Đôi lời về dịch thơ Đường (Nguyễn Khôi gửi nhà thơ Đỗ Trung Lai)
Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014
Nhà thơ Đỗ Trung Lai (sinh 1950 ở Phùng Xá, Mỹ Đức, Hà Tây cũ) vừa xb cuốn "100 nhà thơ Đường- Đỗ Trung Lai soạn sách & dịch lại thơ", trước đó anh đã xb 3 cuốn tương tự về Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Nguyễn Khôi
Quê gốc Làng Đình Bảng Bắc Ninh, Hiện sống và viết ở Hà Nội.
Email: khoidinhbang@gmail.com
_____
Quê gốc Làng Đình Bảng Bắc Ninh, Hiện sống và viết ở Hà Nội.
Email: khoidinhbang@gmail.com
_____
ĐÔI LỜI VỀ DỊCH THƠ ĐƯỜNG
(Gửi: Nhà thơ Đỗ Trung Lai)
***
Nhà thơ Đỗ Trung Lai (sinh 1950 ở Phùng Xá, Mỹ Đức, Hà Tây cũ) vừa xb cuốn "100 nhà thơ Đường- Đỗ Trung Lai soạn sách & dịch lại thơ", trước đó anh đã xb 3 cuốn tương tự về Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Cảm tưởng đầu tiên là trang trọng: ĐẸP cả về hình thức lẫn nội dung, xứng đáng là một tư liệu quý để ai đó thích nghiền ngẫm "Đường thi".
Theo thiển ý của NK thì thành công chủ yếu của Đỗ Trung Lai là anh đã tạo được một sân chơi: thỏa mãn một nhu cầu là "tuyển" & "dịch" những Tác giả & Tác phẩm thơ Đường mà anh yêu thích để cống hiến cho bạn đọc thưởng thức hàng nghìn bài thơ Đường với nhiều bản dịch của nhiều Dịch giả có tên tuổi nổi tiếng và chưa nổi tiếng? Công phu lắm, tâm huyết lắm mới làm được như Đỗ Trung Lai!
Tuy nhiên, do tuyển với số lượng lớn, mỗi bài lại có từ 2 đến 5 "Nhà dịch"- trong đó Đỗ Trung Lai thường là dịch 2 lần (1 theo thể Đường luật, 1 qua vần Lục bát) thì quả là không hề đơn giản, khó tránh khỏi các thiếu sót... Ví dụ:
*Bài "Thu phố ca" của Lý Bạch, thì bản dịch của Trúc Khê nổi tiếng lâu nay lại chưa được đưa vào:
Tóc trắng ba ngàn trượng
Vì buồn, dài lạ sao!
Trong gương thật chẳng hiểu
Sương thu vào lối nào!
(Trang 31/ Lý Bạch. nxb Văn học Hà Nội 1992)
*Bản diễn nôm "Phong kiều dạ bạc" của Trương Kế là của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) tài hoa ngang ngửa với Thánh Quát, ông là thầy dạy vua Thiệu Trị, chứ không phải của Tản Đà:
ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở BẾN PHONG KIỀU
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Nguyễn Hàm Ninh - diễn nôm
Dị bản:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ
...
Dị bản:
Quạ kêu, trăng lặn, sương mờ
Bên sông lão khách lập lòe lửa câu
...
*Bài "Trúc lý quán" của Vương Duy: ở đây cần phân biệt chữ "lý" (điền/thổ) là nơi ở, với chữ "lý" (mộc/tử) là cây mận, do đó "Trúc lý quán" là Dặm trúc, ở trong Võng Xuyên, nơi ẩn của Thi nhân.
QUẤN TRÚC LÝ
Một mình trong đám trúc
Khảy đàn, huýt gió chơi!
Rừng sâu người chẳng biết
Chiều nhau, trăng sáng ngời.
Đinh Vũ Ngọc (Hội An) dịch
*Bài LỘC SÀI của Vương Duy:
Không sơn bất kiến nhân
Đãn văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
- Lộc Sài (có bản đọc là "Lộc trại", có người cho là Trại nuôi hươu? thực đó là 1 địa danh du ngoạn nằm trong vùng Võng Xuyên.)
- Phản cảnh: từ Hán cổ, cảnh tức là ảnh,đồng thời có nghĩa là ánh sáng, nên "phản cảnh" là ánh sáng phản chiếu:
Núi vắng không bóng người
Chợt nghe tiếng ai vang
Nắng soi rừng núi thẳm
Chiếu rạng đài rêu xanh.
Vũ Thế Ngọc (Hoa kỳ) dịch.
Chao ôi, cái đặc sắc của Đường thi xưa nay làm các Thi nhân Việt bị "hút hồn" đó là vì sự điêu luyện của nghệ thuật thơ ca: sinh động & sâu sắc. "Các nghệ sĩ Đường thi thể hiện tâm trạng hay mô tả sự vật bao giờ cũng chỉ phác vài nét, không dùng nhiều ngôn từ, mà chủ yếu làm sao cho những lời, những chữ tưởng như cũ nhưng lại mang được ý nghĩa mới bằng cách so sánh, phát hiện tính tương đồng giữa nó với đối tượng mới" -(ý mới/ tứ lạ là thế). Cái tuyệt tác của "Tứ tuyệt" là sự kết hợp tài tình giữa cái tả cảnh & tả tình (Tình- cảnh- sự hài hòa làm nổi bật lên chủ đề) để toát ra cái "ý tại ngôn ngoại" để Người Việt ta tha hồ "cảm" được cái thần diệu của Đường thi mà suy tưởng...có lẽ vì thế mà có "nhiều bản dịch" khác nhau, đọc đều thấy thích thú?! Ví dụ:
Chỉ một câu "Đáo địa nhất vô thanh" của Vi Thừa Khánh, mà có nhiều "cách dịch" khá hay. :
- Chạm đất một tiếng thầm (Nguyễn Khôi)
- Không lời trên đất vọng về nhân gian (Đỗ Trung Lai)
- Lúc rơi xuống đất tuyệt không tiếng gì (Tương Như)
- Lìa cành về đất không hề tiếng rơi (Vũ Minh Tân)
- Lặng yên xuống đất một lời không than (Đinh Vũ Ngọc)
Có một Dịch giả nổi tiếng (trước 1945) là Nhượng Tống (VNQDĐ bị VM giết) đã dịch "Mái Tây" (Dưới mái tây hiên) của Vương Thực Phủ, nên thường in là NT.- không phải là Nam Trân, ông có nhiều bản dịch Đường thi được cho là có HẠNG?
NK có một điều băn khoăn là: "Thơ Đường 100 nhà" với "100 thi cách" độc đáo khác nhau mà lại do "1 Dịch giả (1 Nhà)" với 1 Thi cách ra công "dịch" thì e rằng vô hình chung đã lấy "thi cách-giọng điệu" của 1 nhà "úp" bao trùm (xào nấu-vo tròn) 100 Nhà thì cái "hồn cốt"- phong cách tiêng tây kia liệu có còn giữ được cái "chất" độc đáo (như Thi tiên Lý Bạch, Thi thánh Đỗ Phủ, thơ ma Lý Hạ...) là bao nhiêu đây?
Đôi lời kết: công trình soạn sách & dịch lại Thơ Đường Của Đỗ Trung Lai thật là ĐÁNG ĐỌC, chưa "toàn bích" thì cũng là lẽ thường tình, Bảng nhãn Lê Quý Đôn xưa đã từng răn dạy:
"Văn chương là của chung thiên hạ. Ý mỗi người mỗi khác. Phân tích thì được. Chứ không nên chê mắng."
Đôi lời nông cạn, gọi là một chút cảm nghĩ chia sẻ...có điều gì bất cập xin được Nhà thơ - Dịch giả & các Bạn Thơ chỉ bảo.
Góc thành nam Hà Nội 30-10-2014
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 30.10.2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét