Nguyễn Thanh Tuyên một hồn thơ bình dị – Bài viết Vũ Quốc Văn
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
Ngày
14/09/2012
Lần đầu
gặp ở Trại Sáng tác Văn học trên Tam Đảo, nom gương mặt anh hiền, phong thái
thanh nhàn, nói cười khiêm thiện, tôi thầm đoán anh làm nghề dạy học, thày
thuốc, hay một viên chức nơi công sở nào đó. Lúc ấy tôi còn nghĩ rằng con người
này trên đường đời hẳn thuần gặp những êm đềm bình lặng thôi chứ chẳng hề biết
đến gian lao khổ ải là gì nên nom thần sắc mới được tươi nhuận an nhiên như
thế.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Nguyễn Thanh Tuyên
Tên
thật Nguyễn Thanh Tuyên
Sinh
năm 1948 tại Phương Định - Trực Ninh - Nam Định
Còn
có bút danh khác là: Thanh Phương - Thanh Tú
Nghề
nghiệp: Bác sỹ
Hiện
thường trú tại: Thành phố Hải Phòng
Hội
viên Hội Nhà văn Hải Phòng
Điện
thoại: 0989094933
Email: bsnguyenthanhtuyen@gmail.com
_____
NGUYỄN THANH TUYÊN
MỘT TÂM HỒN THƠ BÌNH DỊ
Lần
đầu gặp ở Trại Sáng tác Văn học trên Tam Đảo, nom gương mặt anh hiền, phong
thái thanh nhàn, nói cười khiêm thiện, tôi thầm đoán anh làm nghề dạy học, thày
thuốc, hay một viên chức nơi công sở nào đó. Lúc ấy tôi còn nghĩ rằng con người
này trên đường đời hẳn thuần gặp những êm đềm bình lặng thôi chứ chẳng hề biết
đến gian lao khổ ải là gì nên nom thần sắc mới được tươi nhuận an nhiên như
thế.
Sau
này, gần gũi với nhau rồi tôi mới biết sự đoán mò của mình về anh chỉ đúng được
về cái nết sống khoan hòa, khu xử chí tình chí nghĩa với mọi người, còn lại
những nếm trải cuộc đời, cùng cái cách hiến thân thời trai trẻ của anh cho nghề
y và cho thơ văn thì còn xa mới thấu sát được.
Tên
khai sinh cũng là bút danh ghi trong các tác phẩm thơ văn của anh là Nguyễn
Thanh Tuyên. Quê làng Trực Phương, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, Nguyễn Thanh
Tuyên cũng như nhiều chàng trai cô gái thời những năm 60 hồi thế kỷ trước,
thích khai tăng tuổi mình để chóng được làm người lớn, thi vào các trường đại
học, trung học chuyên nghiệp, đi bộ đội, thanh niên xung phong bay nhảy đó đây
cho thỏa chí tang bồng.
Khai
sinh sớm hai năm, Nguyễn Thanh Tuyên đủ tuổi thi vào trường Trung cấp Kỹ thuật
viên thuộc Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương. Sau vài năm
vùi đầu đèn sách, năm 1967 tốt nghiệp hạng ưu, anh được giữ lại trường làm Giáo
vụ kiêm hướng dẫn Kỹ thuật thực hành.
Năm
1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ vào giai đoạn quyết liệt, Viện Sốt rét có đợt
điều cán bộ đi phục vụ chiến trường, Nguyễn Thanh Tuyên không có tên trong danh
sách đợt ấy, nhưng vì một đồng nghiệp trở ngại không đi nên Viện đã điều động anh
thay thế. Nhận quyết định đi B, 4 tiếng đồng hồ sau Nguyễn Thanh Tuyên phải giã
từ Hà Nội, gia đình, người yêu, kịp lên đường ra mặt trận.
Là
Kỹ thuật viên chuyên khoa Côn trùng, Nguyễn Thanh Tuyên được phân bổ vào
Ban Dân y Trị -Thiên tham gia phòng chống sốt rét cho quân và dân đang sống
chiến đấu ở hậu cứ Trường Sơn. Đêm đêm anh cùng đồng nghiệp vào rừng già lấy
thân mình làm mồi nhử cho muỗi đốt, rồi nhốt chúng vào ống nghiệm đem về phân
định các loài Anophen để góp phần tìm biện pháp phòng trừ.
Trong
những đêm khuya lặng lẽ làm việc giữa rừng sâu, núi thẳm bom đạn mịt
mùng, chẳng hiểu sao Nguyễn Thanh Tuyên lại bỗng nổi hứng muốn làm thơ mới lạ.
Bây giờ nói thế thật khó tin vì nó quá lãng mạn, có vẻ hư cấu. Nhưng tôi dám
chắc với ai đã từng trải qua cảnh đơn côi lẻ vắng, sống chết mong manh tích tắc
ấy thì sẽ tin đó là một ham muốn thành thật. Thành thật, bởi khi con người
luôn phải đối mặt với nguy cơ bị tiệt diệt thì niềm khát vọng sống và tình yêu
cuộc đời bỗng nhiên bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nguyễn Thanh Tuyên muốn
làm thơ cũng giản dị như người ta thích hát lúc vui buồn. Và, anh bắt tay
tập viết những dòng thơ đầu tiên của đời mình.
Sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nguyễn Thanh Tuyên trở ra Hà Nội rồi về Hải Phòng. Không bằng lòng với
chuyên môn đã có, anh quyết định tiếp tục học lên nữa để nâng cao trình độ của
mình.
Năm
năm lăn lộn tại chiến trường, hơn chục năm làm Kỹ thuật viên nhưng kiến thức
phổ thông của Nguyễn Thanh Tuyên vẫn còn khá vững, anh thi đỗ Đại học Y hệ
chính quy. Sau sáu năm học tập, nhận bằng bác sĩ, Nguyễn Thanh Tuyên được điều
về công tác ở Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ thành phố Hải Phòng.
Cuộc sống của thời còn “cơ chế quan liêu bao cấp” thật khó khăn. Như hết
thảy mọi người, Nguyễn Thanh Tuyên phải đối mặt với muôn nỗi vất vả thiếu thốn.
Vợ chồng anh cùng hai đứa con nhỏ tá túc trong nửa gian nhà tập thể rộng chỉ 7
mét vuông, mái giấy dầu vách liếp. Lương tháng, sẻn so tùng tiệm đến mấy cũng
không đủ sinh hoạt hàng ngày cho cả nhà. Anh vật lộn kiếm thêm bằng nhiều nghề:
chụp ảnh, kẻ vẽ, thuộc da, làm men rượu và nuôi lợn.... Đêm đêm thì xay đậu
nành, nấu sữa bỏ mối. Cực nhọc đấy nhưng tổ ấm bé mọn của vợ chồng anh luôn
tràn đầy tiếng cười con trẻ và niềm vui sum vầy. Ngỡ tưởng hạnh phúc ấm áp sẽ
làm Nguyễn Thanh Tuyên quên đi kí ức của một thời đã xa. Nhưng là người đa cảm,
mỗi bữa ngồi bên vợ con ăn một miếng ngon, đêm nằm trong chăn nệm ấm,
lòng anh lại cồn cào thương nhớ những đồng nghiệp gắn bó cùng anh thời lửa đạn
không về. Hình ảnh những người mẹ, người chị, người em nhỏ dân tộc Pa Kô, Vân
Kiều đùm bọc, nhường cơm, sớt muối nuôi anh những ngày ở núi rừng Trường Sơn
hiện về làm anh day dứt khôn nguôi.
Nguyễn
Thanh Tuyên mang chiếc ba lô cũ, gia tài của hồi cơm vắt ngủ hầm ra tìm những
bài thơ tập viết ngày nào ra đọc. Niềm cảm xúc im lắng trong anh bấy nay bỗng
đâu lại bừng lên như than hồng, như lửa cháy hối thúc anh đến với thơ. Anh
nghĩ, qua thơ anh có cơ hội được gi•i bày chia sẻ chút tâm tình, ân nghĩa
nhỏ nhoi nào đó với mỗi phận người, với cuộc đời mình đang sống.
Và
niềm mong ước lớn dần thành niềm khát khao giục giã Nguyễn Thanh Tuyên mạnh bạo
cầm bút làm thơ. Anh mê đắm được dâng hiến cho thơ. Lúc nào cũng nghĩ đến
thơ, có được chút thời gian rảnh rỗi nào anh lại chăm chắm vào việc viết.
Khoảng
chục năm hồi cuối thế kỷ trước, Nguyễn Thanh Tuyên có khá nhiều thơ xuất hiện
trên các báo, tạp chí trung ương và địa phương. Anh góp thơ in chung cùng một
nhóm tác giả trong các tập Hoa muống biển (1996), Người miệt biển (1997) đều do
Nhà xuất bản Hải Phòng ấn hành.
Số
lượng thơ xuất hiện đều đặn trên thi đàn kia vẫn biết chưa nói được gì nhiều
giá trị của nó, song đó là một ghi nhận khả năng và sức lao động vì thơ và cho
thơ của Nguyễn Thanh Tuyên.
Qua
một thời gian dồn tâm sức cho thơ, cuối cùng Nguyễn Thanh Tuyên cũng được đền
đáp. Anh cho xuất bản tập thơ riêng: Tiếng vọng, rồi lần lượt nhận được các
giải thưởng: Giải Nhì cuộc thi sáng tác về đề tài Môi trường do Hội Liên hiệp
Văn học nghệ thuật Hải
Phòng và Công ty Môi trường đô thị tổ
chức; Giải Tư cuộc thi thơ của Tạp chí Văn Nghệ Quân đội (2002 - 2004); Giải Ba
cuộc thi thơ Tạp chí Cửa biển 2005.
Với
tập thơ Tiếng vọng, người đọc khắt khe cũng dễ đồng cảm với những bài thơ thấm
đẫm tình đời, tình người ấy của Nguyễn Thanh Tuyên. Những thi phẩm trong Tiếng
vọng được tác giả viết bằng nguồn cảm xúc hồn hậu, đằm chín, thi tứ cũng như
ngôn ngữ thơ luôn tạo ra một trường lực cuốn hút, bởi cái đẹp của tiết điệu,
của thi cảnh và cả tâm tình người viết gửi gắm trong từng con chữ thơ nữa.
Trong
loạt bài viết về chiến tranh, bài Tiếng vọng là một đề từ mở đầu của tác giả
hoài nhớ ân nghĩa về một thời đã qua: Nhớ a- trói a- đư gùi ta qua dốc đói/ Mắt
em nhìn lui cơn sốt chiều mưa/ Vị mặn ngấm sâu sáng như hạt muối/ Gạo nương dụm
dành khắc khoải câu thơ. Hay: Bom dội thế vẫn nguyên lành nỗi nhớ/ Dẫu
trở trăn tim đều nhịp đến giờ/ Bao ưu tư chất đầy hồn mắc nợ/ Biền biệt đi ngày
ấy chưa về.
Hòa
bình rồi mà Nguyễn Thanh Tuyên vẫn canh cánh nỗi niềm về những người ở vùng căn
cứ xưa đã bớt vất vả đói nghèo? Anh ước: “Xin trẻ lại cùng ba lô dép lốp/ áo
lại xắn tay, đội mũ tai bèo/ Rải Atsphall đường xưa lối cũ/ Tìm tiếng vọng của
mình nơi vách đá suối reo…”. Bài thơ Tiếng vọng đã mang đến cho anh giải thưởng
của Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Tìm
lại chữ mình, là một bài thơ được tác giả viết với một tâm trạng thảng thốt,
rưng rưng tiếc xót người bạn hy sinh: Ta đào bới nét chữ mình thời trẻ/ Trong
vỏ kháng sinh chôn theo bạn cuối đồi/ Làn hương mỏng bồi hồi gọi hộ/ Sao chữ
mình mà bạn mãi không …Ơi…! Chỉ 4 câu thơ mà chứa chan nỗi niềm thương nhớ của
người còn sống kết tụ trong một thanh âm mãi thiếu vắng là thán từ “Ơi..!”. Da
diết quá chừng!
Về
ký ức chiến tranh, Nguyễn Thanh Tuyên còn có bài Di vật tình yêu với những câu
thơ xúc động: AK kề vai hoen rỉ mất rồi/ Vẹn nguyên túi nilon óng nuột tóc dài/
Mấy mươi năm chưa sợi phai sợi bạc/ Rừng tái sinh bàng hoàng/ Âng ấng sương ngơ
ngác.
Tác
giả khéo léo thiết lập sự kiện: Khi người ta ủi đất làm con đường thời đất nước
đã yên bình, bỗng thấy một búp tóc óng ả bên hài cốt một liệt sĩ chưa biết tên.
Đó hẳn là vật lưu niệm, một búp “tóc thề” của người con gái hậu phương trao gửi
người yêu trước lúc chia tay ra.
Bài
thơ là lời tố cáo cuộc chiến tranh đã cướp đi cuộc đời, tình yêu, hạnh
phúc của bao đôi lứa đang tuổi thanh xuân. Người đọc nhận ra ẩn ý: thời gian có
thể làm mờ mòn mọi vật, thậm chí rỉ sét cả sắt thép... nhưng không thể làm phai
bạc được tình yêu vĩnh hằng. Những câu thơ giản dị nhưng hàm súc và lay động
lòng người.
Một
lần trở lại Quảng Trị, chiến trường xưa Nguyễn Thanh Tuyên từng sống chiến đấu
trong những năm tháng bom đạn. Khi đến viếng thăm Thành cổ, nơi có hàng ngàn
chiến sĩ quyết tử đã anh dũng hy sinh giữ từng tấc đất cho Tổ quốc, Nguyễn
Thanh Tuyên gửi niềm ngưỡng vọng của mình vào bài thơ Viết ở cổ thành với những
lời ngợi ca thật hào sảng: “...Dâng Tổ quốc những trái tim cảm tử/ Họ là tương
lai, họ là quá khứ…/…. Nhận tên mình vô danh”. Và anh tha thiết, gọi: Quảng Trị
ơi? Quảng Trị!/ Ngả mũ nghiêng mình/ Trước rưng rưng sắc cỏ/ Trước nghẹn ngào
cờ đỏ/ Dưới trời nằng nặc xanh…
Nguyễn Thanh Tuyên làm nhiều thơ về chiến
tranh, và anh khá thành công ở mảng đề tài này.
Tuy
nhiên, kiểm đếm “gia tài” thơ của Nguyễn Thanh Tuyên, anh không chỉ đơn nhất
viết về cuộc chiến, mà bằng năng lực, vốn sống và sự trải nghiệm của mình, anh
còn sáng tác về các đề tài khác nữa.
Đề
tài tình yêu, khi đã ở tuổi không còn trẻ nữa nhưng anh vẫn giữ được hoài niệm
hồn hậu và thật là tươi mới: Cầu ao, sét đánh đầu đời/ Vào đêm trăng tỏ bầu
trời vắng mây/ Lặng nhìn bậc đá còn đây/ Bỗng dưng chớp giật giữa ngày nắng
chan (Kỷ niệm).
Nguyễn
Thanh Tuyên là một bác sĩ có nết của người nghiêm cẩn mà cũng không ít khoảnh
khắc tự trào: Đập con lợn đất mua đàoTết/ Lộc ít nụ thưa khẳng khiu cành/ Gíáp
canh thúc lửa mong hoa rộ/ Che miệng cười Tố nữ nép vào tranh (Không đề).
Không
tuyên ngôn ồn ào, Nguyễn Thanh Tuyên lặng lẽ làm thơ và luôn cầu thị. Anh chịu
khó tìm tòi những tứ lạ, những nét tiềm ẩn, khuất lấp trong hiện thực cuộc
sống. Thời gian gần đây, Nguyễn Thanh Tuyên chuyên tâm viết thơ mang tính giải
minh thế sự.
Bài
thơ Lời cỏ sương, là một trong nhiều thi phẩm của anh: Bia đời…chức chạy mua
danh/ Tầng sâu vẫn cỡ tiểu sành ấy thôi/ Phù du chi thế cõi người?/ Có nghe đất
hát những lời cỏ sương!
Thơ
Nguyễn Thanh Tuyên ngày càng có phần “ kiệm lời, kỹ chữ”, bớt đi sự dàn trải,
phô bày, để dồn nén vào ý tưởng, và tạo ra được một nhịp điệu mới trong mỗi tác
phẩm của mình.
Phẩm
bình về thơ Nguyễn Thanh Tuyên, Tạp chí Cửa biển số Xuân Canh Dần đã viết:
“Chừng mực, cẩn trọng, không quá khích cực đoan, Nguyễn Thanh Tuyên tìm thơ
trong ấm lạnh hằng thường ở những niềm dung dị mà không kém phần tế vi nơi tâm
trạng và công phu trong hình thức biểu đạt. Tiếp xúc với anh, ta không phải e
dè đề phòng sự ranh ma quỉ quái. Tiếp cận với thơ anh, ta gặp sự hồn nhiên
tở mở rồi chân thành sẻ chia cùng những tâm tư, tình cảnh (phải chăng sau những
tâm sự thơ, vấn đề đặt ra là tâm thế sống?) .
…
Chắc Nguyễn Thanh Tuyên thường tự dặn mình như vậy, nên thơ anh không chỉ thuần
túy là chuyện văn chương. Anh muốn giữa thơ và đời sống có mối quan hệ ấm nóng,
gần gũi. Và như thế lại trở lại cái vấn đề muôn thuở của văn chương, ấy là
trách nhiệm công dân của người cầm bút.”
Thống
kê một cách số học thì số đơn vị thơ viết về thế sự, gia đình, xã hội, tình
yêu…của Nguyễn Thanh Tuyên nhiều hơn so với thơ viết về chiến tranh, nhưng công
bằng mà xét thơ anh hay nói một cách khác là văn hóa thơ anh có được tầm phổ
tiếp cận đa dạng cùng với biên độ rộng như bây giờ là nhờ vào sự trải nghiệm và
nhất là yếu tố vị tình của người đi ra từ cuộc chiến tranh.
Mặc
dù vậy, Nguyễn Thanh Tuyên chưa bao giờ nhận là nhà thơ, mà anh coi mình chỉ là
dân “tay ngang“- một bác sĩ mê thơ và làm thơ thôi. Khiêm nhường, chân thành,
và tự trọng trong cuộc sống và trong quan hệ bầu bạn, đồng nghiệp cũng như đối
tượng phục vụ là bệnh nhân hình như đã rèn nên cái nết đó của anh. Phải chăng
Thơ cũng đã góp phần làm nên Y đức của anh khi anh hành nghề thày thuốc?
Qua
một thời gian dài say đắm làm thơ, gần đây Nguyễn Thanh Tuyên còn thử sức trên
những trang văn bằng loạt bài viết cảm nhận, phẩm bình thơ đăng trên báo giấy
và báo mạng. Anh có thói quen đọc kỹ, suy ngẫm rồi phân tích kỹ lưỡng,
gắng tìm tòi phát hiện ra cái hay, cái thú của tác phẩm. Anh nhận định khá
thấu sát về nhiều thi phẩm của các tác giả đã thành danh và cả với tác giả anh
chưa một lần gặp mặt với thái độ trân trọng yêu quý. Khen một câu thơ, ngưỡng
mộ một tác giả mình chưa một lần quen biết thiết nghĩ cũng là một phẩm chất
đáng yêu của người cầm bút Nguyễn Thanh Tuyên.
Đã
có lần tôi thốt lên việc anh say sưa đọc thơ, bình thơ “trẫm tối“ và ngỏ ý lo
cho sức khỏe của Nguyễn Thanh Tuyên. Anh cười phớ lớ bảo rằng: Tôi đang học!
Hình
như người nào đã nguyện đồng hành cùng nghiệp văn chương, không thấy mấy ai
lánh xa việc học. Học ở sách vở, học ở cuộc đời, học ở bè bạn. Nguyễn Thanh
Tuyên đã lựa chọn cho mình một sở học đúng đắn của người cầm bút./.
(Hội viên HNV- Hải Phòng)
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 16.5.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hải Phòng ngày 14/09/2012
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét