Trà thiền – Thơ Tuệ Thiền Lê Bá Bôn & Thiền ngôn sưu tầm
Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015
Hương trà thanh thoát
Dứt bặt tâm ngôn
Tuệ giác siêu việt
Thắm hoa cõi Thường
Thông
tin cá nhân: (VanDanVietNet)
Họ và tên: Lê Bá Bôn
Bút danh: Tuệ Thiền
Sinh ngày: 05/4/1951;
Tốt nghiệp đại học ngành Hành chính;
Nhà giáo hưu trí;
Nơi sinh: Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị;
Nơi ở: Ấp Bắc 1, Hoà Long, TX Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu;
Email: lebabon04@gmail.com
_____
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Bút danh: Tuệ Thiền
Sinh ngày: 05/4/1951;
Tốt nghiệp đại học ngành Hành chính;
Nhà giáo hưu trí;
Nơi sinh: Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị;
Nơi ở: Ấp Bắc 1, Hoà Long, TX Bà Rịa, Bà Rịa-Vũng Tàu;
Email: lebabon04@gmail.com
_____
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
TRÀ THIỀN
Hương trà thanh thoát
Dứt bặt tâm ngôn
Tuệ giác siêu việt
Thắm hoa cõi Thường
Trời đất bao la
Về trong một niệm
Quên người, quên ta
Vầng trăng tịch chiếu
Vị trà thoát tục
Dứt bặt tâm hành
“Chúng sinh tức Phật”
(*)
Pháp giới thanh xuân
Tâm Không - diệu dụng
Bất lập nhị nguyên
Duyên lành toả khắp
An vui cõi Thiền.
----
(*):
“Phàm phu tức Phật/
Phiền
não tức Bồ đề”- một thiền
thoại
cho trực giác tâm linh.
----
THIỀN NGÔN CỦA CÁC MINH SƯ
THIỀN NGÔN CỦA CÁC MINH SƯ
(Hỗ
trợ những tâm trí thật sự có khát vọng ngộ nhập Sự Sống Bất Sinh
Bất Diệt).
(Sưu
tầm. Xin tạm dùng từ “thiền ngôn”).
CHÙM 1:
*
Giác ngộ không phải là một công việc riêng tư chẳng can dự gì đến khối lớn cộng
đồng; điểm tựa của nó được đặt ngay trong lòng vũ trụ. (…) Cái được gọi là
“thiện căn” chỉ có giá chừng nào nó làm lợi ích cho tất cả thế gian. Nếu không
thể phụng sự cho toàn thể môi trường gồm những thân thuộc mà mình đứng trong đó
– nghĩa là, nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi
nhất thì “thiện đức”của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt, và chẳng có cái
lối chứa nhóm nào như vậy mà lại có thể làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức
Bồ-đề tâm). (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận
IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
*
(…) Đại thừa đứng vững trên hai chân, Trí tuệ và Từ bi, cái ý niệm siêu việt và
tình yêu trùm khắp đối với tất cả các loại chúng sinh, hữu tình cũng như vô
tình. Trí tuệ nhìn thấy vào cái nhất tính của các sự vật và từ bi thể hội cái
tự tính của chúng. Vị Bồ-tát khóc cùng với các chúng sinh đau khổ và đồng thời
hiểu rằng có một vị không bao giờ khóc, ở bên trên mọi đớn đau, sầu khổ và ô
nhiễm. (…) Và sự cân bằng này được nhìn thấy trong Pranidhàna hay bổn nguyện của
vị Bồ-tát. (Thiền sư D.T. Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T. Suzuki;
dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
*
Nền vật lí này bây giờ đã thấy rằng vũ trụ là một mạng lưới chằng chịt vật chất
và tâm linh liên quan mật thiết với nhau, mà mỗi phần tử chỉ được định nghĩa
trong mối tương quan với toàn thể. (Giáo sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của
Vật Lí; F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
*
Những điều kiện tất yếu cho việc làm trỗi dậy ước vọng giác ngộ (tức Bồ-đề
tâm) có thể được tóm tắt như vầy: 1. hành vi đạo đức, 2. thân cận chư Phật
(các bậc giác ngộ viên mãn), các thiện tri thức, và 3. tâm thanh tịnh,
chân thật và từ bi. Khi làm tròn ba điều kiện này, Bồ-đề tâm (Bodhicitta) được
coi là đã ngóc đầu dậy và sẵn sàng để tăng tiến.
(…)
(Theo kinh Hoa Nghiêm) “Bồ-đề tâm như đại dương vì chứa tất cả các hạt ngọc
công đức. Bồ-đề tâm như núi Tu-di (Sumeru) bình đẳng đứng cao trên tất cả mọi
vật. Bồ-đề tâm như núi Thiết-vi (Cakravada) vì bảo trì hết thảy thế gian. Bồ-đề
tâm như núi Tuyết (Himàlaya) vì sản xuất tất cả các cây thuốc trí tuệ. Bồ-đề
tâm như núi Hương (Gandhamàdana) vì xuất sinh tất cả các thứ hương công đức.
Bồ-đề tâm như hư không vì trải rộng vô biên phước đức”. (Thiền sư Daisetz
Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển hạ, luận IV; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ
Sỹ).
*
Người học kinh, xem giáo lí, mỗi câu mỗi câu đều phải uyển chuyển xoay về nơi
mình để làm sáng tỏ tánh giác. (Thiền sư Bá Trượng) - (Trung Hoa Chư Thiền Đức
Hành Trạng; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt
từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ
không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn
từ để đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư
tưởng. Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi
sự. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả:
Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
*
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta
biết và thấy năm uẩn. Thế giới loài người của chúng ta là sự hiện hữu của năm
uẩn, và trừ phi chúng ta biết và thấy được năm uẩn này, bằng không chúng ta
không thể hiểu rõ lời dạy của đức Phật. (…) Khi hành giả phát triển được định
tâm mạnh mẽ, hành giả sẽ thấy rằng đối tượng được phản chiếu trong ý môn như
trong một tấm gương. (Thiền sư Pa-auk Sayadaw, thiền sư theo truyền thống
Theravàda-Phật giáo Nam tông) – (Biết Và Thấy; P. Sayadaw; dịch giả: Pháp
Thông).
CHÙM 2:
*
Tất cả nhân loại không quý gì bằng sinh mệnh, sinh mệnh được coi trọng nhất
trên trần gian này. Bởi vì tất cả của cải sự nghiệp, danh vọng tài sắc… đều để
tô điểm cho sinh mệnh. Mất sinh mệnh, tất cả cái ấy trở thành vô nghĩa. Song
sinh mệnh con người thời nay, nếu kéo dài lắm chỉ trong vòng bảy tám mươi năm.
Cái đau khổ nhất của con người là khi nghe mình sắp mất sinh mệnh. (…) Thực là
mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được. Nếu có một phương pháp nào khiến
con người thoát được cái chết thì trên nhân gian này còn gì quý bằng! Ở đây
chúng tôi xin giới thiệu quý vị phương thuốc hi hữu duy nhất trên đời, nếu quý
vị uống nó vào thì “bất tử”, chính là tánh giác của quý vị đấy. Người giác ngộ
tánh giác là nhận ra được cái “bất tử”. Vì thế tánh giác này được Phật dụ là
hòn ngọc như ý. Được hòn ngọc này rồi, con người dứt sạch mọi đau khổ; mọi mong
cầu đều toại nguyện. (Thiền sư Thích Thanh Từ) – (Thiền Tông VN Cuối Thế Kỉ 20;
Thích Thanh Từ).
*
Lục Tổ nói lên câu đầu tiên liên quan đến sự chứng nghiệm của Tổ là “xưa nay
không một vật” và sau đó là “kiến tánh”, cái tự tánh vì là “không một vật” nên
là “Không”. Vì thế “thấy tánh” là “thấy Không” như Thần Hội nói. (Thiền sư
Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần
Bạch).
*
Chúng ta biết Niết Bàn là Visankhàra (vô hành), tức là “không có các hành”. Các
hành (sankhàra) là danh sắc và các nhân của chúng, còn Niết Bàn thì không có cả
hai. Tâm biết Niết Bàn được gọi là tâm không có các hành sinh, visankhàragara
citta (vô hành sinh tâm). Nhưng tự thân nó không phải là visankhàra (vô hành);
vì hành vi thấy Niết Bàn đòi hỏi phải có sự hình thành của tâm. (Thiền sư
Pa-auk Sayadaw, thiền sư theo truyền thống Theravàda-Phật giáo Nam tông)
– (Biết Và Thấy; P. Sayadaw; dịch giả: Pháp Thông).
*
Trước Big Bang thời gian chưa trôi: mỗi giây tương ứng với vĩnh cửu. Chúng ta
ước đoán thế vì vật lí lượng tử xuyên qua ảo ảnh thời gian, tách khỏi đồng hồ
nguyên tử để đi sâu hơn vào nhà máy Tự nhiên. Rung động dừng lại tại mức độ sâu
nhất. Đáy của vũ trụ giống như bộ não chết. Tuy nhiên biểu hiện của cái chết là
ảo giác, vì biên giới nơi mọi hoạt động chấm dứt đánh dấu sự bắt đầu một vùng
mới, gọi là thực tại ảo – nơi vật chất và năng lượng tồn tại dưới dạng tiềm
năng thuần tuý. Cơ sở của thực tại ảo rất phức tạp nhưng nói một cách đơn giản
nhất, vùng phi vật chất phải tồn tại để sinh ra vũ trụ vật chất. Vùng này trống
rỗng nhưng không hề hư vô. (…) Sáng tạo nhảy vọt từ trống rỗng lên đầy tràn,
cũng như vĩnh cửu nhảy vọt từ phi thời gian sang đầy tràn thời gian.
Nếu
vĩnh hằng đang cùng với ta bây giờ, làm cơ sở cho toàn bộ tồn tại vật chất, nó
phải làm cơ sở cho tôi và bạn. (Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái
Chết; Deepak Chopra; dịch giả: Trần Quang Hưng).
* Trong
Truyền Đăng có chép rằng: “Thượng thư Ôn Tháo hỏi ngài Khuê Phong: Người ngộ
lí, một phen tuổi thọ hết, gá nương chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sinh
đều có đầy đủ linh minh tánh giác, cùng với chư Phật không khác. Nếu hay ngộ
tánh này tức là pháp thân, vốn tự vô sinh có gì nương gá? Cái linh minh chẳng
muội, rõ ràng thường biết, không chỗ đến cũng không chỗ đi. Chỉ lấy không -
tịch làm tự thể, chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng
niệm. Vọng niệm nếu dấy lên đều không theo nó, đến lúc mạng chung, khi ấy
nghiệp tự nhiên không thể cột. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự do. Cõi người
cõi trời tuỳ ý gửi nương. Đây tức là chơn tâm trước và chỗ đến của thân sau
vậy”. (Thiền sư Phổ Chiếu) – (Chơn Tâm Trực Thuyết; Phổ Chiếu; dịch giả: Thích
Đắc Pháp).
*
Vì nhục thể rữa nát khi chết, linh hồn rời đi nhập vào giới siêu hình tương ứng
với sự tồn tại của nó ở bình diện vật chất, vào tần số tương ứng với cuộc sống
cũ của nó nhất. (…) Quá trình biến đổi sau cái chết không phải là sự di chuyển
đến một nơi chốn khác hay thời gian khác; nó chỉ là sự thay đổi về chất sự chú
tâm của chúng ta. Bạn chỉ có thể nhìn thấy những gì có rung động tương ứng với
bạn. (Tiến sĩ y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch
giả: Trần Quang Hưng).
CHÙM 3:
*
Bảo rằng “Duy tâm” là do bởi tâm, cũng là được sinh ra từ tâm; khi thông hiểu
được các tướng trạng đặc thù trong tất cả những biến đổi có thể có được thì
chúng không gì khác hơn là chính cái Tâm. (Phần Tổng kệ của kinh Lăng Già) –
(Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn
Mẫn). (Tác phẩm này được thầy Trần Tuấn Mẫn (dịch giả) sửa bản in. Đây là một
việc làm vô cùng quan trọng đối với những kinh sách có giá trị cho sự tu học và
ấn chứng. Ngày nay có nhiều tác phẩm Phật học bị sai lệch nội dung nghiêm trọng
sau khi in ấn! Mong sao điều này được quý vị tác giả và dịch giả quan tâm. –TT
LBB).
*
Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong Tự nhiên, bởi vì khe hở tồn tại
giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống
chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện. (…)
Chúng ta cần nhớnguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy thoái khi
chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. (Tiến sĩ
y học Deepak Chopra) - (Sự Sống Sau Cái Chết; D. Chopra; dịch giả: Trần Quang
Hưng).
*
Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã được tạo ra bằng cách
hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những phân
tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những cơ thể sống, không vững vàng,
xét cả trên quan niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học hiện đại.
(Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai
Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
*
Sự ô nhiễm tâm linh không phát xuất từ đâu khác cả mà chính là ở trong mạt-na
(ý), căn gốc của tri thức và của ý chí. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Nghiên Cứu
Kinh Lăng Già; D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
*
Giác ngộ phải gồm cả ý chí lẫn tri thức. Đó là một hành vi trực giác phát sinh
từ ý chí. Ý chí muốn tự biết nó là gì, y như thực, ngoài tất cả các điều kiện
chi phối sự hiểu biết. (…) Khi nói đến chứng đạo hoặc giác ngộ, tự nhiên ta dễ
liên tưởng đến khía cạnh nhận thức và quên mất động lực phi thường của ý chí
tác động ở bên sau, mà cũng chính là động lực cấu tạo nên cốt cách của một cá
nhân. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận III;
D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc Thiên).
*
Giác là vậy, một trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết phân biệt - vọng
tưởng hoặc biến kế chấp. Để thể nghiệm trạng thái kiến chiếu muôn vật “trong
một niệm” ấy phải có một khí lực dũng mãnh. (…) Và vì lẽ có “nhất niệm” mới có
giác nên cần nỗ lực vượt qua cái thế đối đãi ấy của ý thức kinh nghiệm chấp
dính vào cái nhiều thay vì cái một của sự vật. (Thiền sư Daisetz Teitaro
Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận III; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc
Thiên).
*
Xin đừng hỏi: “Làm cách nào để thấy?” Ngay lúc ngài hỏi làm thế nào, có người
sẽ sẵn sàng giúp ngài, rồi ngài trở thành nô lệ của người đó. Nhưng nếu ngài tự
thấy rằng suy nghĩ và thời gian (tâm lí) thực sự là gốc rễ của sợ hãi, không
cần phải đắn đo hay quyết đoán ngài cũng vẫn hành động. Ví như gặp con bọ cạp
nguy hiểm, con rắn độc – khi nhìn thấy chúng ngài sẽ hành động tức thì. (…) Vậy
thì mỗi người chúng ta có thể cảm thấy được trách nhiệm mà chúng ta đã tạo ra
cái xã hội chúng ta đang sống không? Cái xã hội quái gở, vô đạo đức ngoài tưởng
tượng! (…) Vậy có cần nên hết sức tỉnh thức, nhận biết được mỗi suy nghĩ? Chúng
ta có thể là vậy không? (…) Tư tưởng, suy nghĩ có thể nào mang lại trật tự
không, trong khi chính cái tư tưởng bị giới hạn này là nguồn gốc của hỗn loạn?
(…) Có thể nào trí não chỉ dùng đến suy nghĩ khi cần thôi? Những lúc cần sống
với suy nghĩ là khi lái xe, khi ăn, khi viết thư, khi làm điều này điều nọ
trong thực tế. Mọi thứ này là hoạt động của cái suy nghĩ giới hạn – nghĩa làkhi
cần thì suy nghĩ có thể hoạt động. Nhưng ngoài những chuyện đó ra, sao nó lại
ba hoa suốt cả ngày vậy? (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Lời Cuối Bình Yên; J.
Krishnamurti; biên dịch: Mộc Nhiên).
CHÙM 4:
*
Những cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong thiên nhiên thực ra liên hệ
rất chặt chẽ với cấu trúc của tâm ý họ; với khái niệm, tư tưởng và hệ giá trị
của họ. Do đó, kết quả khoa học mà họ thu được và sự ứng dụng kĩ thuật mà họ
tìm hiểu sẽ rất tuỳ thuộc vào khuôn khổ tâm thức của họ. (…) Thế nên, nhà khoa
học phải chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình, không những chỉ về
tri thức, mà cả về mặt đạo lí. (Giáo sư vật lí Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật
Lí; F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
*
Pháp môn vô niệm thuộc về hàng thánh nhân, nhưng nếu phàm phu tự tu tập theo
đó, họ không còn là phàm phu nữa. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy tức thì tăng
trưởng phước đức nhiều như cát sông Hằng. (…) Ai quán vô niệm, kẻ ấy ôm trọn
vạn vật trong lòng mình. (…) “Vô” có nghĩa là vô nhị tướng, “niệm” là niệm Chân
như. (Thiền sư Thần Hội) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch
giả:Thuần Bạch).
*
Tột trước cùng sau trở về niệm hiện tiền. (Kinh Lăng Già Tâm Ấn; dịch giả:
Thích Thanh Từ).
*
Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc tìm hiểu
cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta thực sự ảnh hưởng đến lực từ
trường bên trong và xung quanh chúng ta. (Tiến sĩ sinh học Karen Nesbitt
Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt).
*
Các nghiên cứu tại trường Đại học Stanford đã chỉ ra rằng thông qua suy nghĩ, chúng
ta có thể gây ảnh hưởng tới huyết áp và nhịp tim của một người ở cách xa chúng
ta. Còn các nhà khoa học tại trường Đại học Princeton đã chứng minh được quá
trình trao đổi thông tin giữa hai người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm. (Tiến sĩ
sinh học Karen Nesbitt Shanor) – (Trí Tuệ Nổi Trội; K.N.Shanor; dịch giả: Vũ
Thị Hồng Việt).
*
Khái niệm quan trọng nhất trong hệ thống các thức là Tập khí. Tập khí là gì? Về
mặt tâm lí, như đã được nêu trước đây, tập khí là kí ức, vì đấy là cái gì để
lại sau khi một hành động được thực hiện, thuộc tâm lí hay vật lí, và được nó
giữ lại, được chứa đựng trong A-lại-da như một thứ năng lực tiềm tàng sẵn sàng
được trở thành hành động. Cái kí ức hay tập khí này, hay sự quen xông ướp,
không nhất thiết thuộc cá biệt, không những chỉ giữ trong nó cái kí ức cá biệt
mà còn giữ tất cả những gì mà các chúng sinh hữu tình đã kinh nghiệm. Khi kinh
bảo rằng A-lại-da có tất cả những gì đã diễn tiến từ thời vô thỉ được chất chứa
một cách hệ thống như một loại hạt giống, thì điều này không trỏ vào những kinh
nghiệm đặc thù cá nhân mà trỏ vào những gì tổng quát, vượt khỏi cái đặc thù,
theo một cách nào đó, tạo thành cái nền mà dựa vào đó mọi hoạt động tâm lí cá
nhân được phản ánh. Do đó, A-lại-da vốn là thanh tịnh, nó là trú xứ của Như Lai
tính, ở đó không có sự ô nhiễm của cái tri thức và tình cảm đặc thù hoá nào có
thể đến được; sự thanh tịnh, về mặt luận lí, có nghĩa là tính phổ quát, và các
ô nhiễm (lậu hoặc) hay tội lỗi có nghĩa là sự cá biệt, từ đó những chấp trước
và các hình thức khác nhau được phát sinh.
Tóm
lại, thế giới khởi sự từ tập khí và chính tập khí vì vẫn có tính chất phổ quát
trong A-lại-da nên không có gì xấu, và khi chúng ta được gỡ khỏi cái ảnh hưởng
của sự phân biệt sai lầm thì toàn bộ hệ thống thức được đặt thành chung quanh
A-lại-da, lấy lại A-lại-da làm trung tâm, sẽ kinh nghiệm một sự đột biến
(paràvritti) mà thành sự nhận thức thực sự. Đây là điểm chủ chốt trong giáo lí
của Lăng-già.
Sự
đột biến này đánh dấu cái đỉnh điểm của tâm lí học thực hành của Lăng-già, vì
chính nhờ sự kiện này mà có thể có được sự thể hội về tự chứng Thánh trí cảnh
giới, và sự thể hội này là chủ đề trung tâm của bộ kinh. (…). (Thiền sư D.T.
Suzuki) – (Nghiên Cứu Kinh Lăng Già; D.T. Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện,
Trần Tuấn Mẫn).
*
Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng không. Nhà vật lí thiên tài
Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương trình (A. Anh-xtanh đã không
lập được) mô tả vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng
cho như vậy. (…).
Tuyệt
Đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là Khoảng Không có Cái gì đó. Trước mắt,
khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Si-pốp, nguyên tử và phản nguyên tử phát
sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt nhau. Nhưng có một
lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một thời điểm các nguyên tử và phản nguyên tử
sau khi tạo thành trong không gian, đã tản đi. Vật chất phát sinh từ Tuyệt đối
là như vậy.
Các
trường xoắn và phản xoắn (xoắn theo cách khác) siêu tần số cùng phát sinh từ
Tuyệt đối, chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau và hỗ trợ Tuyệt đối. Nhưng cũng có thể
xuất hiện thời điểm, khi các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi. Thế giới tế vi
phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Theo
giả thuyết của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới tế vi và ý thức có
mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa đu-sa và đu-khơ.
(…)
Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là khối
năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu
trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng
những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi
kia (…).
(…)
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là các “vết tích” của các
tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có
thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…). (Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y
học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả:
Hoàng Giang).
CHÙM 5:
*
Tùng Duyệt, toạ chủ chùa Đâu Suất, thường đặt ra ba câu hỏi sau đây để khảo
nghiệm sở kiến của môn nhân đối với đạo lí của Thiền. 1) Ông bái phỏng từ chỗ
này sang chỗ khác, chỉ cốt là để thấy tánh; vậy, ngay lúc này, tánh của ông ở
đâu? 2) Biết được tự tánh mới có thể thoát khỏi sinh tử; nhưng khi ông chết rồi
làm sao thoát? 3) Thoát khỏi sinh tử là biết chỗ đến của mình; vậy khi tứ đại
tan rã, chúng ta đi về đâu?
“Tôi
là gỉ?” “Tôi ở đâu?” “Tôi từ đâu đến?” “Tôi đi về đâu?” Tất cả chỉ là một vấn
đề, được hỏi khác nhau. Hiểu được một sẽ giải quyết tất cả còn lại. “Tôi là
gỉ?” là một nghi vấn dò vào tự tánh của thực tại, căn cơ của mọi sự vật chủ
quan và khách quan. (…)
Trên
phương diện tâm lí, trả lời cho cái “ở đâu?”, cho thấy thái độ tâm lí căn bản
của ta đối với thế giới khách quan một cách tổng quát, và ở Thiền câu hỏi này
thường khoác dưới hình thức “ở đâu đến?”, nhờ đó thiền sư mong thấy tăng chúng
tìm ra nơi trú ẩn tâm linh của họ nằm ở đâu. Toàn bộ sự đào luyện của Thiền
tông, có thể nói, cốt ở sự đặt để này, cũng gọi là tìm tòi hay đào xới. (…) “Từ
đâu?” và “Đến đâu?”, những ai có thể trả lời đích đáng, những vị ấy quả là đã
tỏ ngộ.
(…)
Đạo Phật, là một lối luyện tập tâm linh thực tiễn, dù có những lời nhằm phô
diễn thẳng về kinh nghiệm, không cho phép có sự can thiệp của lối giải thích
trí năng hay siêu hình nào ở đây. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền
Luận - quyển hạ, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
*
Tất cả tâm ý thức đều từng phần, cục bộ, tù hãm, trong khi chú tâm toàn vẹn là
bao trùm ý thức với những giới hạn của nó; do đó chú tâm có khả năng xoá bỏ
biên cương và giới hạn. (…) Thấy biết cái giả như giả là chú tâm, nhưng cái giả
sẽ không được thấy là giả khi còn có ý kiến, phán đoán, lượng giá, trói buộc…
Mọi thứ này là hậu quả của sự không chú tâm. Chú tâm toàn vẹn là quán chiếu vào
mọi cơ cấu của sự không chú tâm. Tâm có chú tâm là tâm rỗng rang. (…) Chỉ có
chú tâm tỉnh giác với một trung tâm chú tâm, nơi đó cội gốc của tư tưởng biến
mất, không bạo lực, thật tự nhiên, thật dễ dàng. (Thiền sư J. Krishnamurti) – (Bút
Hoa; J. Krishnamurti; dịch giả: Ẩn Hạc).
*
Chỗ không có niệm tưởng dấy khởi, rỗng thênh và vô sở trụ, đó là Định. Khi
không niệm tưởng, rỗng thênh và vô sở trụ được nhận biết thì đó là Tuệ. Ở đâu
việc (vi diệu) này xuất hiện thì ta bảo rằng Định này tự thể hiện và chính là
Thể của Bát-nhã, không khác với Tuệ mà chính là Tuệ; lại nữa Tuệ này, tự thể
hiện và chính là dụng của Định, không khác với Định mà chính là Định. (…) Ta
nói về Định, nhưng đối với Thể của nó thì không có gì phải sở đắc. Khi thấy được
cái Thể bất khả đắc này, luôn luôn tịch lặng tròn đầy bất biến, nhưng vẫn diệu
dụng bất tư nghì, thì đó là Tuệ. Chỗ này Định Tuệ đồng đẳng. (Thiền sư Thần
Hội) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; Thuần Bạch biên dịch).
*
Ánh sáng chiếu soi đó là Tuệ, chẳng phải động và bất biến là Định. Bồ-tát dùng
pháp Định Tuệ đồng thể đó được Vô thượng giác. Cho nên nói “Định Tuệ đồng thể
tức là giải thoát”. Nói tự tại khỏi nhiễm ô có nghĩa là không còn phàm tình chứ
không phải hết thánh tình. (Thiền sư Huệ Hải) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh);
D.T.Suzuki; Thuần Bạch biên dịch).
*
Ngộ là một hình thái của tri giác, một thứ tri giác nội tại, phát hiện trong
phần sâu thẳm nhất của ý thức. Đó là ý nghĩa của đặc tính tự tri; tức là sự
thực tối hậu. Cho nên người ta thường bảo rằng Thiền giống như uống nước, nóng
hay lạnh tự người uống biết lấy. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền
Luận - quyển trung, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
* Đừng nghĩ đến thiện, đừng nghĩ đến ác, mà
ngay bây giờ hãy nhìn xem bản lai diện mục của ngươi, trước khi nhà ngươi sinh
ra là gì? (Lục tổ Huệ Năng) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; Thuần
Bạch biên dịch).
CHÙM 6:
*
Tự tri là thấy mình, nhìn thấy tâm trí mình từ giây phút này đến giây phút khác
trong lăng kính của tương giao tương hệ của mình đối với tài sản, đối với những
sự việc, đối với con người, đối với những ý tưởng… (…) Đây là việc chính yếu:
khi mà tôi chưa hiểu được mình, tôi không thể có được căn bản để suy tư, và tất
cả sự tìm kiếm của tôi chỉ là vô vọng hão huyền. (…) Chính sự kiện ý thức trực
tiếp về hiện thể (cái đang là) là chân lí rồi. (…) Đừng phân tích tâm thức để
tâm trí tĩnh lặng. (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự Do Đầu Tiên Và Cuối
Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công Thiện).
*
(Tôi chỉ là người đang học tập, nhưng để nêu cái mẫu số chung về giá
trị nhân sinh của đạo và đời, nên xin được góp vào đây vài lời).
“Tự
tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc
sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng
hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là minh sư vĩ
đại nhất của chính mình. (Đường Về Minh Triết-có bổ sung; TT LBB; Doko.vn).
*
Từ trước cho đến thời Lục Tổ, khái niệm về Phật tánh hiện hữu nơi tất cả chúng
sinh, tự thể hoàn toàn thanh tịnh và bất nhiễm, rất thịnh hành. Bổn phận sự của
người tu là làm hiển lộ Tự tánh, tức Phật tánh nơi mình, vốn xưa nay thanh
tịnh. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki;
dịch giả:Thuần Bạch).
*
“Nguyên” (“nguồn”) là chơn tánh bản giác của tất cả chúng sinh, cũng gọi là
Phật tánh, cũng gọi là tâm địa. Ngộ đó gọi là huệ, tu đó gọi là định; định huệ
chung gọi là thiền-na. Tánh này là cội nguồn của thiền cho nên gọi là thiền
nguyên (nguồn thiền), cũng gọi là “lí hạnh thiền-na”.
(…)
Chơn tánh này không riêng nguồn của thiền môn, cũng là nguồn của muôn pháp, cho
nên gọi là pháp tánh; cũng là nguồn mê ngộ của chúng sinh, cho nên gọi là Như
Lai tàng, tàng thức; cũng là nguồn muôn đức của chư Phật, nên gọi là Phật tánh;
cũng là nguồn muôn hạnh của Bồ-tát, nên gọi là tâm địa. (Thiền sư Tông Mật) –
(Nguồn Thiền; Tông Mật; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Lục Tổ đã giảng rõ cho chúng ta hiểu về Tánh theo cái nhìn của ngài. Tánh là sinh
lực ngự trị toàn thể sinh mệnh chúng ta, là nguyên lí của sự sống vật chất lẫn
tinh thần. Không chỉ có thân mà cả tâm, trong ý nghĩa cao tột nhất, đang sống
vì sự có mặt của Tánh. (…).
Tự
tánh nói một cách khác là tự tri, không phải chỉ là hiện hữu suông mà còn biết.
Chúng ta có thể nói như thế vì tự tri tức đang là, tri tức hữu và hữu tức tri.
Đây là ý nghĩa câu nói của Lục Tổ: “Nơi bản tánh riêng có trí Bát-nhã và vì thế
có tự tri (tự dụng trí huệ). Bản tánh thường quán chiếu và không dùng ngôn ngữ để
diễn tả được”. (Thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả:Thuần Bạch).
*
Chỉ có một câu mà thiền gia nên ra sức công phu và tìm thấy giải đáp chung
quyết là: “Bản lai diện mục của ta là gì?”(Thiền sư Đại Ứng). “Khi các ngài
được dạy cho đặt nghi tình vào cái nghĩa của niệm Phật, hãy cứ tự nhiên mà chú
tâm ngay trên chỗ “ai” niệm Phật”. (Thiền sư Bản Thiện) - (Thiền Luận - quyển
trung, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ Sỹ).
CHÙM 7:
*
Nếu giác ngộ đã làm cho toàn thể vũ trụ rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh
chép, thì vô minh khi chưa bị hàng phục ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dầu rằng vì
bản chất và hiệu lực, thần lực ấy diễn ngược lại hẳn với giác ngộ. (Thiền sư
Daisetz Teitaro Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận III; D.T.Suzuki;
dịch giả: Trúc Thiên). (Nếu nghi ngờ điều này và cần biết quan điểm của một số
nhà khoa học đương đại, có thể đọc phần viết thêm về Thiền ở: Đường Về Minh
Triết – phần bổ sung; mục Sách văn học PDF, Hoavouu.com).
*
Nếu ngài thấy rằng ý thức của mình được chia sẻ bởi tất cả con người khác sống
trên trái đất này, lúc đó toàn bộ cách sống của ngài sẽ đổi khác. (…) Muốn
chuyển hoá thế giới, chuyển hoá sự khốn khổ, chiến tranh, nạn thất nghiệp, nạn
đói, sự phân chia giai cấp và tất cả sự hỗn loạn khắp nơi thì chúng ta phải
chuyển hoá chính bản thân mình. (Thiền sư Jiddu Krishnamurti) – (Tự Do Đầu Tiên
Và Cuối Cùng; J.Krishnamurti; dịch giả: Phạm Công Thiện).
*
Nhìn vào bên trong, chúng ta biết có cái tâm chân thật ở trong. Tâm này thấy sự
rong ruổi của ý thức, thấy được vọng niệm khi dấy khi lặng. Nếu không có tâm
ấy, chúng ta làm sao biết được khi có vọng khi không vọng, lúc có ý thức lúc
không ý thức. Cái biết được vọng, quyết định cái đó không phải vọng. Vọng thì
khi sinh khi diệt, cái thấy rõ sự sinh diệt của vọng quả là không phải sinh
diệt. Vọng dấy lên do vin theo bóng dáng trần cảnh nên có tướng mạo, thuộc về
nhân duyên. Cái biết vọng, chưa từng dấy lên, chưa từng theo trần cảnh, nên
không liên hệ đến nhân duyên. (…) Nhận ra cái đó là thấy tâm chân thật ở trong.
(Thiền sư Thích Thanh Từ) – (Thiền Tông VN Cuối Thế Kỉ 20; Thích Thanh Từ).
*
Nếu được bạn lành vạch bày liền đốn ngộ cái “biết” không - lặng. Cái “biết”
không có niệm, không hình tướng thì đâu có gì là ngã tướng nhân tướng. (Thiền
sư Tông Mật) ) – (Nguồn Thiền; Tông Mật; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Mục tiêu của việc tu thiền là nhận ra tự tánh (tức Phật tánh) và giải thoát
khỏi mê lầm phiền não. Làm thế nào để nhận ra được? Có thể được, vì tự tánh là
tự tri. (…) Bảo rằng quá trình giác ngộ là đốn nghĩa là có một cú nhảy vọt (…).
Cú nhảy vọt về mặt luận lí là tiến trình lí luận thông thường khựng lại một
cách đột ngột (…). Tiến trình này gián đoạn đột ngột, và đồng thời bất khả tư
nghì; đó là kiến tánh. (…) Vì là vô tâm vô niệm nên cái thấy mới thực là thấy.
(…) Lí vô ngã không đúc kết từ suy luận duy lí mà là một sự kiện thực tế. (…)
Các lí luận gia cần nhớ rằng tôn giáo là sự kiện thực nghiệm (…). (Thiền sư
Daisetz Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả:
Thuần Bạch).
CHÙM 8:
CHÙM 8:
*
Ngài Pháp Hải bạch rằng: “Hoà Thượng để lại giáo pháp gì khiến cho những người
mê đời sau được thấy Phật tánh?” Tổ bảo: “Các ông lắng nghe, những người mê đời
sau nếu biết chúng sinh tức là Phật tánh, nếu chẳng biết chúng sinh muôn kiếp
tìm Phật cũng khó gặp. Nay tôi dạy các ông: biết tự tâm chúng sinh, thấy tự tâm
Phật tánh. Muốn cầu thấy Phật, chỉ biết chúng sinh; chỉ vì chúng sinh mê Phật,
chẳng phải Phật mê chúng sinh. Tự tánh nếu ngộ chúng sinh là Phật, tự tánh nếu mê
Phật là chúng sinh; tự tánh bình đẳng chúng sinh là Phật, tự tánh tà hiểm Phật
là chúng sinh. (…)”. (Pháp Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Toàn bộ giáo lí Phật giáo, hay cả toàn thể đạo học Đông phương, nói về tri kiến
tuyệt đối, tri kiến chỉ đạt được trong thế giới vô niệm, trong đó sự thống nhất
toàn thể mọi nhị nguyên đối lập là sự chứng thực sinh động. (Giáo sư vật lí
Fritjof Capra) – (Đạo Của Vật Lí; F. Capra; dịch giả: Nguyễn Tường Bách).
*
Bản ngã - một ảo tưởng - là kết quả của bộ não bị quy định, bị chương trình
hoá.(Giáo sư tiến sĩ vật lí David Bohm).
*
(Thầy Đa-ram nói) Năng lượng linh hồn là năng lượng ở ngoài electron và ngoài
proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ vô cùng, nó có khả năng tác động lên lực hấp
dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và
tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có
thể thu hút các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên thiên nhiên. Bởi
vậy, cùng với xung đột và chiến tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi
thiên thạch… (Nhà bác học-giáo sư tiến sĩ y học E-rơ-nơ Mun-đa-sep) – (Chúng Ta
Thoát Thai Từ Đâu; E. Mun-đa-sep; dịch giả: Hoàng Giang).
*
Gọi là Thượng Đế hay chân lí đều như nhau; chân lí là giải thoát tâm trí khỏi
mọi gánh nặng của trí nhớ (tâm lí). (Thiền sư J. Krishnamurti).
*
Nhược ngộ tịch vi lạc / Thử sinh nhàn hữu dư. (Nếu ngộ tịch là lạc / Đời này
nhàn có dư). (Thiền thi sĩ Vương Duy).
CHÙM 9:
* Này thiện tri thức, nếu trong các ông hàng
hữu học, mỗi lần niệm khởi trong tâm, hãy hồi quang phản chiếu (tận nguồn tâm).
Khi niệm diệt trong tâm, sự phản quán tâm cũng tự diệt, đó là vô niệm. Vô niệm
hoàn toàn thoát ngoài các duyên ngoại cảnh, bởi vì nếu còn có cảnh duyên nào
thì không thể là vô niệm được. (…) Nếu khởi chánh chân Bát-nhã quán chiếu thì
trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt. Nếu biết tự tánh, một phen ngộ tức
đến quả vị Phật. (…). Nếu để cho tâm chẳng nghĩ gì hết, đó là diệt niệm, tức bị
pháp trói buộc, gọi là thấy một bên. (Lục tổ Huệ Năng) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn
Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần Bạch).
*
Theo Lục Tổ, Bát-nhã là tên đặt cho Tự tánh hoặc Vô niệm, khi Tự tánh tự nhận
biết mình, hoặc đúng hơn là hành vi tự nhận biết chính mình. (Thiền sư Daisetz
Teitaro Suzuki) - (Vô Niệm (Pháp Bảo Đàn Kinh); D.T.Suzuki; dịch giả: Thuần
Bạch).
*
Thoại (lời nói) từ tâm khởi, tâm là đầu (ở trước) của thoại. Niệm từ tâm khởi,
tâm là đầu của niệm. Vạn duyên đều từ tâm khởi, tâm là đầu của vạn duyên. Sự
thật, “thoại đầu” tức là “niệm đầu”; trước niệm chính là tâm. Nói thẳng, trước
khi một niệm chưa sinh là thoại đầu. Do đây, chúng ta biết khán thoại đầu tức
là quán tâm. Khán “trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt thật xưa nay là gì?” là quán
tâm. (Thiền sư Hư Vân) – (Thiền Đốn Ngộ; dịch giả: Thích Thanh Từ).
*
Người trí xem năm uẩn là những cấu trúc của tưởng. (…) Ba cõi không gì khác hơn
là sự phân biệt. (…) Khi một sự chuyển hoá (chuyển y) xảy ra thì có một trạng
thái vô tưởng vốn là cảnh giới của người trí. (…) Khi người ta nhận biết rằng
không có gì ngoài những thứ được thấy từ chính cái Tâm thì sự phân biệt về hữu
và phi hữu đứt đoạn.(Kinh Lăng Già; bản tiếng Anh của D.T.Suzuki; dịch giả:
Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
*
Tà đến phiền não sanh / Chánh đến phiền não dứt;
Tà
chánh đều không dùng / Thanh tịnh mới hoàn toàn.
(Pháp
Bảo Đàn Kinh; dịch giả: Thích Thanh Từ).
CHÙM
10:
*
Mười phương thế giới thu vào một điểm hiện tiền; quá khứ, hiện tại, vị lai tụ
trong một niệm đương thời. Dù ở giữa hàng chư thiên cũng không có niềm vui nào
so được với đây; ở loài người lại càng hiếm lắm. Sự tiến bộ như thế trong đời
sống tâm linh có thể thâu đạt được chỉ trong vài bữa, nếu hành giả dốc lòng tu
tập. (Thiền sư Bạch Ẩn) - (Thiền Luận - quyển trung; D.T.Suzuki; dịch giả: Tuệ
Sỹ).
*
Tối kị nhằm trong ngôn cú tạo kế sống. Vì sao? Vì bánh in đâu có nước. Người ta
phần nhiều rơi vào ý thức. Cần phải nhắm về trước khi ngữ cú chưa sinh để hội
lấy, mới được đại dụng hiện tiền tự nhiên thấy được. (Bích Nham Lục; dịch giả:
Thích Thanh Từ).
*
Không (trong Bát-nhã) là thành quả của trực giác tâm linh, chứ không phải là
hậu quả của suy luận. (Thiền sư D.T.Suzuki) – (Thiền & Bát-Nhã; D.T.Suzuki;
dịch giả: Tuệ Sỹ).
*
Được gia trợ bởi năng lực của chư Phật, chư Bồ-tát Ma-ha-tát đang ở cấp độ thứ
nhất của mình (sơ địa) sẽ đạt đến Bồ-tát Tam-ma-địa gọi là Ánh sáng đại thừa
(phát quang địa), thuộc về chư Bồ-tát Ma-ha-tát. (Kinh Lăng Già; bản tiếng Anh
của D.T.Suzuki; dịch giả: Thích Chơn Thiện, Trần Tuấn Mẫn).
*
Thiền, cốt yếu nhất là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh của chúng ta; nó chỉ
con đường từ triền phược đến giải thoát. (…) Bấy giờ, ta nhận ra ý nghĩa cuộc
sống, ta biết rằng đó không phải là một nỗ lực mù quáng, mà cũng không phải là
trường thao diễn những bạo lực vô tri; nhưng dầu không thấu hiểu được những ý
nghĩa tối hậu của kiếp người, vẫn có cái gì đó khiến ta vui không cùng để mà
sống, và qua mọi cuộc thăng trầm ta vẫn thảnh thơi mà an thân lập mệnh, không
thắc mắc, không hoài nghi, không bi quan yếm thế. (Thiền sư Daisetz Teitaro
Suzuki) - (Thiền Luận - quyển thượng, luận I; D.T.Suzuki; dịch giả: Trúc
Thiên).
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
lebabon04@gmail.com
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Vũng Tàu ngày 15.02.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét