Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Chùm thơ thu và nỗi lòng của Tam Nguyên Yên Đổ - Bài viết Bùi Ngọc Minh
Chùm thơ thu và nỗi lòng của Tam Nguyên Yên Đổ - Bài viết Bùi Ngọc Minh
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
1.Cho
đến nay, ta không biết đích xác thời điểm cụ thể ra đời ba bài thơ thu nức
tiếng của Nguyễn Khuyến, nhưng căn cứ vào tâm sự mà ông kí thác trong đó, có
thể ước đoán chúng được viết khi Nguyễn Khuyến đã hưu quan về ẩn tại quê nhà
với lí do mắt bị lòa. Đây là cách ứng xử lánh đục về trong đã thành truyền
thống của nho gia. Các nhà nghiên cứu lâu nay đã khai thác rất kĩ cái thần tình
của cảnh làng quê Bắc bộ vào thu, tôn vinh ông là nhà thơ của làng cảnh Việt
Nam. Điều ấy thật đáng trân trọng. nhưng nỗi lòng của cụ Tam Nguyên xem ra vẫn
còn phải bàn tiếp. Bài viết này sẽ khai thác ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Bùi Ngọc Minh
Họ
tên thật Bùi Ngọc Minh
Địa
chỉ liên lạc: số nhà 49, đường 1, phố 3 (Phạm Hồng Thái)
phường
Vân Giang TP.Ninh Bình.
ĐT:
0914928390
Email: buingocminhnb@gmail.com
_____
CHÙM THƠ THU VÀ NỖI LÒNG CỦA TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ
1.Cho đến nay, ta không
biết đích xác thời điểm cụ thể ra đời ba bài thơ thu nức tiếng của Nguyễn
Khuyến, nhưng căn cứ vào tâm sự mà ông kí thác trong đó, có thể ước đoán chúng
được viết khi Nguyễn Khuyến đã hưu quan về ẩn tại quê nhà với lí do mắt bị lòa.
Đây là cách ứng xử lánh đục về trong đã thành truyền thống của nho gia. Các nhà
nghiên cứu lâu nay đã khai thác rất kĩ cái thần tình của cảnh làng quê Bắc bộ
vào thu, tôn vinh ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Điều ấy thật đáng trân
trọng. nhưng nỗi lòng của cụ Tam Nguyên xem ra vẫn còn phải bàn tiếp. Bài viết
này sẽ khai thác chủ yếu tâm sự của ông về thân thế, thời thế và nhân thế kí
ngụ trong kiệt tác tam thu của ông.
2. Chùm thơ Nôm đường luật
thất ngôn bát cú này, không ngẫu nhiên chút nào khi được đặt tên chữ làThu
vịnh, Thu ẩm, Thu điếu. Nó còn có ba bài thơ cùng tên viết bằng chữ Hán, nhưng
người đời lại chủ yếu truyền tụng ba bài chữ Nôm. Điều này thật nhiều ẩn ý. Nó
khiến ta nhớ tới chùm thơ Thu hứng của Đỗ Phủ thời Đường viết khi loạn An Lộc
Sơn – Sử Tư Minh xảy ra. Đỗ Phủ (712 – 770) khi ấy vì loạn lạc mà tha hương,
mong đất nước thái bình để bách tính an lạc làm ăn, mình được hồi hương. Nguyễn
Khuyến sống trong một tình thế khác. Nước vẫn còn vua, mà chủ quyền đã mất. (Vua
chèo còn chẳng ra gì – Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề - Lời vợ người hát
chèo). Bậc trí giả cỡi đầu người kể đã ba phen đã nhận thức được sự
lỗi thời lép vế, mất giá của nhà nho, đạo Nho (Sách vở ích gì cho buổi ấy – Áo
khăn lại nghĩ thẹn thân già). Thậm chí ông thấy những ông tiến sĩ (trong đó có
mình) chỉ là hàng mã, đồ chơi mua vui cho trẻ nhỏ nhân tết trung thu: Ghế
tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe -Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi (Tiến sĩ
giấy). Đạo Nho, đẳng cấp sĩ đã bị thời thế vượt qua, thậm chí một số nhà nho
còn cam tâm vứt bỏ nhân cách cam tâm, làm tay sai cho kẻ thù dân tộc. Nguyễn
Khuyến chọn con đường mà ông gọi là “dũng thoái” để giữ lấy tiết tháo, giữ lấy
nền nếp gia phong. Vì vậy, Thu vịnh mà dịch thành Vịnh mùa thu
hay Mùa thu làm thơ có gì đó thật chưa ổn. Thu điếu khiến ta
nhớ tới Lã Vọng Khương Tử Nha (TKXII, TCN).Tích xưa kể rằng: Tề Thái Công đã
già còn ngồi câu cá trên bến sông Vị Thủy; câu cá mà không mắc mồi, lưỡi
câu uốn thẳng. Biết ông là hiền tài, nhà Chu mời ông ra giúp nước. Ông đã góp
phần quan trọng làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu ở Trung Quốc xưa. Lã Vọng
câu cá chờ thời thế, Nguyễn Khuyến câu cá quên thời thế, nhưng không quên được
trách nhiệm của kẻ sĩ trước thời cuộc (Ơn vua chưa chút đáp đền – Cúi trông thẹn
đất, ngửa trông thẹn trời, Di chúc). Câu cá, vì vậy không nghiêng về nghĩa tả
thực mà là ứng xử trữ tình của thi nhân. Dịch là Mùa thu câu cá liệu có ổn
không ? Thu ẩm lại khiến ta liên tưởng tới bài thơ Ẩm tửu của
Đào Tiềm (365 – 427), một danh sĩ cuối đời Đông Tấn:
Kết lư tại nhân cảnh,
Nhi vô xa mã huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ?
Tâm viễn địa tự thiên.
Thái cúc đông ly hạ,
Du nhiên kiến nam sơn.
Sơn khí nhật tịch giai,
Phi điểu tương dữ hoàn...
Thử trung hữu chân ý,
Dục biện dĩ vong ngôn.
Dịch thơ:
Uống rượu
Nhà cỏ giữa nhân cảnh,
Không thấy ồn ngựa xe.
Hỏi ông: “Sao được vậy?”
Lòng xa, đất tự xa.
Hái cúc dưới giậu đông,
Thơ thới nhìn núi Nam.
Khí núi ánh chiều đẹp,
Chim bay về từng đàn.
Trong cảnh có thâm vị,
Muốn tả đã quên lời. (1)
Hay Tương tiến tửu (Sắp
mời rượu) của Lí Bạch (701- 762), với câu cuối : Dĩ nhữ đồng tiêu vạn cổ
sầu(Uống cho muôn thuở tiêu sầu). Bạch Cư Dị (772 - 846) trong một bài thơ làm
năm 49 tuổi cũng có câu: Công danh phú quí phải có mệnh – Mệnh chưa đến
hãy uống rượu mà hát vang lên. Đặng Dung (? – 1414) thời Hậu Trần trong Cảm
Hoài cũng có câu: Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. Sau này Trần
Huyền Trân (1913 - 1989) cũng có câu: Cụ hâm rượu nữa đi thôi – Be này đã
cạn sạch rồi còn đâu – Để rồi ta uống với nhau – Rót đau lòng ấy vào đau lòng
này. Hóa ra đều cùng là một ứng xử trữ tình của nòi thi nhân. Uống rượu chờ
thời, quên thời, uống rượu vì bất đắc chí, chứ không phải lối ngưu ẩm của kẻ
phàm phu tục tử. Nguyễn Khuyến uống rượu để quên thời thế, để nuốt sầu hận vào
lòng. Nỗi sầu hận của một kẻ sĩ nhìn thấy giang sơn đất nước chìm đắm trong
vòng nô lệ tủi nhục, bách tính trăm họ phải làm thân trâu ngựa cho loài bạch
quỉ mà bất lực, chỉ còn biết lui về làng quê độc thiện kì thân.
3. Tâm sự và tâm trạng ưu
thời mẫn thế của Nguyễn Khuyến được thể hiện một cách cực tài hoa trong tứ thơ
uất ức nghẹn ngào, sầu tủi trong tuyệt phẩm tam thu. Cái uất ức nghẹn ngào sầu
tủi hiện ra trong Thu vịnh thành nỗi tự thẹn. Trước mùa thu quê hương
mang cái hồn của vùng chiêm trũng Bắc bộ, cái thần của làng Và, Yên Đổ Bình Lục
Hà Nam thanh tĩnh thanh khiết, thanh vắng, thanh cao, thanh đạm. Thi nhân thả
hồn, chìm đắm trong những cái thanh ấy, nổi hứng làm thơ, bỗng giật mình thấy
tâm hồn, chưa thanh như thiên nhiên quê hương, thấy nhân cách mình chưa thanh
khiết, chưa đẹp như cổ nhân. Xấu hổ với thiên nhiên mùa thu. Xấu hổ với cổ
nhân. Xấu hổ với chính mình. Thi hứng nghẹn lại.(Nhân hứng cũng vừa toan cất
bút – Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào). Ông Đào chính là Đào Tiềm một danh
sĩ cuối Đông Tấn vói câu nói:Ta không thể vì năm đấu gạo mà uốn
lưng trước bọn hương lý tiểu nhi và bài Qui khứ lai từ nổi tiếng
trước khi treo ấn từ quan. Cái tự thẹn của Nguyễn Khuyến chính là tứ thơ
tuyệt bút về nhân cách cao khiết. Học giả nổi tiếng Nguyễn Hiến Lê từng nhận
xét về Đào Tiềm: Ảnh hưởng của ông rất lớn. Nhiều người bắt chước làm thơ điền
viên, nhưng ít có ai được cái bình thường điềm đạm mà thú vị, đậm đà của ông
nữa. Ở nước ta (Việt
Nam), thi nhân gần với ông nhất là Nguyễn Khuyến.
Đời hai người y như nhau: đều sinh trong cảnh loạn, đều làm quan rồi đều về ở
ẩn, đều thích rượu, yêu cúc, giọng thơ đều thoáng đạt.(2). Cái tự thẹn còn
làm nhiều người tử tế sáng láng đương đại phải suy ngẫm, khi tình trạng
vô liêm sỉ đang trở thành một căn bệnh trầm kha. Cái uất nghẹn, sầu tủi
trong Thu ẩm lại hiện ra thành những giọt nước mắt, cái nâng li mà
uống không được: Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt – Mắt lão không vầy cũng đỏ
hoe – Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ dăm ba chén đã say nhè. Tâm sự
suy tư, trăn trở về thời thế về thân phận về nhân tình thế thái khiến thi nhân
độc ẩm, một thú vui tao nhã của nhà nho xưa không thành, có gì đó chẹn đứng cổ
họng. Tất cả dường như được nhìn bởi một tâm trạng chập chờn cơn tỉnh cơn
mê, một cái nhìn chếnh choáng, sự vật cứ như thu nhỏ dần lại. Trong Thu
điếu có đủ ao thu, thuyền thu, lá thu, gió thu, mây thu, trời thu ngõ
trúc… mang hồn thu thanh sạch thanh vắng thanh cao, mà hồn người câu cá như
chẳng để ý gì đến việc câu, tiếng cá đớp động khẽ khàng trong ao như không phải
trong không gian thực tại (Cá đâu đớp động dưới chân bèo). Cái không gian thời
gian thu ấy đã thuộc sở hữu của kẻ khác. Ngồi câu mà tựa gối ôm cần như
người bó tay thúc thủ. Ngồi câu ở làng quê mình mà như thiếu quê hương. Câu cá
mà chẳng được con nào. Câu cá để quên thời thế. Ba tâm trạng một tâm thế. Cũng
như ông thấy mấy chùm hoa nở trước dậu không phải là hoa của thực tại mà là hoa
của một thời đất nước chưa có bóng dáng thằng Tây; tiếng ngỗng cô độc giữa
thinh không trên đất nước mình mà thành tiếng ngỗng nước nào.(Mấy chùm trước
dậu hoa năm ngoái – Một tiếng trên không ngỗng nước nào).Đó là cảm xúc tâm
trạng của người sống ngay trên quê hương mà thấy Thiếu quê hương.
4. Cả ba thi phẩm đều được
viết bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh của văn học
trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một trong những bậc thầy xuất
sắc của thơ Nôm đương luật. Một điều thú vị là khi triều Nguyễn thăng cho ông
chức quan to Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, ông lấy lí do mù lòa xin hưu quan,
vậy mà trong chùm thơ thu cái nghe cái nhìn của ông tinh tường tinh tế đến thế.
Giai thoai kể rằng khi phải tiếp xúc với quan Tây, Nguyễn Khuyến cố tình vái
lậy cái cột, sau đó giả vờ xin lỗi vì lòa không nhìn thấy. Đây là cách ứng
xử Điếc tai nghoảnh mặt làm ngơ, giả làm mẹ mốc…Thi nhân chỉ
không muốn nhìn thấy kẻ thù dân tộc và thói đời ô trọc. Với cái đẹp bao giờ ông
cũng tinh nhạy, sáng mắt sáng lòng. Có gì đó giống tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu
kí ngụ qua ứng xử và lời Kì Nhân Sư (Mù đui mà giữ đạo nhà- Còn hơn có
mắt ông cha không thờ, Mù đui mà đặng trọn mình - Còn hơn sáng mắt đổi hình tóc
râu…). Sắc trời thu trong tam thủ thu này bao giờ cũng xanh ngắt:
Trời thu xanh ngắt
mấy từng cao, Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt. Người
đọc dễ nhớ câu thơ Nguyễn Trãi từ mấy thế kỉ trước: Tuổi cao tóc bạc cái
râu bạc – Nhà ngặt đèn xanh con mắt xanh, hay xa hơn là một câu kinh điển Nho
gia: Thiên hà ngôn tai! (Trời sao không nói). Nỗi lòng Nguyễn Khuyến
dường như chỉ còn biết hướng lên trời xanh. Chỉ riêng câu đầu trong Thu
vịnh đã cho thấy tay nghề của một bậc thầy. Câu thơ tự nhiên như lời nói
thông thường mà lại chính là siêu thơ. Nó không chỉ vẽ trời thu bằng hình ảnh
thị giác mà còn ở sự phối âm hòa thành cực tài. Những thanh bằng (trời, thu,
xanh) ở đầu câu thơ và (từng, cao) ở cuối câu thơ kết hợp với thanh cao nhất ở
giữa câu (ngắt), có thấp đi một chút ở chữ thứ năm (mấy) tuy mang thanh trắc
nhưng mang vực thấp hơn bởi kết thúc bằng bán âm (y) như một điểm uốn, tạo nên
một không gian cong thật đắc địa.Ta lại thấy một không gian cong nhỏ hơn ở tầng
dưới (Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu), và ở tầng thấp nhất lại thấp thoáng hiện ra
một không gian cong qua lối vẽ kì thú bầu trời thu phản chiếu xuống mặt ao thu
(Nước biếc trông như từng khói phủ). Mắt lòa, tai điếc mà sao Yên Đổ tiên sinh
có thể nhìn thấy, nghe thấy: Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo. Đặc biệt là
câu : Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Quả là một câu thơ phát sáng. (Trộm
phép cụ, giá mà thay chữ bóng bằng chữ ánh thì câu thơ sẽ còn phát
sáng hơn). Trong từ chương học xưa, các cặp câu thực và luận của bài thất ngôn
bát cú buộc phải đối nhau. Ví như cặp câu luận trong Thu vịnh:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Lâu nay chỉ thấy chú thích
về điển hoa năm ngoái bằng việc dẫn ra câu thơ của Sầm Tham (715 – 770):
Sơn phòng xuân sự (3)
Sơn phòng xuân sự (3)
Lương viên nhật mộ loạn phi nha
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
Ðình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.
Dịch nghĩa:
Cảnh xuân nơi nhà trên núi
Vườn nhà họ Lương chiều tối quạ bay hỗn loạn
Đứng đây trông tít đằng xa mới thấy đôi ba nóc nhà xơ xác
Cây trong sân (nhà họ Lương) không biết người đã đi hết
Xuân về lại nở hoa y như thời nhà còn người ở.
Hay câu thơ Thôi Hiệu
(khoảng 704 -754): Đào hoa y cựu tiếu đông phong, hoặc câu thơ Đỗ
Phủ: Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ - Đào hoa y cựu tiếu đông phong (Thu
hứng). Không thấy nói đến điển ở câu sau, khiến mạch thơ không thông. Có lẽ
điển ở câu: Một tiếng trên không ngỗng nước nào bắt nguồn từ Nhất
minh kinh nhân.
Nguyên nghĩa đen là "Tiếng kêu khiến mọi người chấn động"
Trong nhiều sách sử đều
ghi chép lại tích “nhất minh kinh
nhân”
Sách “Hàn Phi tử”, thiên
“Dụ lão” cho biết Sở Trang Vương lâm chính ba năm liền không thực hiện bất cứ
chính sách gì, Hữu tư mã hỏi Trang Vương rằng: “Có con chim đậu ở quả núi phía
Nam, ba năm không bay, chẳng bay cũng chẳng kêu, chắc hẳn là bị câm, ấy là chim
gì?” Trang Vương đáp: “ba năm không bay, là để cánh đủ dài, không bay cũng
không kêu, là để thấu xét dân tình. Tuy không bay, nhưng bay tất tới tận trời;
tuy không kêu, nhưng kêu tất khiến mọi người kinh động”. qua hơn nửa năm “bèn
tự mình điều chính, phế mười điều, đặt ra chín điều, trừ năm đại thần, chọn cử
sáu kẻ sĩ, khiến nước thịnh trị”.
Sách “Lã thị xuân thu”,
thiên “Trọng ngôn” nguyên văn ghi lại như sau: “Kinh Trang Vương tại vị ba năm,
không nghe chính mà thích trò thách đố. Thành Công Giả vào can. Vương nói: “Ta
không muốn nghe lời can gián, hà cớ chi nay ngươi lại dâng lời can?” Thưa rằng:
“Thần chẳng dám can, chỉ là có câu đố quân vương đấy thôi” Vương hỏi: “Sao
chẳng trình bày cái điều ta không muốn nghe đi?” Bèn hỏi: “Có con chim đậu ở
quả núi phía Nam, ba năm không động, không bay, không kêu, đây là chim gì vậy?”
Vương cảm tạ, nói: “Chim đậu ở quả núi phía Nam, ba năm nó không động, là để
định ý chí; nó không bay, là để cánh đủ dài; nó không kêu, là để quan sát dân
tình. Chim này tuy không bay, bay sẽ tới trời; tuy không kêu, kêu sẽ khiến
người kinh động. Giả ra đi! Không muốn nghe những điều đã biết rồi.” Hôm sau
lâm triều, nhận tiến năm người, phế trừ mười người. Quần thần cả mừng, dân
chúng nước Kinh đều cảm tạ.”
Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên
trong “Sử ký, Hoạt kê liệt truyện” viết: “Không kêu thì thôi, kêu tất khiến mọi
người kinh động”, là giảng về việc quốc quân Tề Uy Vương nước Tề thời Chiến
quốc thích câu đố, cả ngày yến tiệc làm vui, không lý gì đến triều chính. Các
lệnh quốc thấy thế, liền thừa cơ xuất binh xâm phạm, quốc gia nguy trong sớm
tối, tả hữu không ai dám can. Người giỏi đố nhất là Thuần Vu Khôn lúc tới gặp
Uy Vương liền hỏi: “Trong nước có con chim lớn, đậu ở trong sân của vua, ba năm
không bay cũng không kêu, vua biết chim này là loài gì chăng?” Uy Vương nói:
“Con chim này không bay thì thôi, bay tất tới trời; không kêu thì thôi, kêu tất
khiến mọi người kinh động.” Liền đó Uy Vương bèn “triệu bảy mươi hai trưởng
huyện lệnh, thưởng một người, phế một người, chỉnh đốn binh mã xuất quân, chư
hầu thất kinh, đều lui khỏi đất Tề”. Cứ như vậy, chỉ trong sáu năm nước liền thịnh
trị, sau trở thành một trong ngũ bá.
Các tình tiết về điển này
ghi lại có nhiều khác biệt nhưng chủ đề thì tương đồng, đều là ví von việc sớm
đã có kế sách sẵn trong đầu, tuy bình thời mặc nhiên không nghe triều chính,
dường như không làm gì, nhưng vốn đã nắm được tình hình rồi, một khi đã ra
quyết sách, liền làm nên sự nghiệp chấn động lẫy lừng. Sau dùng câu “nhất minh
kinh nhân” để ẩn dụ việc đột nhiên khiến mọi người nể trọng (4).
Nguyễn Khuyến tiếc thương,
đau buồn cho một thời hoàng kim một đi không trở lại. Ông cũng có phương lược
biến an thành nguy mà không được biết tới. Tuy nhiên cái phương lược ấy của ông
chắc cũng không thể thay đổi được thời cuộc. Văn hóa, ý thức hệ nhà nho, nền
kinh tế tiểu nông lạc hậu làm gì được trước sức mạnh đại bác của kẻ xâm lược?
Điều này còn khiến nhớ tới lời Án Anh (580 -500 TCN) nói với Tề Cảnh Công trong
một chuyên đi săn: Quốc gia chỉ có ba điều chẳng lành,(…) có người hiền mà
không biết, đó là một điều chẳng lành: biết mà không dùng là hai điều chẳng lành:
dùng mà không tin là ba điều chẳng lành. (Phù hữu hiền nhi bất tri, nhất bất
tường: tri nhi bất dụng, nhị bất tường: dụng nhi bất nhiệm, tam bất tường dã)
(5).
Trong ba bài thơ đều xuất
hiện hình ảnh trúc thu: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu, Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Có người cho rằng Nguyễn
Khuyến lấy cây trúc làm biểu tượng của mùa thu. Cũng có lí của nó. Sự thực ai
đã về từ đường Cụ Tam Nguyên đều thấy rất nhiều trúc. Làng Yên Đổ xưa cũng
giống như nhiều làng quê đồng bằng Bắc bộ thường có rất nhiều tre trúc. Nhưng
nỗi lòng Nguyễn Khuyến kí ngụ gì trong hình ảnh này. Nhà nho thường lấy cây
trúc làng biểu tượng cho khí tiết của người quân tử (Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn
thẳng). Trong tam thu thì khi cần trúc dáng cong, ngõ trúc không thẳng mà quanh
co, hay ngõ tối đêm sâu .Tôi nhớ tới bài thơ của Tô Đông Pha
(1037 - 1101) có nhan đề Ứ Tiềm tăng Lục quân hiên:
Khả sử thực vô nhục,
Bất khả sử cư vô trúc.
Vô nhục lệnh thân sấu,
Vô trúc lệnh nhân tục.
Nhân sấu thượng khả phì,
Sĩ tục bất khả y.
Bàng nhân tiếu thử ngôn:
Tự cao hoàn thị si!
Nhược đối thử quân nhưng đại tước,
Thế gian ná hữ Dương Châu hạc.(6)
Dịch nghĩa:
Hiên Lục quân của vị sư ở Ứ Tiềm (7)
Có thể bảo ăn không thịt,
Không thể bảo ở không có trúc (8)
Không thịt khiên người gầy,
Không trúc khiến người tục.
Người gầy có thể béo lại,
Kẻ sĩ tục khôn bề chữa trị.
Người bên cạnh cười lời nói ấy:
Tưởng là thanh cao, thực là vẫn ngu!
Nếu vẫn nhai nhồm nhoàm trước mặt “vị”’(9) này
(Xin nói:) Thế gian làm gì có hạc ở Dương Châu (10).
Để hiểu bài thơ, cần một
số thông tin sau: Ứ Tiềm là tên một huyện thuộc tỉnh Triết Giang. Sư ở Ứ Tiềm
chỉ nhà sư tên Đôn, hiệu là Tuệ Giác ở chùa Tịch Chiếu. Trong chùa có hiên Lục
Quân, trước hiên trồng rất nhiều trúc. Lục Quân là Ông Xanh một lối gọi nhân
cách hóa cây trúc. Vương Hi Chi đời Tấn từng ở một nơi không có trúc. Ông bèn
sai người trồng. Có người hỏi trồng làm gì, ông chỉ vào trúc trả lời: Làm
sao một ngày có thể vắng mặt vị này được? (Hà khả nhất nhật vô thử quân)
(11). Có lẽ vì vậy mà trong thơ thu Nguyễn Khuyến không thể vắng bóng hình ảnh
trúc chăng? Không gian trong chùm thơ thu là không gian thanh sạch dành cho kẻ
sĩ cao khiết tuy bất lực trước thời cuộc, nhưng không chịu làm lành với thời
cuộc ô trọc nhục nhã đương thời (Đề vào mấy chữ trên bia – Rằng: Quan nhà
Nguyễn cáo về đã lâu, Di chúc). Nguyễn Khuyến cảm thấy cô độc cô đơn ngay chính
trong làng quê thân yêu của mình. Đó phải chăng là sự độc tỉnh (Tuổi già đi về
như hạc độc, Câu thơ viết đắn đo không viết – Viết đưa ai ai biết mà đưa).
Có những nỗi buồn khiến
người ta trở nên bần tiện phấp kém, có những nỗi buồn khiến người ta trở nên
thanh cao, đáng kính, đáng trọng. Đó là nỗi buồn của kẻ sĩ trước vận nước lâm
nguy. Nỗi lòng mà Tam Nguyên Yên Đổ kí thác trong chùm thơ thu là nỗi buồn mang
tầm vóc lớn của một kẻ sĩ Bắc Hà.
Vân Giang, mồng 4 Tết Giáp Ngọ 2014
----
CHÚ
THÍCH:
(1). Đào Tiềm, Wikipedia tiếng Việt.
(2). Nguyễn Hiến Lê, Đại cương văn
học sử Trung Quốc, tr. 211-212.
(3). Sầm Tham, Wikipedia tiếng Việt.
(4). Nhất minh kinh nhân, Bùi Lê Nhật
dịch từ nguyên bản tiếng Hán Thành ngữ điển cố nguyên lưu cố sự thưởng
tích từ thư, NXB KHGD Bắc Kinh, 1988, trang 14-15.
(5).Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ,
Nguyễn Khắc Phi, NXB Giáo dục, 1999, trang 47.
(6), (7), (8), (9), (10), (11). Thơ văn
cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ, Nguyễn Khắc Phi, NXB Giáo dục, 1999, trang
254-255.
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Ninh Bình ngày 26.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét