Giữa tầng trời – Truyện ngắn Phạm Vân Anh (Hải Phòng)
Thứ Ba, 19 tháng 8, 2014
Ngày 23/06/2011
Đêm hôm trước còn lạnh như cứa thịt, vậy mà
sáng nay, những nụ đào đá trên đỉnh Cao Ba Lanh bỗng bật hoa. Màu hoa tươi nét
môi cô gái Dao đi làm cỏ lúa. Trên mỗi cánh hoa, có thể thấy khuôn mặt một
người lính trẻ ẩn hiện, nửa khắc khoải đớn đau, nửa cảm thông chia sẻ. Những
cánh đào như vẫy gọi đồng đội mình dấn bước./. …
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Phạm Vân Anh
Họ tên thật Phạm Thị Vân Anh
Sinh năm 1980 tại Hải Phòng.
Tốt nghiệp cử nhân ngoại ngữ.
Hiện công tác tại Điện ảnh Công an Nhân dân ở Hà Nội.
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam.
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tiếng
trùn kêu rỉ rách nghe ai oán và thê lương. Như hùa theo âm hưởng rả rích đội
đất mà hắt vào màn đêm man muội ấy, những đợt gió quái từ đâu luồn về, gãi
khành khạch vào đám lá rừng như rủ rê nhau chơi trò đuổi bắt khiến vạt rừng
hoang lan tỏa những thanh âm hỗn tạp, nửa reo vui, nửa ai oán bi thiết, tựa hồ
như có hàng ngàn vạn hồn cây, hồn cỏ thoát ra từ những thực thể tạm gửi trên
cõi đời tụ lại để mở hội quần lâm. Xa xa, ngọn Cao Ba Lanh ảo mờ, kiêu hãnh
khảm dáng núi vào tầng trời mênh mông sương muối một khối đen sừng sững cao gần
1.500m so với mặt nước biển. Cái dáng núi rùa rùa, tựa lưỡi rìu đá hướng lên
cao xanh đầy thách thức.
Giữa hoang lạnh nơi đầu rừng xó núi ấy, sáu
con người đang co tôm trong chiếc túi ngủ dã chiến không ai nhắm mắt. Họ so vai
lút sâu vào trong túi ngủ, cố tránh cái rét râm ran đang nhi nhút ngậm vào da
thịt đến tê cứng. Mỗi người một luồng nghĩ. Luồng nghĩ ấy bật ra từ ánh mắt
đang đau đáu nhìn lên tấm bạt che sương được giăng tạm vào bốn thân cây sa mộc.
Mười hai luồng sáng ấy sâu và mảnh đến mức, những loài phiêu sinh cuồng sáng
bay tới tìm phút thăng hoa để nổ tung trong cái nóng cháy nhòa chợt vỗ cánh
phân vân rồi xè xè đảo cánh bay đi.
Mỗi luồng sáng mang một nỗi niềm.
*
* *
Thượng tá Tuýnh nằm chếch cuối lán, đầu gối
lên gộc rễ của một thân cây dẻ rừng. Những búi rễ của loài cây không quen sống
trên đá cằn đội đất ngoi lên để tìm khí trời và hơi nước của những giọt sương.
Cái dáng nằm của người lính già trên tầng lá mục hơi doãi thẳng, vẻ bình thản
trước mọi điều giông gió. Cái bình thản của những con người đã từng đi qua cái
chết. Trong nhóm, ông là người già nhất, quân hàm cấp bậc cao nhất và điều đáng
nói là cái dáng nằm ấy đã quen với vùng rừng này từ rất lâu rồi. Từ thủa ông
cùng đồng đội bươn qua khói lửa của cuộc chiến tranh vệ quốc để giữ từng tấc
đất biên cương, nhiều nhóm phỉ và bè đảng đã từng treo đầu ông với giá 50.000
nhân dân tệ. Gắn bó với vùng biên viễn này đã 34 năm, dường như mỗi nhánh sông,
đỉnh núi đều quen thuộc với ông như máu thịt. Tuần trước, khi đặt bút ký
vào biên bản thống nhất vị trí cắm mốc, ông cảm thấy điều gì đó bất an trỗi lên
trong lòng mình. Bước chân qua bản Phiêng Lao,bà con trong bản vẫn
chào ông như lệ thường, vậy mà ông vẫn thấy như họ đang nhìn ông bằng ánh mắt
nghi kỵ, dò xét. Họ là những người năm xưa đã luôn cùng ông bất kể ngày đêm có
mặt ở đường biên mỗi khi xảy ra sự cố. Dựng lán trại ròng rã hàng tuần liền để
đấu lý, đấu trí với đám dân binh nước bạn, quyết không để chúng thay đổi dù chỉ
là mảy may hiện trạng đường biên. Ôngđó lẩn tránh ánh mắt họ.
Một lát sau, Thượng tá Tuýnh ngồi dậy
nhìn ra. Phải rồi, cái dáng núi rùa rùa như lưỡi rìu đi rẫy của người đàn ông
Sán Chỉ kia là nơi chứa đựng một câu chuyện từ thủa xa xưa cha ông ta giữ đất.
Truyền rằng, nối tiếp cái chí " Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc
ưng tu kế cửu an" của đức Lê Thái Tổ, một vị vua hiền đã ban chiếu đặt một
tảng đá có khắc niên hiệu lên đỉnh Cao Ba Lanh. Chiếu dụ viết rằng, tảng đá
phải được đặt trên đỉnh núi cao nhất để đánh dấu bờ cõi nước Nam ta bắt đầu từ
đó. Lệnh triều đình về đến Châu, rồi xuống các Lộ để quan binh theo đó mà cắt
cử các đinh tráng mang tảng đá lên đỉnh núi. Đã có bao người đi rồi nằm lại nơi
lam sơn chướng khí, nhưng tảng đá thiêng đã được đặt trên đỉnh cao hàng trăm
năm có lẻ. Dân đi rừng săn con thú, tìm cây thuốc trên núi căn cứ vào tảng đá
để không phạm sang đất ngoại bang. Tảng đá ấy ông đã nhìn tận mắt khi còn là
cậu tân binh vừa qua đợt huấn luyện vội vàng, run run sờ tay vào từng nét chữ
ngoằng ngoằng những ngang bằng sổ thẳng mà ngùi ngùi gọi hai từ Tổ quốc.
Tảng đá ấy đã mất rồi, mất cùng cái chết
của thằng Toại, thằng bạn nối khố của ông từ thủa chốc đầu ghẻ hoa cà hoa cải.
Nó với ông, hai thằng đều là con sãi ở chùa, đi lính nghĩa vụ rồi được xung
quân lên đây. Chả mấy khi đánh giáp lá cà nhưng ngày nào cũng có người hi sinh hoặc
dính pháo bị thương. Những nấm mồ đắp vội cứ nhiều dần lên trên ngọn đồi Sao mé
Pò Hèn. Những chân nhang cứ cháy bừng bừng như nhịp đập trong ngực trẻ.
Đêm thằng Toại đi cũng là một đêm rừng vặn
mình rên xiết. Trước đó, hai bên đã có qui ước tạm ngừng bắn để nhân dân xứ đạo
mừng ngày Phục sinh, vinh danh Chúa trên cao vời ban bình an một ngày thảnh
thơi không ì ùng pháo nổ. Khi tiếng chuông nhà thờ loang vào không gian từng
giọt thâm trầm, thành kính thì cũng là lúc pháo địch trên đỉnh cao nhả xuống
bình địa những cột khói đen mù, thảm khốc. Tiếng chuông ngân mắc lại giữa tầng
xanh bình yên như chưa bao giờ bình yên đến thế.
Khi ấy, ông và Toại đang nằm dài trên chốt,
nơi có tảng đá mang huyền tích trăm năm. Nghe tiếng pháo nã toang trời ấy, hai
thằng lăn vào bụi đúng lúc cả một tiểu đoàn biệt kích tiến vào đất của ta. Hai
thằng kê súng xả cả băng đạn vào những bóng người lừng lững đang rầm rập chạy
lại phía tảng đá. Địch khựng lại, nhanh chóng dàn đội hình khai hỏa cầm chân,
số khác hè nhau kê vai đẩy tảng đá xuống vực. Lúc ấy, chẳng hiểu thế nào mà hai
thằng cùng ngỏng dậy, lao về phía ấy. Tuýnh chỉ kịp nghe một tiếng nổ sượt qua
tai rồi tất cả trở nên hỗn độn, khuất lấp trong khói súng và bất thình lình,
một cảm giác đau dội từ phía dưới thắt lưng thốc lên đầu. Tưởng như não bộ bị
dày nát dưới gót giày đinh của một tên địch cuồng loạn. Khi tỉnh dậy trong lán
cứu thương, Tuýnh mới biết lúc đó Toại đã ôm chặt tảng đá không để đối phương
phá hoại. Cái thằng đúng là gan cóc tía, nó bị trói vào cột suốt 3 ngày đêm
ròng rã không được ăn uống mà vẫn quyết không buông tay. Địch chịu không thấu
cái gan tày đình của nó, và cũng không hiểu nổi vì sao thằng người này lại chịu
chết vì một cột đá đã bị thiên nhiên xâm thực, rêu phong đổ mốc. Chúng bàn tán một
hồi rồi hè nhau đào bật gốc cột đá, đặt thuốc nổ cho cả người lẫn cột cho đổ
nhào xuống vực. Sau một ngày một đêm chiếm cứ, cạnh nơi chôn tảng đá mọc lên
một chốt quân sự bằng bê tông khép kín. Hai tuần sau, già Pác cùng đám thanh
niên trai tráng đan mây rừng thành một chiếc thang dây xuống dưới tìm Toại, chỉ
thấy lổn nhộn những mảnh đá vỡ thẫm bết lại vì máu người. Trên đá, chỉ còn lại
những màng nhầy lúc nhúc lũ bọ ruồi đang hăm hở kết thúc bữa tiệc của mình.
Trượt đi hai mươi năm, khoảng thời gian ấy
nếu Toại đã kịp đầu thai thì bây giờ nó cũng trạc tuổi hai cậu lính trẻ cùng đi
làm nhiệm vụ khảo sát thực địa trong đoàn. Trượt đi hai mươi năm, sau khi giặc
rút lui, cả một vùng đất phì nhiêu mà ta giữ được đã nuốt vào lòng hàng tấn
thuốc nổ, bom mìn, tái tạo nên một vùng quê sung túc trù phú. Trượt đi hai mươi
năm, cái chốt quân sự nằm chềnh ềnh trên đỉnh Cao Ba Lanh cũng đã nứt toác, đen
đúa như con cá ngão chết trên bờ vẫn há cái mồm to đại đầy tham vọng bá chủ,
muốn nuốt một miếng thật to, thật ngập chân răng vào miếng đất hình con dúi lúc
nào cũng xanh mướt mát những ngô, những mía sâu phía trong biên giới. Nó là
chứng tích đau đớn nhất trong ông, là cái vết thương chưa bao giờ chịu thôi mẩy
mủ. Gần sáu tháng nay, ông đã đấu tranh bằng mọi lý lẽ, lần tìm qua từng rông
núi, từng vạt rừng để tìm thêm dấu tích và mọi cơ sở để có thể chứng minh dấu
mốc này là đúng, quyết tâm giành được ưu thế trong phân định
ranh giới, xác định dấu mốc cũ để đạt được thỏa thuận có lợi cho ta trên bàn
đàm phán. Ông và đồng đội đã giữ lại được vùng đất mà mỗi tấc đất là một tấc
máu ấy. Vị trí cắm mốc được cả hai bên đồng thuận chính nơi tảng đá thiêng đã
gội gió dầm sương hàng trăm năm có lẻ. Nhưng cái vực sâu thun thút đã hóa kiếp
thằng bạn chí cốt của ông cùng tảng đá thiêng lại thuộc về họ, cả cái vạt đất
dưới gốc cây sa mộc đã chôn một phần thân thể ông cũng sẽ nằm bên kia biên
giới. Hướng đi của đường biên đã được phân định như thế. Đêm đó, sau buổi khảo
sát song phương ấn định vị trí cắm mốc, ông ngồi trẫm mình trong màn sương như
một kẻ tội đồ ngồi xưng tội trước đất mẹ.
Nghĩ miên man, ông Tuýnh bất
giác nhìn sang hai chiến sĩ công vụ đang cuộn người trong túi ngủ như cái kén
con sâu kèn khổng lồ. Hình như hai đứa vẫn chưa ngủ, chốc chốc lại thấy chúng
trọ nhau rinh rích. Cả hai đều bằng tuổi ông và Toại khi ấy. Một đứa dưới xuôi
lên, còn một đứa là người Dao vùng Đình Lập vừa mới qua đợt huấn luyện tại
trung tâm rồi được điều lên đây làm nhiệm vụ. Giống như ông và Toại ngày xưa,
chúng rù rì tâm sự cho nhau nghe về những hoài bão sau khi xuất ngũ. Chúng coi
ông như cha, biết ông từng bị thương nên chăm chút ông nghiêm cẩn. Hai đứa trẻ
rất đáng yêu, non tơ và có cả chút máu anh hùng kiểu gà cồ ngứa cựa. Nhưng bù
lại chúng rất được việc, xăng xái thực hiện nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu cũng
không chút so đo hơn thiệt.
Nhưng chiều nay, sau khi lên kiểm tra công
tác chuẩn bị cho việc cắm mốc vào ngày mai, ông lại có cảm giác như ai đó đang
nhìn xuyên qua gáy mình nặng trĩu và buốt xót. Dường như mỗi chiếc lá phía sau
ông là một con mắt mang cái nhìn của thằng Toại, như lách vào ngực ông một mũi
dao.
"Toại ơi, tha thứ cho tao!...".
Ông nhìn lên tán cây rừng, cuống họng bật lên đau đớn một tiếng nấc cục vón vào
sương đêm thành dấu hỏi.
*
* *
Sương mỗi lúc mỗi dày, từng trảng sương
luễnh loãng tràn vào trong lán. Sương sục vào miệng khiến Đính cảm thấy khó
chịu như nuốt phải một sợi hoa lau, cảm giác vướng vất trong cổ họng, anh muốn
khạc thật mạnh nhưng sợ làm mọi người xung quanh tỉnh giấc nên lại thôi. Hít
đầy phổi luồng khí lạnh oai oải mùi lá mục và lừa lựa nuốt cái cảm giác vướng
vất ấy xuống. Ngoài kia như có tiếng mang tác gọi bầy thì phải, mà cũng không
hẳn, có lẽ là tiếng cáo cầy đi ăn đêm hoặc giả cũng có thể là tiếng rúc lạnh
lẽo của loài chim từ quy trong đêm vắng. Chiều nay, anh và người trưởng nhóm đã
nhìn sâu vào mắt nhau, hai đôi mắt cùng đỏ vằn lên những tia u uất. Anh biết
ông đang bị tổn thương, vết thương vô hình mà ngay cả chính anh cũng không thể
ngờ rằng nó lại đau và uất đến thế. Trong ánh sáng lạnh lẽo hắt ra từ chiếc đèn
huỳnh quang, anh thấy dáng ông nằm như một gốc gỗ đã bắt đầu khuyết hao vì tuổi
tác.
Làm lính biên phòng, vốn đã quen nhường cơm
sẻ áo, chia ngọt sớt bùi với đồng bào, Đính biết mình không sợ khó, không sợ
khổ mà chỉ sợ không còn được đồng bào tin yêu. Thời loạn lạc, dân bản tứ tán
khắp nơi, lối sống du canh du cư, đốt nương làm rẫy cứ kéo đời sống của đồng
bào ngày một lâm vào cảnh khó khăn khốn đốn. Lợi dụng sự cả tin và thiếu hiểu
biết của đồng bào, bọn người xấu đã tìm đến các bản để dụ dỗ, lôi kéo, vơ vét
thóc gạo, tiền của rồi xúi giục đồng bào bỏ nhà cửa, nương rẫy để vượt sang bên
kia biên giới. Cái lúc gian khó ấy, anh và đồng đội đã vượt qua. Nhưng còn cuộc
chiến bọc bằng gấm đỏ mà anh đang đối mặt, nó không đơn giản như anh tưởng. Nó
khiến anh có cảm giác mình đang gánh một vật vô hình trĩu nặng. Nước bạn đang
là một cường quốc có tiềm lực về kinh tế, có thế mạnh về chính trị, họ từng
phân giới cắm mốc với hơn mười nước khác nhau nên có nhiều kinh nghiệm trong
công tác phân giới cắm mốc và công tác ngoại giao. Chính vì lẽ ấy, họ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của họ, nên anh xác định bằng mọi giá phải kiên trì
thuyết phục, tìm đủ mọi lý lẽ để giữ lại từng tấc đất. Quyết tâm là vậy, nhưng
khi vào từng vị trí cụ thể thì mọi việc không hề đơn giản. Với vốn tiếng Trung
khá vững, sáu tháng nay, anh đã vận dụng
hết vốn từ của mình cũng như tất cả sự mềm mỏng, khéo léo của mình để chỉ ra
những điều căn bản liên quan đến vị trí cắm cột mốc trên đỉnh Cao Ba Lanh. Với
một cái đầu lạnh, qua những tháng năm dài theo ông Tuynh, người trưởng nhóm
đáng kính trọng đi khảo sát thực địa, anh nhận ra trong ông có một nỗi niềm
riêng với khu vực này nhưng không tiện hỏi, chỉ lặng lẽ quan sát ông và tự tìm
lời giải đáp cho riêng mình. Anh cũng hiểu rằng chính vì cái riêng ấy mà ông
kiên quyết đến cực đoan, nhất quyết không chịu lùi lại dù chỉ là 50cm. Trong
túi anh là tờ bản đồ đã được đánh dấu và ghi chép cẩn thận từng số liệu, chi
tiết mô tả hướng đường biên, thông số định vị GPRS của vị trí mốc. Toàn thân
anh đang căng tức vì cái lạnh xâm chiếm, bỗng chợt hâm hấp mồ hôi khi nghĩ về
tờ bản đồ ấy. Trên tuyến biên giới phía Bắc, chúng ta đã thống nhất với nước
bạn sử dụng bản đồ theo các công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 làm căn cứ.
Do hạn chế về điều kiện lịch sử, sự chênh lệnh về tỷ lệ trên bản đồ với địa
hình thực tế lớn, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới, nhiều nơi
không phù hợp với tình hình quản lý và thực trạng địa hình đã thay đổi do tác
động của thiên nhiên và con người, có chỗ trên bản đồ là sông thì nay đã là
làng xã có hàng nghìn dân. Hiện tượng nhân dân hai bên biên giới canh tác, sinh
sống chồng lấn sang đất của nhau khá phổ biến. Việc xác định lại biên giới sẽ
khiến một số diện tích của ta sẽ thuộc về bạn và một số diện tích đất của bạn
sẽ thuộc về ta, điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích và sinh hoạt của
từng người dân và từng xóm bản. Đỉnh Cao Ba Lanh rơi đúng vào trường hợp ấy.
Tự vấn
lương tâm mình, anh thấy mình không làm gì có tội với Tổ quốc, với bà con, bởi
cả nhóm đã dùng đến mọi nỗ lực cuối cùng. Chủ trương gấp rút hoàn thành công
tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến đẩy họ vào tình thế không thể kéo dài lâu
hơn được nữa. Ba tháng đầu thương lượng không đi đến thống nhất, cả hai nhóm
giữa ta và bạn đành tạm để lại điểm mốc này. Cho đến lúc toàn bộ số kilômét
đường biên do nhóm phụ trách đều đã hoàn thành căn bản thì họ tiếp tục quay
lại. Nhóm của anh khảo sát tuyến đường biên, hướng chạy của đường biên theo căn
cứ vào địa hình, căn cứ vào dấu mốc cụ thể rồi đo bằng máy định vị toàn cầu,
máy đo vẽ bản đồ điện tử, sau nhiều lần đo đã xác định được điểm trùng khớp là
nơi ông Tuynh chỉ, nhưng phía bạn vẫn không chấp nhận. Bằng cứ của họ là cái
chốt quân sự còn sờ sờ ra đấy nên hướng đường biên không thể cắt cái chốt quân
sự ấy về phía Việt Nam. Hôm sau, họ chấp nhận dỡ bỏ chốt để đặt cột mốc vào
chính điểm đó, nhưng do hướng đường biên chạy lệch sang hướng đông bắc gần 10
độ nên dãy bạch đàn lại nằm bên đất của họ. Một mét đất chạy dọc không phải là
nhiều, nhưng nó là đất cha ông, nó can hệ đến gần hai chục hộ dân sống ngay
trên đường biên mới. Trước đây, chính anh là người đã vận động họ ra đây cắm
bản. Họ đã vật đất cằn mà trồng lên đó những nương chè, những trảng dong riềng
đang vào độ cho thu hoạch. Một chòm bản đã xanh cây ấm bụi. Vậy mà chưa đầy 8
năm, hàng bạch đàn hương anh trồng mới trổ mã, tróc lớp vỏ sù sì phía ngoài để
khoe thân cây thẳng tắp, nuột nà như một hàng kiêu binh, anh lại phải đối mặt
với việc thuyết phục những người dân ấy phải bỏ một phần ruộng nương của họ để
lùi vào sau đường biên giới. Sao mà khó.
Trước ngày đội trưởng hai đội phân
giới cắm mốc hai nước kí vào biên bản in kèm theo ảnh chụp hiện trạng bằng
tiếng Việt Nam và Trung Quốc, Đính đã ngồi rất lâu với nhóm trưởng của mình,
đăm đắm hết nhìn vào tấm bản đồ rồi lại nhìn ra thực địa. Những đứa trẻ trong
chòm bản trên đỉnh núi cởi truồng nhồng nhỗng, săn chắc như hạt dẻ rừng đứng
tụm lại dưới gốc bạch đàn chỉ trỏ bàn tán điều gì đó. Ông Tuynh nhìn về phía
đỉnh núi hình lưỡi rìu, ném mẩu thuốc đang cháy dở xuống đất, lấy mũi chân di
xiết, bảo: "Phải quyết thôi Đính ạ, không còn thời gian nữa. Đời người
chẳng cầu gì hơn là cầu an, quốc gia cũng vậy. Giữ được đất, giữ được hòa bình
là quyết tâm chiến lược của chúng ta". Đính xoạc chân bước dọc hàng bạch
đàn hương, quay lại từ tốn trả lời thủ trưởng, rằng: "Em cũng xót lắm anh
ạ, đất này là máu chứ đâu phải chỉ là đất thường, một tấc cũng đáng giá ngàn
vàng, dễ gì mà buông tay được. Mình đã buộc họ phải phá bỏ cái chốt quân sự kia
đi cũng đã là một thành công lớn rồi. Cột mốc mới cũng sẽ được đặt ngay chỗ
tảng đá khi xưa theo cách "phân mao cỏ giẽ" của các cụ ngày xưa. Sáng
nay già Pác lên gặp em, bảo rằng con bộ đội hãy cứ yên tâm mà làm đi, dân bản
hiểu lòng bộ đội mà. Mấy cây bạch đàn ấy cũng do con bộ đội trồng, không có con
thì dân bản đâu được có ngày này. Thôi thì cái gì nó không phải của mình, nếu
phải bỏ thì bỏ con ạ. Chỉ cần bản Phiêng Lao này còn, già Pác này còn thì dân
Phiêng Lao vẫn là người Việt Nam mà. Nghe ông cụ nói vậy em cũng thấy đỡ tủi.
Anh biết không, hàng bạch đàn này do chính tay em trồng khi mới lên. Nhiều lúc
nhớ nhà, lại chạy từ đồn ra đây mắc võng, ngủ trong cái mùi tinh dầu bạch đàn
thơm dìu dịu như ve vuốt, cứ ngỡ như mình được nằm kềnh trên tấm phản bạch đàn
ở quê hồi bé, vạch mông ra cho mẹ gãi. Trước khi cắm mốc, chắc em cũng thuận
cho bà con chặt đi làm cột kèo để dựng nhà mới. Nghĩ tiếc hùi hụi nhưng cũng
chả sao được, chả nhẽ để nó thành đội kiêu binh của nước họ. Thôi thì chặt béng
đi cho nhẹ lòng. Chứ cứ để những búp lá kia vẫy vẫy trong gió như hàng quân
đang giơ tay chào mình, nhưng lại không phải là người của mình nữa thì em uất
lắm bác ạ".
Sâm sẩm tối hôm ấy, anh thấy ông Tuynh lầm
lũi đi về hướng đường biên. Khi về, trên tay ông là một bọc đất được gói cẩn
thận trong chiếc khăn tay trắng.
Lan man theo đuổi theo những ý nghĩ ấy,
Đính thiếp đi. Trong mơ, anh thấy cột mốc mang ý tưởng dáng hình cây tre và
phiên hiệu của Việt Nam sừng sững trên đỉnh Cao Ba Lanh, bên cạnh cột mốc, một
người lính còn rất trẻ, chiếc áo loang vết máu đứng nhìn câm lặng. Do dự một
thoáng, người lính giơ tay nghiêm cẩn chào cột mốc rồi vút hóa thành một dải
mây hồng bay lên.
*
* *
Trong lán có tiếng trở mình nặng nhọc. Dù
trời đã vào xuân, nhưng cái rét dường như vẫn luôn ngự trị trên từng mỏm đá,
cành cây. Sáng nay, trên đường lên điểm mốc, những cành đào vươn lên trời những
nhánh gầy ngạo nghễ vẫn chưa thể bật mầm mà đơm hoa. Đêm lạnh như tiếng hú dội
của núi rừng, Vũ khẽ rùng mình, dịch người sát lại chỗ Khủa Chứ. Hai đứa là tân
binh cùng tiểu đội huấn luyện, rồi cùng được phân về đây nên thân nhau lắm. Vũ
chỉ ức cái là thi thoảng trong lúc cao hứng, Khủa Chứ lại lầm rầm phát
"sóng ngắn", nhỡ nó nói bậy mình thì mình cũng chả biết. Chứ là người
Dao ở Lạng Sơn, thô mộc như cái quẩy tấu và vụng nấu nướng, bảo mãi cũng chả
sáng lên được tẹo nào, nhưng được cái Chứ hồn nhiên, lại thông thạo địa bàn nên
có nó, mình cũng đỡ vất vài phần.
Vũ nhớ lại lần cắt phép về nhà trước khi
lên đơn vị mới, bố cậu đã gọi thằng con trai độc nhất vào từ đường họ, kính cẩn
thắp nén hương bài rồi lầm rầm khấn. Ông cụ nhón một ít tàn nhang, một ít đất
bỏ vào chén, đổ đầy rượu đưa cho con trai, bảo, uống đi cậu lính trẻ, hãy đặt
linh khí của đất làng mình, đặt phúc ấm của tổ tông vào trong lòng mình. Bố
không theo con được, đành nhờ các bậc trưởng thượng, nhờ hồn làng đi theo con
mà bảo vệ, che chở. Vũ đón chén rượu uống cạn, cuống lưỡi đọng lại chút gợn gợn
của đất và vị lợ của tàn nhang mà hai mắt ầng ậc nước. Loáng cái mà đã được gần
hai năm Vũ được biên chế về nhóm.
Chứ hình như cũng chưa ngủ, thấy Vũ nằm sát
cạnh mình, cậu quay lại nằm úp thìa, khẽ cà cà cái cằm nhọn hoắt vào vai bạn.
Vũ ngửi thấy mùi mồ hôi chua chua. Cái thằng, lười tắm khủng khiếp, vào những
ngày lạnh như thế này thì khó mà bắt nó tắm được. Chứ kể rằng tổ tiên người Dao
đã đến đất này từ 300 năm trước, cả nghìn người đi, chỉ có vài trăm sống sót
nên họ bắt buộc phải thích nghi với cuộc sống khắc nghiệt nơi đầu rừng xó núi.
Chứ chịu lạnh giỏi nhất nhóm, có lúc anh Đính đùa rằng: "Tại mày không
chịu tắm, ghét nó dầy cả gang nên có rét thế chứ rét nữa cũng chả chạm đến thịt
của mày được". Thế là nó lăn ra cười khơ khớ, lật áo bông lên kỳ ghét xem
có đúng ghét dày cả gang không.
Hai thằng cùng tuổi nên cũng dễ thân nhau.
Gần hai năm qua, không ít lần Vũ và Chứ theo các chú, các anh làm nhiệm vụ
trong hơi đá lạnh đến run người, mặt nước đóng băng và bụi tuyết bay trắng
trời. Mỗi điểm mốc, họ phải khảo sát hàng chục lần, thậm chí có điểm nhìn thấy
đỉnh núi rồi mà phải mất cả tuần mới mở đường lên được tới nơi. Cả nhóm thường
nai nịt kỹ càng trước khi lên đường, vậy mà chỉ đi được nửa chặng thì chiếc áo
bông nặng trĩu vì ngấm nước do sương mù và bông tuyết, biđông nước mang theo
cũng lếnh láng đông. Có đêm, họ dựng trại ngủ giữa lưng chừng núi trong cái
lạnh xuống đến 0 độ. Nửa đêm, mưa bất chợt đổ xuống, dòng nước đỏ ngầu đất núi
chảy thành từng dòng suối nhỏ quanh lán trại. Những người trong nhóm ngồi sát
bên nhau, chia sẻ hơi ấm của tình đồng đội chờ cho cơn mưa dứt...
Vũ biết chú Tuynh không có gia đình nên
thương chú lắm. Cái dáng khắc khổ của chú cứ cắm cúi đi như lao về phía trước
sao mà giống bố Vũ thế. Hiếm thấy người nào tận tụy với công việc như ông. Vũ
và Chứ làm công tác hậu cần cho cả nhóm nên hai đứa bảo nhau chăm chút ông chu
đáo. Biết ông nghiện uống búp chè xanh buổi sáng, Chư lần mò vào rừng, hái về
trữ trong giỏ. Chỗ nào dựng lán trại có nguồn nước còn đỡ khổ, những chỗ không
có nước, hai đứa phải đào nhiều hố sâu quanh khu vực dựng trại, lót nilông sạch
để hứng nước mưa hoặc sương đêm. Sáng ra, những hố nước đọng đỏ đất đồi ấy
được chắt từng bát để rửa mặt, đánh răng và nấu ăn sáng cho cả nhóm. Riêng với
ông Tuynh thì phải làm cầu kỳ hơn, chỗ nước ấy, Vũ đun sôi rồi cho vào lọc qua
vải mỏng, đun lại lần nữa rồi mới hãm chè. Có thế, nước chè mới không bị nồng.
Mỗi sáng nhìn ông Tuynh uống một ngụm nước, súc sòng sọng trong miệng, phun
đánh xoẹt một cái rồi mới cẩn thận nâng chén chè lên mà chiêu từng ngụm khoan
khoái, Vũ thấy hãnh diện lắm. Bố đã dặn rồi, đi công tác xa gia đình thì thủ
trưởng cũng như bố mẹ mình, phải biết trân trọng. Vả lại thủ trưởng của Vũ oách
lắm chứ đâu có phải tay mơ. Vũ viết thư về cho gia đình, kể chuyện đấu tranh giữ
đất trong mỗi lần tiến hành phân giới của chú Tuynh. Khi tiến hành khảo sát
song phương ở mốc 1368, trưởng nhóm phân giới cắm mốc của bạn là nữ giới đã ném
cái nhìn sắc lẻm vào ông, chỉ thẳng tay vào mặt mà hỏi: "Đồng chí xác định
vị trí này, nghĩa là lấn sang đất của chúng tôi, nếu sai đồng chí có xấu hổ
không?". Ông điềm tĩnh, khoát tay vẽ một đường hình vòng cung lên khoảng
không trước mặt: "Căn cứ vào các dấu mốc, chúng tôi xác định đây là khu
vực cắm mốc. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm". Lần khảo sát tiếp
theo cho thấy vị trí ông chỉ là chính xác, anh Đính hỏi lại nhóm trưởng phía
bạn, rằng, lần trước đồng chí chỉ sai, đồng chí có xấu hổ không. Họ tỉnh bơ,
trong việc này, sai là chuyện bình thường (!). Khi ấy, ông Tuynh nói mà như
không nói: “Để mất đất là có tội với nhân dân, có tội với Tổ quốc chứ không chỉ
là chuyện xấu hổ. Chúng tôi không cần đất của các bạn, chỉ cầu giữ đúng đất của
mình nên trong quá trình công tác, chúng ta nên cố gắng hiểu nhau hơn". Vũ
đứng nhìn ông dưới nắng chiều giữa cỏ cây miền biên viễn, có cảm giác thân thể
ông tỏa ra những tia sáng ấm nóng đáng tin cậy như một giáo chủ đứng trước giáo
dân của mình vậy.
Hồi mới về nhóm, cậu thấy những khu vực
khảo sát toàn núi đồi hiểm trở, sản vật chẳng có gì, lơ thơ vài ba chòm bản với
những người dân khổ hạnh, bám lấy núi rừng như định mệnh. Ở quê Vũ, bờ xôi
ruộng mật nhiều, những mảnh đất chó ỉa bỏ hoang cũng còn khá hơn những thửa
ruộng ở trên này. Có lúc buột miệng, Vũ bảo: "Toàn núi đá cả, chả dùng
được vào việc gì, nếu phía họ muốn lấy thì cho quách họ đi!". Ông Tuynh
nghe thấy chỉ cười. Mãi đến khi cả nhóm trở về đồn nghỉ, ông mới gọi Vũ ra mà
nói những điều về chiến lược an ninh quốc phòng, về nguồn nước, địa chí vùng
dân sinh, về tuổi trẻ của ông cùng người bạn chí thân đã bỏ quên đời mình dưới
lòng vực thẳm. Cứ thủ thỉ như thế suốt đến khi đi ngủ, Vũ vỡ ra bao điều. Và
chưa lúc nào, cậu cảm thấy yêu những vùng núi rừng hoang vu mình đã đi qua và
đang tới đến như thế.
Có tiếng rù rù vỗ cánh của con cành cạch, rồi
có tiếng thở dài tưởng đến dứt ruột. Không cần nhìn, Vũ cũng biết đó là ông
Tuýnh. Mỗi lần tình hình trên thực địa có chiều hướng không như ý, thế nào đêm
về ông cũng sẽ thở dài suốt đêm. Vũ biết, đêm nay cũng vậy. Không ai yêu đỉnh
Cao Ba Lanh hơn ông được!
*
**
Ông Tuynh đã thôi trằn trọc. Vuốt tay lên
mặt, thấy râu mọc dùm dề chỉ sau có một đêm. Trời tang tảng sáng. Theo kế
hoạch, hôm nay họ sẽ tiến hành cắm mốc trên đỉnh Cao Ba Lanh. Vật liệu xây dựng
và cột mốc đã được vận chuyển lên từ chiều hôm trước. 8 giờ sẽ chính thức cắm
mốc trước sự chứng kiến của cả hai bên. Ông thấy mình cần phải chợp mắt cho lại
sức. Lát nữa đây ông sẽ lại lên trên ấy, nơi thằng Toại đang nằm, sẽ chứng kiến
phút giây cột mốc mới được đặt vào đúng mô đất trước đây từng là nơi tiền nhân
đã đặt tảng đá thiêng. "Chỉ có điều tao không giữ được nơi mày nằm lại
Toại ạ, mày đã thịt nát xương tan không còn thể phách để hồn về trú ngụ, giờ
thì cái vực ấy cũng không còn là nhà của mày nữa. Mày sống khôn thác thiêng thì
cứ oán tao nhiều vào nhé. Tao sẽ chiêu hồn mày về bên này cột mốc. Rồi đây cột
mốc mới sẽ là nhà mày. Mày sẽ luôn ở bên bảo vệ cột mốc được vững bền vạn
thủa".
*
**
Đêm hôm trước còn lạnh như cứa thịt, vậy mà
sáng nay, những nụ đào đá trên đỉnh Cao Ba Lanh bỗng bật hoa. Màu hoa tươi nét
môi cô gái Dao đi làm cỏ lúa. Trên mỗi cánh hoa, có thể thấy khuôn mặt một
người lính trẻ ẩn hiện, nửa khắc khoải đớn đau, nửa cảm thông chia sẻ. Những
cánh đào như vẫy gọi đồng đội mình dấn bước./. …
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại- ngày 19/08/2014
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 19/08/2012 Cập nhật lại- ngày 19/08/2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét