Home
» Lý luận phê bình
» Huỳnh Xuân Sơn với cảm nhận bài thơ “Đau Thương” của tác giả Trà Thanh Lam
Huỳnh Xuân Sơn với cảm nhận bài thơ “Đau Thương” của tác giả Trà Thanh Lam
Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014
Những
ngày đầu hạ 2014 thời tiết nắng nóng bất thường. Cùng với cái nóng của thời sự,
nóng bởi sự an nguy của nước nhà, nóng theo từng con sóng biển Đông và nóng
theo từng diễn biến trên bàn ngoại giao của lãnh đạo Đảng và nhà nước. Nóng
nhất có lẽ là cái nóng từ trong lòng của hơn chín chục triệu người dân trên
khắp mọi miền của tổ quốc… Già trẻ gái trai mỗi người có cách bày tỏ tình yêu
tổ quốc khác nhau… bày tỏ sự lo ngại cho việc Trung Quốc cắm giàn khoan 981
trên thềm lục địa của chúng ta cũng khác nhau… Tôi đã gặp một sự trăn trở, một
sự lo lắng rất đặc biệt của tác giả Trà Thanh Lam khi ông ngược dòng lịch sử để
so sánh với hoàn cảnh hiện giờ của dân tộc. Để rồi gói gọn trong bài thơ mang
tựa đề: Đau Thương ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Huỳnh Xuân Sơn
Tên
thật Cao Thị Phương Lan
Hiện
ở Thủ Đức Tp HCM.
Email: huynhphuvang@gmail.com
_____
HUỲNH XUÂN SƠN VỚI CẢM
NHẬN BÀI THƠ “ĐAU THƯƠNG”
CỦA NHÀ THƠ TRÀ THANH LAM
CỦA NHÀ THƠ TRÀ THANH LAM
Những ngày đầu hạ 2014
thời tiết nắng nóng bất thường. Cùng với cái nóng của thời sự, nóng bởi sự an
nguy của nước nhà, nóng theo từng con sóng biển Đông và nóng theo từng diễn
biến trên bàn ngoại giao của lãnh đạo Đảng và nhà nước. Nóng nhất có lẽ là cái
nóng từ trong lòng của hơn chín chục triệu người dân trên khắp mọi miền của tổ
quốc…
Già trẻ gái trai mỗi người
có cách bày tỏ tình yêu tổ quốc khác nhau… bày tỏ sự lo ngại cho
việc Trung Quốc cắm giàn khoan 981 trên thềm lục địa của chúng ta cũng khác
nhau…
Tôi đã gặp một sự trăn
trở, một sự lo lắng rất đặc biệt của tác giả Trà Thanh Lam khi ông ngược dòng
lịch sử để so sánh với hoàn cảnh hiện giờ của dân tộc. Để rồi gói gọn trong bài
thơ mang tựa đề:
Đau
Thương
Một thời đất nước tang thương
Một thời đất nước tang thương
Mất cảnh giác!
An Dương Vương lụi tàn
Loa Thành chết chóc, khóc than…
Thủy triều đỏ…
ngỡ máu tan…
Biển sầu!
Hồn Trọng Thủy - xác Mỵ Châu
Đất rung chuyển …
biển bạc đầu…
Vì ai?
Ngọc trong đau đớn lòng trai
Vua ôm mối hận, đã vài ngàn năm…
Kim Quy buồn bã bặt tăm...
Triều thần tù tội, nát tan cửa nhà ...
Đau thương còn mãi trong ta...
Bài học ngày ấy...
nước nhà hôm nay!
Bài thơ tự do ngắn gọn với
những câu thơ được ngắt nhịp dài, ngắn khác nhau theo một nhịp thơ trầm lắng
xuyên suốt một thời gian dài tính bằng đơn vị Ngàn năm… Với một cột mốc lịch sử
cụ thể là:
Một thời đất nước tang thương
Mất cảnh giác!
An Dương Vương lụi tàn
Loa Thành chết chóc, khóc than…
Ngày Triệu Đà mang quân
đánh chiếm đất nước Âu Lạc. Nhưng phải chịu rút lui trước sự kiên cường chống
trả của quân tướng tổ tiên nước ta lúc bấy giờ…
Sau đó có lẽ đã “ngủ quên
trên chiến thắng” vua An Dương Vương mất cảnh giác đã kết tình thông
gia với Triệu Đà cho Trọng Thuỷ ở rể vì hết mực yêu thương con gái là Mỵ Châu…
Truyền thuyết thành Cổ Loa và chiếc nỏ thần lưu truyền mấy ngàn năm nay hẳn mỗi
người dân Việt từ khi nằm nôi đến lúc trưởng thành ai cũng tường tận…
Hậu quả của sự mất cảnh
giác ấy dẫn đến mất nước. Màu tang tóc đầu rơi máu chảy bao trùm lên
khắp các gia đình người dân…. Hạnh phúc của con gái cũng tan theo và một kết
cục bi thảm Vua cha rút gươm báu chém chết con gái… rồi tự vẫn. Mọi sự ân hận
đều đã muộn và hậu quả thì vô cùng tàn khốc để đến hôm nay sau hơn hai ngàn năm
tác giả đã viết:
Thủy triều đỏ…
ngỡ máu tan…
Biển sầu!
Hồn Trọng Thủy - xác Mỵ Châu
Trọng Thuỷ vì chung tình
mà chết đó là cái tình riêng..
Hàng triệu oan hồn người
dân chết thảm theo cái chết bởi ân hận mình mất cảnh giác với người
đã từng là kẻ thù cướp nước của nhà vua là nỗi đau của cả dân tộc..là bài học
mà mỗi vị lãnh đạo cấp cao cho tới người dân thường cần ghi nhớ…
Tác giả hẳn đã đau với nỗi
đau chung của cả dân tộc, từng phải “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu..” Nhiều trở
trăn, nhiều suy nghĩ có trách nhiệm với danh phận một người dân yêu nước… Ông
đã bật lên thành câu thơ và cũng là câu hỏi nhức nhối người đọc khi không dễ
tìm câu trả lời:
Đất rung chuyển…
biển bạc đầu…
Vì ai?
Mất nước, vương triều sụp
đổ… cả dân tộc chịu ách nô lệ nhiều đời…câu trả lời đã có!
Đất vì ai mà rung chuyển?
Biển vì ai mà bạc đầu? vài ngàn năm vẫn là câu hỏi thật dễ mà lại vô
cùng khó trả lời…
Dòng trăn trở của tác giả
còn nối tiếp. Vẫn biết để có viên ngọc trai sáng trắng phải trải qua đau đớn
trong lòng con trai mới kết thành…
Ngọc trong đau đớn lòng trai
Vua ôm mối hận, đã vài ngàn năm…
Kim Quy buồn bã bặt tăm...
Triều thần tù tội, nát tan cửa nhà ...
Truyền thuyết tổ tiên ta
để lại có phần ưu ái cho mối tình của hai kẻ tiếp sức cho Triệu Đà thôn tính Âu
Lạc. Lẽ nào nước mắt xót thương vợ của một kẻ hãm hại cả một dân tộc rơi vào
“Nát tan cửa nhà” lại hoá thành những viên ngọc trai ... và khi được rửa ở nước
giếng mà hắn gieo mình tự vẫn lại sáng đẹp... hậu thế hôm nay dẫu có thắc mắc
thì cũng chẳng tìm ra được câu trả lời...
Nhưng việc mà vua mất cảnh
giác, thì hậu quả thảm khốc đến sẽ là tất yếu… Bởi khi ấy ngay cả thần Kim Quy
cũng không thể cứu vãn… chỉ có thể chỉ ra kẻ thù rồi “buồn bã lặn bặt tăm…”
Phải chăng ở đây tác giả
muốn mượn hình ảnh viên ngọc trai quý nhất, chính là nền hoà bình cho một dân
tộc mà xương máu lớp lớp tổ tiên đã đổ ra ... Đơn cử chỉ một trận đánh Gò Đống
Đa của Vua Quang Trung năm 1789 mà đã
Thánh Nam thập nhị kình nghê quán
Chiến điệu anh hùng đại võ công (Loa Sơn Điếu Cổ- Ngô Ngọc Du)
Dịch là
Thánh
Nam xác giặc mười hai đống
Ngời sáng anh hùng đại võ công
Hoặc:
“Đống Đa xưa bãi chiến trường
Ngổn ngang xác giặc vùi xương thành gò”.
Đó mới chỉ là máu xương
của quân địch….ai có thể đong đếm nổi “lòng trai mẹ” Việt Nam trải qua bao
nhiêu đời với triệu triệu anh hùng ngã xuống để có cuộc sống hôm nay…
Ngoài biển khơi kia sử
sách chẳng ghi nổi có bao nhiêu người đã ra đi làm nhiệm vụ giữ quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa không trở về… Chỉ biết ngay tại điểm xuất phát những chuyến đi
ấy là Đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Cho tới tận ngày hôm nay vẫn còn
giữ phong tục cúng tế “Lễ Khao Lề Thế Lính Hoàng Sa” (Tế người sống - tiễn
người sống ra đi mà ai cũng xác định sẽ không trở về). Theo sự phỏng đoán của
các sử gia thì chỉ tạm tính từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng trong thì những
người lính được gọi là Hùng Binh, đã vượt biển ra đảo Hoàng Sa và sau này thêm
Trường Sa từ Lý Sơn không dưới Vạn người. Mấy ai trong số đó trở về đâu…
bởi vậy nay trong dân chúng vùng này vẫn lưu truyền câu ca
Hoàng Sa trời nước mênh mông
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Tháng hai (ba) khao lề thế lính Hoàng Sa (ca dao)..
Xưa tổ tiên ta tế sống
những thanh niên trai tráng ra đảo bảo vệ chủ quyền bằng lễ “khao lề thế lính
Hoàng Sa”….
Thời hiện đại nay vẫn còn
75 người con nước việt nằm lại biển khơi trong trận Hải chiến Hoàng
Sa năm 1974 với quân Trung Quốc… và gần nhất là trận Gạc Ma với 64 người con
nước Việt nữa đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi…
Còn Đất rung chuyển nào đâu chỉ có xa xưa..
Gần đây ngay những năm
cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Mới “Hảo Hảo” ngày nào… Lập tức lật
mặt ngay. Chúng mang quân sang xâm lược năm 1979 những câu hát “Quân xâm
lược bành trướng dã man. Đã dày xéo mảnh đất tiền phương. Lửa đã cháy và máu đã
đổ trên khắp dải biên cương” (Chiến đấu vì độc lập tự do -Phạm Tuyên) đã phần
nào nói lên bản chất của quân xâm lược… và cuối cùng chúng phải bỏ lại xác hơn
ba vạn quân….rồi rút lui…
Viên ngọc hoà bình hôm nay
quả thật được hình thành từ Đau Thương…
Những “Đau thương còn mãi
trong ta...” lời nhắc nhở đầy trách nhiệm của một công dân yêu nước Trà Thanh
Lam vẫn còn tiếp tục:
Bài học ngày ấy...
nước nhà hôm nay!
Vâng nước nhà đang lâm
nguy, bởi kẻ thù đã vào tới cửa ngõ, chúng cắm giàn khoan, mang theo một lực
lượng hùng hậu tàu chiến, máy bay, tàu cá trá hình gây hấn trên biển Đông…
Trong nước chúng cho thương lái đi thu gom hết móng trâu bò, rễ tiêu, lá cà phê.. đỉa
và vô vàn những chiêu trò hại dân ta…
Việt Nam ơi! Cần lắm. Rất
cần những cái đầu tỉnh táo cảnh giác với “phường quay lưng” ngàn đời nay lăm le
cướp nước… Để sự ân hận muộn màng của An Dương Vương không bao giờ lặp
lại…
Và chắc chắn một điều,
lòng dân đoàn kết, lãnh đạo sáng suốt. Sẽ không có kẻ thù nào bước vào dẫu chỉ
một tấc đất hay một ngọn sóng ngoài biển khơi được.
Tôi xin mượn một đoạn ca
từ trong ca khúc “Chiến đầu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên để kết
thúc cho bài viết cảm nhận Đau Thương này:
Ôi đất nước của ngàn chiến công
Vẫn sục sôi khí thế hào hung
Những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa vẫn gọi tiếp những bản hùng ca
Việt Nam! Ôi nước Việt yêu thương
Lịch sử đã trao cho người một sứ mệnh thiêng liêng
Mang trên mình còn lắm vết thương Người vẫn hiên ngang ra chiến trường
Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người
Độc Lập- Tự Do!
Sài Gòn, 06/06/2014
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.HCM ngày 06.06.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi
Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét