Ninh Giang Thu Cúc: Quách Tấn- Dư ba diệu ảo trong thơ Đường Luật (SG)
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2019
Nói đến
Quách Tấn là nói đến trường thơ Bình Định ở tiền bán thế kỷ hai mươi, trong đó
nổi bật là nhóm “Bàn thành tứ hữu” với Quách Tấn (1910), Hàn Mặc Tử (1912), Yến
Lan (1918) và Chế Lan Viên (1920) do đồng thanh đồng khí họ tìm đến nhau bằng
tình bút mực; để Bình Định nói riêng và nền văn học cả nước – ở trong phần phụ
lục có tên của một nhóm bằng hữu làm thơ, ngoài tên riêng và bút hiệu họ còn có
biệt danh Long Lân Quy Phụng.
Tác giả: Ninh Giang Thu Cúc
Bút danh Ninh Giang Thu Cúc
Quê quán: Hương Trà, Tp. Huế
Hiện đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh
ĐT: 0907625226
Email: ngtc.huonglong@gmail.com
_____
NINH GIANG THU CÚC: DƯ BA DIỆU ẢO TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Qua bài thơ:
ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU
Quách Tấn (Mùa Cổ Điển)
***
Từ Ô y hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
QT
Bài viết Ninh Giang Thu Cúc
Nền
văn học Việt Nam thế kỷ XX và giới làm văn chương không một ai xa lạ với tên tuổi
nhà thơ Quách Tấn, đặc biệt là ở mảng thơ Đường luật.
Nói
đến Quách Tấn là nói đến trường thơ Bình Định ở tiền bán thế kỷ hai mươi, trong
đó nổi bật là nhóm “Bàn thành tứ hữu” với Quách Tấn (1910), Hàn Mặc Tử (1912),
Yến Lan (1918) và Chế Lan Viên (1920) do đồng thanh đồng khí họ tìm đến nhau bằng
tình bút mực; để Bình Định nói riêng và nền văn học cả nước – ở trong phần phụ
lục có tên của một nhóm bằng hữu làm thơ, ngoài tên riêng và bút hiệu họ còn có
biệt danh Long Lân Quy Phụng.
Trở
lại với mảng thơ Đường luật của Quách Tấn, trước hết – chúng ta trân trọng sự
kiên định trong khuynh hướng sáng tác của ông, trước xu thế cách tân rộn rã với
các cuộc bút chiến, tranh cãi nảy lửa, đăng đàn diễn thuyết hào hứng rộn ràng,
giữa hai phái thơ mới thơ cũ, mà khởi đầu là cụ Phan Khôi với bài thơ “Tình
Già” đăng ở báo Phụ Nữ tân văn ngày 10/3/1932. Bài thơ “Tình Già” và quan điểm
về thơ mới của cụ Phan được sự hưởng ứng nồng nhiệt của các nhà thơ nhà báo từ
Lưu Trọng Lư, Hồ Văn
Hảo, Nguyễn Thị Manh Manh…
Báo
Phong Hoá tập mới số một (1) cũng lên tiếng chống đối thơ Đường luật bằng luận
điệu gay gắt và họ kết luận: Thơ Việt phải đổi mới từ ý tưởng đến cú pháp và thể
loại…
Trước
bão giông sóng gió của hai luồng tư tưởng Cũ, Mới, trên thi văn đàn – Quách Tấn
giữ thái độ im lặng – không tham gia tham dự, không đả phá, không tôn vinh, phải
chăng đó là tinh thần bất bạo động của nhà Phật?!
Khi
mọi sự tranh cãi bằng nhiều phương cách, phương tiện đã lắng dịu, thì năm 1939
Quách Tấn điềm đạm ra mắt công chúng thi phẩm “Một Tấm Lòng”, và tiếp đến là
“Mùa Cổ Điển” năm 1941.
“Mùa
Cổ Điển” như một bản tuyên ngôn, như một lời khẳng định, như một biểu tỏ tấm
lòng yêu quý thuỷ chung rất mực với nền văn học cổ điển Đông Phương của tác giả
Quách Tấn.
Công
chúng yêu thơ đã đón nhận Mùa Cổ Điển với tất cả niềm ưu ái và sự trân trọng…
Năm
mươi chín bài thơ trong “Mùa Cổ Điển” được hình thành bằng thể Đường Luật thất
ngôn bát cú, theo kẻ hậu học (tác giả bài viết này) thì đó là những bài thơ tuyệt
vời về thi pháp về đối ngẫu, nếu ngày xưa thật xưa, ở bên Trung Hoa vào thời
trung Đường nhà thơ Giã Đảo đã tâm sự:
“Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu…”
Thì
ở Việt Nam cụ Quách có những bài thơ trong “Mùa Cổ Điển” tác giả đã phải thai
nghén ý tưởng đến thập nhị niên mới nên hình nên vóc, điển hình là bài “Đêm Thu
Nghe Quạ Kêu”. Với “Đêm thu nghe quạ kêu”, ngay câu phá thừa ông đã lồng điển
tích: “Từ Ô y hạng rủ rê sang…”, và ông đã từng giải thích: Ô y là ông muốn nhắc
đến một xóm đại gia ở bên Tàu, xóm đó có hai họ Vương và Tạ thường cho gia nhân
bận áo màu đen… người viết bài này đã thầm hỏi: Ô hay, đêm thu nghe quạ kêu sao
tác giả lại liên tưởng
chi đến xóm áo đen ở tận bên Tàu? Rắc rối! Thế
nhưng khi đọc câu kết trong lần viết thứ nhất của cụ chúng tôi mới vỡ lẽ:
“Tình lan man gợi tứ lan man”
Đúng
là lan man thật, ôi người thơ!
Đến cặp trạng người đọc (Ninh Giang Thu Cúc)
chạy theo tác giả bằng niềm cảm khoái tột cùng với hai cụm đối đầu câu:
“….Trời bến Phong Kiều…
Thu sông Xích Bích…”
Đối
ngẫu hoàn chỉnh, hai danh thắng, hai thi ảnh kiêu sa và đẹp như Nhị Kiều của
Ngô Tôn Sách và Chu Công Cẩn, cũng bằng tám từ đầu của cặp trạng trước mắt người
đọc là hình ảnh một khách thơ đang nhìn ngọn đèn chài để thấu suốt nỗi sầu vạn
cổ của bản thân và cõi đời cõi người giữa đêm đen thăm thẳm, lại nữa ta thấy
khói mù trời của cuộc thuỷ chiến, hoả công, lẫy lừng trên dòng sông lịch sử của
thời Nguỵ Ngô Thục tranh bá đồ vương, mà giờ đây kẻ thắng người thua đều đã ra
người thiên cổ!
Nhưng hai cụm từ sau:
…sương thấp thoáng
nguyệt mơ màng…
Người
đọc cứ mãi băn khoăn giữa sương và nguyệt, chắc tác giả muốn bảo đảm nhạc tính,
âm điệu chăng? Người đọc lẩn thẩn nghĩ: sao cụ không dùng chữ gió để đối với
sương như thế tính Việt ngữ sẽ nhất quán hơn là sương với nguyệt.
Cặp
luận với một tâm trạng khắc khoải vương buồn trong đêm khi từ xa nghe tiếng quạ
vọng về áo não:
“…Bồn chồn thương kẻ nương song bạc
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng…”
Cặp
luận vô cùng hay từ ý đến từ.Và cặp kết được khoá lại với một hoài tưởng đầy lãng
mạng trữ tình bằng 14 từ rất tài hoa ảo diệu:
“…Tiếng vọng lưng mây đồng vọng
mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang”
Nhà
thơ, nhà biên khảo Quách Tấn sinh ngày 23 tháng 11 năm Kỷ Dậu tức ngày 4 tháng
giêng năm 1910 tại làng Trường Định quận Bình Khê nay là huyện Vĩnh Thạnh tỉnh
Bình Định.
Những
năm thuộc tiền bán thế kỷ XX ông cộng tác với các báo:
-
An Nam tạp chí
-
Phụ nữ tân văn
-
Tiếng Dân
-
Tiểu thuyết thứ 7
-
Lành Mạnh
Ông
từng là giáo sư văn chương của các trường trung học ở miền Trung Việt Nam, từng
là công chức phòng du lịch Huế, và là công chức hành chánh ở Nha Trang, Bình Định.
Ông
nghỉ hưu và năm 1965 nghỉ dưỡng tại Nha Trang và qua đời vào ngày 21-12-1992 tại
số 12 đường Bến Chợ, Nha Trang.
Một
số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản.
1.
Một Tấm Lòng (thơ, 1939)
2.
Mùa Cổ Điển (thơ, 1941)
3.
Đọng Bóng Chiều (thơ, 1965)
4.
Mộng Ngân Sơn (thơ)
5.
Xứ Trầm Hương (biên khảo)
6. Nước Non Bình Định (biên khảo 1967)
Ninh Giang Thu Cúc (Ninh Xuân Thư Trang - Hóc Môn, TP.HCM)
--
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 11/11/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét