thì họ vẫn cứ là “kẻ biến
thái”, “lập dị”, bị tránh xa vì “kinh tởm”. Một ông tổng thống, một
nhà bác học hoặc một nhà thơ, một nhạc sỹ thiên tài... nếu đã “bị”
là người đồng tính thì dù có vắt kiệt tài năng, trí tuệ để cống
hiến cho nhân loại vẫn cứ phải đương đầu với sự ghẻ lạnh, “khinh rẻ”
của người đời. Một kẻ giết người, một tên ăn trộm, một gã lừa
đảo... nhiều khi lại được “xã hội” “tôn trọng” hơn nhiều những người
đồng tính. Đấy chính là sự nghịch lý, là bất công của xã hội dành
cho người đồng tính mà người đồng tính khó đủ sức để vượt qua.
Thực
ra người đồng tính không bao giờ muốn họ là người như vậy. Họ rất
đau khổ vì sự “chẳng giống ai” của mình. Họ cố gắng chống lại sự
trớ trêu của tạo hóa nhưng họ càng cố thì hình như họ càng bất
lực. Sự kỳ thị của gia đình, xã hội không giúp họ sửa đổi được sự
“sai lệch” về khuynh hướng tình dục (dù ít dù nhiều), mà còn làm
cho họ có thái độ bất cần đời, “hăng hái” hơn trong việc thể hiện
bản thân và lôi kéo những người đồng cảnh.
Khi
được hỏi: Nếu phát hiện ra người thân của mình là người đồng tính
bạn sẽ làm gì? Đa số trả lời sẽ khuyên giải để người thân có đời
sống tình dục bình thường. Nếu khuyên giải không được sẽ “cưỡng chế”
bằng nhiều hình thức, miễn sao người thân của mình thoát khỏi sự
“căn bệnh nhơ nhuốc” đó.
Các
nhà khoa học khuyến cáo: Muốn người thân của mình điều chỉnh được
sự sai lệch về đối tượng tình dục, trước hết phải bình tĩnh, tìm
hiểu xem người thân của mình “bị” đồng tính ở mức độ nào để có
biện pháp cụ thể. Dù người thân “bị" đồng tính "nhẹ"
hay "nặng" thì đều phải mềm mỏng, tâm lý và thật sự kiên
trì. Không nên biểu hiện sự lo lắng, đau khổ cho người thân của mình
biết. Tuyệt đối không làm tổn thương tới lòng tự trọng của họ, ví
như: Nói cho người khác biết, sỉ nhục, đánh đập,... càng làm cho họ
có những phản ứng tiêu cực: Công khai khuynh hướng tình dục của mình,
bỏ nhà ra đi, tìm đến với cái chết...
Khi
thực hiện đề tài này, chúng tôi hỏi những người đồng tính 3 câu
hỏi:
1.
Gia đình phản ứng thế nào khi biết bạn là người đồng tính?
2.
Sự lo lắng của người thân ảnh hưởng thế nào tới khuynh hướng tình
dục của bạn?
3.
Tỷ lệ người đồng tính từ bỏ được quan hệ đồng tính là bao nhiêu sau
khi được sự “quan tâm” của gia đình?
Chúng
tôi hy vọng những câu trả lời của họ sẽ giúp ích cho bạn trong việc
“khuyên giải” người thân của mình, nếu chẳng may người thân là người
đồng tính, có tác dụng tích cực hơn.
Với
câu hỏi 1: 10
% trả lời người thân của họ không có phản ứng gì. 20% trả lời người
thân của họ đau khổ nhưng khuyên họ phải từ bỏ “căn bệnh đua đòi” vì
danh dự bản thân và gia đình. 70% trả lời người thân của họ rất bực
tức, kinh tởm khi biết họ là người đồng tính nên đã cấm đoán, miệt
thị, đánh đập họ... bắt họ phải “từ bỏ bệnh xấu hổ” nếu không sẽ
“từ mặt”, đuổi ra khỏi nhà.
Với
câu hỏi 2: 80%
trả lời cảm thấy xấu hổ, “nhục nhã”, quyết tâm “thay đổi” khuynh
hướng tình dục của mình nhưng rất tiếc không làm được. 10% không trả
lời. 10% còn lại thì lao vào các mối quan hệ đồng tính công khai hơn,
mạnh mẽ hơn.
Với
câu hỏi 3: 15%
trả lời không biết vì chưa gặp những trường hợp như thế. 35% trả lời
đã gặp nhưng số lượng không nhiều nên không thể biết được tỷ lệ là
bao nhiêu. 50% còn lại thì không tin người đồng tính sẽ quay sang quan
hệ dị tính được vì họ đã từng gặp những người quyết tâm từ bỏ
tình dục đồng tính nhưng thời gian gian quay lại quan hệ đồng tính
cũng không lâu.
Chúng
ta thừa nhận, xã hội hiện đại tuy có thay đổi đôi chút khi nhìn nhận
về vấn đề đồng tính nhưng thái độ “kinh tởm” sự đồng tính có lẽ
sẽ bất biến theo thời gian. Người đồng tính vẫn cứ mãi là số đơn
lẻ “lạc loài” trong sự kỳ thị của số đông nhân loại. Xét về mặt
tích cực, sự “sợ hãi và kinh tởm” chuyện đồng tính có giá trị rất
lớn trong việc củng cố và bảo vệ tính nam của người đàn ông, góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
Ngoại
trừ những người đồng tính sống sa đọa, bất cần đời; ngoại trừ
những kẻ lợi dụng chuyện đồng tính làm băng hoại văn hóa truyền
thống và nền tảng đạo đức thì những người đồng tính đều cần nhận
được sự cảm thông từ gia đình, xã hội bằng thái độ khách quan, độ
lượng. Sự kỳ thị của xã hội với người đồng tính không giúp họ
“thay đổi” được khuynh hướng tính dục, trái lại càng làm cho họ bất
mãn, mặc cảm và nảy sinh tư tưởng “nổi loạn”, dẫn đến những hệ lụy
đau lòng.
Bất
luận người đồng tính là ai? Mức độ đồng tính như thế nào? Thì
người đồng tính đương nhiên phải chấp nhận: Chừng nào xã hội hiện
đại chưa thật sự nghiêm túc tiến hành nhân dạng người đàn ông thì
chừng đó, người đồng tính nam nói riêng, người đồng tính nói chung
còn bị coi là “quái vật”, “lập dị”, “cản trở” sự phát triển của
loài người. Đấy là thách thức lớn mà người đồng tính khó có thể
vượt qua.
Hỡi
chàng trai của thế kỷ XXI!
Nếu
chẳng may chàng là người đồng tính, xin đừng bi quan, chán nản. Hãy
tâm niệm nằm lòng: “Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc
đấu tranh không ngừng ở mọi lúc.”. Hãy quyết tâm sửa chữa những
“trục trặc” do tạo hóa gây ra để “ngạo nghễ” khẳng định tố chất đàn
ông đích thực của mình. Nếu mọi cố gắng vẫn vô vọng thì lúc bấy
giờ hãy nhìn thẳng vào sự thật con người mình mà điều chỉnh lối
sống sao cho phù hợp, tốt cho mình nhất.
Cuộc
sống chỉ tốt đẹp, hữu ích và đáng yêu hơn khi ta sống lành mạnh,
lạc quan và trân trọng giá trị của cuộc đời.
*.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 31/03/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét