Home
» Thư viện văn xuôi
» Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng): Bến xuân/ Kỹ nữ Đồng Nai/ Cặp mắt đen/
Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng): Bến xuân/ Kỹ nữ Đồng Nai/ Cặp mắt đen/
Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014
Bến
xuân – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
10/12/2011
Ông yêu
những cơn mưa đêm. Có ai đó ở vào thế kỷ của những thiên tài, một đêm cô độc
trên hè phố vắng lạnh đã gõ cây can lên những thanh hàng rào bằng gang đúc hình
hoa văn gô-tich của một khu vườn và chợt thích thú nhận ra bản nhạc "Dạ
khúc gô-tich bằng gang" của mình ngẫu nhiên giống tiếng gõ câm trên phím
dương cầm. Giai thoại về Mozar hay Beethoven? Ông không nhớ rõ. Có những giai
thoại do người nguỵ tạo để tôn vinh một người này, để thoá mạ một người kia;
hay đơn giản là chỉ để cho vui.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
BẾN XUÂN
Ông
yêu những cơn mưa đêm. Có ai đó ở vào thế kỷ của những thiên tài, một đêm cô
độc trên hè phố vắng lạnh đã gõ cây can lên những thanh hàng rào bằng gang đúc
hình hoa văn gô-tich của một khu vườn và chợt thích thú nhận ra bản nhạc
"Dạ khúc gô-tich bằng gang" của mình ngẫu nhiên giống tiếng gõ câm
trên phím dương cầm. Giai thoại về Mozar hay Beethoven? Ông không nhớ rõ. Có
những giai thoại do người nguỵ tạo để tôn vinh một người này, để thoá mạ một
người kia; hay đơn giản là chỉ để cho vui. Nhưng bản Nocturnes của Frédéric
Chopin thì có hẳn một đoạn sử dụng toàn những nốt câm - Armonic, như tiếng gõ
vào những thanh hợp kim nặng, nghe tưng tức. Và cũng giống tiếng mưa rơi.
Ông
cũng rất sợ những cơn mưa đêm. Cơn mưa tinh quái như biết có người phải khổ sở
vì nó, nên đã tạo ra đủ các giai điệu và khúc thức từ tiếng lộp độp tẻ nhạt để
hành hạ người mất ngủ. Tiếng những giọt nước còn sót lại của cơn mưa rơi trên
lá cây, trên mái ngói cũ phủ rêu giống tiếng bước chân dè dặt, cũng giống tiếng
nấc của cô gái làm nghề "ăn sương" đêm đêm đội mưa trở về căn nhà nát
trong ngõ hẻm, dưới ngọn đèn đường vàng đục; mà một nhạc sĩ tên tuổi, người ký
tên chung với ông trên nhiều ca khúc, đã viết trong một bài hát buồn lê
thê:
"Đường về đêm đêm mưa rơi ướt
bước chân em..."
Tiếng mưa đêm có khi còn là cơn lốc rào rào sỏi đá tàn nhẫn ném vào nơi
mẫn cảm nhất của hồn ông; là những giọt băng muối buốt lạnh từ chót nhũ đá nơi
huyệt động thâm u chậm rãi từng giọt đều đặn rơi vào cân não ông như một cực
hình thời trung cổ. Tiếng mưa còn là những giọt chì sôi bỏng rỏ cách đều nhau
làm thủng cháy lỗ chỗ cái khoảng không gian tối đen êm ấm như nhung mà hồn ông
đang nương náu.
Mưa
rơi trong nhiều ca khúc của ông. Lúc này ông bỗng nhớ tới một câu hát ngày
xưa:
Người đi theo mưa gió xa muôn trùng.
"Người đi"... "mưa gió"... "muôn
trùng"... Lẽ ra ông phải thấy được sự cũ kỹ của những câu hát như vậy
ngay từ khi chúng mới được viết ra, nhất là cái "muôn trùng" ấy. Vậy
mà ngày nay người ta lại thích hát và nghe những bài hát như thế. Như thú chơi
đồ cổ. Có lần ông đã nóng bừng mặt vì ngượng khi bắt gặp ở bến tàu cặp vợ chồng
người hát xẩm đàn hát thảm thiết một bài ca của ông bạn nhạc sĩ, người đã viết
ca khúc về cô gái điếm đi trong đêm mưa, người đã săn sóc những ca khúc đầu tay
của ông:
Và ngày (à)... Và ngày tôi đã bị
thương a...
Thân tàn, (mà)... nhưng chí, (ấy
mấy)... còn vương (ai ơi) mây trời... ý ỳ y y...
Ông
sợ rằng ở một bến đò hay một chợ quê nào đấy người hát rong mù loà với chiếc
nhị cò cư cũng gân cổ hát bài hát của ông với những câu đệm "ấy mấy",
"ai ơi" kia. Có thể người bạn nhạc sĩ ấy sẽ thú vị khi thấy nhạc của
mình đã đến được với những người bình dân, dù đến bằng cách như vậy. Vì ông ta
cố ý viết nhạc của mình đậm chất đồng quê Việt với những cánh đồng lúa xanh và
những thằng Cuội chăn trâu. Còn ông, ông muốn rằng dù đến với ai, nhạc của ông
vẫn phải được nguyên vẹn như khi nó được sinh thành, những nhạc phẩm ảnh hưởng
dòng nhạc lãng mạn Pháp một thời.
Tuy
vậy, những bài hát thời đó thường theo vài khúc thức thông dụng, giai điệu đều
đều buồn tẻ với giọng Rê thứ, La thứ rất êm tai, dễ sáng tác và dễ thuộc, nghe
câu trước biết nhạc điệu câu sau, thậm chí cả lời ca nữa cũng có thể suy đoán
trước những từ ngữ. Ông đã tìm cách vùng thoát khỏi cái dòng nhạc ngọt nước
đường này, nhưng chính bài hát ông viết về Nàng lại sa vào bãi lầy ấy. Bài hát
này tồn tại được đến ngày nay vì ông đã gửi hồn mình vào đó, và còn vì tên tuổi
của ông nữa.
Luồng ánh sáng lọc qua tán lá sấu cổ thụ um tùm ngoài cửa tràn vào phòng
qua cánh cửa rộng mở, những bóng nắng đậm nhạt sinh động rọi trên mặt bàn và
trên người ông. Ông đang ngồi trong ánh hồi quang của quá khứ với những hình
ảnh chập chờn từ chiếc máy chiều thời gian. Ông đang ngồi bên cửa sổ con tàu
chạy ngược thời gian và bóng dáng ngày xưa bên đường hắt vào khoang tàu. Ông
ngồi đó với mớ tóc dài và bộ râu thưa trắng xoã của nhà giả kim thuật đang nung
luyện những khổ đau mà kiếp người có thể chịu đựng được và cả những nỗi tủi
nhục mà con người không thể chịu đựng được, để trở thành những tác phẩm nghệ
thuật.
Ông
ngồi im lặng, râu tóc trắng rũ xoã xượi như một đạo sĩ, chén rượu đặt
trên bàn trong tầm tay, không cần nhìn vẫn có thể cầm đúng cái chén nhỏ mỗi khi
muốn nhấp vài giọt. Thứ rượu trong vắt như nước cất, có chất men lạ, uống vào
không bốc sực lên, cũng không đằm đượm âm ỷ, chỉ thấy nhàn nhạt man mát chút vị
ngọt mơ hồ của kẹo mạch nha; đến khi lan trên lưỡi thấm xuống cổ, cuống họng
bỗng ứ lại một nỗi nghẹn ngào bất chợt.
Ông
thường đến cái quán rượu đêm tồi tàn bên đường tàu hoả. Người chủ quán già lưng
hơi còng khuôn mặt nhăn nhúm và bàn tay khô héo bưng cho ông chén rượu nhạt
thếch với món nhắm nguội ngắt. Ông cố nhấm nháp những thứ vô vị đó chỉ để có cớ
ngồi lâu giữa không gian nghèo nàn bụi bậm ấy. Thỉnh thoảng những toa tàu hồng
hộc chạy qua, như một con vật khổng lồ dư thừa sức lực nhưng bị kiềm chế, uất
ức rống lên tung bụi than cuồn cuộn vào gian quán nhỏ, phủ lên những đồ vật vốn
đã đầy bụi, thêm một lớp bụi mới nữa. Ánh đèn điện cũng ám bụi. Cả những người
trong quán cũng phủ đầy bụi im lìm như bị phù phép ngồi bất động từ trăm năm
trước trong câu chuyện cổ tích. Trên những chiếc bàn vuông cáu bẩn, mấy chiếc
đĩa nhôm méo mó đựng những hạt lạc quắt queo loại thứ phẩm dành cho gà vịt, và
vài miếng bánh đa vụn như mảnh vỡ của một loại đồ gồm thô thiển. Đám khách rượu
quần áo lôi thôi bạc thếch lặng lẽ nhấp những chén rượu màu nước hến nấu từ
khoai, sắn. Dưới ánh sáng vàng bệch mờ đục, những khuôn mặt màu đất ánh lên
những khối gò má sống mũi và những bóng tối của hốc mắt như bức tranh Những kẻ
chơi bài của Paul Cézanne (*). Ông như được sống trong một thế giới vừa lạ lùng
vừa quen thuộc đầy chất hội hoạ.
Ông
hay đến đây còn vì một cớ khác nữa. Một bóng ma ẩn hiện trong tâm trí ông, mập
mờ đeo đẳng; ông vừa muốn rũ bỏ vừa muốn đối mặt với nó. Không khí quán rượu
này gợi tới cái tiệm hút thuốc phiện ám khói ngày xưa, nơi ông lần đầu tiên ông
thực hiện việc giết một kẻ chỉ điểm.
Khi
ông rời cái thành phố thợ thuyền lầm than là thời mọi người mong muốn trở thành
anh hùng tráng sĩ. Những thư sinh với sức vóc thư sinh cũng đua nhau quăng bút
nghiên để hiên ngang với gươm và súng. Người nghệ sĩ sẵn chất lãng mạn trong
máu khao khát trở thành hiệp sĩ. Ông đã bỏ đàn, bỏ bút, bỏ panh-xô để học võ và
tập bắn súng.
Sau
này, khi những bài ca của ông được những người lính vệ quốc hát vang lúc xung
trận, những người tử tù chính trị hát như dồn hết sức lần cuối cùng trên pháp
trường trước khi bị xử bắn, ông trở lại sáng tác âm nhạc.
Nhưng dù sao ông cũng đã nhìn thấy đôi mắt
của kẻ bị ông hành quyết trong cái tiệm hút ám khói. Cặp mắt của gã chỉ điểm
trợn trừng trắng dại đi vì khiếp đảm khi ông gọi tên hắn bảo rằng ông sẽ giết
hắn. Hắn là kẻ đáng chết. Nhưng đôi mắt trắng dại ấy cứ ánh lên mãi trong những
giấc mơ sau này của ông. Tiếng súng nổ vang đến bây giờ. (Sao không là Tiếng
súng ấu thơ của bọn trẻ đáng yêu trong một bài hát Pháp?)
Trong không gian u ám của cái quán rượu bên đường tàu, ông đối thoại với
con người trong quá khứ của mình, tự tranh luận cho đến khi ngã ngũ một điều
luôn dằn vặt ông.
Bây
giờ ông ngồi uống rượu tại nhà. Ông không cần cái quán rượu tồi tàn với không
gian gợi nhớ ấy nữa. Ông đã tự minh giải được điều làm ông phiền muộn dai dẳng.
Ông viết những bài thơ tự sự. Trong những bài thơ, ông lý giải về những điều mà
lẽ ra ông phải hiểu từ lâu.
Trước kia ông thường uống rượu với một nhà văn nổi tiếng về lối viết
tinh tế và thâm thuý. Có rất nhiều giai thoại về nhà văn này. Vì yêu và cả vì
muốn làm khổ ông ta mà người ta đặt ra những giai thoại văn học ấy. Hai người
ngồi im lặng trong căn phòng đầy bụi ngổn ngang sách và những vỏ chai rượu
chẳng bao giờ được thu dọn. Họ im lặng uống. Vừa uống cho tới lúc mắt nhoè đi
không nhìn rõ nhau nữa.
Có
lúc ông uống với một nhà văn khác cũng từng sống nhiều năm dài khốn khổ ở cái
thành phố thợ thuyền lam lũ ấy và đã viết rất hay về lớp người cặn bã của xã
hội. Đó là một ông già hồn nhiên ồn ào, thương đời, thương mình thường khóc
rưng rức khi đã ngà ngà say khiến người ta không rõ ông ấy khóc vì say hay vì
một cái cớ sâu kín gì trong lòng. Nhà văn ấy đã từng khóc vì người ta không
hiểu ông, cứ làm khổ ông vì lòng tốt và sự thật thà của ông.
Hai
ông bạn đã từ lâu khuất bóng trên cõi đời này. Còn mình ông độc ẩm. "Một
mình rót uống chẳng buồn say" như câu thơ của một nhà văn khác cùng thời
với ông.
Cây
đàn cũ kỹ kê bên cửa sổ chiếm khoảng không gian tốt nhất trong căn phòng hẹp và
nó giương cái nắp gỗ màu nâu lên như một con thú biết bay, bị thương, giương
chiếc cánh còn lại của đôi cánh vĩ đại lên một cách rất tự đại, như nó biết
mình là thành viên quan trọng trong gia đình người nhạc sĩ, và là bạn tri kỷ
của ông. Nhưng gần đây ông ít khi chạm tới những phìm ngà đã ngả màu vàng, dù
chúng vẫn còn rất mẫn cảm, chỉ một thoáng run ở đầu ngón tay thôi là một hợp âm
đã lập tức ngân lên lan xa tới từng ngóc ngách ngôi nhà nhỏ. Có một dây đàn bị
chùng, hơi chùng một chút như sự đàn hồi chốc lát của thời tiết, nhưng đôi tai
tinh tế của ông vẫn nhận ra. Người thợ lên dây đàn quen biết đã đổi nghề và bỏ
đi đâu từ lâu rồi. Mỗi khi muốn tìm lại những âm thanh ngày xưa trong đám bản
nhạc cũ của mình, ông phải hạ xuống một bát độ để tránh cái dây chùng ấy. Vì
thế, ngay cả bài hát về một mùa xuân trong sáng ông viết sau này cũng trở nên
trầm buồn. Nó, cây đàn ấy, cũng có quyền già chứ - Ông nghĩ - Sự già đâu có
phải là độc quyền của một mình ta.
Những đêm đông mưa, trong giấc mơ, ông thường trở về bến sông ngày
xưa.
"Mắt em như dáng thuyền soi nước
Tà áo em bay theo gió nhẹ thẹn thùng
ngoài bến xuân..."
Hình ảnh của Nàng vẫn như ngày đầu tiên đến với ông, vẫn cặp mắt long
lanh đôi má mịn màng ửng hồng và nụ cười tươi. Bài hát về mùa xuân và tình yêu
ngày ấy không phải ông sáng tác mà là ông chép lại từng nốt, theo những âm
thanh vang lên từ trái tim mình, như có ai đó đọc cho ông viết. Người bạn ca sĩ
của ông đã trình diễn thành công bài hát đó lần đầu tiên bằng trái tim đau buồn
khi biết rằng ông viết bài hát đó dành cho Nàng.
- Moa thấy rõ là toa đã cảm en (**) rồi.
Đúng không? - Người ca sĩ hỏi. Ông im lặng. Người bạn đã thấy được câu trả lời
trong sự im lặng đó. Anh ta bật ngón tay, huý sáo bài "Ai biết?" -
Bài ca có giai điệu trong sáng tươi vui, nhưng khi hát lên, dù hát một cách vô
tư, người nghe lại thấy buồn rưng rức. Những bài "Hạnh phúc",
"Tiếng súng ấu thơ", "Tuyết rơi"... cũng thế. Và cũng vì
thế mà người ta hát mãi những bài hát ấy đến ngày nay.
Bài
"Tiếng súng" ấu thơ nhạc điệu hồn nhiên ngây thơ như dành cho trẻ
con. Chú bé bắn bằng miệng "pằng pằng" đúng tim cô bé bạn gái trong
trò chơi cảnh sát và kẻ gian. Họ lớn lên, yêu nhau, rồi chàng trai bỏ đi. Nhưng
vẫn còn mãi tiếng súng đồ chơi năm xưa và hình ảnh cô bé "trúng đạn"
gục ngã trên sân. Những bài hát của Pháp thường như thế, đó là sự tài tình mẫu
mực mà ông và những nhạc sĩ cùng thời đã cố vươn tới. Nhưng dường như họ đã cố
gắng một cách bất lực, cuối cùng để lại những bài ca ủ ê não nùng dễ hát dễ
nhớ, một thời chỉ làm chảy được nước mắt của những tiểu thư, công tử và các cô
hàng xén phố huyện.
Tiếng huýt sáo của người bạn ca sĩ nhọn hoắt như cặp mỏ của con chim gõ
kiến rỉa rói làm trái tim nhạy cảm của ông nhói đau.
Gặp nhau trong những phút vui
đầu
Bỗng thấy tim mình rung lên rộn
ràng...
Đố ai biết vì sao?...
Bài
hát thể Rondo - Vòng tròn, cứ hát mãi, luẩn quẩn không biết dứt ra ở chỗ nào.
Rồi tiếng huýt sáo chợt ngừng bặt ở một nốt cao vút, như sợi chỉ bằng bạc rất
mảnh bị đứt đột ngột. Anh ca sĩ thở dài:
-
Lẽ ra moa không nên đưa en đến nhà toa. Lẽ
ra moa phải nhớ rằng toa là một gã đệ nhất si tình, là một
khối nam châm có sức hút rất mạnh đối với những thiếu nữ lãng mạn như en.
Giờ thì hỏng bét cả rồi. Moa chỉ còn thể xác củaen.
-
Không. Moa sẽ không làm phiền hai người. Moa sẽ đi khỏi
đây. Moa đã chán ngấy cái kiếp ký quèn Sở Dây thép của cái thành phố
cu-li bụi này rồi - Ông thấy mình đang nói dối. Ông nhìn ra sông Cấm. Một cánh
buồm nâu vá víu của con thuyền chở nặng đang xuôi ra phía biển.
Ông
không hề muốn rời xa thành phố này, không muốn xa dòng sông đục ngầu này. Ông
không thể hình dung ra một buổi sáng ngủ dậy mà lại không còn nhìn thấy dòng
sông Cấm kia. Như là có một cuộc tạo sơn lập địa mới.
Lúc
này đang có chuyến phà sắp rời bến. Đám người lam lũ gồng gánh mang vác ào
xuống chiếc phà hoen rỉ trông như cái vỏ hộp cá bẹp bị bọn trẻ con thả trôi
sông. Gã cảnh binh răng vổ gày còm trong chiếc áo cộc tay và quần soóc ka-ki,
thứ sắc phục tiết kiệm dành cho các nhân viên công lực của nhà nước thuộc địa
xứ nhiệt đời, để lộ những cẳng tay cẳng chân khẳng khiu đen đủi, đang hùng hổ
vung dùi cui cố thiết lập trật tự cho cái bến phà hỗn độn đầy những dân tứ
xứ...
- Mẹc sà-lù nhà chúng mày. Đồ cu-soong! (***) Muốn chết
hả?
Chiếc mũ hình mai rùa lợp vải ka-ki với rất nhiều nếp gấp của gã cảnh
binh nhấp nhô trong đám nón mê, khăn vuông, đầu trần, khăn xếp với những thúng
mủng, bao tải, bị cói trên đầu, trên vai, trên lưng bầy người khốn khổ. Cái gã
cảnh binh còm nhom mặt mũi xám xịt vì thuốc phiện, hàng ngày bị mụ vợ béo núc
đè đầu cưỡi cổ nên cứ phải ra oai với thiên hạ để vớt vát chút sĩ diện là
"người nhà nước".
Nhưng ông vẫn phải đi khỏi thành phố này dù ông biết rồi đây nỗi nhớ
dòng sông đục đầy bọt rác và váng dầu với cảnh hỗn độn lam lũ cực nhọc kia sẽ
hành hạ ông mỗi buổi chiều. Đi để quên. Các tay lãng tử ngày ấy vẫn nghĩ thế và
làm như thế, dù có những người chẳng có gì để quên. Họ ra vẻ những bậc hảo hán
trượng phu quyết gạt bỏ những tạp sự tầm thường, những tục lụy thê nhi, để
quăng thân vào gió bụi tìm dựng nghiệp lớn; tuy rằng cái nghiệp lớn ấy cũng mù
mờ không rõ là gì. Có khi chỉ là một chân dạy học tư ở tỉnh khác, để có cơm ăn.
Họ cố tạo ra điệu bộ phong lưu mã thượng phường tuồng giữa tiếng thanh la não
bạt, để người đời ngưỡng mộ.
Ông
lên Hà Nội nhập vào giới văn nghệ sĩ đang ồn ào trong cuộc mưu danh và mưu
sinh, để lãng quên mà chẳng thể nào quên được Nàng.
Trước khi đi, ông viết một ca khúc về buổi chiều mùa xuân ấy. Cuộc viếng
thăm của Nàng đã đem ánh nắng xuân rực rỡ cho ngôi nhà nhỏ bên dòng sông nước
đục. Mà không, hôm ấy nước sông không đục. Nước rút ra xa bờ và trong trẻo.
Những con chim biển chạt nhảy trên lớp phù sa kiếm ăn một cách vui vẻ. Mùa đông
không có những cơn mưa lớn trôi đất trôi cát xuống lòng sông. Và nước biển cũng
xanh trong vì những vùng cửa sông không đổ phù sa ra biển như vào mùa mưa
lũ.
Gió
thổi bay vạt áo màu xanh lá non của Nàng, thổi bay chiếc khăn voan Ca-sơ-mia
mỏng như khói trên đôi vai thon. Tất cả những gì trên người Nàng và cả thân
hình Nàng đều mỏng manh như là không có thật, như dễ dàng tan biến trong không
gian. Nếu ông không đưa tay cho Nàng nắm thì gió sẽ cuốn Nàng bay đi mất. Nàng
vịn vào ông dò từng bậc đá ướt lần bước xuống bãi sông.
Những
con chim biển theo sóng giạt sâu vào trong thành phố lâu ngày đã dạn dĩ; chúng
bay quanh hai người cất tiếng kêu khàn khàn thân thiện. Nhưng ông nghĩ, đấy là
lũ chim trống đang ghen với ông cũng như đám chim mái thì ghen với Nàng. Vì họ
là một cặp rất đẹp đôi đang yêu nhau, dù vừa mới gặp. Trên rất cao, nơi tầng
mây xám bất động như một cái trần cố định từ ngàn năm trước, một bầy chim mải
miết bay. Bầy chim như những kẻ giang hồ cao ngạo đang bận rộn với sự nghiệp di
trú sinh tồn của cả nòi giống chúng, không như đám chim biển tầm thường suốt
đời luẩn quẩn bám lấy mặt nước và bờ bãi của một miền quen nhàm để nhặt nhạnh
chút thức ăn vụn.
Anh
chàng ca sĩ đang trong trạng thái hứng khởi. Anh ta bỏ xa người tình và bạn,
chạy nhảy đến sát tận mép nước, đá tung những vỏ đồ hộp, mẩu gỗ sóng đánh giạt
lên cát. Anh ta sảng khoái dang tay ngửa mặt lên trời hú hét và cười ha ha như
một đứa trẻ lêu lổng vừa thoát khỏi sự kiềm chế của người lớn. Anh có một người
tình tuyệt đẹp để hãnh diện giữa đám đông, bên cạnh nàng là người bạn nhạc sĩ
tài năng của anh, người đã viết những bài ca đem lại vinh quang cho anh trong
các phòng trà thượng lưu, giữa những sàn nhảy rực rỡ đèn và trên những sân khấu
lộng lẫy.
-
Các toa có dám thách moa hát bạt được gió mùa đông bắc trên
sông này không? -
Anh
ta kêu lên phấn khích - Này, moa không nói khoác đâu nhé. Tuần
trước moa hát cho hoàng hậu Nam Phương nghe ngoài Đồ
Sơn, moa đã dùng âm thuật hát vỡ mấy ô cửa kính ở Hotel de La Pointe
đấy - Các toa có dám thách không nào? Chỉ một bữa chả Sài Gòn ở phố
Khách thôi.
-
Này em - Anh đến bên hai người, không hệ nhận ra vẻ lúng túng bối rối khác
thường trên nét mặt anh bạn và cô nhân tình - Em có nhớ lần đầu anh đưa em đi
ăn chả Sài Gòn không? Lần ấy, khi tay bồi bàn bưng ra đĩa rau sà-lách và bát
dấm su hào cà rốt với cái khăn bông lau tay, anh đã nhắc em là ăn chả Sài Gòn
phải kiên nhẫn, đừng như thằng cha nhà quê nọ, trong khi người ta còn đang lọc
tôm he cua bể gói thành chả để rán trong bếp thì hắn tưởng chả Sài Gòn chỉ có
thế, liền chén sạch đĩa rau sống với bát dấm ớt, nhét chiếc khăn lau vào bị
cói, để tiền lên bàn theo giá yết trên bảng rồi khoan khoái ra về, hớn hở khoe
với vợ con: "Tao còn lạ chó gì chả Sà-goòng. Nó cũng từa tựa như rau ghém
của ta thôi chứ ra cái đếch gì. Chỉ hơn là có thêm cái khăn bông."
Anh
ca sĩ vỗ tay cười hô hô tự tán thưởng câu chuyện khôi hài của mình. Rồi không
đợi ai thách, ca sĩ cất tiếng hát. Vẫn một bài ca Pháp. Bài "Biển
sâu". Ông vẫn còn nhớ đến bây giờ cái giai điệu hơi ngang ngang như khúc
Aria trích từ một vở Opéra, khác hẳn những bài hát mà ông và những nhạc sĩ
đương thời vẫn viết.
"Biển bát ngát sâu...
Sao biển sống không yên lành?
...Khác nào trái tim người tôi gửi
tình thổn thức...
Khác chi sóng dạt dào..."
Đúng là giọng hát của người bạn ca sĩ rất khoẻ và âm vang như át cả
tiếng gió mùa đông bắc đang thổi ù ù bên tai.
Cơn
gió mùa ngày ấy chắc hàng năm vẫn quay về bến sông dù những người xưa đã tan
tác mỗi người một nơi.
Ông
đã mấy lần biến thành người khác, chẳng còn là chàng nhạc sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ
hồn nhiên ngày xưa. Ông mãi sống trong dằn vặt như người đã cầm con dao găm
người khác đưa cho, ném vào bóng đêm tình cờ trúng ngay tim ai đó.
Ông
như kẻ trong cơn ác mộng bị người ta vu cho tội ăn cắp, bị đám người điên rồ
trong cơn tức giận vừa nguyền rửa vừa săn đuổi ông đến cùng đường, chân díu lại
cuống cuồng. Ông muốn được choàng tỉnh, khắp mình ướt đẫm mồ hôi, và lại được
trở thành người vô tội thanh thản. Nhưng giấc mơ ấy không bao giờ dứt, ông
không thấy mình tỉnh giấc, mãi mãi không thoát được cuộc săn đuổi dai dẳng của
đám người quái gở ấy.
Dù
là một người có những biệt tài thiên phú, ông vẫn nhận ra rằng mình không phải
là loại trái cây đầu mùa, loại trái cây được bán giá cao. Ông chỉ là thứ quả
muộn mằn còn sót lại trên cành, là hương vị cuối mùa; khi rụng xuống đất rồi
mời được người đời hiểu ra giá trị thực của mình.
Nàng đã có chồng con, sống yên ổn đến già như những người đẹp vô danh
khác trên đời. Nhưng chồng nàng không phải là anh bạn ca sĩ ngày ấy.
Người ca sĩ có giọng hát át cả gió mùa, từng giễu cợt anh chàng nhà quê
ăn chả Sài Gòn, cũng là một kiếp lãng tử. Anh hát không để làm giàu mà hát như
con chim hót chỉ để sảng khoái cho đời và cho người. Anh nghèo kiết và chết thê
thảm. Trong một đêm, dưới ánh đèn phố vàng màu quả thối, đám phu hót rác đẩy
chiếc xe ba-gác lọc cọc chở cái xác chết đói khô quắt của anh đi. Khi cái cơ
thể kiệt quệ không còn tự nuôi được nó nữa, anh ta với sự hưng phấn phi thường
của người nghệ sĩ, cố đeo chiếc nơ tài tử vào cổ áo, lết từng bước ra hè phố,
rồi sụp xuống như cúi rạp thân hình rã rời sau đêm hát, chào khán giả lần cuối
cùng. Người bạn ca sĩ tài danh một thời dưới ánh đèn sân khấu rực rỡ với giọng
hát mê hồn tôn vinh những nhạc phẩm của ông, đã được vùi xác chung một huyệt
với những người nhà quê và đám thợ thuyền khốn khổ trong cái năm Ất Dậu khủng
khiếp.
Ông
trở lại Bến Bính vào một ngày xuân. Ông thấy mình như con thuyền đầy thương
tích sau cơn động biển, chệnh choạng nương theo dòng tìm về bến. (Hình ảnh và
cách ví von rất cũ như trong những bài ca thời ấy. Nhưng ông vẫn cứ nghĩ thế vì
biết rằng chẳng ai có thể bình phẩm những ý nghĩ nếu ta không nói ra). Tiếng
gió mùa trên sông réo hú bên tai ông âm thanh của ngày xưa.
"Về đây nghe tiếng hú hồn mê
hoan...
Về đây với màu gió ngày lang thang..."
Ông
nhớ tới câu hát lời Việt cho bản "Trở về Soriento" mà ông bạn nhạc sĩ
ngày trước đã viết. Ông ta đã bỏ chiến khu trở về thành phố, rồi ra nước ngoài
sống lưu vong. Bây giờ đầu đã bạc trắng, vẫn cùng con cháu ôm mãi nghiệp cầm
ca, hát rong nơi xứ người. Dù thế nào đi chăng nừa thì đối với ông, người nhạc
sĩ ấy vẫn là một nghệ sĩ, đáng thương đáng nhớ biết bao.
Ngôi nhà xưa không còn nữa, hay là ông không thể nhận ra nó được nữa.
Những công trình xây dựng chen chúc lấn sát tận bờ sông. Không còn những bậc đá
ẩm ướt mà Nàng đã vịn vào ông để bước xuống bãi sông. Chỉ còn cái bến phà với
những thanh chắn hướng dẫn bằng sắt sơn đỏ trắng và những sợi xích neo to tướng
nặng nề hoen rỉ. Ông chợt nhớ tới gã binh răng vổ còm nhom tay chân khẳng khiu
nhảy choi choi, vung cây dùi cui như chiếc quyền trượng nạt nộ đám người khăn
vuông, nón mê, áo xống tả tơi lam lũ. Chắc lão đã chết từ lâu như những thứ
quyền lực tà nguỵ nhất thời.
Ông
xuống bãi sông theo một lối dộc người ta đang chở đất cát san lấp để làm bến
tàu khách. Bờ bãi đầy rác.
Ông
đứng lặng trên bên bờ sông. Cơn gió mùa xưa từng lay động tà áo xanh non của
Nàng, bây giờ thổi tung mớ râu tóc xác xơ của chàng lãng tử già. Đám chim biển
theo sóng vào sâu trong thành phố kiếm ăn cũng nhận ra ông, chúng cất tiếng kêu
khàn khàn buồn bã như những tiếng chép miệng ái ngại trước ngoại hình tàn tạ
của cố nhân. Ông mỉm cười nghĩ thế. Cũng là một cách tự trào. Ông thừa biết đám
chim biển vô tri kia chỉ là cháu chắt của đám chim biển ngày ấy.
Trên nền trời xám cao tít, lũ chim giang hồ vẫn mải miết đập cánh trong
gió với nghiệp chướng thiên di của chúng, sự đoạ đày muôn đời dành cho kiếp
chim.
----
(*) Paul Cézanne (1839-1906) Hoạ sĩ Pháp
thuộc trường phái Ấn tượng.
(**) Những đại từ nhân xưng tiếng Pháp các
công chức và trí thức thời Pháp thuộc thường dùng:
Moa ( Moi ): Tôi, tao....; Toa (Toi ) Anh, mày... En ( Elle ): Nàng, cô ấy.
Moa ( Moi ): Tôi, tao....; Toa (Toi ) Anh, mày... En ( Elle ): Nàng, cô ấy.
(***) Tiếng chửi rủa thô tục theo lối bồi bếp
thường dùng dưới thời Pháp thuộc. Truyện ngắn này có sử dụng những ý thơ của
nhạc sĩ Văn Cao và những câu hát của ông; một số câu hát của nhạc sĩ Phạm Duy,
và câu thơ của Nguyễn Vĩ.
----
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/12/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Kỹ nữ
Đồng Nai – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
03/07/2011
Cô bé
vít đầu tôi xuống, tì trán vào trán tôi. Bàn tay nhỏ mềm mại lùa vào mái tóc
thưa rồi trượt dần xuống đôi vai gầy guộc của tôi với vẻ trìu mến thật lòng. Cô
ta nói, giọng thanh và nhỏ, mơ hồ như từ đâu xa vọng tới: - Anh buồn chuyện gì
thế? Sao anh không như mọi người?
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
“...Lệ ai chan chưa hơn người
Giang Châu Tư mã đượm mùi áo xanh"
(Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị)
Cô
bé vít đầu tôi xuống, tì trán vào trán tôi. Bàn tay nhỏ mềm mại lùa vào mái tóc
thưa rồi trượt dần xuống đôi vai gầy guộc của tôi với vẻ trìu mến thật lòng. Cô
ta nói, giọng thanh và nhỏ, mơ hồ như từ đâu xa vọng tới:
-
Anh buồn chuyện gì thế? Sao anh không như mọi người?
Mỗi
chúng tôi được một cô gái tiếp. Các cô mặc đồng phục với chiếc váy rất ngắn màu
xanh sẫm xẻ vạt trước sau và chiếc áo mỏng không tay mà nước biển chật căng.
Ngồi
trước mặt tôi, lão Chính, Trưởng Ban Vật tư, đầu bạc phơ, hai tay bấn loạn trên
thân hình ục ịch của một cô gái chừng 20 tuổi. Bên cạnh tôi, thằng cha Phó Giám
đốc Công ty Thương mại đang thở hổn hển, vặn vẹo thân hình còm nhom, mặt vùi
vào bộ ngực căng hết cỡ của một cô gái khác, thỉnh thoảng hắn nhe bộ răng giả
đều tăm tắp nhưng lại xám nhờ như răng của người chết, cười "hi hi"
một cách quái gở. Một bên nữa của tôi, lão Kính hói, Phó Văn phòng Hợp tác Đối
ngoại, đang làm cho cô gái của lão cứ uốn éo thân hình như một con rắn hổ mang
Ấn Độ khổng lồ khi nghe tiếng kèn ma quái gọi.
Còn
những đôi khác nữa đã biến vào sau bức rèm cửa khả nghi trên có gắn cái hộp đèn
đỏ sọng đề chữ "Toillet".
Tay
Giám đốc Công ty "13 tháng 4" đang giữ trên đùi một cô gái già và xấu
xí nhất bọn, tay cầm micro gào lên theo những chữ trên màn hình như tiếng rống
của khủng long:
-
"Đêm qua nằm ngủ mê... Đôi ta vừa cưới nhau... Tuần trăng mật, mới bắt
đầu..."
Tay
này là chủ của buổi chiêu đãi đặc sắc tối nay. Hắn muốn bọn tôi tham mưu cho
lãnh đạo tỉnh tôi - một tỉnh nhỏ ngoài Bắc - ký với hắn một cái hợp đồng liên
doanh xuất khẩu giá trị vài tỷ đồng nên nghĩ ra đủ mọi trò chiều chuộng. Cô gái
vuốt ve đôi má hóp của tôi:
-
Má anh lạnh quá!
Tay
Giám đốc "13 tháng 4" rất tinh, hắn ngừng hát, hất hàm hỏi cô bé của
tôi:
-
Phượng! Sao em không làm anh Hai Bắc kỳ của anh nóng lên. Vào bảo chị Chung cho
"Hà- phân khối lớn" ra thay em.
Phượng
gượng cười đứng lên với vẻ có lỗi:
-
Em... xin lỗi. Nhưng... thưa anh Tư, chị Hà hôm nay nghỉ làm.
Tôi
vội nói:
-
Không, không sao đâu ông Lanh ạ. Cứ để Phượng ở lại đây.
Tôi
vụt có một ý nghĩ ngớ ngẩn là, thà Phượng ngồi với tôi còn hơn để cho một kẻ
thô tục khác dày vò.
Tay
Giám đốc cười ha hả vào micro:
-
Biết ngay mà. Trông "phoóc" anh, em biết ở đây chỉ có Phượng chiều
được. Em hù anh chút thôi. Và bây giờ anh hai sẽ được bay bổng hơn khi nghe em
Phượng ca. Hắn đưa micro cho cô bé.
Phượng
hát. Bài hát về một người tha hương chiều chiều khóc nhớ một dòng sông. Tiếng
hát lanh lảnh của trẻ con, nghe đáng yêu nhưng tội nghiệp như tiếng ca của
những đứa bé hát rong đói khổ. Tôi nhìn kỹ, Phượng không đẹp lắm, có lẽ vì cô
bé chưa thật sự ở tuổi dậy thì. Nhưng cô có cái miệng khi hát cứ như sắp sửa
khóc, trông rất dễ thương.
Thằng
cha ca sĩ khủng long giành lại micro khi trên màn hình có một bài hát về lính
chiến, cũ mèm.
Tôi đứng lên rời khỏi chiếc bàn ngổn ngang chén đĩa. Phượng đi theo, nhẫn nhục như một con chó nhỏ.
Tôi đi ra ngoài, ngồi xuống chiếc ghế dài bằng gỗ sơn trắng, ghép liền với lan can chiếc cầu nối những cái kiosque nổi trên mặt hồ. Ánh đèn trong các quán nổi ấy hắt ra soi rõ những bông hoa súng đang ngủ. Những cánh hoa khép không kín hết để lộ những mép trắng, khẽ rung động như mắt ngủ chập chờn của một người phải trải qua một ngày vất vả, dằn vặt.
Tôi đứng lên rời khỏi chiếc bàn ngổn ngang chén đĩa. Phượng đi theo, nhẫn nhục như một con chó nhỏ.
Tôi đi ra ngoài, ngồi xuống chiếc ghế dài bằng gỗ sơn trắng, ghép liền với lan can chiếc cầu nối những cái kiosque nổi trên mặt hồ. Ánh đèn trong các quán nổi ấy hắt ra soi rõ những bông hoa súng đang ngủ. Những cánh hoa khép không kín hết để lộ những mép trắng, khẽ rung động như mắt ngủ chập chờn của một người phải trải qua một ngày vất vả, dằn vặt.
Phường
ngồi xuống bên cạnh, ôm lấy cánh tay tôi, dụi má vào vài tôi như đưa con làm
nũng bố. Tôi tự hỏi: Cô gái bia ôm non choẹt mà điêu luyện tới mức này ư?
Phượng
thì thầm, hơi nóng phả vào vành tai làm tôi khẽ rùng mình:
-
Anh nhớ chị ấy à?
-
Không! Anh không có vợ.
Tôi
khó nhọc nói tiếng "anh". Tôi giận cái tiếng Việt phân biệt quá rạch
ròi đại từ nhân xưng. Bởi vì, than ôi, tôi là một lão già xấp xỉ ngũ tuần, mà
Phượng thì chưa đến hai mươi!
-
Ủa! Anh chưa có vợ ư?
-
Có rồi, nhưng lại không.
-
Sao vậy, chị ấy không xứng với anh à?.
-
Không phải. Anh không xứng với chị ấy.
Phượng
khẽ thở dài. Và rồi Phượng đã mắc phải một điều cấm kỵ đối với những cô gái làm
nghề này. Cô bé hỏi tuổi tôi.
Tôi
tìm được cách thoát khỏi câu hỏi khó ấy:
-
Phượng thử đoán xem?
-
Anh... anh ngoài ba mươi tuổi, phải không?
Tôi
trả lời như một nhà toán học:
- Ờ... hơn thế ít nhiều.
Tôi
không có ý sử dụng quyền hạn của một khách làng chơi, vậy thì tôi quanh co về
tuổi tác làm gì. Nhưng chẳng lẽ lại nói với Phượng:
-
Con ơi! Ta có thể còn hơn tuổi ba con!
Và
chẳng lẽ cứ ngồi không, bẽn lẽn như hai người trẻ tuổi mới bắt đầu yêu. Tôi
hỏi:
-
Phượng là thứ mấy?
-
Em là lớn nhất - Phượng xoè tay trước mặt tôi như một đứa bé khoe tay sạch- Nhà
có năm chị em.
-
Ba má còn đi làm không?
-
Ba em mới chết. Má làm ở rạp hát, không có việc phải nghỉ.
Thế
đấy! Mẹ đeo nghiệp cầm ca, con là kỹ nữ.
-
Nhà Phượng ở đây à?
-
Không, em ở Sài Gòn. Chú em ở đây. Sau khi ba mất, má gửi em cho chú.
Vậy
mà cái gã chú khốn kiếp lại cho cháu gái vào làm ở cái hắc điếm này. Phượng
tiếp tục kể lể với giọng điệu của một người đã chịu nhiều cay cực, khiến cho
tôi tin những điều cô nói:
-
Em đã học hết lớp 12. Ba chết, má bệnh, em phải đi làm, gửi tiền thêm cho má ở
Sài Gòn. Nhưng mà kể chuyện em làm gì. Nói chuyện anh đi.
Phượng
cười buồn, lại nép vào vai rôi, mân mê cái cravat của tôi. Tôi thoáng nghĩ tới
số tiền nhỏ trong chiếc túi ngực. Nhưng tôi không nỡ có một cử chỉ đề phòng
nào. Thôi kệ! Đằng nào tôi cũng sẽ cho Phượng số tiền ấy. Nếu như Phượng là một
cô gái bia ôm lọc lõi, lấy trước số tiền đó, thì tôi sẽ đứng lên không phải ân
hận gì. Và đêm nay tôi sẽ ngủ ngon.
Phượng
dụi đầu vào cánh tay tôi, có lẽ cô muốn một sự vuốt ve âu yếm không chút dục
tình. Đến lượt tôi phạm điều cấm, tôi hỏi:
-
Phượng có bạn trai chưa?
Phượng
lắc đầu:
-
Làm nghề này có bạn trại làm gì, anh? Chẳng ai ưa con gái uống bia rượu. Khách
ép uống nhiều, có lúc ói cả ra máu!
Tôi
suýt bật ra một câu hỏi về tương lai Phượng, nhưng kịp giữ lại trong cái lồng
ngực đang nghẹn dần lên. Tôi lấy số tiền còn nguyên vẹn trong túi đưa cho
Phượng:
-
Phượng cầm trước một ít. Lát nữa Tư Lanh "boa", cứ lấy.
Phượng
lí nhí cám ơn tôi. Có lẽ cô vẫn chưa quen cầm tiền của khách cho. Cô hỏi tôi
như lảng chuyện:
-
Anh đã về Đồng Nai lần nào chưa?
- Có
một lần cách đây 12 năm.
Phượng
cười khúc khích:
-
Hồi ấy em còn bé xíu, đang ở Sài Gòn. Lúc đó anh về đây làm gì?
-
Anh tìm người yêu và một đứa con.
Phượng
mở to mắt nhìn tôi như đứa trẻ sắp được nghe một chuyện cổ tích ly kỳ. Cô hỏi:
-
Chị ấy ở ngoài Bắc vào đây à?
-
Không, cô ấy ở Sài Gòn từ trước giải phóng.
Phượng
nhíu mày tỏ vẻ không hiểu được sự rắc rối về địa dư trong câu chuyện. Tự nhiên
tôi thấy Phượng thân thiết với tôi vô cùng. Tôi kể cho Phượng nghe chuyện của
tôi.
Sau
ngày giải phòng miền Nam ít lâu, tôi từ Tây Nguyên về Sài Gòn công tác trước
khi ra Bắc. Hồi đó những người ở Bắc vào Nam thường tìm mua các đồ dùng gia
đình. Tôi cũng vậy. Nhiều người dân Sài Gòn phải bán dần đồ đạc để sống. Những
nhà khá giả trước kia, nay thường bán đồ ngay tại nhà vì họ không muốn phô bày
sự sa sút tàn tạ của gia đình mình trên những hè phố bẩn thỉu, chói nắng.
Mua
tại nhà thường được đồ thật và giá rẻ. Dì tôi, vợ một viên chức chính quyền cũ,
rất thông thạo việc mua bán, đã dẫn tôi đến nhà người quen trong một con hẻm.
Đó là nhà một viên thiếu tá nguỵ đang đi cải tạo. Bà vợ cả của ông đã chết,
người vợ hai theo tình nhân di tản. Nhà chỉ còn một cô con gái con người vợ
trước.
Cô
gái ngồi một mình trong chiếc sô pha giữa những bức tường trống trơn có nhiều
mảng vôi mới, dấu tích của những đồ đạc bị tháo gỡ đi. Ở một góc tường gần cửa
sổ còn lại một chiếc piano màu đen bóng. Toàn cảnh giống như một bức tranh cổ điển
về cái đẹp và nỗi tuyệt vọng.
Dì
tôi hỏi mua một vài thứ đồ và bà định giá luôn chiếc quạt trần. Cô gái cười
buồn:
-
Tuỳ cô thôi, con chẳng còn mất thứ, cô bảo sao con ưng vậy.
-
Rồi! Thế con ngồi tránh ra để cho anh hai gỡ cái quạt xuống.
"Anh
hai" tức là tôi. Nhưng làm sao mà rôi có thể gỡ đem đi cái quạt trần cũ kỹ
đầy bụi trên cao kia; chiếc quạt đang quay chậm chạp trên đầu cô như một người
bõ già đang tận tụy phục dịch cô chủ bé nhỏ mà lão vẫn cưng chiều bao năm nay.
Tôi nói với dì tôi:
-
Con không thể tháo cái quạt ấy xuống được đâu!
Dì
tôi cau mặt:
-
Con trai, bộ đội gì mà không gỡ nổi cái quạt trần.
Cô
gái không nhìn tôi, khẽ cười, vẫn nụ cười lạnh và buồn:
-
Thôi để con nhờ chú Sáu vậy. Chú ấy là thợ điện.
Tôi
luống cuống:
-
Không! Tôi không muốn mua nữa, cô cứ để cái quạt này lại mà dùng. Tôi... tôi
không thể!
Cô
nhìn tôi chăm chú. Cô đã hiểu. Dì tôi cũng hiểu, nhưng bà lại thực tế hơn:
-
Sao cháu kỳ vậy. Con Diễm ở một mình, còn là học sinh. Nó không bán thì lấy gì
mà xài? Cháu không mua, người khác cũng mua. Hàng này tốt, của Ý, ở đây cũng
hiếm gặp.
Tôi
lắc đầu, và không hiểu sao tôi đã nói ra những ý nghĩ rất thật của tôi lúc đó:
-
Nếu con tháo chiếc quạt trần kia xuống thì con sẽ là một tên lái buôn nô lệ tàn
nhẫn nhất thời xưa. Vì con đã cố tình mua và lôi đi người nô lệ già trung
thành, trong tiếng khóc nức nở của cô bé con ông chủ, thành viên duy nhất còn
lại của một gia đình quý tộc bị ly tán.
Nói
xong tôi bước vội đi. Đến cửa, tôi nghe một tiếng gọi khẽ nhưng khẩn thiết:
-
Anh!
Tôi
quay nhìn lại: Diễm đứng sững, môi tái nhợt , chìa tay về phía tôi như sắp
khuỵu ngã.
Không
thể chịu đựng nổi, tôi chạy lại bên cô. Mặc dì tôi còn đứng đó, mặc kệ hàng
hoá, mặc kệ cái không khí oi bức bụi bậm của một thành phố lớn đang giao thời
nhộn nhạo ngoài kia, mặc kệ tôi là ai và Diễm là ai. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau
như hai nửa của một nguyên thể bị thất lạc trong thiên nhiên hỗn độn đã tìm
thấy nhau, theo cách nói của một nhà hiền triết cổ đại.
Diễm
khóc nức nở, khóc vì có người cảm thông và khóc cho cả chuỗi ngày dài khốn khổ,
cô đơn giữa cơn bão thế sự dữ dội.
Vai
áo tôi thấm đẫm nước mắt Diễm. Cô run rẩy trong vòng tay tôi như một con chim
nhỏ ướt át.
Chúng
tôi yêu nhau như đã chờ đợi nhau từ lâu lắm rồi. Diềm ở một mình trong ngôi nhà
vắng trống rỗng. Cô sợ bóng đêm với tiếng chuột chạy rậm rịch trên gác, sợ cả
những tấm rèm cửa lay động và ánh đèn vàng vọt.
Những
ngày sau đó, tôi ở lại với Diễm. Dì tôi hốt hoảng khuyên can tôi. Cuối cùng bà
đã khóc van xin tôi:
-
Dì xin con. Con đừng làm thế. Ngày xưa mẹ con đã khổ suốt đời vì trong lá số tử
vi có Đào hoa tại mệnh. Bây giờ lại đến lượt con.
Phải,
mẹ tôi đã bỏ cha con tôi để chết cho mối tình đầu của bà. Nhưng lớn lên tôi
không hề oán giận bà.
Tôi
bướng bỉnh:
-
Con đã yêu Diễm từ kiếp trước!
Dì
tôi cố gắng một lần cuối:
-
Nhưng mà con ơi, con là bộ đội cách mạng, có huân chương. Ba con cũng làm lớn
bên phía Cách mạng. Còn ba Diễm là sĩ quan nguỵ. Con sẽ bị thải hồi mất thôi!
Tôi
cười:
-
Dì đừng lo, con chỉ là một gã lính trơn, không có chức tước gì để bị cách cả!
Bây giờ không còn chiến tranh, ra ngoài quân đội thì con lại làm một công dân.
Con chẳng bị thiệt hại gì!
Diễm
ôm lấy tôi:
-
Nếu bị sa thải, anh ở đây với em. Em nuôi anh. Chịu hông?
Cô
chìa hai bàn tay chuyên chơi piano ra, bàn tay nhỏ trắng muốt. Tôi cười như một
tên bạt tử:
- Không!
Anh nuôi em, anh sẽ mướn xe xích lô ngày đi chở thuê, tối về nghe em đàn.
-
Ứ! Anh đâu có rành đường Sài Gòn mà đòi chạy xe xích lô?
-
Thì em ngồi trước làm hướng đạo.
Diễm
cười như nắc nẻ:
-
Anh muốn em ngồi chung với khách á? Gặp phải khách đàn ông thì sao? Anh không
ghen chứ?
-
Anh sẽ làm một cái vách ngăn em với khách, "chịu hông"?
Dì
tôi lau nước mắt, lắc đầu:
-
Rồi, thề thì tao chịu hết nổi rồi! Để ba mày ổng tính cho mày.
Và
cha tôi đã tính theo cách của ông là triệu hồi gấp thằng con bất trị về Bắc với
lý do công tác khẩn.
Đêm chia tay, khu phố bị cúp điện. Tôi nằm dài trên sô pha nghe Diễm đàn mãi bản Sérénade của Schubert. Trong chiếc áo ngủ trắng mỏng với khuôn mặt buồn rượu kề bên ngọn nến, Diễm vừa đàn vừa khóc, nước mắt rỏ xuống những phím đàn. Thời sinh viên tôi vẫn mơ hình ảnh về người yêu của mình như thế.
Đêm chia tay, khu phố bị cúp điện. Tôi nằm dài trên sô pha nghe Diễm đàn mãi bản Sérénade của Schubert. Trong chiếc áo ngủ trắng mỏng với khuôn mặt buồn rượu kề bên ngọn nến, Diễm vừa đàn vừa khóc, nước mắt rỏ xuống những phím đàn. Thời sinh viên tôi vẫn mơ hình ảnh về người yêu của mình như thế.
Tôi
đã nói với Diễm một cách chân thành nhưng khôi hài theo kiểu lính để Diễm nguôi
đi nỗi đau ly biệt:
-
Hỡi Đuynxinê kiều diễm và sầu bi! Ta, "Không tước" Lê Minh, lính của
một lữ đoàn thiết giáp lừng danh, thề sẽ trở lại với em, cho dù vì việc đó mà
ta sẽ không còn được vinh dự là một chú lính trơn nữa Diễm lại cười như nắc nẻ
và gọi tôi là chàng hiệp sĩ xứ Măngsow.
Tôi ra Bắc. Cha tôi có một cương vị khá trong
quân đội. Ông giữ kín cái chuyện tày trời của con trai. Ông thu xếp một cách
kín đáo, chóng vánh để tôi xuất ngũ và đi làm thực tập sinh khoa Kinh tế Thương
mại ở Đức vì tôi vốn là kỹ sư Kinh tế. Nhưng tôi được giải thích là đi làm
nhiệm vụ đặc biệt.
Tôi
bị bất ngờ tới mức chỉ kịp viết cho Diễm vài chữ ở sân bay gửi dì tôi chuyển
giúp. Nhưng bức thư không đến tay Diễm. Dì tôi đã huỷ bức thư ấy và cả những
bức thư khác tôi gửi cho Diễm từ nước ngoài.
Chúng tôi bặt tin nhau. Lúc tôi học xong, sắp
về nước, tôi nhận được thư của dì tôi. Bà đã theo chồng đi Pháp. Bà cho biết ba
của Diễm đi học cải tạo về cũng xuất cảnh sang Mỹ. Diễm vẫn ở lại Việt Nam.
Diễm đã có con với tôi, con gái!
Trong
thư, dì tôi ân hận vì đã ngăn cản tôi với Diễm. Sau này nhìn lại, bà mới thấy
rằng tình yêu của chúng tôi không phải là sự đam mê chốc lát của trẻ con. Bà đã
khóc và hoang mang không hiểu đã giúp ích hay làm khổ đứa cháu yêu của bà.
Mặc
dù tôi thường hài hước hoá mọi chuyện trên đời nhưng khi nhận được tin này tôi
đã phải vùi mặt vào gối khóc nức lên. Diễm ơi! Tôi không phải là kẻ đốn mạt,
tồi tệ. Những quan niệm cực đoan vô tình đến mức tàn nhẫn của một thời gian đã
ngăn cách tôi với em. Nhưng nhất định tôi sẽ về với em như tôi đã hứa. Làm sao
tôi có thể phụ lòng người con gái có khuôn mặt buồn rười rượi đẫm nước mắt vì
yêu tôi, dưới ánh nến mờ ảo của cái đêm ly biệt ấy!
Về
nước, tôi đi ngay Sài Gòn tìm Diễm. Ngôi nhà xưa đã thuộc chủ khác.
Một
tuần ngày trước bên Diễm, tôi chưa kịp biết về những người thân quen của Diễm.
Những người hàng xóm cho tôi biết hình như Diễm đã về Đồng Nai nhờ vả họ ngoại.
Linh tính cho tôi biết, Diễm vẫn đợi tôi về.
Tôi
đi Đồng Nai, nhưng đi cầu may. Làm sao tôi có thể tìm thấy mẹ con Diễm giữa cái
biển người luôn biến động ấy.
Tôi
về vùng đất mênh mông này chỉ để đứng bên bờ sông Đồng Nai, hình dung ra Diễm
của tôi đang nghẹn ngào ru con dưới một mái tranh xơ xác, trong tiếng gió vật
vã hàng dừa ven sông. Tiếng ru đầy nước mắt vang mãi trong giấc ngủ của tôi sau
này:
"... Nhà Bè nước chảy... chia
hai...
Ai về Gia Định... Đồng Nai... thì
về...".
Phượng
mở to đôi mắt ướt đẫm nhìn tôi. Nước mắt giàn giụa làm trôi lớp phấn son trên má
và làm ướt từng vết sẫm trên ngực áo màu nước biển, cô bé lắc cánh tay tôi:
-
Thế rồi sau này chú có tìm được cô Diễm không?
Tôi
lắc đầu:
-
Không, nhưng chú sẽ đi tìm Diễm suốt đời. Chú vẫn độc thân.
Tôi
và Phượng nói "chú" "cháu" tự nhiên như thể từ đầu chúng
tôi đã xưng hô với nhau như vậy.
Trong
nhà có tiếng cười ầm ý rồi Tư Lanh chệnh choạng bước ra kéo chúng tôi vào:
-
Hết giờ anh chị ăn mảnh rồi! "Dzô" uống hết bia rồi "dzìa".
Những
cốc bia lớn được rót tràn trề làm ướt sũng khăn trải bản.
Tư
Lanh kêu lên bằng cái giọng lè nhè:
-
Nào, dốc ngược ly! Ai để lại một, phạt gấp mười và phải ngủ lại, chết bỏ!
Trong
lúc mọi người reo cười lộn xộn, tôi lấy một cái cốc ai đó đã uống hết bia từ
trước dúi vội vào tay Phượng rồi nâng cốc bia của mình, tôi cũng reo lên bằng
cái giọng giả Nam bộ:
-
Nào, dzô!!!
Bên
kia bàn, một cô gái đứng tuổi khá xinh đứng cạnh lão Quý lùn, Giám đốc Trung
tâm Phát triển đầu tư của tỉnh tôi, đã nhìn thấy việc làm của tôi đối với
Phượng. Nhưng cô ta không tố cáo, cô chỉ mỉm cười nháy mắt, giơ ngón tay cái
lên một cách thân thiện.
Chúng
tôi ra xe trở về nhà khách. Người nào cũng chếnh choáng phởn phơ.
Sáng
hôm sau, một thiếu phụ đến gặp tôi. Cô ta trạc 40 tuổi. Chính là cái cô đứng
cạnh lão Quý lùn hôm qua. Hôm nay cô ăn mặc kín đáo như một phụ nữ gia giáo.
Cô
ta nói ngay sau khi ngồi xuống cạnh tôi với vẻ thân tình nhưng đáo để, như tính
cách vốn có của các cô gái làm nghề bia ôm:
-
Tôi tên là Chi, là người thân nhất của Phượng trong đám tiếp viên nhà hàng
Hoàng Hoa. Tôi đến gặp anh vì Phượng. Đêm qua Phượng khóc hoài. Nó kể cho tôi
nghe chuyện của anh. Tôi nghĩ: đó là chuyện một vở tuồng cải lương, phải không?
Tôi
khó chịu:
-
Chị thân với Phượng như thế nào?
-
Như chị em, thậm chí như mẹ con. Nó mới 17 tuổi. Anh không biết, làm nghề này
nếu không có người dầy dạn đỡ cho thì chỉ có chết sớm. Phượng đã từng ói ra máu
vì bị ép uống quá nhiều bia rượu. Tôi thương nó hơn bản thân tôi. Đêm qua tôi
luôn để ý anh với Phượng; và tôi rất quý trọng anh. Tôi xin phép hỏi lại: Câu
chuyện của anh kể có phải là sự thật không?
Tôi
bật cười, tính hài hước trong tôi lại cựa quậy
-
Chị coi là chuyện xạo cũng được. Nhưng chỉ xạo một nửa thôi! Tôi và Diễm không
có con. Diễm đang ở Mỹ, lấy một tay chủ tiệm phở và có một số con khá đông! Còn
tôi thì cứ tưởng tượng Diễm vẫn đợi tôi ở một nơi nào đó bên sông Đồng Nai này.
Chi
nói, giọng nghiêm nghị:
-
Phượng rất tin những gì anh đã kể. Thậm chí nó tin rằng nó chính là con gái
anh. Vì, thật tình cờ, mẹ nó cũng tên là Diễm, và vì anh đã đưa cho nó một cái
ly không, khác với mọi người.
Tôi
sửng sốt:
-
Phượng có bố chính thức ở Sài Gòn cơ mà?
-
Đúng vậy! Cha ruột đàng hoàng. Nhưng là một người cha thất nghiệp, nát rượu
chẳng hề có chút tình thương gì đối với con nhỏ, nên nó cho rằng ông ấy là bố
dượng và nó sẵn sàng tin vào câu chuyện anh đã kể. Tôi biết anh rất thương nó,
anh có thể nhận làm một người cha tinh thần của nó không? Tôi tin chắc Phượng
sẽ trở lại cuộc sống lương thiện, trong sạch.
Tôi
lúng túng:
-
Tôi chỉ là một viên chức xoàng, một kẻ độc thân lang bang. Phượng còn có mẹ,
như thế không tiện. Và còn một điều thuộc về đạo lý, luân thường nữa...
Rồi
tôi thở dài, đọc một câu thơ cũ:
"... Áo xanh ướt đẫm vì đêm
ấy
Tội nghiệp đời con xấu hổ cha".
Chi
lắc đầu cười, có chút cay đắng:
-
"Oan nghiệt" của Nguyễn Bính! Tôi cũng biết, nguyên giáo viên Văn
khoa mà! Nhưng đêm qua anh đâu có đụng chạm gì tới Phượng, nó cũng chỉ âu yếm
anh như một đứa con gái âu yếm cha. Còn mẹ của Phượng, chị ấy sẽ hiểu.
Tôi
đứng lên nói với Chi:
-
Tôi không biết phải làm thế nào. Chi cầm giúp chút tiền này đưa cho Phượng, bảo
nó về Sài Gòn bán thuốc lá, vé số gì gì cũng được. Nếu Phượng muốn thì trong
trí tưởng tượng trẻ con của nó, tôi sẽ là ba của Phượng. Một người cha lang
bạt, nghèo, nhưng rất thương nó. Bây giờ chúng tôi phải về phi trường Tân Sơn
Nhất để kịp chuyến bay ra Bắc. Tôi sẽ viết thư cho Phượng.
Tôi
đưa cho Chi cả số tiền kha khá mà thằng cha Giám đốc "13 tháng 4" lót
tay cho mỗi chúng tôi, sau khi ký được cái hợp đồng đáng giá. Chi ghi cho tôi
địa chỉ của Phượng.
Lúc
chúng tôi ra khỏi thành phố Biên Hoà, có một cô bé trên chiếc vespa cũ kỹ đi
theo.
Đó
là Phượng trong chiếc áo dài trắng nữ sinh, mặt buồn thiu, lặng lẽ theo sau xe
chúng tôi. Phượng đưa tiễn tôi, nhưng sợ những người trong đoàn biết, chế giễu
tôi.
Mặc
xác những lão già đồi bại đang ngồi bên cạnh, những lão già đạo đức giả trong
các hội nghị và trong các gia đình; đến bờ dốc sông Đồng Nai, tôi chồm người ra
ngoài cửa xe gọi to:
-
Phượng! Về với mẹ Diễm đi! Ba sẽ luôn nhớ tới con!!!
Phượng
dừng xe, mặt đỏ ửng, cười rạng rỡ đưa tay lên vẫy rối rít. Tôi biết Phượng sẽ
nghe lời tôi.
Trong
gió sông Đồng Nai thổi ào ào, có tiếng gọi trong vắt làm nhói buốt tim tôi:
-
Ba! Ba ơi!!!
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 03/07/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Cặp mắt
đen – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
26/05/2011
Khi
ngồi vào ghế Giám định viên, Bằng cảm thấy khoan khoái, mặc dù cái tước vị này
có vẻ chẳng mấy lợi lộc mà mang vạ vào thân như chơi. Chẳng phải vì anh ta muốn
tham dự vào đại nghiệp củng cố trật tự và công bằng cho thiên hạ. Mà vì một lý
do rất đơn giản, thông thường.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Khi
ngồi vào ghế Giám định viên, Bằng cảm thấy khoan khoái, mặc dù cái tước vị này
có vẻ chẳng mấy lợi lộc mà mang vạ vào thân như chơi. Chẳng phải vì anh ta muốn
tham dự vào đại nghiệp củng cố trật tự và công bằng cho thiên hạ. Mà vì một lý
do rất đơn giản, thông thường.
Cơ
quan của Bằng là nơi rất dễ chịu. Các nhân viên ở đây, cương vị nào cũng đều
luôn có những vụ làm ăn. Gặp bất kỳ ai trong khoang toa-lét nặng mùi hay ở cái
buồng cầu thang tối âm u, chỉ cần khẽ nói: "Này, phải khao đấy nhé!"
là có ngay phản ứng: Một sự thủ thế cảnh giác, một sự chống chế gượng gạo, hoặc
tức cười hơn khi gặp phải một tay nghiệp dư cứ tồ tồ khai ra những điều mà ta
chẳng hiểu gì cả.
Nhưng
trước kia, Bằng lại phải làm việc ở phòng thí nghiệm, một chỗ quá trong sạch
theo cả hai nghĩa đen lẫn bóng; chỉ được mỗi cái lợi là dùng nước cất thoả
thích, và giữa giờ làm việc, chốt cửa, nướng cá mực bằng tủ sấy để uống bia ướp
trong tủ lạnh.
Ngồi
cái ghế mới này, dù sao cũng còn khả dĩ, tất nhiên là phải biết cách. Bà mẹ vợ
của Bằng làm ở Ban Tổ chức tỉnh đã thu xếp mãi mới được.
Bây
giờ thì Bằng đang ngồi trước một người đàn bà nhỏ bé, xấu xí và đen nhẻm, kiên
nhẫn nghe chị ta sụt sịt kể lể:
-
... Vâng, bố cháu mất đã mấy năm nay. Hai mẹ con thân cô thế cô. Vợ chồng bà ấy
xây nhà hai tầng, cậy thế giàu có đã lấn đất giọt gianh, lại còn đè lên móng
tường làm nhà nứt khắp mọi chỗ...
-
Chị nói nhà nào nứt? - Bằng phải tìm cách cắt ngang vì chị ta nói liền tù tì một
mạch như đã nghiền ngẫm thuộc lòng từ trước những câu nói dài dòng.
-
Dạ, nhà nào nứt ấy ạ? Thì nhà cháu chứ ai...
Bằng
muốn nhắc chị ta rằng đừng xưng "cháu" như thế. Anh khó chịu vì sự hạ
mình của người đàn bà. Giống như mọi người cùng khổ trước những bậc quyền chức,
cứ muốn thu bé, hạ thấp mình để an toàn và được thương hại. Nhưng anh không
muốn làm cho đương sự phải lúng túng, sợ hãi. Như thế sẽ mang tiếng; mà thời kỳ
đầu ở cương vị mới, không thể để một tiếng xấu nhỏ.
-
... Mẹ con cháu chịu nhịn không nói gì. Thế là bà ấy cho thợ đổ vôi thầu gạch
vỡ xuống giếng nước ăn của nhà cháu; bảo, tại cái giếng làm hỏng móng nhà bà
ấy. Mà cái giếng thì có từ trước. Rồi lại ném gạch sang mái nhà cháu làm vỡ hết
ngói. Bây giờ động mưa là trong nhà như ngoài sân. Cháu chẳng biết làm thế nào,
khổ lắm! - Chị ta bưng mặt khóc, nhưng không dám khóc to.
Bằng
cố nén nỗi tức giận chợt đến. Đồ khốn kiếp! Anh hình dung ra mụ hàng xóm của
người đàn bà khốn khổ này là một mụ béo phị nanh nọc, độc ác.
-
Thế sao chị không báo với chính quyền, công an?
-
Dạ ... cháu cũng đã trình với phường. Các ông ấy bảo hai bên ký vào giấy hoà
giải cam kết không xích mích nữa, rồi thôi. Thế mà sau đấy bà ấy vẫn không
thôi.
-
Vô lý! - Bằng nổi nóng nưhng rồi anh lại tự kiềm chế. Pháp Luật không được nổi
giận mà chỉ lạnh lùng phán xét. Anh tự nhắc mình như vậy - Bà ta có bị thần
kinh không? Hay là có thù oán với nhà chị từ trước?
-
Không ạ, bà ấy không bị thần kinh, mà cháu biết là ...
Bằng
đâm ra tức giận luôn với người đàn bà này. Anh nhớ đã đọc ở đâu đó câu chuyện
có gã chính trực đã vô cùng bực tức trước một kẻ khốn khổ bị oan trái đủ đường,
đến nỗi gã chính trực ấy điên tiết lên, chỉ muốn đá cho kẻ quá khổ sở kia một
cái. Nghĩ kỹ cũng có lý. Giống như ông bố đánh thêm cho thằng con thật đau vì
nó bị kẻ khác ức hiếp mà không biết chống lại.
-
Không xưng "cháu" nữa! - Bằng nói như quát.
-
Dạ, vâng ... nhưng mà ... cháu mới mười bảy ...
Trời
đất! Thế mà trông cô gái như đã gần bốn mươi. Bằng nhìn kỹ khôn mặt ngơ ngác,
tăm tối. Quầng mắt và những nếp nhăn cực nhọc tô đậm bụi than. Và Bằng chợt
nhận ra một sự lạc lõng trên khuôn mặt xấu xí: Đôi mắt to nhiều lòng đen với
cặp mi dày cong, chớp chậm chạp như mơ màng. Đôi mắt đẹp bất ngờ, như một sự an
ủi của "bà Mụ" với cô bé Lọ Lem. Giá như được ở một gia đình khá giả,
cô bé sẽ làm chết nhiều gã trai chứ chẳng chơi. Không phải thời gian hay nỗi
đau đơn thất vọng gì đó như người ta thường nói, mà chính là sự đói khát đã tàn
phá tuổi trẻ và sắc đẹp. Đôi mắt đen như mộ gợn vướng mà Bằng chưa kịp hiểu vì
sao.
-
... Vâng ạ, bà ấy không phải bị thần kinh. Cháu biết, bà ấy làm như thế là
vì... vì ghen ạ! - Nói đến đây cô gái im bặt, cúi đầu vặn vẹo những ngón tay
sứt sẹo, khuôn mặt xấu xí đỏ bừng. Nhìn thế, chẳng cần hỏi "ghen vì cái
gì". Nhưng mà trời ạ, có gã đàn ông nào lại đi lăng nhăng với con bé lam
lũ đen đủi quắt queo kia để cho vợ phải ghen tuông. Hay là vợ hắn, cái mụ béo
tác ta ấy có một ngoại hình ma chê quỷ hờn ? Hay hắn là một thằng cuồng có tật
sưu tầm của lạ, bất kể chất lượng, chỉ cần thật nhiều?
Cô bé sụt sịt khóc vì xấu hổ.
Cô bé sụt sịt khóc vì xấu hổ.
Bằng
rót cốc nước lọc đặt trước mặt cô gái rồi ra mở cửa sổ nhìn đám lá sấu xanh um
ngoài trời, hít một hơi dài, cảm thấy trong không khí mát mẻ ấy có mùi nhôn
nhốt của lá sấu tươi non.
"Ta
đang làm gì thế này? - Bằng nghĩ - Chỉ là một gã giám định viên tư pháp, mà làm
như là được giao trọng trách "thế thiên hành đạo" không bằng. Đồ hấp!
Đông Ky-Sốt 98!"
Bằng
ngồi xuống ghế:
- Thôi được rồi, cô cứ để đơn ở đây, chúng
tôi sẽ giải quyết. Bây giờ cô về tìm một tổ chức tư vấn xây dựng có tư cách
pháp nhân, ký hợp đồng khảo sát tình trạng hư hại ngôi nhà của cô; rồi lập hồ
sơ thiết kế dự toán sửa chữa phục hồi đảm bảo sử dụng an toàn cho công trình.
Giá trị dự toán sẽ được coi là mức thiệt hại, làm cơ sở để toà xét xử ...
Bằng
dừng lại nhìn cô bé nghèo khổ đang cầm cốc nước lọc bằng cả hai tay trân trọng
như được uống một thức nước quý báu. Những ngón dài gầy quắt đen nhẻm và nứt nẻ
như những ngón châm chim giữ chặt cốc nước; cái miệng hơi há với vành môi vẫn
còn là của trẻ con, trông thật tội nghiệp. Cô như không buồn quan tâm tới giới
tính và tuổi trẻ của mình, không hề có sự tác động gì tới ngoại hình, để mặc
thân thể phát triển như loài cây dại. Cô nhíu cặp lông mày, đầu nghiêng nghiêng
với vẻ dốt nát tự nhiên, cố nghe để hiểu câu nói đầy những thuật ngữ pháp lý
của Bằng.
Anh
nghĩ, điều mình đang nói cũng giống như một sự hài hước tàn nhẫn. Tiền đâu mà
thuê thiết kế? Ngay những câu "tổ chức tư vấn", "tư cách pháp
nhân"..., đối với cô bé sống bằng nghề chở than tổ ong, nghe cũng lạ tai
như tên những món ăn đắt tiền ở cửa hàng đặc sản. Nhưng... Pháp-Luật không thể
khóc, nên mới gọi là bộ máy pháp luật. "Bộ máy"! Chẳng từ nào chính
xác hơn thế.
Bằng
nghĩ lan man, rồi sực nhớ tới "đương sự" đang ngồi chờ. Anh lấy lại
tư thế công chức, gõ gõ cây bút vào cuốn sổ:
-
Tôi nói, cô đã rõ chưa?
Cô
bé ngớ ngẩn:
-
Dạ, thế bây giờ cháu phải gặp ai, có tốn kém gì không ạ? Nếu phải mất tiền thì
thực là... cháu không biết lấy đâu ra. Mẹ cháu ốm gần năm nay - Cô bé lại rơm
rớm nước mắt, mếu máo - Mà cháu có làm gì ông bà ấy đâu. Tự dưng bị làm hỏng
mà, rồi lại tốn tiền.
-
Được rồi, tôi sẽ thông báo cho toà án. Bây giờ cô cứ về đi - Bằng đã khôn khéo
né tránh. Nếu giải thích thật rõ thì sẽ như đưa cô bé vào một mê cung đầy những
phiền phức.
***
-
Ai hướng dẫn ông gặp tổ chức giám định chúng tôi? - Bằng hỏi, ông giấu giếm ác
cảm với người đàn ông đứng tuổi ngồi trước mặt, Ông ta chưa trà lời, lấy bao
thuốc lá "555" đẩy đến trước mặt Bằng, điệu bộ lọc lõi mà trịch
thượng, Bằng cau mặt:
-
Cảm ơn tôi không hút thuốc trong giờ làm việc. - Bằng không nghiện thuốc lá.
Anh nói thế để lộ rõ hơn mối ác cảm với ông ta,
-
Ông Hải bên tòa án bảo nộp đơn cho anh, chứ tôi có biết giám định giám điếc gì
đâu. Ông ấy ghi ở góc đơn đấy!
"Chuyển
Tổ chức Giám định Tư pháp". Thẩm phán Đào Trung Hải ghi cái câu quen thuộc
với nét chữ ký di đi di lại một chỗ giống như vết dập xóa. Hừ, thằng cha láu
lỉnh này chỉ mong trong lá đơn có một phần nghìn chi tiết liên quan đến kỹ
thuật là phết luôn cái câu muôn thuở ấy vào để có thể ngủ ngon, trong khi bộ
phận giám định của Bằng phải khóc dở mếu dở với những chuyện rắc rối, đầu Ngô
mình Sở.
Bằng
miễn cưỡng lướt qua lá đơn: Vợ chồng người đàn ông này kiện cô bé chở than hôm
qua, đã vô cớ phá hoại ngôi nhà đang thi công của ông, làm công trình bị lún
nghiêng rất nguy hiểm. Không những thế, cô bé lại còn luôn răn đe làm hại tính
mạng của ông ta.
-
Cô ấy làm cách nào để gây thiệt hại cho ngôi nhà của ông?
-
Cô ta đào một cái hố rất sâu sát góc nhà tôi. thế là tường nhà tôi nứt toác dài
bằng thế này này, đút vừa bàn tay.
-
Sao không thấy chính quyền địa phương chứng nhận sự việc đó? Còn cô ấy thì nói
rằng cái giếng nước ăn của nhà cô ấy đã có từ trước.
-
Tôi trình phường, nhưng ông trưởng phường bảo hai bên đã ký cam kết hòa giải
rồi, phường không giải quyết nữa. Còn chuyện nứt nẻ là việc của cơ quan giám
định kỹ thuật.
Lại
một thằng cha láu cá, vờ ấm ớ để trút việc sang lưng người khác.
-
Thôi được rồi, chúng tôi sẽ có ý kiến với bên tòa án - Bằng nghĩ ra cách đẩy
việc trở lại. Anh lấy bút ghi nhanh vào góc đơn:
"Yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền xác định thời điểm xuất hiện vết nứt của công
trình"
Thế
là thằng cha Hải sẽ phải ngửa mặt lên trời mà than: "Trời sinh Hải sao còn
sinh Bằng?" Còn cái vị đương sự này, phải "giám định" xem chân
tướng lão ta ra sao. Bằng lấy giọng quan trọng hỏi:
-
Đơn ông còn viết rằng cô Ngân đe doạ hại tính mạng ông, là thế nào?
-
À, chuyện ấy thì quá rõ. Cô ấy bảo sẽ thuê bọn chém mướn "làm việc"
tôi. Cô ấy đặt giá đúng theo thị trường. Ba trăm nghìn một nhát vào đùi, năm
trăm nghìn vào hông.
-
Thế còn vào chỗ hiểm, giá bao nhiêu? Bằng định hỏi "vào chỗ kín", vì
nhớ cô bé chở than nói rằng vợ lão này ghen với cô gái. Anh không tin cái cô bé
nghèo khổ và ngây ngô ấy lại có thể như lời lão nói. Nhưng, Bằng lại nghĩ, Pháp
Luật không thể tin tưởng hay hoài nghi, mà chỉ xem xét và quyết định theo các
chứng cớ.
-
À, cũng còn tuỳ. Bụng, ngực, vai, đầu... giá khác nhau. Rồi còn "chết hẳn
hay chỉ nằm bệnh viện" giá cũng khác. Ngay nằm viện cũng tuỳ nằm ít hay
nhiều ngày, giá cả những loại việc này lên tới hàng triệu- Ông ta ra vẻ thành
thạo, sự thành thạo của một kẻ thị dân ngu đần.
-
Hai nhà có thù oán từ trước không?
-
Sao anh lại hỏi thế? Nhà tôi mà lại thù oán với loại người như cô ta! Ngay cái
việc chở than kiếm ăn ở công ty chất đốt cô ấy đang làm cũng là do tôi lấy thế
thân quen với các anh trên tỉnh, xin cho.
-
Có ý kiến cho biết ông quan hệ tình cảm gì đó với cô bé. Vợ ông ghen, dẫn đến
những rắc rồi. Có phải thế không?
Ông
ta đỏ mặt, ho khan rồi trợn mắt:
-
Con bé gớm ghê thật! Thực ra thì nó đặt điều tôi phất phơi với mẹ nó. Con mụ vợ
goá của cái thằng chết rũ tù ấy thì ai thèm? Đấy anh xem, nó còn định thuê
người đâm tôi với giá cả như thế cơ mà!
-
Thế bên nhà ông có ném gạch đá làm vỡ ngói mái nhà cô ta không? - Bằng hỏi và
nghĩ rằng thế là anh đã thụt xuống một bãi lẫy vớ vẩn, phiền phức khó thoát ra
được. Giá được như thời xưa, anh sẽ đập bàn quát lên: "Lính đâu, nọc cổ
tên vô lại kia cho nó năm chục hèo rồi đuổi ra khỏi nha môn!"
- Cái mái ngói nhà ấy có từ hồi Pháp thuộc đến
giờ chưa động hề, chả cần phải ném gạch cũng đã nát như cám rồi. Tôi mà lại đi
làm cái trò ấy? Anh xem đây này, tôi cũng thuộc lớp cán bộ cao cấp - Ông lấy ra
một chiếc ảnh đã ngả màu vàng, tróc ố loang lổ, chìa trước mặt Bằng - Năm năm
mươi ba, tôi cùng học một lớp ở chiến khu với ông Diêm Trọng Y. Trong ngành,
chắc anh biết ông ấy chứ? - Ông ta chỉ móng tay út vào một chú bé đứng trong
một tốp đến ba chục chú bé quần áo kiểu ta, cổ quấn khăn bông trắng. Cái ảnh cỡ
sáu chín, mặt mỗi chú bằng đầu que diêm - Ông lại chỉ vào một chú bé khác bị
chú đứng trước che mất nửa mặt - Còn tôi đây. Hồi ấy chúng tôi sống gian khổ
lắm. Bom đạn, đói khát, chết chóc, nhưng con người với nhau có tình nghĩa. Chứ
bây giờ thì ...
-
Bây giờ thì ông đem đơn gặp lại ông Hải thẩm phán, tôi đã ghi ý kiến đây - Bằng
vô tình tiếp nối câu nói của ông ta.
Đang
hồi tưởng suy ngẫm, ông ta đùng đùng nổi giận:
-
Sao? Anh xua tôi về chỗ anh Hải à? Lại cái trò đá bóng. Các anh coi thường tính
mạng, tài sản của cán bộ cao cấp. Tôi sẽ báo cáo việc này với anh Văn Ích.
-
Chúng tôi làm việc theo đúng trình tự luật pháp. Ông báo cáo với đồng chí Văn
Ích thì cũng thế thôi - Bằng ngắt lời ông ta và thầm khoái trí. Cuối cùng thì
lão đã không còn cái vẻ khệnh khạng tự tin nữa.
-
Nếu anh Văn Ích không giải quyết nổi, tôi sẽ lên thẳng chỗ anh...
Bằng
bình tĩnh một cách khoan khoái:
-
Vâng, có thể ông sẽ lên tận văn phòng đồng chí Nguyễn Ép. Ông đừng nghĩ là
chúng tôi gây phiên hà. Ở cương vị chúng tôi, ông cũng phải như thế thôi. Ông
đã là cán bộ cấp cao chắc ông cũng biết, chúng tôi chỉ thực hiện những quy định
pháp lý hiện hành.
Ông
ta giật lá đơn, xách cái cặp chẳng biết nhét những gì mà chật căng, hằm hằm đi ra.
Bằng cầm bức ảnh trên bàn, chờ ông ta khuất sau cánh cửa mới gọi giật lại:
-
Ông bỏ quên bức ảnh tư liệu đây này.
Khi
ông ta quay lại, Bằng làm ra vẻ chăm chú ngắm nghía bức ảnh:
-
Bao nhiêu năm rồi mà nhìn vẫn nhận ra ông.
Người
đàn ông không hề nhận ra sự giễu cợt của Bằng. Ông bỏ bức ảnh vào cặp, hung
hăng bước đi với vẻ răn đe.
***
Ông
Thị, phó Ban Tư pháp, vừa ngáp vừa nói với Bằng:
-
Lão ấy là một tay vớ vẩn, chứ cao cấo cao củng gì đâu. Nhưng cũng phải cẩn
thận. Mụ vợ lão có ông chú họ xa làm chức gì đó có vẻ to to, hôm nọ phôn cho
sếp nhà ta một cú. Thế là sếp bấn lên, hét tớ. Cái trò ấy, tớ đã mất cảm giác
từ lâu rồi, không còn xúc động được nữa. Tớ vâng dạ rối rít cho sếp an tâm. Còn
cậu cứ nhẩm nha mà làm. Họ chán rồi bỏ cuộc. Cái chính là phải để người ta thấy
là mình vẫn đang "tích cực làm rõ vụ việc".
Bằng
im lặng hình dung ra những ngón tay xương xẩu như những ngón chân chim nắm chặt
cái cốc uống nước. Cốc nước lọc trong vắt chất thuỷ tinh, tương phản với những
ngón tay đen đủi quắt queo nứt nẻ sứt sẹo vì than đá. Có điều gì đó đáng tin
cậy ở đôi mắt đen buồn khổ tăm tối ấy. Mà...rõ vớ vấn! Ngoại hình thì nói lên
điều gì? Biết bao nhiêu vụ án mà kẻ gây tội ác trông hiền lành, ngây thơ ngoan
ngoãn, thậm chí đáng yêu nữa; còn nạn nhân thì trông lại như kẻ tội phạm gian
ác.
Bằng
về phòng mình. Tập hồ sơ vụ kiện mở trước mắt đúng ở tờ đơn của cái lão hợm
hĩnh:
"...
Là một người đã từng cùng học tập, công tác với các đồng chí X nay là... và
đồng chí Y hiện giữ cương vị... Đã có nhiều cống hiến... tôi rất phẫn nộ về sự
coi thường kỷ cương phép nước của gia đình chị Lê Thị Ngân... Tôi đề nghị được
bảo vệ quyền lợi chính đáng... công bằng... nghiêm minh..."
Bằng
hiểu vì sao ông Thị, người đã từng một thời gian dài ở cương vị của Bằng bây
giờ lại có cái tật cứ ngáp đến chảy nước mắt khi nghe người khác trình bày kể
lể sự việc gì.
Anh
đọc tờ đơn của cô bé bán than. Lời lẽ ngây ngô, chữ viết xấu, nhiều lỗi, nhưng
nắn nót cẩn thận theo cách của một người ít học, với tâm trạng lo lắng hoang
mang.
Bằng
lắc lắc đầu như muốn rũ bỏ ý nghĩ vơ vẩn chợt đến. Cái ý nghĩ giống như lòng
trắc ẩn sẽ gây phiền phức cho anh. Vụ này phải giữ an toàn cho mình. Tốt nhất
là đẩy việc đi. Bằng sẽ yêu cầu toà án cung cấp hồ sơ thiết kế ban đầu của ngôi
nhà cô bé bán than. Và phải có biên bản nghiệm thu kỹ thuật ngôi nhà lão hàng
xóm. Bằng biết hai tài liệu này không thể có được. Cái nhà một tầng từ thời
Pháp trong ngõ hẻm, làm gì có thiết kế? Mà có cũng chẳng còn đến bây giờ. Giống
như yêu cầu xuất trình giấy khai sinh của ông nội vậy. Còn ngôi nhà tư của lão
kia xây dựng vô tội vạ, đào đâu ra biên bản nghiệm thu kỹ thuật?
Bằng
đến bàn máy vi tính, lấy từ thư mục ra một văn bản tương tự, copy, sửa đổi ngày
tháng, tên người... tu chỉnh nội dung, rồi in ra vài bản. Tất cả chỉ tốn gần
hai mươi phút. Thế là anh đã tránh được cái vụ phiền toái này. Bằng còn ghi ở
cuối công văn "... Đề nghị khẩn trương cung cấp những tài liệu trên để tổ
chức giám định kỹ thuật sớm có điều kiện tiến hành công việc". Anh hình
dung ra nét mặt của tay Hải thẩm phán khi nhận được công văn này.
Bằng
khoan khoái nhấn nút mở nhạc. Cái đĩa ghi-ta của Francis Goya vẫn ở trong máy
từ hôm qua. Bằng khép cửa; pha gói bột ca-cao, uống một ngụm rồi thả lòng người
trên chiếc ghế xoay, mắt lim dim lắng nghe. Cái máy tính Compaq đời mới có bộ
phận nghe đĩa stereo. Căn phòng trở thành một trường âm thanh êm dịu. Bản nhạc
"Một triệu bông hồng".
Bằng
hình dung ra cái xứ Trung Á của anh chàng hoạ sĩ Micô Piratmani nghèo kiết với
những con đường đất lầm bụi. Ánh mặt trời đặc sánh như nhựa thông nóng chảy.
Những con la đẫm mồ hôi uể oải bước. Giọng ca mệt mỏi của nàng ca sĩ mắt đen
như nhung trong cái quán rượu tồi tàn hôi hám với những bức vách gỗ ám khói bám
đầy nhưng con ruồi ngái ngủ. Rồi, như có phép màu, cả không gian ngột ngạt đến
sắp bốc cháy ấy bỗng tràn ngập không khí ẩm ướt mát dịu, nức hương của những
bông hồng đẫm sương đêm. Anh chàng hoạ sĩ đã bán hết nhà cửa vườn đất, mua hoa
hồng rải ngập quảng trường trước ngôi nhà nàng ca sĩ mà anh ta yêu, như ước
muốn của nàng. Để sớm mai thức dậy,nàng vô cùng ngạc nhiên và xúc động. Tay hoạ
sĩ ấy chắc là hơi bị "chập". Nhưng cũng hay!
Bằng
nghe nhạc, suy tưởng và quên đi cái lão hợm hĩnh, kệch cỡm, cả cô bé bán than
khốn khổ, cả tay thẩm phán láu cá nữa. Nhưng, Bằng không quên được những ngón
tay gầy guộc đen đủi như những ngón chân chim; không sao quên được đôi mắt to
nhiều lòng đen, ngơ ngác, buồn như khóc. Đôi mắt gợi nhớ mơ hồ một điều gì đó
rất xưa cũ.
***
Ông
Thị càu cạu nhìn Bằng đang đứng trước bàn làm việc của ông:
-
Cậu không chịu động tĩnh gì về cái vụ nứt nhà trong ngõ 13C. Bây giờ to chuyện
rồi. Cậu liệu mà đỡ đòn.
Bằng
cười thầm. Cái lão cáy ngày này lại còn đi doạ người khác. Nếu có chuyện gì lão
cứ việc bợp tai cấp dưới tuỳ thích, nhưng về mặt pháp lý thì lão là sếp, lão ký
có con dấu, lão phải chịu. Tuy vậy, cũng nên cất gánh lo cho lão:
-
Báo cáo anh, sau khi gửi sang toà án cái công văn do anh ký yêu cầu cung cấp
tài liệu, suốt gần hai tháng nay em luôn giục điện thoại, nhưng anh Hải thẩm
phán cứ khất lần mãi. Vậy thì chẳng ai có thể đổ lỗi cho chúng ta được.
-
Thật thế chứ? - Khuôn mặt ông Thị dãn ra, hớn hở như nét mặt của một phạm nhân
thoát tội, được tha bổng - Nếu thế thì ổn rồi! Cậu làm ngay một thông báo gửi
Uỷ ban Quận, Toà án, Viện Kiểm sát và các đương sự nói rằng tổ chức Giám định
Tư pháp đã làm hết sức mình. Những cơ quan và cá nhân tắc trách trong sự việc
này sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự sập đổ ngôi nhà của cô Ngân.
Nhà
cô bé Ngân đã sập! Bằng không thể nghe thêm gì được nữa, vội vã nhào ra bãi để
xe.
-
Tránh ra cho Giám định tư pháp vào khảo sát hiện trường! - Bằng lấy giọng hách
dịch như của một nhân viên công lực, quát đám người hiếu sự để lách xe máy qua
lối ngõ hẹp vào cái sân nhỏ. Mấy ông cán bộ phường đứng vây quanh một người đàn
bà tóc xoã rũ rượi nằm bất động trên manh chiếu cũ, bên đống gạch sỉ của ngôi
nhà vừa đổ ụp. Những đồ đạc nghèo nàn gẫy nát, bẹp dúm, vỡ vụn lẫn trong đám
vôi gạch.
Cô
bé Ngân đang cuống quýt xoa bóp cho người đàn bà qua lớp vỏ chăn mỏng, mắt hốt
hoảng nhìn quanh:
-
Các chú ơi, liệu mẹ cháu có bị làm sao không?
-
Ai mà biết được. À, giám định pháp y đây rồi? Để ông ấy xem cho.
Ngân
nắm chặt tay Bằng:
-
Chú ơi, cứu mẹ cháu!
-
Tôi là giám định tư pháp về khoa học kỹ thuật công trình. Không phải cứ
"giám định" thì đều là "giám định pháp y" - Bằng bực mình
với mấy người có trách nhiệm đang đứng ngây ra - Các ông không đưa người ta đi
bệnh viện còn chờ gì nữa?
-
Nhưng xe cấp cứu chưa đến.
-
Ngõ bằng gang tay, ô-tô vào sao được? Phải đưa nạn nhân ra ngoài đường, xe đến,
kịp đi ngay - Bằng nói như một người chỉ huy.
Ngân
coi Bằng là nhân vật quan trọng nhất trong số những người ở đây vì anh có chức
trách nghe rất dài dòng khó hiểu. Cô bé oà khóc, ngước mắt như van xin Bằng:
-
Chú Bằng ơi, chú cứu mẹ cháu với! Mẹ cháu biết chú đấy, chú ơi!
-
Cái gì? Điều lờ mờ trong ý thức về đôi mắt của cô bé vụt chói sáng như một làn
chớp. Anh ngồi thụp xuống bên người đàn bà, vén lọn tóc loà xoà trên mặt nạn
nhân. Đôi mắt đen ngày xưa. Từ lâu lắm, mười bảy năm trước. Không. Một trăm năm
rồi!
-
Nga ... Nga ơi!
***
Bằng
không có mặt trên con tàu nhỏ bé han rỉ cũ kỹ khi nó rời bến. Đến phút cuối
cùng, anh sợ. Anh cũng không dám ra bờ biển để báo cho Nga. Anh run lên khi
nghĩ đến tiếng quát của công an, tiếng quát ở đoạn cuối những câu chuyện cảnh
giác truyền thanh vẫn phát trên đài vào mỗi tối thứ bảy: "Tất cả đứng im!
Các người đã bị bắt!"
Khi
con tàu khởi động máy, Nga hốt hoảng xin cho chờ Bằng ít phút nữa. Những người
tham gia cuộc vượt biên nhao nhao phản đối. Nga cầu cứu thuyền trưởng Mạnh vốn
là bạn học chung của hai người. Gã thuyền trưởng hộ pháp râu ria lởm chởm trông
như một tên thuỷ khấu trong truyện Tàu, nhổ phì phì xuống biển, nói với Nga:
-
Em còn lạ gì cái thằng hèn ấy mà lại tin vào nó? Gặp hoạn nạn, nó sẵn sàng bỏ
mặc em để thoát lấy thân. Nó không đi cùng càng tốt cho em. Sau này, chuyện gì
xảy ra với em đã có anh.
Nga
khóc:
-
Nhưng... anh Mạnh ơi, xin anh thương em. Ngày xưa anh vẫn bênh vực đứa em gái
nhút nhát, bé nhất lớp này. Em và Bằng ... Chúng em sắp ... có con.
-
Thằng Bằng có biết chuyện không?
-
Anh ấy biết là có dấu hiệu. - Nga bưng mặt khóc.
Mạnh
đấm thẳng cánh vào vỏ ca-bin buồng lái bằng thép làm ầm vang như tiếng cồng và
quát lên với gã lái tàu:
-
Rời bến! - Rồi Mạnh đặt bàn tay bật máu lên vai Nga - Thằng khốn nạnấ, chiều
hôm qua nó bảo rằng mẹ nó đã biết, vì vậy có thể nó sẽ hoãn chuyến đi. Được
rồi, em đừng lo. Anh sẽ là bố của đứa bé!
Nga
chưa hết bàng hoàng thì Mạnh nói thêm bằng một giọng dịu dàng chưa bao giờ có ở
anh ta:
-
... Khi em yêu Bằng, anh rất thương em vì biết em sẽ khổ với cái thằng hèn nhát
ích kỷ ấy, nhưng anh không biết làm thế nào. Anh không đẹp trai, không biết đàn
hát như nó.
Con
tàu rùng mình để trườn khỏi lớp bùn nhão ven bờ. Đúng lúc đó, ánh đèn pha chói
loà với tiếng quát:
-
Không được chống cự. Các người đã bị bắt!
Ở
trường đại học, Bằng biết mọi chuyện, nhưng sợ liên luỵ có thể bị đuổi học nên
không dám gặp lại Nga nữa. Mạnh đi tù, mãn hạn, về sống với mẹ con Nga trong
cái xóm thợ thuyền này thành một gia đình. Rồi Mạnh xin vào làm trên một con
tàu nhỏ chở than của tư nhân. Họ không có con chung. Một lần đi biển, Mạnh đã
không trở về sau trận bão lớn.
Bằng
lấy vợ, con gái một sếp to, sống yên ổn khá giả, trơn tru đến mức chẳng có gì
để nói. Thành phố thì nhỏ thôi, nhưng họ không có ý tìm nhau nên chuyện xưa
chết dần dưới lớp thời gian trầm tích. Chuyện của họ đem kể ra thì giống như
một kịch bản loại xoàng về sự ích kỷ bạc bẽo tồi tệ của người đời.
Bây
giờ họ gặp lại nhau.
-
Nga ơi!...
Nga
quay nhìn Bằng. Đôi mắt đen đẹp trên khuôn mặt nhợt nhạt dửng dưng, vô cảm. Đôi
mắt ngày xưa Bằng đã say đắm.
Ông
trưởng phường ra vẻ thông thạo, nói bô bô:
-
Giập ống chân rồi. Bây giờ chưa đau đâu. Nhưng đến đêm nay, ngày mai mới biết
nhau. Phải tháo khớp chứ chẳng chơi. Có nhẹ cũng phải cưa!
Nga
nghe rõ câu nói ấy và thấy một chân chẳng biết là bên phải hay trái tê dại
không có cảm giác gì.
Cô bé Ngân khóc nức nở như thể mẹ nó đã chết:
Cô bé Ngân khóc nức nở như thể mẹ nó đã chết:
-
Mẹ ơi! Chú cứu mẹ cháu, chú Bằng ơi! Mẹ cháu biết chú mà!
Nga
đưa tay vuốt tóc con. Đúng, Nga biết rõ Bằng lắm.
Bằng
đặt tay lên vai con bé, chạm vào bàn tay Nga. Chị rụt vội tay lại như sờ phải
một con chuột. Nga sợ chuột từ nhỏ. Sau này, dù cuốc sống có vất vả, lam lũ,
chị vẫn không hết sợ chuột.
Còn
Bằng thì nghĩ rằng, gã thẩm phán Hải và vợ chồng lão hàng xóm của Nga phải chịu
trách nhiệm về vụ việc này, chứ không phải là anh. Nhưng anh biết, rồi đây cặp
mắt đen với cái nhìn căm giận, khinh bỉ lẫn nỗi đau ghê gớm kia sẽ không để anh
ngủ yên.
Chỉ
có một điều Bằng sẽ mãi mãi không được biết, rằng Ngân là con gái của anh ta.
Đúng, mãi mãi - Nga nghĩ thế, và chìm vào hôn mê.
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 26/05/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Trương
Chi của tôi – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
18/05/2011
Nhiều đứa trẻ được ru
ngủ bằng câu chuyện về anh Trương Chi "người thì thậm xấu, hát thì thậm
hay..." ấy. Rồi bọn trẻ thành người lớn, lại lấy câu chuyện tình bi thảm
ấy ru con của chúng. Cứ thế, câu chuyện tồn tại mãi.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Nhiều
đứa trẻ được ru ngủ bằng câu chuyện về anh Trương Chi "người thì thậm xấu,
hát thì thậm hay..." ấy. Rồi bọn trẻ thành người lớn, lại lấy câu chuyện
tình bi thảm ấy ru con của chúng. Cứ thế, câu chuyện tồn tại mãi.
Sau
này nữa, tức là gần đây, có nhà văn đã viết lại câu chuyện. Ông viết hay lắm,
nhưng tôi thì tôi không thích ông tả cái cảnh anh Trương Chi cứ đứng ở mũi
thuyền mà... (xin lỗi!) tiểu tiện vọt xuống sống, miệng luôn văng ra cái câu...
(lại xin lỗi nữa!)... cái câu chỉ thứ dùng để bón ruộng và là món khoái khẩu
của đám cún quê.
Một
ông nhà văn khác thì viết rằng Trương Chi rất đẹp trai. Vì theo ông, con chim
hót hay phải là con chim đẹp. Ông nói cũng hữu lý. Có điều với sơn ca, con chim
hót hay nhất trong các loài chim thì lại chỉ là một nhúm lông xám xịt.
Nhưng
chả sao! Mỗi người cứ việc tưởng tượng cho riêng mình một Trương Chi. Tôi cũng
vậy, tôi có Trương Chi của tôi, thậm chí tôi đã sống cùng với anh chàng có
giọng hát mê hồn ấy trên sông Hoài, một dòng sông nước xanh trong ngập bờ cỏ,
chảy qua những đồng bãi trù phú, bạt ngàn ngôi mía, đẹp như sông Đanuýp trong
những điệu valse bất hủ của Giô-han Strao (1). Tôi nói về dòng sông Hoài ấy
không quá đáng chút nào. Vì, tôi bắt chước cách suy luận của ông nhà văn thứ
hai nói trên: Chỉ có dòng sông đẹp mới khiến cho người chèo thuyền trên dòng
sông ấy có tiếng hát làm mê đắm lòng người.
Không biết Trương Chi mang họ gì, vì anh không có bố. Mẹ anh không phải là nhân vật quan trọng trong làng, nên chẳng ai cần biết họ của bà. Sau này, người ta gán cho Chi họ Trương vì anh sống trên thuyền và hát rất hay. Còn tên Chi vì mẹ anh tên là Chít. Làng tôi bên bờ thượng nguồn sông Hoài, heo hút biệt lập. Dân làng sống mông muội, nghèo kiết như một bộ lạc bán khai. Mọi quy ước về luân lý xã hội ở đây đều thô sơ, đơn giản như những công cụ cầm tay mà họ tự chế để kiếm sống. Nhiều đứa trẻ được sinh ra do những cuộc tình ngẫu hững ngoài bờ sông bãi sũ, giữa những gã đánh giậm, chăn vịt với những ả mò cua bắt ốc, cất vó tép. Tôi là đứa trẻ như thế, cũng như Trương Chi.
Không biết Trương Chi mang họ gì, vì anh không có bố. Mẹ anh không phải là nhân vật quan trọng trong làng, nên chẳng ai cần biết họ của bà. Sau này, người ta gán cho Chi họ Trương vì anh sống trên thuyền và hát rất hay. Còn tên Chi vì mẹ anh tên là Chít. Làng tôi bên bờ thượng nguồn sông Hoài, heo hút biệt lập. Dân làng sống mông muội, nghèo kiết như một bộ lạc bán khai. Mọi quy ước về luân lý xã hội ở đây đều thô sơ, đơn giản như những công cụ cầm tay mà họ tự chế để kiếm sống. Nhiều đứa trẻ được sinh ra do những cuộc tình ngẫu hững ngoài bờ sông bãi sũ, giữa những gã đánh giậm, chăn vịt với những ả mò cua bắt ốc, cất vó tép. Tôi là đứa trẻ như thế, cũng như Trương Chi.
Tôi
có một người mẹ cho đến một buổi chiều mây xám, mưa bụi, gió bấc hú dài trên
cánh đồng mới cày vỡ. Mẹ tôi ôm bị quần áo, ngồi trong chiếc xe ngựa lắc lư
xiêu vẹo do một con ngựa gày còm kéo về phía thị xã. Mẹ đi theo người đánh xe
ngựa, bỏ tôi lại cho một người bác họ. Tôi cuống cuồng gào lên, chạy theo chiếc
xe ngựa khóc gọi mẹ cho đến khi ngã sấp xuống mặt đường cỏ ướt. Tôi nằm nức nở,
nhìn theo chiếc xe nhỏ dần rồi biến mất ở chân trời, nơi những đám mây rách
rưới cũ bẩn, lướt thướt rũ sát mặt đất.
Tôi
không có ý làm cho ai đó mủi lòng vì những dòng tôi vừa viết. Chuyện có vẻ cũ,
"tiền chiến" quá, nhưng biết làm sao được khi sự thực là như vậy. Tôi
nằm trên mặt đê cho đến khi một đôi tay mạnh mẽ nâng tôi lên. Đó là Trương Chi.
Anh đi bộ đội, bị cụt một chân, mới về làng ít lâu nay. Ngày thường tôi rất sợ
cái chân cụt ấy, nhưng bây giờ tôi ôm lầy cái ông quần rỗng và chiếc chân còn
lại của anh, oà khóc.
-
Thôi! Xuống thuyền với tao - Trương Chi xoa dầu tôi - Nín đi! Đời còn dài, còn
khóc nhiều, phải tiết kiệm nước mắt, Cu con ạ!
Trương
Chi đưa tôi xuống chiếc thuyền nhỏ có mui che, như mộ túp lều nổi đậu dưới bến.
Trong khoang thuyền hẹp có lưới, vó, vài dụng cụ bắt cá khác... đồ nấu ăn và
một cây đàn ghi-ta. Cây đàn như một vật là mà anh mang trên vai cùng với chiếc
ba lô hôm trở về làng, làm bọn trẻ con chúng tôi chạy theo hò hét ầm ý.
Trương
Chi nấu xong bữa chiều khi bóng tối đã phủ kín mặt sông. Hai anh em ngồi ăn
dưới ngọn đèn bão. Con thuyền lắc nhẹ như vỗ về, dỗ dành khiến tôi thấy việc bị
mẹ bỏ rơi cũng không đến nỗi nào.
Người bác họ của tôi bị chứng lẩn thẩn đến nỗi không biết thằng cháu của ông là ai, nên tôi đến ở hẳn với Trương Chi. Như con chó nhỏ bị vứt bỏ, tôi thân thiết ngay với người chăm sóc mình. Cái chân cụt của Trương Chi không còn đáng sợ nữa. Trên thuyền, anh khong cần dùng nạng. Đôi tay mạnh mẹ chèo chống con thuyền, chài lưới, giặt giũ, nấu ăn... rất thành thạo. Và đêm đêm, Trương Chi hát. Cây đàn sứt sẹo như đàn của xẩm phố huyện, nhưng là đàn tốt, tiếng ngân vang mặt sóng theo giọng hát mê hồn của anh.
Người bác họ của tôi bị chứng lẩn thẩn đến nỗi không biết thằng cháu của ông là ai, nên tôi đến ở hẳn với Trương Chi. Như con chó nhỏ bị vứt bỏ, tôi thân thiết ngay với người chăm sóc mình. Cái chân cụt của Trương Chi không còn đáng sợ nữa. Trên thuyền, anh khong cần dùng nạng. Đôi tay mạnh mẹ chèo chống con thuyền, chài lưới, giặt giũ, nấu ăn... rất thành thạo. Và đêm đêm, Trương Chi hát. Cây đàn sứt sẹo như đàn của xẩm phố huyện, nhưng là đàn tốt, tiếng ngân vang mặt sóng theo giọng hát mê hồn của anh.
Trương
Chi đâu có xấu trai như trong câu chuyện cổ. Người đời quen cho rằng trừ vài cô
gái nghèo làm mê mẩn những công tử nhà giàu trong tiểu thuyết ra, còn tất cả
những kẻ khốn khổ trên đời đều xấu xí. Người ta lý sự: Tại khốn khổ nên xấu xí.
Vì ăn còn chẳng đủ, lấy gì để chăm sóc, giữ gìn sắc đẹp, cho dù có người được
trời cho đẹp sẵn. Bề ngoài Trương Chi cũng bình thường như một trai làng, thậm
chí khuôn mặt anh còn được tạo hình khá cầu kỳ ở sống mũi thẳng rất tỷ lệ với
vành môi gợi cảm của một ca sĩ bẩm sinh. Chỉ có cái chân bị cụt một cách cưỡng
bức, nhân tạo khiến anh trở nên không bình thường trước mắt mọi người.
Đêm,
Trương Chi hát. Tôi dám chắc anh hát còn hay hơn Trương Chi trong truyện. Khi
hát, lòng anh rung đến tận cõi sâu thẳm, trút hết hồn vào tiếng hát, như để hát
một lần chót rồi chết, không bao giờ được hát nữa. Anh hát cho mình nghe, như
con chim hót tự nhiên. Tiếng hát vang trên sóng:
"... Này nước, này trăng, này
mây...
Này khói sương giăng bờ cây...
Gió không đưa người về đây?
Sóng không đưa tình về đây?..."
Trương
Chi không nghiện rượu. Nhưng vào mùa lạnh, buồn, anh cũng uống chút ít. Lúc ấy
anh hát hay hơn. Còn về ghi-ta thì sau này, khi được học nhạc, tôi hiểu ra rằng
cũng như hát, Trương Chi đã chơi đàn bằng tâm hồn, không lệ thuộc một kỹ thuật
nào. Tuy vậy anh cũng biết vài ngón nghề của thuật lục huyền cầm học được hồi ở
trong quân đội. Trương Chi dạy tôi học chữ. Anh còn dạy tôi cách câu cá bống.
Rất dễ và nhàn, chỉ cần mắc những con tôm vào nhiều chiếc cần câu, thả nổi trên
sông rồi chèo thuyền vớt dần lên, lấy cá. Nhưng anh không dạy tôi đàn hát. Anh
bảo:
-
Dính vào những thứ ấy, khổ đời, Cu ạ!
Mấy
năm sau là thời kỳ đổi mới của làng quê tôi. Ông chủ tịch xã mới lên là người
tài giỏi, đã xin được mấy dự án đầu tư loại khá của tỉnh về địa phương. Một khu
phố mới được xây cất ở rìa làng, dọc bờ sông. Đêm đêm, điện sáng trưng. Người ở
các công trường, quan chức từ huyện, khách trên tỉnh đổ về mua bán, ăn uống
chơi bời, vui vẻ văn minh không kém gì thị trấn huyện. Trương Chi thường đến
đấy bán tôm, cá cho nhà hàng đặc sản.
Trương
Chi dạy tôi đọc thông viết thạo rồi cho tôi theo học trường cấp một của xã. Hôm
khai trường, trong bữa cơm tối, Trương Chi bảo:
-
Chịu khó học giỏi, rồi lên bờ ở, để còn lấy vợ, Cu ạ!
-
Em ứ lên bờ. Ứ lấy vợ, cứ ở với anh! Tôi ngừng ăn, mếu máo tưởng như Trương Chi
sắp đuổi tôi đi.
-
Khá lắm! Mới đi học được một hôm đã thông minh rồi. Đúng! Cần quái gì lên bờ để
mọc rễ ra trên một miếng đất, rồi chết già ở đó! Cứ làm chim trời cá nước như
thế này, khoái đời!
Trương
Chi uống rượu nhiều hơn mọi lần. Anh nói chuyện với tôi theo cách tôi vừa là
người lớn ngang hàng, vừa là một thằng nhãi con để anh đùa cợt:
-
Nhưng thế nào mày cũng phải lên bờ, cố thành cán bộ xã, để có một lô đất tiêu
chuẩn ở phố mới. Rồi làm nhà, mở quán ka-ra-ô-kê, bán đặc sản gỏi cá như nhà
ông Cương phó chủ tịch ấy.
Tôi
buông bát cơm tu tu khóc, nghĩ rằng Trương Chi vẫn muốn đuổi tôi:
-
Em không lên bờ bán gỏi cá. Em ở với anh cơ!
-
Lại nhè rồi! Thì anh em mình vẫn ở với nhau chứ sao! - Trương Chi thở dài lắc
đầu - Nhung... Cu ơi, giá mà mày biết được vì sao anh lại trở về cái làng chẳng
còn ai thân thích, chẳng một tấc đất cắm dùi. Về làng để rồi lênh đênh như bèo
bọt trên mặt sóng với một con thuyền nát... Buổi chiều âm u, sương giăng kín
mặt sông, không nhìn rõ bờ bên kia. Tôi lụng thụng trong cái áo bộ đội cũ của
Trương Chi, ngồi ê a học bài. Trương Chi đeo vịt cá, chống nạng lên bờ, đi về
phía phố mới.
-
Đói, cứ ăn trước, Cu ạ! - Anh ngoái lại dặn thế. Tôi "vâng", nhưng
tôi định bụng sẽ vẫn cứ đợi anh về cùng ăn.
Trời dần tối. Gió rít trên mui thuyền. Có
tiếng xe ngựa lọc cọc trên bờ. Tôi chợt kêu lên:
- U
ơi! U! - Chẳng ai thưa. Không phải chiếc xe ngựa đã đưa mẹ tôi đi. Đã nhiều lần
tôi gọi theo bất kỳ chiếc xe ngựa nào trông thấy trên đường.
Trời
tối hẳn. Tôi thắp đèn, ngồi nhìn vùng ánh sáng hắt ra từ khoang thuyền lấp
loáng mặt sóng. Dòng sông lẫn trong bóng đêm bí hiểm, rộng đến vô tận. Cái
khoang thuyền nhỏ lại bằng mảnh vỏ củ lạc, còn tôi là một con kiến bé bỏng cô
đơn giữa mặt nước và đêm tối vô cùng. Lại tiếng xe ngựa. Chiếc xe lúc nãy quay
trở lại, hay là chiếc xe ngựa ngày xưa?
- U
ơi!- Tôi bật khóc.
-
Anh đây, Cu ơi! Sao thế? Trương Chi trở về đúng lúc sự đơn độc và nỗi sợ hãi
làm trái tim bé nhỏ của tôi không chịu đựng nổi nữa. Anh xuống thuyền, dáng
điệu vụng về, không bình thường. Chắc anh đã uống rượu.
Tôi
dọn cơm. Trương Chi không ăn, lấy rượu uống tiếp. Anh gật gù nói với tôi những
điều mà tôi chẳng hiều gì cả:
-
Cu con ạ, tao vừa uống rượu với tay Doãn thư ký uỷ ban. Lại cho nhà hắn mấy cân
cá. Hắn vẫn nói như lần trước: "Còn chờ xác minh!" Hừ! Đơn vị thì
thay đổi biên chế xoành xoạch, biết tìm ai để xác minh? Lúc bất giờ, anh em
chết cả. Còn mình tao. Gần chục thằng xuông đền ghì chặt, định bắt sống. Tao
thả quả lựu đạn bên cạnh, tính cùng chết. Nhưng chỉ mất cái chân, vì chúng nó
hứng hết. Tao lết vào một cái làng đồng bào dân tộc, rồi chẳng biết gì nữa. Thế
mà bây giờ thì: "Cũng có thể bị thương trong chiến đấu. Cũng có thể vượt
rừng đào ngũ, rồi đạp phải mìn. Có thể còn tệ hơn: Bị thương, địch bắt được
chữa chạy, rồi "tuyển mộ", rồi "đánh" về bên ta hoạt
động". Hắn bảo ấy là giả dụ thế. "Giả dụ" kiểu ấy thì chết mẹ
con nhà người ta!
Trương
Chi cười nức lên, lấy ống tay áo bộ đội bạc phếch chùi mắt:
-
Hắn uống nhiều quá, mất khôn. Rượu nói, không chấp. Tao bảo hắn: "Tôi
không xin tiêu chuẩn gì cả. Đã có sông Hoài trợ cấp cho tôi đến hết đời. Chỉ
xin đừng nghi kỵ tôi!" Nhưng hắn có nghe tao nói gì đâu. Mụ Nhuần cho một
con bé váy áo cũn cỡn ra dìu hắn vào buồng trong rồi bảo tao cứ về, mai ra tính
tiền. Hừ! Mai phải ra thanh toán thêm cả cái trò "giã rượu" của hắn.
Thực ra... Cu ạ, tốn kém mất cũng được, chỉ cần nhà cô ấy đừng rẻ rúng tao...
đừng coi tao là thằng đào ngũ... là thành phần bất minh, khả nghi... rương Chi
dừng một lát rồi lắc lắc đầu, giọng nằng nặng:
-
Nhưng mà Cu ơi, tao biết rồi... Bây giờ tao như thế này thì cô ấy cũng chẳng
cần biết tao có đào ngữ, có bị "tuyển mộ" hay không! Đời là thế mà!
Còn tao thì lại phụ lòng cô gái người dân tộc đã chữa chạy cái chân cụt này.
Chiều chiều, nhìn rừng tối dần, tao hát về dòng sông Hoài. Cô ấy nói như khóc:
"Em thương con sông trong câu hát, thương cả bộ đội nữa. Ở lại đây, em làm
rẫy, em nuôi". Tao bảo với cô ấy: "Tôi không bao giờ quên ơn em.
Nhưng mà, bên cái dòng sông trong bài hát ấy, có một người con gái đang đợi tôi
về..."
Hôm
tao đỉ, cô dân tộc ấy ngồi rũ dưới chân nhà sàn, khóc như mưa như gió, khóc hơn
cả mày khi bị mẹ bỏ rơi ấy, Cu ạ...
Trương
Chi ho sặc sụa rồi bất chợt anh gõ móng tay vào mạn thuyền hát, giọng say,
ngang tàng, vang mặt sông:
"Ô hô! Ô hô! Sông Hoài!
Chảy hoàu ròng ròng trong vắt
Thuyền xưa chết chìm đáy mắt
Còn sông, mà ai quên ai..."
Trăng
mờ sỉn như cái đĩa nhôm cũ kỹ méo mó trôi. Trương Chi vẫn uống. Rồi lấy đàn ra
bật bùng, hát. Những câu hát thê lương, những tiếng khóc ly biệt, nhưng mà hay
lắm. Bài hát gợi nhớ đến một người con gái nào đó, rất thân yêu. Với tôi, cái
người thân yêu trong bài hát ấy chính là người mẹ. Tôi nằm nghe, mắt ướt đấm,
rồi thiếp đi trong tiếng hát Trương Chi... Tôi tỉnh giấc. Đêm đã khuya lắm. Tôi
tỉnh giấc chính vì sự tĩnh lặng vô cùng của dòng sông khuya, tưởng như những
lớp sóng dưới ánh trăng kia đã đông cứng lại. Trương Chi vẫn đàn. Sau này, khi
đã là một người sáng tác nhạc, tôi nhớ lại mới biết lúc đó Trương Chi đã đàn
một Etude (2) cổ điển nào đấy. Tiếng đàn khe khẽ chậm rãi, bứt rứt, nhức buốt.
Mái tóc rũ trên cần đàn. Những ngón tay run bần bật, trang trọng nắn nót trên
phím, với những thế bấm cầu kỳ của những hợp âm phức tạp. Toàn thân anh rung
nhẹ như có một sự chuyển vận ghê gớm từ bên trong để rút tận kiệt cùng cho
tiếng đàn thoát ra.
Anh
không hát, cũng không phải đang độc tấu. Trương Chi đệm đàn cho một người khác
nói (Ấy là cảm tưởng sau này của tôi). Tiếng một người con gái, chắc là đẹp lắm
vì giọng nói êm ái, xúc động.
-
Những ngày anh ở ngoài mặt trận, những ngày mưa gió bây giờ, không có tiếng hát
của anh, em nhớ anh đến phát ốm. Em không phải là người bội bạc. Nhưng mà, bây
giờ anh như thế này. Lại còn làng nước điều tiếng nữa. Bố em không bao giờ bằng
lòng chuyện chúng mình. Mà em thì yếu đuối. Em không thể... Xin anh thông cảm
cho em...
Tiếng
nói dừng lại. Trương Chi vẫn lặng lẽ đàn. Rồi người con gái lại nói, nhưng
giọng không xúc đọng như trước nữa:
-
Bố em bảo, thôi, chuyện trẻ con ngày trước, quên đi! Còn bây giờ, nếu anh khó
khăn thì ban ngày đi đánh cá, tối về hàng nhà em hát mồi cho khách ka-ra-ô-kê.
Bố em trả công. Nhưng chỉ ngại cái chân của anh làm khách sợ. Anh cứ đến trình
bày để bố em thông cảm. Em sẽ nói thêm vào. Đấy, em đã nói hết, anh hiểu cho
em...
Tiếng
đàn gắt lên chát chúa, vụt tắt. Trương Chi vội đưa tay bưng mắt. Cái dây đàn
đứ, quất vào mặt. Có tiếng tre nứa cót két. Cô gái ngồi trên mặt sàn tre ghép
đứng lên. Cái sàn tre luồng sau ngôi nhà lớn ba tầng ở dãy phố mới bên bờ sông,
như kiểu nhà hàng thuỷ tạ. Họ đã nói chuyện với nhau, người trên sàn, người
dưới thuyền. Trăng soi rõ mặt cô gái: Chị Nương, con gái ông Cương chủ tịch xã,
người đẹp nhất huyện, từng có ảnh in ở tờ lịch treo tường.
Chị
Nương đứng tần ngần một lúc rồi quay vào nhà. Trương Chi buông bàn tay khỏi
mắt. Máu chảy từ mí mắt xuống gò má, như thể anh đã khóc và nước mắt là máu.
Anh bỏ đàn, nhổ cây sào, đẩy thuyền ra giữa sông, rồi để mặc thuyền trôi.
Trương Chi vớtnước sông rửa vết thương. Tôi đưa khăn mặt cho anh. Trương Chi úp
mặt vào chiếc khăn, ngồi dựa mạn thuyền, im lặng đến sáng.
Có
lẽ nỗi đau mất mẹ và suốt thời thơ ấu sống bên Trương Chi đã khiến tôi thành
một kẻ đa cảm. Sau này tôi mới biết thói đa cảm ấy là một tật xấu, đã đem lại
cho tôi bao nhiêu thiệt thòi và phiền toái, trở thành nguyên nhân của những bất
hạnh trong đời tôi. Đầu tiên là việc tôi mắc vào nghiệp xướng ca, cái món mà
Trương Chi đã khuyên "Đừng dính vào, khổ đời!".
-
Nhà mình túng bấn, em không học lên nữa đâu. Anh cho em thi Trung học văn hoá
nghệ thuật trên tỉnh. Nếu đỗ, trường ấy có học bổng. Còn trượt thì ở nhà đánh
cá. - Tôi nói với Trương Chi khi học xong cấp hai.
Anh
thở dài im lặng. Tôi biết anh rất muốn cho tôi học nữa, để tôi có thể đổi đời
một cách tức cười như anh vẫn ước ao là tôi sẽ trở thành cán bộ xã, được hưởng
các "tiêu chuẩn". Tôi nói thêm:
-
Học xong, có khi em thành cán bộ văn hoá huyện, còn to hơn cán bộ xã. Có mở
quán ka-ra-ô-kê ở phố huyện mới cũng tiện. Nhà mình sẽ khấm khá lên rất nhanh.
Anh khỏi phải lặn lội sông nước, chỉ ngồi thay băng nhạc, thu tiền.
Trương
Chi không hưởng ứng câu nói đùa ấy. Khuôn mặt anh khắc khổ đượm buồn. Tôi nhìn
anh lo lắng. Anh có "quyền huynh thế phụ" với tôi. Có lần đi học về,
tôi hớn hở khoe là vừa qua phố mới, thấy chị Nương mặc váy hoa, tô son phấn,
cùng với mấy anh người trên tỉnh hát rống lên như bị đánh ở cửa hàng karaôkê của
bố. Một anh ôm lấy chị Nương, nhún nhảy theo tiếng kèn trống xập xình, trông
buồn cười lắm. Không để tôi nói hết, Trương Chi quát lên:
-
Im mồm! Ai cho mày học xong không về ngay, lại phất phơ ở đấy? - Anh bẻ cần
câu, cho tôi một roi nhớ đời.
Bây giờ, liệu anh có cho tôi một roi nữa vì
dám trái ý anh? Mấy năm nay anh già đi rất nhanh. Cá sông ngày một ít. Trương
Chi vất vả lắm mới nuôi được tôi ăn học. Sóng gió và những ngày đông tháng giá
làm anh suy yếu, ban đêm thường ho khúc khắc. Hay là vì chuyện chị Nương mà anh
suy sụp? Tôi cũng không biết nữa. Sau cái đêm gặp chị Nương, không thấy anh nói
gì thêm. Cũng sau đêm ấy, anh không hát nữa và không bao giờ cho thuyền đến
đánh cá ở khúc sông chảy qua khu phố mới, mặc dù cá thường đến đấy nhiều để
kiếm chất thải từ dãy phố trút xuống.
Cuối
cùng Trương Chi cũng cho tôi đi trung học văn hoá nghệ thuật. Tôi đố lớp thanh
nhạc. Khoản học bổng ít ỏi của tôi phụ thêm với Trương Chi cũng đủ hai anh em
sống tạm mấy năm tôi học trên tỉnh.
Có một chiều mưa phùn, đường đê vắng ngắt. Những thửa ruộng trơ gốc rạ. Tôi từ trường về. Trời vừa mưa khi tôi về tới đầu làng. Vẫn những đám mây xám lê thê tận chân trời mờ mịt, như ngày nào. Chỉ thiếu chiếc xe ngựa xiêu vẹo. Chính Trương Chi đã cúi xuống nâng tôi lên khỏi mặt đê cỏ ướt này.
Có một chiều mưa phùn, đường đê vắng ngắt. Những thửa ruộng trơ gốc rạ. Tôi từ trường về. Trời vừa mưa khi tôi về tới đầu làng. Vẫn những đám mây xám lê thê tận chân trời mờ mịt, như ngày nào. Chỉ thiếu chiếc xe ngựa xiêu vẹo. Chính Trương Chi đã cúi xuống nâng tôi lên khỏi mặt đê cỏ ướt này.
Một
chiếc xe máy lớn kềnh càng, sáng loáng, sầm sập ngược chiều, suýt xô tôi xuống
vệ đê. Tôi kịp nhìn thấy con gái ông chủ tịch tươi rói, rực rỡ ngồi sau một gã
đàn ông đứng tuổi, trông bệ vệ trong cái áo da đen bóng như đúc bằng sắt. Họ
vội về tỉnh để thoát cơn mưa, hay là chạy trốn tiếng gọi đến lạc giọng của ai
đó phía sau, nơi lối rẽ xuống làng?
-
Đừng! Đừng đi! Nương ơi!!!
Tiếng
gọi đau đớn, ghê gớm như tiếng tru của con sói đơn độc bị thương giữa cánh đồng
băng tuyết. Tôi đến nơi. Lũ trẻ con vây quanh một người đang vật vã trên mặt
ruộng mới cày vỡ. Những tảng đất khô cứng quanh đó nát vụn như có vồ đập. Chiếc
nạng gỗ vứt bên cạnh.
Trời
ơi! Đó là Trương Chi!
Tôi
nâng anh dậy, lấy ống tay áo lau nước mắt lẫn đất cát lấm lem trên khuôn mặt
sây sước, rớm máu. Trương Chi mới uống rượu. Thân hình anh rũ rượi, mắt đờ đẫn.
-
Em đây, anh Chi ơi. Thôi, về thuyền với em! - Tôi dìu Trương Chi, gần như cắp
anh bên nách, đi thật nhanh để kịp tránh những người làng hiếu sự sắp sửa ùa
ra.
Một
thằng bé kéo lê chiếc nạng của anh chạy theo. Thằng bé vừa thở hồng hộc vừa hớn
hở nói:
-
Chị Nương lên tỉnh để... để hôn thú với ông Việt kiều... để đi Úc với ông ấy.
Tại vì ông Việt kiều bán cơm hàng ở Úc... Tại vì ông Việt kiều sắp làm đầu...
đầu tư cho ông Cương thổi cơm hộp xuất khẩu...
Thích
thú vì đã nói được "hôn thú" với "đầu tư", nó lấy hơi rồi
tường thuật tiếp, rất nhiệt tình, lại còn diễn cảm nữa:
-
... Lúc qua chỗ anh Chi cắm thuyền, ông Việt kiều bóp còi "toe-toe".
Chị Nương thì gọi tướng lên: "Trương Chi ơi! Em đi Úc với ông xã nhà em
đây! Anh ở lại mạnh khoẻ nhớ! Đánh nhiều cá vào nhớ!" Thế là anh Chi cuống
cuồng nhảy lên bờ, ngã sấp ngã ngửa, chạy theo gọi.
Ôi,
Trương Chi của tôi! Tôi tốt nghiệp trung học văn hoá nghệ thuật. Bây giờ tôi có
thể dàn dựng những chương trình văn nghệ cỡ xã và sáng tác những ca khúc về lúa
má, mùa màng. Nhưng thâm tâm, tôi ao ước được học lên cao học. Tôi sẽ làm luận
án tốt nghiệp bằng một tác phẩm âm nhạc nói về dòng sông Hoài và về anh Trương
Chi, cỡ như "Sóng Đanuyp" của Inôvavici (1). Bản nhạc về một tình yêu
thật buồn, nhưng đẹp đẽ và tràn đầy khát vọng.
Tuy
đã là cán bộ của phòng Văn hoá huyện, nhưng ngoài cái giường con ở phòng tập thể,
tôi chưa có "tiêu chuẩn" gì như mong ước của Trương Chi. Buổi tối,
tôi vẫn trở về con thuyền cũ với anh.
Trương
Chi không hát nữa. Đàn treo vách thuyền, khi sóng gió va đập, khẽ kêu những
tiếng trầm buồn âm u, như tiếng thở dài. Cái dây nhỏ nhất, dây mí, đã đứt vào
đêm hôm ấy, những dây còn lại cũng dần đứt hết, thành một mớ bòng bong trên mặt
gỗ bụi bặm. Trương Chi không sửa sang gì và cũng không cho tôi đụng đến cây
đàn.
Thường,
sau bữa cơm chiều, và những đêm có trăng, sợ Trương Chi buồn, tôi nói huyên
thuyên đủ mọi thứ chuyện. Chuyện đấu đá ở cơ quan huyện. Chuyện linh tinh trong
giới văn nghệ sĩ huyện. Rồi tôi đưa anh vào khu rừng âm nhạc với khả năng của
một nhạc sĩ cấp huyện. Anh cũng thích nghe tôi nói về Mô-da, Su-be, ... Mắt anh
rưng rưng khi tôi mở băng cát-xét chạy pin mượn của cơ quan cho anh nghe
"Thư tình gửi Ê-ly-dơ" của Bêt-tô-ven, "Buồn" Sô-panh và
"Mơ" Su-man (1).
Anh
thở dài:
-
Ông Môda mà cũng chết mất xác. Đấy, tài là thế đấy! - Rồi anh lau mắt vui sướng
- Nhưng Cu ạ, mày làm anh ngẩng mặt được với làng nước rồi đấy! Thế này thì dù
ở thuyền nát, vật vờ sông nước cũng chẳng bố con thằng nào khinh được anh em
mình, Cu nhỉ?
Anh
vẫn gọi tôi là "Cu" như ngày trước, mặc dù khi tôi đi học, anh đã tốn
đến chục cân tôm, ba ba với một chầu "giã rượu" cho tay Doãn thư ký
uỷ ban để xin chữa tên tôi trong bảng nhân khẩu xã thành "Cư" và lấy
họ Trương của anh. Cơn bão lớn tràn qua lưu vực sông Hoài. Đang dự hội diễn văn
nghệ tỉnh, tôi bồn chồn, vội trở về làng. Dưới bến, không có con thuyền quen
thuộc.
Người
làng kể:
Đêm
trước cơn bão, trời nặng, trăng đỏ ngầu. Trương Chi chèo thuyền về phía hạ lưu
sông Hoài. Mùa này cá bống đẻ nhiều ở vùng cửa sông nước xoáy. Gần sáng, bão
to. Nơi hõm sông Trương Chi thường tránh gió bão, không thấy thuyền anh về. Bão
tan, dân chài thấy những mảnh thuyền vỡ và cây đàn Trương Chi giạt vào bãi sú.
Cây đàn còn nguyên vẹn.
Tôi
ôm đàn ra bờ sông Hoài, đứng nhìn mặt nước sương khói, vắng tanh. Cây đàn được
mắc lại đủ dây. Trương Chi đã chơi đàn và hát lần cuối. Có ai được nghe Trương
Chi hát lần cuối cùng ấy vào cái đêm trăng đỏ ngầu, trước cơn giông bão?
Nhiều
ngày sau, tôi và những người làng tốt bụng lang thang dọc sông Hoài, ra tận cửa
biển tìm anh, nhưng không thấy gì. Anh đã trở về với ngày xưa, đi vào câu
chuyện cổ? Thôi thì ... đành chôn cây đàn như một nấm mộ bên bờ sông, nơi
thuyền anh vẫn cắm sào.
Tôi
khóc Trương Chi và trồng bên mộ một cây bạch đàn, như trong tích cũ.
Nhưng
tìm đâu ra khối kỷ thạch thắm đỏ như máu, trong suốt thuỷ tinh mà tiện thành
cái chén trà; để khi rót nước, hiện lên bóng thuyền Trương Chi? ...
----
(1) Những nhạc sĩ danh tiếng của Châu Âu thế kỷ XVIII, XIX.
(2) Etude: Khúc tập, bản nhạc để tập đàn.
(1) Những nhạc sĩ danh tiếng của Châu Âu thế kỷ XVIII, XIX.
(2) Etude: Khúc tập, bản nhạc để tập đàn.
----
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 18/05/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Vũ
trường đắm say – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
04/05/2011
Ông Phó
Tổng Biên tập tức giận trả lại tôi bản thảo bài phóng sự "Nhức nhối những tiệm nhảy”: - Cậu làm
mất thời gian, phí cả những tư liệu rất quý mà cậu có. Đây chỉ là một bản báo cáo
tầm thường do một anh công chức hạng bét viết, không phải là bài báo trong loạt
bài dùng để xét hết tập sự của cậu. Tôi cần chất bay bổng, thích hợp với đề tài
này.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ông
Phó Tổng Biên tập tức giận trả lại tôi bản thảo bài phóng sự "Nhức nhối
những tiệm nhảy”:
-
Cậu làm mất thời gian, phí cả những tư liệu rất quý mà cậu có. Đây chỉ là một
bản báo cáo tầm thường do một anh công chức hạng bét viết, không phải là bài
báo trong loạt bài dùng để xét hết tập sự của cậu. Tôi cần chất bay bổng, thích
hợp với đề tài này.
" Bay bổng”? Chẳng trách tên ông là Cao-Phi. Tôi định nói toạc ra
rằng những tư liệu mà ông cho là rất quý ấy chính do tôi bịa. Bài phóng sự được
viết trong chăn. Tôi chẳng hề đến một tiệm nhảy nào. Ông đâu biết rằng gần năm
nay tôi sống ly thân với vợ, chẳng thiết gì chuyện viết lách, nghề nghiệp.
Tôi
viết bài phóng sự theo thuật "Ba thực bảy hư ”. "Hư ” thì dĩ nhiên là
hư cấu không có thực rồi, còn "thực” thì lại nghe từ miệng ông chú ruột
huyên thiên của tôi. Chú Sung hơn tôi hai tuổi, nhờ tài khiêu vũ mà thành danh:
Sung-Đăng-Sinh. Tất cả vũ nữ chuyên nghiệp của thành phố này mong được là người
tình của chú và không ít cô trong số họ đã được toại nguyện trên mức yêu cầu.
Còn những gã tay chơi ở các vũ trường, thì mơ được là chính chú.
Chú
Sung là một người vui sống chứ không khốn khổ như tôi.
-
Tô, sao cứ nằm thở dài thế? - Chú Sung cầm chân tôi lắc lắc - Vợ chồng lủng
củng lâu thế thì bỏ quách nhau đi cho nhẹ nợ. Rồi theo tao đến vũ trường. Tao
sẽ giúp mày kiếm một cô vợ mới ngon lành. Con gái các loại ở sàn nhảy nhiều như
đồ gia dụng ở siêu thị ấy, tha hồ chọn.
Về
chuyện "em út” thì chú tôi là bậc đệ nhất đào hoa, như đã nói trên. Nhưng
cũng vì thế mà có lần chú phải đứng co ro cạnh cửa sau câu lạc bộ khiêu vũ,
trên mình chỉ còn chiếc quần toạc ống và một bên tay áo sơ-mi với chiếc cravát
xoắn dây thừng. Bà thím tôi đã đem đám nữ binh thiện chiến - gồm những bạn bán
hàng ở chợ Ga - đến đại náo vũ trường, giằng ông ra khỏi vòng tay của những
người đẹp. May, tôi đi ngang qua, lại vào mùa rét, nên đã sẻ bớt quần áo cho
ông chú và nói kháy: "Trông chú như bị tàu hỏa kẹp ấy. Giá biết trước,
cháu sẽ cùng lũ bạn khiêng một cái ống đồng đến giải nguy cho chú như Thoát
Hoan ngày xưa.” Chú tôi vừa mặc quần áo vừa run như cầy sấy, răng va nhau lộc
cộc: "Chuyện vặt. "Anh hùng thọ nạn” là thường... Nhưng, đúng là
thằng Đăng vổ chơi sắc-xô rồi. Nó ghen, chỉ điểm cho mụ vợ tao... Mà con Như
khoái tao, chứ tao thèm vào cái con mũi tẹt ấy.”
Nhưng truyện này không phải nói về chú Sung, mà nói về chính tôi.
Vâng, đã hơn năm nay tôi và vợ sống ly thân. Như hai gã đàn ông không
quen biết sống trong một căn phòng hẹp. Như hai gã tội đồ chịu án tù chung
thân, xích vào nhau, nhốt trong một xà lim. Mà lại là hai gã đàn ông cục tính,
luôn tìm cách cà khịa với nhau. Chỉ vì những cớ vớ vẩn muôn thuở. Chuyện cho
bột ngọt vào canh nhiều, hay ít. Tôi ăn mặn, vợ tôi ăn nhạt. Cơm khô hay nhão.
Người lười tắm, người thích sạch sẽ...
Tất
nhiên rồi phải đến lúc hàng xóm sẽ nghe thấy những: Choang. Bốp. Ối. Đồ...,
v.v... Và rồi bây giờ sống bên nhau chỉ để chờ ngày thoát khỏi cái cực hình
phải sống với nhau.
***
-
Dậy, Tô . - Chú Sung lắc chân tôi - Dậy, tao truyền cho vài chiêu, rồi mày sẽ
có thể làm mưa làm gió ở các vũ trường.
-
Được lắm, ý kiến chú rất hay - Tôi bật dậy. Tôi sẽ theo chú Sung đến vũ trường
cho quên đời. Cũng là để lấy cảm hứng thật, viết lại cái bài phóng sự quyết
định số phận của tôi.
Chú
Sung đi quanh tôi, nhìn kỹ các chi tiết liên quan đến chuyện nhảy nhót của tôi,
rồi đánh giá:
-
Mã ngoài tuy hơi thộn nhưng cũng tạm. Cái chính là ở hai chi sau, tức là đôi
chân ấy. Nhìn đây.
Chú
tôi giang tay, nghiêng người, hai chân chầm chậm làm một loạt động tác khoa
trương mà trang trọng, mắt chăm chú một điểm trên không, như sắp bay lên.
-
Đẹp quá, - Tôi nhận xét - Hệt một chú gà trống đang tỏ tình với ả mái. Tất
nhiên là chú gà trống chưa bị thiến.
Nhưng chú Sung không nghe thấy lời bình ấy. Chú đang thoát tục. Rồi bất
ngờ, bàn chân phải của chú vừa đưa một hình vòng cung quanh mũi bàn chân trái
vừa nện giày liên tục: "Tr...át ....chát-chát-chát ....Tr...át-chát . ...”
Tiếp đó là điệu độc vũ tuyệt diệu mà tôi chưa từng thấy. Và tôi lập tức bị điệu
nhảy hút hồn. Tôi như bị cuốn tới một xứ sở đầy nắng, giữa vũ hội của những
chàng trai, cô gái các màu da, những vũ công Tây-ban-nha, Bôhêmiêng, Di-gan,
Cô-dắc...với những váy áo sặc sỡ gió cuốn bay tung; với tiếng phong cầm và
trống tămburanh, lục lạc; những tiếng hú hét sảng khoái... Tôi như được xé nhỏ,
đập vỡ vụn, hoà tan vào không gian tràn ngập màu sắc và âm thanh rực rỡ tưng
bừng ấy.
Rồi
bất ngờ, chú tung chiếc mũ cát két đang đội lên cao, khuỵ chân, cúi mình sát
đất như một thân cây bị đốn gục. Chú đưa tay đón chiếc mũ rơi xuống, ấp lên
ngực mà đầu vẫn cúi, mắt không hề nhìn chiếc mũ. Lát sau, chú đứng lên, rất từ
từ. Trán lấm tấm mồ hôi, mà nhịp thở vẫn như thường, chú nói:
-
Đó là khúc "Đoạt hồn vũ” phóng tác trên điệu Pasodoble. Một điệu nhảy có
thể chinh phục bất kỳ cô gái nào trên thế gian này. Chỉ khó là sê-ri gõ đầu
tiên bằng gót và mũi giày. Phải đúng hai nhịp, mười bốn tiếng lách cách. - Và
chú gõ giày lần nữa; "Tr..rát .... chát - chát - chát ....
T...rát-chát-chát . ...” như một tràng tiểu liên - Mày thấy đấy, chỉ cần thả
lỏng thân dưới; hông, đùi, đầu gối và khớp cổ chân phối hợp nhịp nhàng, uyển
chuyển. Quá dễ.
-
Đến già, cháu cũng không thể nhảy được điệu này. - Tôi thở dài nói. Hay là ta
đến bệnh viện giải phẫu đổi cặp chân của chú cho cháu? Chi phí cháu lo
tất.
Chú
Sung cau mày, nghiêm chỉnh:
-
Thôi được. Những gì thuộc về tâm hồn thì không nên ép. Tao sẽ dạy mày những
điệu nhảy bình thường mà bất cứ ai có đủ hai chân cũng học được. Mà đã là học
trò của tao thì dù dốt nhất cũng trở thành thày của những vũ sư ở tỉnh
này.
Chú
Sung chưa hề thu nhận một môn đệ nào. Tôi là vũ sinh độc nhất của chú. Và chỉ
sau một tuần, vũ sư Sung-Đăng-Sinh đã biến tôi thành một người khác hẳn: Cổ
luôn lắc lư, bật ngón tay tanh tách; đi đứng như người bị tật chân dài chân
ngắn. Tôi đã thuần thục những điệu Valse, Blues, Rumba, Tango, Fox... Tất
nhiên, toàn thân tôi đau nhức, sưng tấy, tê dại. Có điều thú vị là vợ tôi không
thể can thiệp gì vào chuyện này. Đang ly thân mà. Nhưng hình như cô ta vẫn chăm
chú theo rõi, và mỉm cười một cách khó hiểu mỗi khi tôi nhún nhảy với ông chú
hoặc ôm cái ghế tựa xoay vòng trong nhà. Cô ta giễu cợt hay sắp đặt một âm mưu
gì đối với tôi? Mặc kệ cô ta.
***
Cái
phòng nhảy nổi tiếng thành phố rất đúng với tên của nó: "Vũ trường Đắm
Say”. Nội thất gần giống cái vũ trường mà tôi đã bịa ra trong bài phóng sự. Tất
cả không rõ nét, như trong một giấc mơ, với thứ ánh sáng hang động lờ mờ, luôn
chuyển màu làm ta không nhìn rõ được gì. Chú Sung đã quá quen thuộc nơi này,
giắt tôi dẫn đi ào ào. Còn tôi quờ quạng như một gã xẩm, bàn tay luôn đụng vào
đâu đó trên mình người khác để có tiếng những cô gái kêu lên, mắng tôi là
"đồ mất dạy”, "đồ ma bùn”... dù tôi luôn miệng xin lỗi.
Chú
Sung đưa tôi đến một cái ghế ở cuối phòng và bảo:
-
Từ lúc này, mày bay một mình. Không sao đâu. Điệu tango cứng của mày hơn đứt
những đứa ở đây. Khi nào dàn nhạc chơi điệu ấy, thì kéo một em ra sàn nhảy và
cho chúng nó biết rằng có một siêu sao mới xuất hiện trên giang hồ.
Tôi
đứng im, hơi run. Chú Sung thúc vào vai tôi:
-
Tô, sợ quái gì. Chưa ai chết vì khiêu vũ bao giờ. Mày sẽ thành
"Tô-Tango”.
-
Đúng, sợ quái gì - Bỗng dưng tôi nghĩ đến mụ vợ và điên tiết lên. - Mà chết ở
đây càng tốt. Cháu cũng chẳng thiết sống nữa.
Chú
Sung vỗ lưng tôi khích lệ rồi tiện tay kéo một em to béo ngồi gần đấy ra sàn
gỗ, nhanh chóng lẫn trong đám đông lờ mờ.
Tôi
không phải chờ lâu. Dàn nhạc chơi bản "La Cumpasita”.
Bỗng dưng một nỗi buồn chợt đến làm tôi muốn khóc. Tiếng ooc-gan với
những hợp âm như dứt đi từng mảnh tim người ta. Tôi nhớ tới lời Việt mà ai đó
đã đặt cho bài tango này. Đó là câu chuyện tình của một vũ nữ bất hạnh.
Ngày trước, trong một vũ hội, tôi đã đem chuyện này ra tán khiến cô kế
toán ngân hàng xinh đẹp trở thành vợ tôi bây giờ. Cô ta cũng thích âm nhạc, có
tâm hồn. Vậy mà bây giờ lại là một mụ phù thuỷ độc ác. Giá như người ta chỉ yêu
đương hát xướng, nhảy nhót với nhau, đừng trở thành vợ chồng thì tốt biết bao.
Đèn
càng lúc càng tối hơn. Có những tiếng cười rúc rích khe khẽ như tiếng chuột
kêu. Tôi nhận thấy bóng dáng một cô gái thon thả ngồi đơn độc buồn bã bên chiếc
bàn ở góc phòng. Tôi liên tưởng tới người vũ nữ trong bài hát. Cô đang chết
trong nỗi đợi chờ. Tôi rất muốn an ủi những typ người như thế. Tôi đã viết
trong bài phóng sự về nỗi tủi nhục của những vũ nữ. Tôi đã bịa ra vài cô gái
nhảy (Thuý X., Lệ Th., Bích K.,...) nước mắt giàn giụa kể cho tôi nghe số phận
cay đắng của họ.
Tôi
đến bên cô, lịch sự cúi mình chìa cánh tay. Cô khẽ nói câu gì như cám ơn, rồi
vịn tay tôi đứng lên. Chúng tôi dò dẫm tiến đến sàn nhảy. Xung quanh, từng đôi
đang nắm tay lôi kéo, giằng giật nhau như trong một cuộc đôi co không lời. Đó
là điệu tango cứng với những động tác mạnh mẽ dứt khoát của rôbốt. Người ngoài
cuộc sẽ thấy rất nghiêm trọng và tức cười.
Tôi
không nhảy kiểu đó. Tôi dìu cô gái theo điệu tango kinh điển trữ tình. Đã một
năm nay, tôi không chạm vào thân thể phụ nữ, nhưng cái cảm giác mềm mại ấm áp
đặc trưng ấy thì người đàn ông nào mà chẳng ý thức được, cho dù anh ta cả đời
chưa đụng chạm với phụ nữ. Cô gái nép vào tôi tin cậy. Tiếng trompet đã thay
thế tiếng ooc-gan, thôi thúc da diết hơn. Vẫn "La Cumpasita”.
Người vũ nữ nghèo của cái tiệm nhảy tỉnh lẻ đêm đêm quay cuồng dưới ánh
đèn màu. Nàng tươi cười với khách nhảy, nhưng lòng không nguôi nỗi nhớ người
tình xưa đã ra đi. Nàng khắc khoải đợi chờ, hy vọng một đêm nào đó, chàng sẽ
trở về để họ lại được ở trong vòng tay nhau với điệu tango ngày trước. Nhưng
chàng trai đã không trở lại. Và rồi một đêm kia, người vũ nữ gục xuống sàn
nhảy, nhẹ nhàng như chiếc lá rụng. Kiệt sức vì đợi chờ, nàng đã chết giữa vũ
điệu tango.
Tôi
kéo người bạn nhảy sát mình hơn, nhưng cô ý tứ giữ khoảng cách tối thiểu. Mùi
nước hoa giống thứ nước hoa rất khó chịu mà vợ tôi thường dùng, nhưng lúc này
tôi cảm thấy dễ chịu biết bao. Tim tôi đập nhanh. Chẳng lẽ ông chú
Sung-Đăng-Sinh của tôi nói đúng, rằng tôi có thể tìm được một người bạn đời mới
ở cái nơi mà phụ nữ nhiều như hàng hoá trong siêu thị này. Nhưng, cô ta đã có
chồng chưa? Chắc là có rồi. Bởi vì, chỉ khi đã có chồng và là một gã chồng
không ra gì thì người phụ nữ mới buồn như vậy.
-
Hắn từng đánh em chứ?- Tôi thì thào trong khi cây kèn trompet nức nở nỗi nhớ
người tình không trở lại. Vẫn "La Cumpasita” cho điệu tango cứng.
Cô
gật gật cái đầu có mớ tóc rất mềm đang đặt trên vai tôi. Lúc đó tôi mới ngạc
nhiên nghĩ rằng không hiểu điều kỳ diệu nào đã khiến chúng tôi bất ngờ đồng cảm
và thân thiết với nhau nhanh như vậy.
-
Thằng vũ phu ấy coi em như vật nuôi trong nhà?- Tôi lại thì thào với một sự cảm
thông tận đáy lòng.
Cái
đầu đang đặt lên vai tôi lại gật. Một nỗi giận bùng lên. Tôi phẫn nộ cho cô,
cho cả tôi nữa.
-
Em... em đã có con với hắn chưa?- Tôi thì thầm hỏi với một hy vọng.
Cô
lắc đầu ngay sau câu hỏi của tôi.
-
Vậy thì... em ly dị hắn đi. Chúng ta sẽ chung sống với nhau. Anh cũng ngấy mụ
vợ đến tận cổ rồi . - Và tôi chờ đợi hồi hộp. Nhưng cái đầu có mớ tóc mềm mại
thơm ngát trên vai tôi lắc lắc. Tôi không buồn chút nào, mà trái lại. Làm sao
một người phụ nữ đứng đắn và chín chắn lại có thể gật đầu ngay với lời đề nghị
như vậy. Thậm chí trong cái ánh sáng hang động này, tôi và cô chưa biết mặt
nhau. Cả tiếng nói của nhau nữa. Tôi thì thào như tiếng gió lẫn trong tiếng
nhạc ầm ỹ; còn cô thì gật và lắc.
-
Chẳng lẽ em còn yêu hắn? - Tôi lo lắng hỏi. Cái đầu trên vai tôi bất động. Câu
trả lời bỏ lửng. Dù sao cũng tốt hơn là cái gật đầu.
Tôi
ôm em đung đưa. Xung quanh chúng tôi là nhạc, là trời xanh và những đám mây.
Tôi chính là người tình của cô vũ nữ đáng thương trong bản nhạc này. Tôi đã trở
về, giải thoát em khỏi bàn tay thô bạo của gã cục súc coi em như đồ dùng tùy
thân, như gia súc. Tôi, bằng cặp môi khô khát đã thấm sạch những giọt nước mắt
buồn tủi của em. Và bây giờ chúng tôi đang nhảy với nhau điệu tango ngày
trước.
Bàn
tay ấm mềm của em khẽ run trong tay tôi. Những run rẩy, những dịu dàng của ngón
tay, giọng nói và ánh mắt phụ nữ là của quý tự nhiên, vô tận; mà sao người ta
cứ dè sẻn, hoặc tệ hơn, có cô còn vứt đi, cho là thứ vớ vẩn. Vợ tôi đứng đầu
danh sách những phụ nữ ấy, nếu như có một danh sách như vậy.
Tôi
đang phiêu diêu tận cõi nào đó, bỗng choàng tỉnh vì những tiếng gào thét hú hét
vang lên ghê rợn. Những cặp nhảy nhốn nháo. Dàn nhạc chơi to hơn như muốn át đi
tiếng gào thét. Cướp nữ trang, hay băng đảng giang hồ nào đó thanh toán nhau
như trong phim Hồng Kông?
-
Chạy đi. Nhỡ nó bắn nhau, đạn lạc chết bây giờ.
Lời
cảnh cáo của ai đó làm mọi người cuống cuồng tìm lối thoát.
-
Lối này, lối này. Có ngõ thông sang phố Lê Lai.
Trong cơn hoảng loạn tôi vẫn nhớ mình là đàn ông. Tôi nắm chặt tay cô
bạn nhảy mà tôi đã coi là người yêu, lấy thân mình che chở cho em, dùng vai và
tay mở đường cho cuộc tháo chạy. Chúng tôi thoát ra một khoảng sân rộng có
nhiều hàng quán, đèn điện sáng trưng. Lúc này tôi mới nhìn rõ mặt cô bạn nhảy,
người mà tôi đã quyết chọn làm bạn đời mới.
Đó
chính là vợ tôi, người bạn đời cũ của tôi.
Nhưng vợ tôi chẳng tỏ vẻ gì là sửng sốt cả. Cô ta nép vào tôi:
-
Anh có sợ không? Em mất một chiếc giày rồi.
Tôi
muốn cười phá lên và khóc thật to; vừa muốn bay lên trời lại vừa muốn chui
xuống một cái lỗ nào đó dưới chân. Tôi sẽ phải quay về với kiếp khổ sai chung
thân, xích cùng với một gã phạm nhân cục cằn. Hay là tôi lại tìm thấy người yêu
hiền dịu của mình ngày xưa?
-
Em nhảy cũng siêu đấy chứ? - Vợ tôi hích vai tôi- Con Thuý dạy đấy.
Tôi
im lặng. Vợ tôi dịu dàng quàng tay vào lưng tôi:
-
Chúng mình ra đằng trước tiệm nhảy lấy xe, rồi đi ăn phở. Anh đèo em, em trả
tiền phở cho anh. Nếu còn ly thân nữa thì là sòng phẳng, như đi xe ôm.
Câu
pha trò ấy không làm tôi cười lên được. Đêm cuối năm lạnh buốt. Trong suốt lối
ngõ tối, vợ tôi vòng tay ôm lấy tôi như hồi mới yêu nhau. Gần ra đến đường phố
chính, tôi thấy một bóng người đứng co ro cạnh cái thùng rác. Tôi lấy vé xe đưa
cho vợ:
-
Em ra lấy xe, chờ anh đi...nhỏ. (Cách nói "đi tiểu”của chúng tôi)
Vợ
tôi mỉm cười và bước đi như một cô bé ngoan ngoãn. Tôi đến bên cái bóng đang
đứng co ro, khẽ hỏi:
-
Chú Sung, lại "anh hùng thọ nạn” à?
Lần
này hoàn cảnh chú tồi tệ hơn: Chỉ mỗi cái quần cộc trên mình.
Đồ
đệ nào nỡ để cho sư phụ trong tình cảnh này được. Tôi nhường chiếc blu-dông và
cái quần dài cho chú. Bên trong, tôi còn cái quần dệt kim đông xuân. Chú Sung
lại vừa run cầm cập vừa mặc quần. Và chú lại nói với tôi qua hàm răng lộc cộc
va nhau:
-
Mụ vợ điên hơn những lần trước. Đúng là thằng Tuynh trọc đánh trống chỉ điểm
hại tao. Được, đã thế tao sẽ cho con Ái lác của nó vác trống luôn.
Vụ
lộn xộn vừa rồi là cuộc tấn công vũ trường trừng phạt ông chồng của bà thím
tôi. Bây giờ tôi mang trên mình bộ y phục của chàng Rômêô: Áo len không tay bó
chặt thân sơmi; dưới là chiếc quần thun đông xuân trắng chật căng. Chỉ thiếu
thanh kiếm. Tôi trở về với nàng Juyliet cũ của tôi.
Có
lẽ, nếu cứ yêu nhau một cách êm dịu thì sẽ chán như cứ uống mãi một thứ si-rô.
Cần phải mạnh mẽ, thậm chí phải dữ dội chăng? Vì thế mà điệu tango cứng ấy mãi
mãi là của tình yêu?
Được rồi, tôi sẽ viết lại cái phóng sự về vũ trường, thật bay bổng như ý
muốn của sếp, với tựa đề: "Vũ trường đắm say”.
12/ 1998
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 04/05/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Chuyện
có thể xảy ra – Truyện ngắn của Bão Vũ
Ngày
17/04/2011
Đang
buồn bực chán ngán vì những gì đã thấy. Ngang chợt phì cười bắt gặp ông nhà thơ
già của tỉnh, râu tóc bơ phờ, chống cây can đầu bịt đồng kiểu cổ vừa ngất
ngưởng trên hè phố vừa tủm tỉm cười rất ngây thơ, vô tư. Trong đầu nhà thơ khói
sương lãng đãng và những nữ thần khoả thân có cánh bay lượn giữa những câu
thơ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Ngang
là một trường hợp ngoại lệ.
Hôm
về quê giỗ mẹ, giữa cánh đồng gặp cơn mưa lớn đầu mùa hè, Ngang bị sét đánh
trúng. Cứ tưởng đi đứt. Vậy mà, sau một tháng nằm ở bệnh viện huyện, giường
chiếu nhếch nhác, người gắn nhằng nhịt đầy dây điện, ống nhựa đầu nối với các
loại chai lọ cáu bẩn và những máy móc cổ lỗ sứt sẹo, Ngang đã về cơ quan làm
việc như thường. Bả vai Ngang, nơi bị sét đánh chỉ còn một vết xém đem hình móc
câu.
Bây
giờ, nói chuyện với Ngang rất khó chịu. Hắn cứ nghiêng nghiêng cổ, mắt lim dim,
đầu gật gật như một vị thượng cấp đang chiếu cố lắng nghe cấp dưới xin xỏ điều
gì đó. Hôm Ngang xuất viện, tay bác sĩ đã điều trị cho hắn bảo rằng cái ông
Thiên Lôi ấy chắc chắn có học qua trường thuốc nên đã cho Ngang một búa rất
chính xác, trúng vào dây thần kinh đen-ta gì đó, nên Ngang sẽ phải mang cái tật
"thượng cấp" ấy suốt đời.
Đám
đồng sự của Ngang thì rất khoái mỗi khi nhìn bộ dạng của hắn báo cáo công việc
với tổng giám đốc. Lúc đó, người ngoài cuộc từ xa thấy cứ như là hắn và vị đứng
đầu tổng công ty đã đổi cương vị cho nhau. Dĩ nhiên tổng giám đốc cũng nhận
thấy điều đó và ông cũng rất khó chịu, nhưng chẳng biết làm thế nào vì Ngang
vẫn là một chuyên viên có năng lực, giải quyết rất tốt những vấn đề khó khăn
phức tạp. Ông sếp đành bỏ cái thói quen là khi bắt gặp thuộc hạ của mình ở bất
cứ nơi nào, dù ở giữa sân cơ quan hay ở cầu thang, nhà vệ sinh... đều giữ lại
để trách cứ về một cớ chẳng quan trọng gì lắm, cốt để cho oai với ai đó tình cờ
đi ngang qua.
Những
kẻ độc địa chuyên lấy điều bất hạnh của người khác làm nguồn cảm hứng cho những
cuộc bình luận triết lý thì bảo cái thằng ấy ngang ngạnh như cái tên của nó nên
bị Trời nhắc nhở. Kẻ bênh vực rằng, Ngang chỉ không may đi qua chỗ Thiên Lôi
đang thử lưỡi tầm sét đời mới mà ngài vừa được trang bị. Còn khối kẻ ác trên
đời vẫn sống mạnh khoẻ như thường trước mặt mọi người đấy thôi. Ngang chỉ là
một gã thỉnh thoảng nói ngang một câu, chứ có phải là kẻ làm chuyện trời không
dung đất không tha gì đâu mà bị trừng phạt. Rồi chuyện ấy cũng như biết bao
chuyện tày đình đã bị thời gian và những chuyện tày đình khác nữa khoả lấp.
Chính
Ngang cũng sẽ quên luôn cái chuyện trọng đại đó nếu như không có buổi sáng nay.
Đêm
qua trời trở gió, đổi mùa. Không khí khô, lạnh. Suốt đêm cô vợ thích cùi tay và
đầu gối vào sườn Ngang. Cô ta lưu ý tới cái phận sự của hắn. Còn hắn không hiểu
sao thấy bồn chồn bứt rứt khó chịu về một điều gì đó, thỉnh thoảng cứ phải thở
hắt ra một hơi thật dài, nên chẳng thiết gì cả.
Sáng
nay, khi Ngang đang sửa soạn đi làm, bỗng dưng bả vai, nơi sét đánh, đau giật
lên và một luồng xung điện chạy khắp người, hệt như khi bị sét đánh trúng. Hắn
cảm thấy rạo rực như được nạp một năng lượng bí ẩn nào đó. Ngang nhìn vợ đang
là cái sơ-mi cho hắn, định cho vợ biết cái điều bất thường ấy, thì thấy cô ta
nói:
-
"Đàn ông mà không nên hồn thì chết đi cho người khác thay thế!"
Hắn
sửng sốt đến há miệng. Một câu nguyền rủa độc địa. Chắc là do cái vụ đêm qua.
Cô ta dám nói với hắn như vậy?!
-
Mình nói gì? - Hắn không tin, hỏi lại.
Vợ
Ngang không ngừng cái bàn là ngửng nhìn hắn ngạc nhiên và có vẻ lo lắng:
-
Ai nói gì?! Mơ ngủ à?
Không,
rõ ràng hắn đã nhìn thấy vợ hắn nói câu đó; môi cô ta không hề động đậy và
không có một âm thanh nào phát ra cả.
-
"Đứng giương mắt chòng chọc, làm ra vẻ nhìn thấu được ruột gan người ta
không bằng".
Từ
đầu vợ Ngang, những vòng sóng đồng tâm loang rộng dần trong không gian, rung
động theo những tần số. Ngang không hiểu sao não bộ của mình lại tiếp nhận rồi
dịch ra và hiểu được điều đó.
-
"Ra vẻ hiểu biết sâu sắc lắm! Thế mà vẫn nhân viên quèn, vẫn nhà ngói ngõ
hẻm, đun than tổ ong. Đồ vô dụng! Sống chật đất".
Ngang
lại tiếp nhận những tín hiệu từ đầu vợ hắn phát ra và hiểu được ý nghĩa như
vậy.
Hắn
choáng người, không nghĩ tới sự xấc xược của vợ, vì thực ra thường ngày cô ta
cũng không cư xử với Ngang tốt hơn những ý nghĩ vừa rồi. Hắn lo cho tình trạng
dị biệt của bản thân mình. Thế là cái điều Ngang đã từng đọc về những khả năng
kỳ diệu ở một số người, đã xảy ra với chính hắn!
Hắn
không thể lăn ra và gào lên rằng "tôi biết đọc những ý nghĩ của người
khác", để người ta tống vào bệnh viện tinh thần hoặc đem đến cơ quan
nghiên cứu khoa học nào đó. Không, Ngang còn đủ lý trí để nhắc mình phải giấu
biệt chuyện này như một người bỗng dưng tự biết mình bị bệnh hủi hoặc nhiễm
HIV.
Có mất
trí mới để người ta đưa tin này lên báo cho những cái loa ắc-quy lải nhải bêu
tên khắp hang cùng ngõ hẻm; để cho các nhà nghiên cứu coi mình như con chuột
bạch, chất vấn đủ mọi chuyện ăn uống, bài tiết... và cả chuyện vợ chồng nữa. Cứ
từ từ xem sao đã. Mà biết đâu... biết đâu lại là điều may mắn!
Đúng,
đây không phải là một bệnh tật kỳ quái mà là một khả năng phi thường. Phải biết
tận dụng.
Ngang mặc vội chiếc sơ mi còn nóng lên người, không cần nhìn vợ cũng thừa biết cô ta đang nghĩ đến tiền nong, đồ đạc và chuyện chăn gối mây mưa. Hắn hì hục đạp nổ chiếc máy đồng nát, phóng đến cơ quan với tâm trạng lạ lìng như vừa được người ta cất nhắc lên một cương vị quan trọng lại như vừa mới cưới vợ. Nghĩa là một sự phấn chấn khó tả về tâm sinh lý.
Ngang mặc vội chiếc sơ mi còn nóng lên người, không cần nhìn vợ cũng thừa biết cô ta đang nghĩ đến tiền nong, đồ đạc và chuyện chăn gối mây mưa. Hắn hì hục đạp nổ chiếc máy đồng nát, phóng đến cơ quan với tâm trạng lạ lìng như vừa được người ta cất nhắc lên một cương vị quan trọng lại như vừa mới cưới vợ. Nghĩa là một sự phấn chấn khó tả về tâm sinh lý.
Thằng
cha Hoằng đang dí sát cặp kính cận 5 điôp vào khuôn màn hình nhập nhoè của cái
máy tính đời cũ, ngón tay mổ cò trên bàn phím cáu bẩn. Y nói với Ngang mà không
ngửng lên:
-
Đem tài liệu về dự án DA-013 lên gặp sếp ngay. Chuẩn bị mà ăn đòn! Người vừa
mới nhảy xếch ở đây xong.
-
Kệ xác lão, cho lão tức chết đi! - Ngang lẩm bẩm - Tối qua bắt người ta chờ ở
đây đến gần bảy giờ, vẫn chưa về.
-
À, đi "hát cô đầu" đến hơn tám giờ mới hồi kinh. Bọn thường trực bảo
thế! - Hoằng vừa lầu bầu vừa mổ cò. Nhưung trong đầu gã thì nghĩ đến một chiếc
xe Dream màu mận chín với những câu chửi tục:
"...
mẹ nó chứ! Cứ lên giá vùn vụt, đuổi mãi không kịp. Sao mình không như cái thằng
ăn cám cũng ngon kia, cưỡi cái cúp "màu ốc bươu, đời tám hai" đến
chung thân mà cuộc đời vẫn đẹp sao!"
"Thằng
khốn! Nó nghĩ về mình như thế đấy - Ngang nghĩ thầm - Nhưng nó đang bị nỗi thèm
khát một cái xe máy đời mới dày vò khốn khổ. Cũng là một sự trừng phạt đối với
những tham vọng quá sức".
Ngang cầm tài liệu lên phòng ông Hoạch ở tầng trên.
Ngang cầm tài liệu lên phòng ông Hoạch ở tầng trên.
Hắn
vừa gõ cửa thì ngay lập tức cánh cửa bật mở với mùi son phấn ập vào mặt. Đúng
lúc cô ả Thu phiên dịch mở cửa ra. Ngang thừa biết trước đó trong phòng sếp có
chuyện gì rồi, nhưng hắn tỏ vẻ không chú ý. Rất nhiều người đã tình cờ bắt gặp
ông Hoạch có những "hành động kỳ quặc" với khi thì cô bé vi tính, khi
thì chị tạp vụ...
Tay
Hoằng có lần từ tầng của sếp xuống, mặt hầm hầm chửi đổng:
-
Mẹ kiếp! Phải gọi một thằng cha hoạn lợn vào đây thì sếp mới tập trung tư tưởng
lãnh đạo các ngươi được!
Lần
ấy, Ngang đã chêm một câu mà các đồng nghiệp cho là chí lý:
-
Nhầm to! Nếu có thằng hoạn lợn ở đây thì, với lý do kế hoạch hoá gia đình,
chính các ngươi sẽ bị biến thành thái giám chứ không phải là sếp. Để các ngươi
có nhìn thấy gì cũng như không. Như trong cung vua ấy!
Thu
đứng sững trước mặt Ngang, mặt đỏ bừng. Trung tâm Dịch vụ Đối ngoại đã đưa Thu
đến với sếp Hoạch như dâng một vật hiến tế cho vị thần Khoái Lạc. Ông Hoạch vì
vậy đã dành cho Trung tâm nhiều ưu đãi đặc biệt. Hầu hết các nhân viên của
Trung tâm đều lần lượt nhận được từ cơ quan của ông Hoạch những hợp đồng ngon
lành: Thù lao rất cao bằng đô-la và những chuyến xuất ngoại dài ngày rất thú
vị.
Ngang
nhìn thấy trong đầu cô phiên dịch xinh đẹp đoạn hồi tưởng về một cuộc hành lạc
chớp nhoáng giữa cô ta và ông Hoạch với kỹ thuật phục hiện rất hoàn hảo của tự
nhiên.
-
Chào ông Ngang, chúc ông nhiều may mắn! - Cô ta nói tiếng Anh.
-
Cũng vậy, đối với cô! - Ngang đáp lại, tương ứng.
Nhưng
nhìn vào mắt cô ta, Ngang đã tiếp nhận được một ý nghĩ xấc xược về mình:
-
"Đồ hấp! Dù là chủ trì soạn thảo cái dự án này, dù tiếng Anh rất khá,
nhưng vẫn phải để suất đi Đức này cho ta. Vì, ai bảo là Masculine (giống đực)
mà không là Feminine (giống cái)? Đã thế lại còn ngang bướng nữa!"
Rồi
cô ta bước đi, hông đong đưa kiểu người mẫu trình diễn. Mùi nước hoa nhạt dần.
Ngang
nén cơn tức giận trước một kẻ tiểu nhân đắc chí.
Ông
Hoạch ngây người nhìn theo cái phần thân thể gợi cảm nhất phía sau của cô phiên
dịch và tưởng tượng ra phía trước của phần thân thể ấy. Ngang nhăn mặt khi nhìn
thấy những hình ảnh đó trong đầu sếp của mình. Hắn đến trước bàn sếp:
-
Thưa anh, chiều qua tôi đã lập xong báo cáo phản biện về dự án DA-013, nhưng
chờ đến bảy giờ tối, anh không về. Tôi gửi văn thư. Sáng nay Xí nghiệp Thuốc lá
hẹn đến lấy số liệu sớm.
-
"Thằng này rất ghê gớm! Bản thảo phản biện gửi Bộ của hắn về dự án DA-013
lại có phát hiện tệ hại rằng những máy móc thiết bị của phía đối tác nước ngoài
thuộc loại lạc hậu, giá đắt; với dụng ý làm tăng giá trị vốn góp của họ!".
Ngang
thấy trong đầu ông Hoạch ý nghĩ như thế. Quả nhiên, ông ta hầm hầm:
-
Anh phản đối việc thực hiện dự án DA-013? Có phải vì tôi quyết định cử cô Thu
bên Dịch vụ Đối ngoại thay thế anh đi Đức lần này?
-
"Mày là một thằng ngu nhất thế giới. Cũng như tao, bọn ở Vụ Giám định của
Cục mỗi thằng một phong bì "đô" nặng đã kết luận rằng máy móc mà phía
nước ngoài trang bị cho công trình thuộc đời chót, và giá máy là hợp lý. Tay Vụ
phó cũng được đi Đức chuyến này."
Ngang
thấy ý nghĩ ông Hoạch. Hắn tức giận, quyết định trả đòn và cũng để kiểm nghiệm
khả năng phi thường của mình:
-
Tôi có căn cứ để kết luận rằng số chênh lệch gần một triệu đô-la. Tôi đề nghị
nhờ Văn phòng Thẩm định của Bộ đánh giá lại. Anh vừa nghĩ rằng, cũng như anh,
"... Bọn Giám định của Cục mỗi thằng một phong bì "đô"
nặng!" Vì thế kết quả giám định của họ sẽ không khách quan. Còn tôi có
phải "là một thằng ngu nhất trên thế giới" như ông nghĩ hay không thì
phải chờ.
Ông
Hoạch không tin ở tai mình!
Nhưng
ông cũng có khả năng phi thường của những chính khách, nghĩa là giữ được bình
tĩnh trong cả trường hợp nguy kịch nhất.
-
Anh bị làm sao mà nói năng lảm nhảm những điều kỳ quặc gì thế?
"Đi
Đức về, tao sẽ cử mày đi tăng cường cho chương trình phát triển cây công nghiệp
ở Tây Nguyên. Mày sẽ thành người rừng!"
-
Ông Hoạch nghĩ thế và cho rằng Ngang chỉ tình cờ nói trúng ý nghĩ của ông.
Nhưng
Ngang đã cười khẩy:
-
Ông định đẩy tôi lên Tây Nguyên? Tôi được biết trên Cục mới phát hiện ông đã
chữa tháng năm sinh của mình từ tháng 1 năm 1933 thành ra tháng 12 năm 1938.
Ông vẫn kịp đi Đức. Nhưng sau đó là quyết định hưu.
Ông
Hoạch há hốc miệng, mặt tái mét vì sợ hãi và tức giận:
-
Mày!... Đồ ma quỷ! Tao vẫn là Tổng giám đốc. Ngay chiều nay, mày có quyết định
đi Lâm.
-
Ông nhấc máy điện thoại, bấm số bằng ngón tay run bần bật. Ông gọi trưởng phòng
Tổ chức.
Ngang
muốn xử sự như những nhân vật trong truyện cổ Trung Quốc, "vừa rũ áo bỏ
đi, vừa ngửa mặt lên trời cười lớn". Nhưng hăn chỉ im lặng, buồn thiu bước
ra khỏi phòng. Không phải Ngang buồn vì sẽ bị xa nhà, đến cái nơi nắng gió khắc
nghiệt. Hắn buồn vì cái khả năng phi thường của mình.
Ra
khỏi cửa, Ngang xô ngay vào ông Thẩm, phó tổng giám đốc thứ nhất đang đứng
ngoài rình nghe. Ông Thẩm trông nhom nhem, gầy còm bạc nhược, bị ông Hoạch chèn
ép, biến thành bù nhìn. Đám nhân viên vừa khinh thường vừa thương hại ông.
Ông
Thẩm kéo Ngang vào phòng mình, sập chốt cửa rồi vội vàng pha trà, lóng ngóng
làm nước sôi đổ lênh láng lên tập tài liệu. Ông rót nước trà chưa kịp ngấm cho
Ngang, mặt mũi hớn hở:
-
Đầu đuôi thế nào, cậu nói lại tớ nghe? Cậu trực tính, anh em rất quý. Lão ấy
sắp bay sang Đức, nhưng cũng phải trị cho lão một mẻ. Lão làm thiệt hại cho Nhà
nước hàng triệu "đô", được chia một tệp dầy cộp, rồi dẫn gãi đẹp đi
hú hí nước ngoài bằng tiền công đức. Phải phanh phui vụ này, cho lão bật khỏi
ghế!
Ngang
chán ngán nhìn ông Thẩm. Trong đầu ông ta là hình ảnh ông Hoạch đang giãy giụa
cuống cuồng trong cái máy bay cháy đùng đùng như trong một phim hành động của
Mỹ. Còn ông ta thì ngồi trong phòng tổng giám đốc ký lia lịa vào những tập hồ
sơ.
-
Máy bay không dễ cháy như thế đâu! - Ngang nói - Mà dù ông Hoạch có bị tai nạn
máy bay như ông mong muốn, thì chức tổng giám đốc cũng không đến ông. Ai chẳng
biết tõ tâm địa của ông, cũng đầy những dục vọng, cũng thèm khát quyền lực,
tiền, gái,... đủ thứ, nhưng hèn kém mọi mặt!
-
Cái gì? Cậu... cậu ăn nói linh tinh... cái gì?!... - Ông Thẩm trợn tròn mắt,
lắp bắp.
Ngang
bỏ ra khỏi phòng.
Trên
đường về nhà, Ngang để ý nhìn những người mà hắn gặp trên phố:
Bên
bàn xổ số dưới gốc cây, một anh chàng công chức làng nhàng nhưng làm ra vẻ cỡ
quan trọng, đang nhìn trước nhìn sau rồi mua vội mấy chiếc vé. Anh ta nghĩ đến
những bó tiền lớn, và rồi xe máy, tivi, nhà ba tầng mái đỏ vòm cuốn trắng
toát...
Một
thằng bé đánh giày gày nhom đang ăn ngấu nghiến cả một con gà luộc béo vàng bốc
khói treo ở một hàng phở. Hai bàn tay và khắp mặt nó đầy mỡ gà. Tất nhiên là
trong tưởng tượng của thằng bé.
Gã xích lô dáng cục súc đang vừa hối hả đạp xe, vừa nhìn cái gáy trắng nõn của cô khách trên xe, nghĩ đến chuyện bậy bạ.
Gã xích lô dáng cục súc đang vừa hối hả đạp xe, vừa nhìn cái gáy trắng nõn của cô khách trên xe, nghĩ đến chuyện bậy bạ.
Một
chiếc ô-tô đen kịt, bóng loáng suýt đâm sầm vào xe Ngang. Hắn kịp tránh, và
cũng kịp nhìn thấy trong xe, một vị béo tốt thường có mặt trên tivi của chương
trình kinh tế đối ngoại, đang hớn hở nghĩ đến tập đôla dày trong cặp và một cô
bé ăn mặc kiểu "tối thiểu" tại một căn phòng lơ mờ ở chỗ hẹn.
Đang
buồn bực chán ngán vì những gì đã thấy. Ngang chợt phì cười bắt gặp ông nhà thơ
già của tỉnh, râu tóc bơ phờ, chống cây can đầu bịt đồng kiểu cổ vừa ngất
ngưởng trên hè phố vừa tủm tỉm cười rất ngây thơ, vô tư. Trong đầu nhà thơ khói
sương lãng đãng và những nữ thần khoả thân có cánh bay lượn giữa những câu thơ:
"Bìm-bịp- Tính khắc khoải Đời
chạng vạng...
Ta chết ngàn lẻ một lần đáy vực Yêu..."
Có
lẽ chỉ còn ông nhà thơ già này khả dĩ ...
Ngang
về đến nhà trong tình trạng nhập đồng.
Hắn
đẩy xe vào cái sân hẹp, xô phải chồng than tổ ong vợ vừa mua, làm đổ vỡ tung
toé, đen thui một khoảng sân. Ngang chợt tỉnh, biết chắc vợ hắn sắp xông ra chu
chéo vì chuyện này.
Nhưng,
sợ đếch gì! Hắn nhịn nhiều lắm rồi. Lần này hắn sẽ làm ầm ỹ trước và nếu cần,
sẽ chửi bới thật tục tĩu cho thích khẩu. Một trăm gã trí thức thì chín mươi
chín gã bị bệnh trầm uất, không nặng thì nhẹ. Còn cái gã trí thức thứ một trăm
thì điên hẳn. Chỉ vì cái khả năng tự kiềm chế của họ quá nhiều và quá lâu.
Ngang nghĩ thế và sắp sẵn một cơn giận giữ sấm sét.
Nhưng
vợ Ngang đã hiện ra trong khuôn cửa, không hề để ý đến đống than, mặt mũi rạng
rỡ, miệng cười tươi rói:
-
May quá, anh về sớm trông nhà, em đi chợ. Trưa nay em làm lẩu bò cho anh ăn.
Anh cẩn thận không bánh xe quệt vào than bẩn.
Chuyện
lạ lùng không kém gì những chuyện Ngang đã gặp từ sáng đến giờ. Hắn im lặng cởi
dây giày. Vợ hắn quỳ xuống cởi dây chiếc giày còn lại cho hắn. Ngang giật bắn
người. Trong đầu vợ hắn là cuộc hành lạc với cái thằng bán than. Hèn nào mà khi
ngược chiều với Ngang ở đầu ngõ, cái thằng trông như con bò mộng ấy đã cười rất
thân thiện với hắn. Hèn nào mà vợ hắn lại tỏ ra dịu dàng với hắn một cách khác
thường như thế.
Ngang
bỗng thấy ruột gan cuộn lên. Hắn không kịp tuột nốt chiếc giày còn mang một bên
chân, vội vã vào nhà xí nôn thốc nôn tháo.
Trưa
hôm đó, khi vợ ra hiệu làm đầu, Ngang lặng lẽ thu xếp quần áo vào chiếc ba lô
bộ đội cũ và cái cặp đựng những cuốn sách thường đọc.
Ngang
để lại vài dòng cho vợ:
"Tôi sẽ không bao giờ về nơi này nữa.
Tôi ký sẵn dưới tờ giấy trắng kèm theo đây
để khi cần thiết, cô có thể viết thành một đơn ly hôn hoàn toàn theo ý cô, với
mọi điều khoản bất lợi nhất thuộc về tôi.
Vĩnh biệt"
Ký tên: Nguyễn Ngang
Ghi chú: Tôi đem theo chiếc xe máy chị ruột
tôi mua cho tôi./.
Không
thể đến chỗ làm gặp những sếp như ông Hoạch, ông Thẩm.
Không
còn vợ nữa. Chẳng thiết gì nhà cửa, đồ đạc.
Ngay
chiều hôm đó, Ngang phóng xe về quê.
Ngôi
nhà thời xưa Ngang và chị Hiên đã sống, cũ kỹ nhưng gọn gàng sạch sẽ.
Bố
chết, mẹ còn trẻ nhưng ở vậy nuôi hai chị em Ngang. Rồi mẹ chết, người chị xinh
đẹp của Ngang đã từ chối mọi cuộc cầu hôn để ở nhà nuôi em trai ăn học thành kỹ
sư, rồi cưới vợ cho em, sắm sửa cho nữa.
Ngoài
ba mươi tuổi chị Hiên mới lấy một ông đứng tuổi goá vợ người làng bên. Chị đẻ
thằng Hiền. Ông anh rể bán đi nhiều vườn đất để cờ bạc rồi bị đâm chết trên một
chiếu bạc. Thằng Hiền, cháu Ngang mắc cái tật di truyền từ bố. Nó cũng đánh bạc
rất dữ.
Ngang
hệ thống lại cuộc đời của chị mình, như đọc lướt một cái lý lịch trích ngang,
buồn như lý lịch văn học của một nhân vật trong những câu chuyện thời trước.
Hai
chị em ngồi ngoài thềm ăn cơm. Chỉ hai chị em, như ngày xưa. Thằng Hiền đi đâu
không về từ mấy hôm nay, chắc lại ở một đám cờ bạc nào đó. Thế mà chị Hiên
không nghĩ tới cuộc sống buồn khổ hiện tại của mình mà chỉ nghĩ về đứa em trai
ngồi trước mặt. Ngang thấy trong ý nghĩ của chị, hắn vẫn là một thằng em bé
bỏng cần được che chở:
-
Mợ ấy có chữa chạy gì không, cứ mãi không có con là làm sao?
-
Cái xe có hay hỏng không? Tháng sau chị bán lợn, cậu thay đôi lốp đi cho chắc
chắn.
-
Mà sao cậu gầy thế? Tóc nữa kìa, bắt đầu có sợi bạc, gần bằng chị rồi đấy. Ngày
xưa bà cụ nhà mình lúc mất, tóc vẫn đen nhánh.
Ngang
muốn oà khóc như ngày xưa, để được chị dỗ dành.
Nhưng
thằng Hiền đã về. Nó xanh xám, phờ phạc vì thiếu ngủ; không trả lời câu hỏi của
Ngang mà ngắm nghía cái xe máy của ông cậu. Trong đầu nó bận định giá trị cái
xe cà khổ.
Nó
ngồi xuống chiếu, uể oải nhai cơm, trả lời nhát gừng những câu hỏi của mẹ nó.
Đầu nó đầy những câu chửi bới độc địa và đe giết cả hai anh em một nhà nào đó.
-
"Mẹ chúng mày. Có tiền, ông trả nợ xong rồi ông mới giết thằng Phơ, cả em
nó là thằng Phất nữa, ông giết hết!"
Và,
trời ơi! Ngang thấy thằng cháu của mình nghĩ đến cái xe của cậu ruột nó với một
ý định ghê gớm.
Ngang cũng có ý định của mình.
Ngang cũng có ý định của mình.
Xế
chiều, Ngang thắp hương trên bàn thờ mẹ rồi xin phép chị Hiên đi, ngoan ngoãn
như ngày còn bé mỗi lần lên tỉnh trọ học.
-
Ừ, cậu đi đi kẻo tối - Chị Hiên bùi ngùi nói với em, như ngày xưa.
-
Hiền đi với cậu một đoạn, cậu nhờ tý việc. - Ngang bảo thằng cháu.
Thằng
Hiền thấy cậu vội về, chưa biết tính sao, thấy Ngang nói thế, nó mừng quýnh,
vội vào trong buồng một loáng rồi chạy ra bám theo xe Ngang.
Trên
xe, hai cậu cháu không nói một câu. Đã đến giữa cánh đồng làng Thượng. Thằng
Hiền chăm chăm vào cái việc nó sắp làm. Hơi thở căng thẳng của nó dồn dập sau
lưng Ngang. Trời tối dần, gió lành lạnh, ếch nhái bắt đầu ộp oạp lẫn tiếng cuốc
kêu khắc khoải từng chập, gợi nỗi buồn hoàng hôn cổ điển. Ngang cảm thấy hơi
thở âm ấm của đứa cháu ruột qua lớp lưng áo sơ mi mỏng. Ngày xưa trong một đêm
mùa đông, Ngang ôm thằng Hiền bị viêm não cấp tính, chạy bộ vượt qua cánh đồng
này, lên bệnh viện huyện. Chị Hiên chạy bên cạnh tỉnh thoảng lại khóc nức lên
tưởng như con mình đã chết:
-
Hiền ơi, con đừng bỏ mẹ, bỏ cậu Ngang, con ơi!
Đã
đến bờ sông Hoài, nơi rất thuận tiện cho cái việc thằng Hiền sắp sửa làm. Ngang
đột ngột dừng xe trên mặt đê, gạt chân chống, ôm choàng lấy vai thằng cháu nức
lên:
-
Hiền ơi, vứt cái búa trong túi xuống sông đi! Đừng giết cậu. Mẹ cháu sẽ đau khổ
chết theo cậu mất thôi. Bây giờ, đi với cậu lên tỉnh. Cậu sẽ bán xe, giấy tờ
tên tuổi đàng hoàng, được đúng giá. Cậu chỉ cần đủ tiền vé tàu vào Nam. Còn
đâu, cháu cầm lấy hết trả nợ người ta rồi về với mẹ, săn sóc mẹ cháu hộ cậu.
Đừng làm điều ác với ai. Thương lấy mẹ cháu.
Thằng
Hiền sửng sốt. Nó vứt cái búa xuống sông rồi cũng ôm lấy Ngang oà khóc. Nó
không cần hỏi vì sao cậu nó lại biết hết mọi chuyện.
Kỹ
sư Ngang đột nhiên biệt tăm tích. Ông Hoạch bảo trưởng phòng tổ chức gạch tên
Ngang trong sổ lương, lập báo cáo lên Cục rằng, vì không được đi Đức, Ngang đã
bất mãn, chống đối và răn đe cấp trên rồi tự ý bỏ việc.
Cũng
như lần Ngang bị sét đánh, hàng núi sự kiện, công việc trùm lấp lên tất cả;
không ai nhớ đến cái gã bị "chập mạch", trời đánh không chết ấy nữa.
Năm
ngoái, tôi được cử vào Lâm Đồng điều tra trữ lượng cây cà phê, chuẩn bị tài
liệu để ông Hoạch đi nước ngoài thương thuyết cho một dự án liên doanh lớn.
Tôi
chính là Hoằng, gã cận thị chúi mũi vào máy tính mà đầu óc thì nghĩ đến chiếc
xe Dream màu mận chín; đã nhiếc thầm Ngang là "thằng ăn cám cũng
ngon" vào cái buổi sáng Ngang bỗng có khả năng kỳ diệu ấy.
Ở
Lâm Đồng, người ta giới thiệu với tôi một chủ trại cà phê lớn "người dân
tộc" nhưng có trình độ cao về kỹ thuật trồng cây công nghiệp. Tôi tìm đến
cái trang trại hẻo lánh ở rất xa các tụ điểm dân cư.
Chính
là gã Ngang-Thiên-Lôi-đánh-không-chết!
Ngang
đã thành "người dân tộc" thật! Cũng mình trần đóng khố, cơ bắp cuồn
cuộn đen như củ súng, tóc xoã vai, răng cùn nâu sỉn. Cũng tay cầm ống điếu dài,
ngồi xếp bằng trên nhà sàn.
"Dân
tộc" hơn cả là hắn có một cô vợ tên là Hơ... Hơ gì đó rất khó gọi, nhưng
cô gái đẹp bất ngờ, giống hệt người mẫu da màu Alise Cucula nổi tiếng với cặp
môi nhạt cực kỳ gợi cảm.
Trong
bữa rượu với thịt rừng đãi bạn đồng nghiệp cũ, Ngang kể lại mọi chuyện cho tôi
nghe. Lúc đó tôi cũng không tin lắm những gì Ngang nói về cái khả năng phi
thường của hắn. Tôi cũng nghĩ như mọi người rằng, hắn bất mãn về chuyện đi Đức
hụt. Rồi ở rừng núi lâu ngày, nghĩ ngợi lung tung, đầu óc mụ mị đi mà thành như
thế.
Khi
vợ Ngang bưng lên cho chúng tôi một âu món ăn mới, tôi đã không thể không nhìn
cô bé xinh đẹp. Cái thứ rượu quái quỷ mà Ngang tiếp liên tục đã khiến tôi tưởng
mình đang ngồi trong một điểm dừng chân của "tua" du lịch hoang dã.
Tôi muốn được nếm thử cặp môi hấp dẫn của người mẫu da màu Alise Cucula nổi tiếng
kia. Nhưng Ngang đã thở dài chán ngán nói với tôi:
-
Cả ông nữa, cũng thế nốt! Thôi ăn đi, chân hươu đấy! Hơi dai nhưng bổ. Vợ tôi
không phải người mẫu da màu Alise Cucula nổi tiếng với cặp môi nhạt cực kỳ gợi
cảm như ông nghĩ. Nó cũng không biết hôn, mặc dù tôi đã dạy nhiều. Nó bảo:
"Bẩn!"
Tôi
đành phải tin rằng Ngang có khả năng kỳ diệu thật!
Và
tôi cúi xuống gặm miếng chân hươu. Không biết có bổ gì không, nhưng đúng như
Ngang nói: Rất dai!!!
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 17/04/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Vết
thương trong không gian – Truyện ngắn Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
31/03/2011
Tôi,
cao mét bảy sáu, ria rậm, tóc dài buộc túm đuôi gà, giọng khàn, có thể cởi trần
với chiếc quần bò chẽn mà không hổ thẹn. Tôi, với cây ghi ta, có thể lên gân
toàn thân, sô lô tới mười phút khiến khán giả nín thở, phó thác linh hồn để tôi
dẫn dắt đi tới cùng trời cuối đất.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Tôi,
cao mét bảy sáu, ria rậm, tóc dài buộc túm đuôi gà, giọng khàn, có thể cởi trần
với chiếc quần bò chẽn mà không hổ thẹn. Tôi, với cây ghi ta, có thể lên gân
toàn thân, sô lô tới mười phút khiến khán giả nín thở, phó thác linh hồn để tôi
dẫn dắt đi tới cùng trời cuối đất.
Và
khi kết thúc trường đoạn "quỷ khiếp thần kinh” đó bằng một hợp âm chát
chúa cùng với tiếng hú rung chuyển rừng núi của Ba na, tôi đứng dạng chân hiên
ngang, tay giơ miếng mê đi a to lên như anh chàng Đan cô giơ cao trái tim bốc
cháy của mình, khuôn mặt dại đi đau đớn, đón nhận tiếng gào thét của những
người ái mộ. Tiếng gào thét như một cơn sóng thần tung tôi tới tột đỉnh vinh
quang.
Anh
nhăn mặt ư? Không, cái nghiệp nó thế. Lang thang, gào thét quên đời. Hướng cả
niềm vui và nỗi buồn trong những chuyến lưu diễn. Ai đó cứ thử vào nghề của tôi
mà xem, gọi là ma nhập, đồng ốp, là vị thần có cánh hoặc con quỷ có đuôi… gì gì
cũng được, chỉ trừ là mình. Đúng, không còn là mình nữa.
Tôi
thích lang thang.
Có
lẽ vì tôi sinh ra trên một con thuyền trong chuyến tản cư về quê ngoại bằng đò
dọc. Có lẽ vì tôi đeo nghiệp xướng ca. Có lẽ… vì nhiều lý do nào khác nữa mà
tôi chưa biết đến. Nhưng tôi biết rõ rằng vì lang thang mà tôi đã nếm trải đủ
chuyện tức cười và những điều buồn phiền trong các chuyến đi.
Mùa
đông năm 1983. Trong chuyến về từ Praha, ở sân bay, tôi gặp gã bạn thân là vận
động viên môn vật, một gã cơ bắp, mặt lúc nào cũng lừ lừ như muốn túm cổ áo
người ta giằng giật rồi ngáng chân… hắn mặc bludông da, ngoài khoác chiếc măng
tô bằng da, tay xách ca táp to, vai đeo mấy cái túi như đồ nghề phóng viên, túi
nào cũng nhồi tròn cứng, dây đeo căng muốn đứt. Tôi vỗ vào bộ ngực đầy sắt thép
của hắn thăm dò. Hắn ngừng nhai kẹo cao su nói khẽ, ra vẻ tự hào:
-
Xích, líp, bi, moay ơ, lưỡi cưa thép… hai áo da nữa!
Cả
một gia tài! Hắn đã lên gồng cái thân xác đô vật, mang hơn ba mươi cân mà đi
đứng vẫn ra vẻ nhàn nhã, mặt mũi hả hê với cuộc hành xác tự nguyện. Tôi cũng
vậy. ở phòng chờ, tôi đã phải lê những bước nặng nề, tay chân cứng đơ như một
rô bốt.
Dù
thế, tôi vẫn thích lang thang.
Bây
giờ, ta có thể đi nước ngoài với chiếc va li nhỏ đựng vài bộ quần áo, tập thơ
mỏng, ít đô đủ để nếm những loại rượu ngon, puôc boa cho các cô phục vụ và mua
vài thứ su vơ nia. Trong phòng chờ ở sân bay, ta có thể ngả người trên ghế mềm,
mắt đung đưa nhìn theo những cô đầm trẻ mặc váy ngắn, tưởng tượng ra những điều
thú vị, miệng khẽ huýt sáo sai điệu một bài hát nào đó. Và ta không cần biết
dây mai so, nồi áp suất, bi xe đạp… là gì. Tôi đã tận hưởng cái hạnh phúc ấy
trong chuyến đi Tiệp Khắc gần đây nhất theo đoàn ca nhạc tạp kỹ, của một chương
trình giao lưu văn hóa.
Vì
thế, tôi càng thích lang thang.
Nhưng
không phải tôi thích lang thang chỉ vì những niềm vui tôi đã gặp trong mỗi
chuyến đi như đã kể trên. Mà sau này tôi thích lang thang còn vì một hy vọng
rằng tôi sẽ được gặp lại Em. Tôi tin lý thuyết xác suất, và trái đất là hình
cầu, như người ta vẫn nói. Nếu gặp lại Em lần nữa, tôi sẽ rẽ cuộc đời mình sang
một hướng khác, dù hoàn cảnh có như thế nào đi chăng nữa.
Chuyến
về từ Praha hôm đó, qua màn bụi trắng giá băng ngoài cửa sổ máy bay, tôi thấy
trên cây cầu vượt vắng tanh bên nhà ga, một bóng người nhoè nhoẹt trong gió
tuyết. Tôi nhìn bằng cảm giác và thấy mơ hồ khuôn mặt quen thuộc. Tim tôi thắt
lại. Đến phút chót em mới đến sân bay. Em đến chỉ để nhìn theo chiếc máy bay
mang tôi đi. Và chắc em nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ biết có cuộc tiễn đưa
ấy. Nhưng tôi đã nhìn thấy em bằng linh cảm. Tôi chỉ muốn nhào ra khỏi máy bay,
vứt lại tất cả mọi thứ xích, líp, bi, đũa, vải vóc… để ở lại với em. Nhưng
không thể như thế được. Sẽ có bao nhiêu rắc rối, nếu tôi thực hiện ý định ấy.
Khi
đêm xuống, máy bay cất cánh. Gió mạnh từng cơn dồn cuốn màn tuyết dày trên
quảng trường thành hình thù một con thú lớn lông trắng đang vật vã vì đau đớn.
Tôi vẫn thấy mơ hồ cái bóng nhoè nhoẹt xiêu vẹo ấy trên cây cầu vượt với bộ váy
áo đỏ sẫm như một vết thương trên mình con thú tuyết khổng lồ kia. Cái bóng nhỏ
nhoi trơ trọi tội nghiệp.
Máy
bay lấy dần độ cao vượt thoát cơn gió tuyết. Tôi nhìn một lần nữa xuống kinh
thành Praha cổ kính trong đêm với bạt ngàn đèn điện trên những đại lộ, dọc bờ
sông Vi-ta-va, trải khắp ngọn đồi Stra hôp, lóng lánh đủ mọi màu sắc kỳ ảo của
hồng ngọc, bích ngọc, mã não, hạt trai, bạch ngọc, kim cương… Và trong đám châu
báu ấy có em - viên ngọc cô độc bất hạnh của tôi.
Em
tên là Ngọc, Nguyễn Hồng Ngọc.
Thế
là lần này đến Tiệp Khắc, suốt thời gian ở Praha, tôi đã không thể thư thái như
đã tưởng. Nỗi buồn nặng trĩu như trọng lượng những thứ hàng hóa linh tinh mà
tôi và gã đô vật đã cố mang theo trên người trong chuyến bay ngày ấy.
Mà
thực ra những năm qua, có bao giờ tôi quên em. Ngay cả những lúc gào thét trên
sân khấu những bài hát về cao nguyên nắng gió, giông bão, đắm mình trong dòng
thác ánh sáng và âm thanh hỗn loạn, ngay cả những lúc uống bậy "ly coc tai
tình ái” với một cô bé vũ công trong đoàn, hay với một nữ khán giả ái mộ cuồng
nhiệt, tôi vẫn nhớ đến em.
***
Hẹn
gặp ở quán Lính hầu Bi ba lúc sáu giờ tôi. Đó là câu quảng cáo gắn trước cửa ra
vào, in trên miệng bìa tròn lọt vại bia, nhấp nháy trên mặt đứng của cái hầm
rượu nổi tiếng Praha. "Có thể không biết Praha, nhưng không thể không biết
Bi-ba”. Có người đã nói thế, dĩ nhiên đó là một gã tửu đồ.
Anh
lính hầu Bi- ba vui tính của nhà vua khi về vườn, đã mở một quán rượu. Quán Bi-ba
rất nổi tiếng về những tiết mục tạp kỹ đậm chất lính tráng. Đến đó, phải đặt
bàn từ trước.
Lần
đến Tiệp trước ấy, ở quán Bi-ba, tôi đã được hưởng không khí của thời trung cổ
trong một hầm rượu châu Âu. Những bước tường dày bả vữa một cách cẩu thả, ám
khói, đầy những hình vẽ của những gã lính say rượu không hề học hội họa: trái
tim bị xuyên thủng, tiên cá, thuyền buồm cổ, đại bàng… và những vết bẩn do
những cốc rượu bị ném vỡ trong những cuộc ẩu đả, xem những dòng chữ nguệch
ngoạc viết bằng than, phấn màu, son môi… với các thứ tiếng. Dưới ánh trăng chập
chờn của những ngọn nến, tôi tìm thấy một dòng tiếng Pháp: "Anh không biết
ngày mai sẽ ra sao. Vậy thì hôm nay hãy uống say đi!”. Và: "Ta, tướng cướp
Đuy-boa, đã say mèm ở đây sau khi đánh chìm hạm đội của vua Phéc- đi- năng đệ
ngũ”. Rất ấn tượng và gợi cảm; nhưng chẳng ai hoài hơi lục tìm trong lịch sử
một gã cướp biển Đuy- boa hay ông Phéc-đi-năng đệ ngũ vì đó chỉ là cách trang
trí của mấy tay họa sĩ thời nay.
Như
những quán rượu cổ, Bi-ba có các ca công vui tại bàn. Bỗng nhiên lửa bùng lên.
Lính cứu hỏa chạy rầm rập. Khách nhốn nháo. Sau mới hiểu, mấy tay nấu bếp đội
mũ lính đầu rồng trình diễn hài kịch "Lửa cháy đổ dầu thêm” để quay chín
một con thỏ bằng rượu mạnh, ngay trước mặt khách.
Tôi
không mấy hào hứng vì những trò như thế, cho đến khi một nhạc công mang phong
cầm xuất hiện chơi một giai điệu phóng khoáng, lôi cuốn. Theo sau là cô gái tóc
đen buông xoã, lông mày kẻ đậm, da hơi sẫm màu, tai đeo vòng, mặc váy dài nhiều
nếp màu đỏ. Tôi huých khẽ anh bạn cùng đoàn:
-
Nhìn kỹ đi! Di- gan bằng xương bằng thịt đấy, những người nghệ sĩ giang hồ lừng
danh! Những kẻ bị Chúa đầy đoạ suốt đời lang thang, bị xua đuổi khắp nơi, nhưng
lại được Người ban cho phúc lớn là có những tài năng phi thường bẩm sinh. Những
con người duy nhất biết nhào trộn niềm vui với khổ đau thành một thứ bánh thánh
để nuôi dưỡng thể xác và tâm hồn. Những kẻ…
Tôi
chợt ngừng bặt đoạn độc thoại ngẫu hứng khi cô gái mà tôi coi là Di-gan ấy cất
tiếng hát lanh lảnh:
"Dạt
trôi khắp nơi… Đời gió cuốn theo cát bụi và tôi…”
Trời
ơi, cô gái hát tiếng Việt bài "Khúc hát giang hồ”, bài hát mà ngày xưa tôi
chép cho em! Đó là Ngọc. Tại sao lại như thế này? Tôi muốn kêu to lên gọi tên
em. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng tôi có thể bị cảnh sát bắt về tội uống say, gây
rối, nếu như tôi gạt đám đông đang bùng bùng bia rượu vỗ tay theo nhịp hát kia;
để nhào đến bên Ngọc, xiết chặt tay em.
Ngọc
hai tay chống nạnh, lắc hông, đung đưa đôi vai, nện đế giày sầm sập trên sàn
gỗ; khuỷu tay, ngón tay gõ liên hồi một cách tài tình vào những mặt bàn, lưng
ghế dọc đường nhảy.
Những
đồ trang sức trên mình em lóng lánh. Mắt em rực sáng, cổ vươn cao, nét mặt đượm
buồn nhưng kiêu hãnh thách thức. Bài hát với giai điệu trầm huyền hoặc, gợi ra
hình ảnh những bóng người bơ phờ mệt mỏi, khép chặt vạt áo choàng, cúi rạp mình
ngược gió, lê bước như những kẻ lưu đày trên thảo nguyên trơ trụi vô tận, như
tôi đã từng miêu tả để gợi cảm hứng cho em tập hát bài này.
Ngọc
hát và nhảy múa mạnh mẽ như giận dữ điều gì đó, lại như đang bị săn đuổi, cuống
cuồng chạy trốn đến tuyệt vọng. Mỗi kiểu nhảy lạ kỳ, giống điệu cla- két nhưng
náo động hơn, khiến cho đến đoạn cuối bài hát, cả quán rượu ào lên những tiếng
dậm chân, vỗ tay. Tiếng hát chợt dừng bặt. Cơn lốc cát bụi mù mịt thảo nguyên
đã ngừng đột ngột, và một khóm hoa rực lửa bỗng nhiên hiện ra. Ngọc với bộ váy
áo đỏ, đứng lặng giữa chừng một tư thế múa, tay giơ cao chiếc khăn mỏng màu
lửa. Động tác của tôi ngày xưa, của chàng Đan- cô vừa móc trái tim bốc cháy
trong lồng ngực của mình ra làm ngọn đuốc.
Tôi như trong cơn mơ, xô đến bên Ngọc, nắm
lấy tay em: "Ngọc! Sao em lại ở đây?”. Ngọc đứng chết lặng, vẻ mặt diễn
cảm cho bài hát và điệu nhảy vụt biến nhanh chóng. Ngọc trở lại là em như ngày
xưa, buồn và kiêu kỳ.
***
Giữa
năm bảy sáu, đoàn ca nhạc quân đội chúng tôi biểu diễn ở Sài Gòn. Thành phố mới
giải phóng được một năm. Từ những thùng loa bày la liệt trên các hè phố vang
những lời ca buồn lê thê như là các ca sĩ vừa hát vừa khóc. Cả những bài lính
chiến cộng hòa hùng hổ kiểu phường tuồng nữa. Mới nghe thấy lạ tai hay hay, sau
nhàm, phát bực mình, sốt ruột. Ấy là tự nhiên thế, chứ chẳng phải do được giáo
dục tư tưởng gì. Đoàn chúng tôi đã hát những bài ca cách mạng và những bài hát
ngoại quốc với giai điệu sảng khoái. Cũng là cách đem lại sinh khí cho một môi
trường ca nhạc tù hãm, u ám.
Một
đêm, chúng tôi hát ngoài trời. Đêm phương Nam như huyền bí, không khí nồng
hăng, ngai ngái như chất men gây hứng khởi. Đến lượt mình, tôi hát và tự đệm
ghi ta. Một cậu phụ họa bằng bộ trống của Mỹ mới sắm có cường độ âm rất mạnh, ở
những đoạn cao trào nghe dữ dội như chớp giật, núi lửa.
Khán giả thoạt đầu tỏ thái độ thăm dò, nghĩ
rằng chúng tôi chỉ hát những bài "tiến lên”, "xốc tới”… sau họ ngạc
nhiên khi thấy chúng tôi hát tình ca và những bài hát quốc tế kinh điển. Đến
bài "Khúc hát giang hồ”, bài hát như dành riêng cho chất giọng của tôi,
lần đầu tiên trong đời ca sĩ, tôi được biết tới sự hâm mộ cuồng nhiệt đúng
nghĩa. Một cô gái mặc áo dài đỏ rực rỡ len qua đám đông dày đặc chạy lên sân
khấu, dúi vào tay tôi bó hoa nát tươm vì chen lấn. Và cô gái mắt ướt đẫm đã vít
cổ tôi, hôn tới tấp khắp mặt tôi. Tôi kịp nhận ra cô có nước da bánh mật, đôi
môi mọng, sống mũi cao và cặp mắt buồn nhưng có vẻ kiêu hãnh, thách thức. Tôi
đã tuyên bố với các đồng nghiệp rằng sẽ suốt đời không rửa mặt, để mãi mãi lưu
giữ những vệt nước mắt và những vết môi son của cô gái ái mộ tôi hết mình.
Khi
tìm được nhà ông chú ruột, tôi gặp lại chính cô gái. Đó là Ngọc con riêng người
vợ sau của chú tôi. Ngọc cũng là ca sĩ. Một nữ ca sĩ của những phòng trà, đang
chờ nổi tiếng như Khánh Ly. Tôi hãnh diện thông báo điều đó với các đồng nghiệp
và vênh vang:
-
Được một ca sĩ xúc động khóc khi nghe ta hát là một thành công lớn nhất đời.
Các người hãy cố gắng để gần được như tôi.
-
Trái lại, ca sĩ đó khóc thương cho một bài ca hay đã bị một tên thợ hát hạng
bét tàn phá! - Thằng cha chơi trống muốn là tôi cụt hứng.
Nhưng
rồi sau đó tôi thực sự hoang mang, nghĩ rằng hình như tay đánh trống đã nói
đúng. Ngọc không hề tỏ ra có cảm tình với tôi, thậm chí còn như căm ghét khi
nhìn thấy tôi. Có lẽ sự ái mộ nồng nhiệt đêm ấy là phấn hứng bất thường, một
dạng stress ở những cô gái mới lớn? Có điều khốn khổ cho tôi là chính sự nồng
nhiệt ngẫu hứng của Ngọc đêm ấy đã lấy mất hồn tôi.
Thằng
Hùng, con người vợ trước của chú tôi cũng gườm gườm nhìn tôi thù ghét. Nó là
một gã cảnh sát dã chiến mới đi học tập cải tạo về. Thằng trẻ con ấy nghĩ rằng
mình là kẻ bất đắc chí, một kiểu Hăm- lét nội. Tôi điên tiết vì cái thói bắt
chước những nhân vật bi kịch trong những cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, đã mấy
lần muốn cho nó một trận nhưng rồi tôi phải cố nhịn.
Ông
chú nhạc sĩ chuyên sáng tác tình khúc mô- đen tiền chiến và là người theo
thuyết vô vi, coi nhẹ mọi chuyện trên đời, đã nói với tôi:
-
Con đừng chấp. Chúng nó bị nhồi sọ từ bé những điều nhảm nhí về Việt Cộng.
Thằng Hùng tuy thuộc bộ máy công lực bảo vệ đô thành Sài Gòn, nhưng chỉ là
thằng nhãi cầm súng nhựa chạy theo một gánh hát, chứ bắn giết gì được ai, lý
tưởng lý tung gì đâu! Còn con Ngọc có ba đẻ là thiếu tá không quân tử trận ở
Khe Sanh, một tai nạn binh nghiệp, như mọi tai nạn nghề nghiệp khác. Nhưng hai
đứa dị ứng với bộ đồ Quân giải phóng của mày. Thì cũng như bệnh sởi của trẻ con
ấy, sẽ khỏi thôi. Chúng nó vẫn là "em út” của mày.
Tôi
thấy yên tâm. Tuy nhiên tôi cũng tìm cách nói chuyện với Ngọc:
-
Em nhìn kỹ anh xem có hung ác như áp - phích của bọn tâm lý chiến không? Nếu em
muốn nghe, có thể hát bằng tâm hồn bài ruột của Envis Pep- blây, hay những bài
gạo của ABBA… Em trai của anh cũng hi sinh ở Khe Sanh. Cô ruột anh chết vì bom
Mỹ khi đang cấy lúa trên đồng, để lại những đứa em anh bơ vơ. Bố anh là liệt sĩ
hồi "chín năm”. Anh không bao giờ quên. Nhưng những chuyện ấy đã qua rồi.
Còn nhiều việc phải làm hơn là thù hận.
-
Còn mày. - Tôi nói với Hùng cũng đứng đó. - Những người chết mà tao vừa nói ấy
cũng là ruột thịt của mày. Bây giờ, anh em không phải tiếp tục nhằm bắn vào
nhau cho những tham vọng của mấy thằng bụng bự lạ hoắc bên kia trái đất; mày
còn khó chịu gì nữa?
Nhưng
có lẽ tôi là một giảng viên kém, nên bài tẩy não ấy không mấy kết quả. Ngọc và
Hùng vẫn giữ thái độ lạnh nhạt với tôi. Còn tôi thì mỗi ngày lại tìm thấy một
điều đáng yêu ở Ngọc. Cô am hiểu sâu sắc về âm nhạc và văn học, tính tình mạnh
mẽ, có bản lĩnh.
Bà
mẹ Ngọc là một diễn viên cải lương có tiếng, ảnh hưởng tốt đến Ngọc. Bà rất tâm
đầu ý hợp với ông chú nhạc sĩ của tôi. Nhưng bà và ông chú tôi không có con
chung. Những ngày ấy đời sống khó khăn lắm. Chú tôi đã phô tô những bản nhạc
tiền chiến và đem những sách lý thuyết âm nhạc, tiểu thuyết cũ để bà vợ trộn
lẫn với các loại sách bói toán tướng số, truyện võ hiệp… bán ở vỉa hè. Ngọc
giúp má bán hàng, thỉnh thoảng tham dự nhạc hội thanh niên với những bài hát
mới. Hùng suốt ngày ra quán gặp bạn cùng cảnh ngộ uống rượu. Tôi đem tiền lương
và tiêu chuẩn thực phẩm của mình về phụ thêm với gia đình chú.
Nhưng
Ngọc đã coi tôi như một kẻ xâm lược. Một lần tôi đang nằm đọc truyện chưởng, cô
bước vào phòng với vẻ lễ phép cường điệu như chọc tức tôi:
-
Thưa ông sĩ quan giải phóng. Dượng con mời ông xuống dùng bữa trưa.
-
Tốt lắm! Cô em hãy đem thức ăn lên đây và đứng bên hầu rượu. Nhanh lên, đừng để
ta nổi giận!
Ngọc
chạy xuống gác. Lát sau tôi nghe thấy dưới nhà tiếng cười rộ của chú tôi và má
của Ngọc. Rồi quan hệ giữa chúng tôi cũng được cải thiện. Một sớm chủ nhật, tôi
về nhà ông chú sau vài tuần đi biểu diễn xa. Ngọc đón tôi vui vẻ khác thường:
-
Em mong anh Hai về để cảm ơn đấy.
-
Chuyện chi kỳ vậy, út? - Tôi bắt chước giọng Sài Gòn - Khi không lại cảm ơn! Út
không đặt bẫy qua đấy chứ?
-
Lại còn ra vẻ coi như không có gì. Mà anh đừng nhại giọng Nam Bộ. Tụi con gái
chúng em lại thích nghe giọng Bắc Kỳ.
-
Được, thì nói giọng Bắc. Nhưng Ngọc cảm ơn anh vì cái gì?
-
Vì tập nhạc chép tay rất đẹp anh tặng em. Có nhiều bài em thích lắm.
Tôi
gõ trán:
-
Có điều gì lầm lẫn chăng. Đúng là anh có bỏ quên tập nhạc ở đâu đó.
-
Bỏ quên trong ngăn kéo bàn viết của em? Quên đã viết những câu bên lề bài ca
"Khúc hát giang hồ” rằng Anh sẽ suốt đời đem theo những vết môi hôn và
những giọt nước mắt nhiệt thành của em!
Ngọc
cảm động nói.
-
Thôi được rồi. Anh xin chịu tội, nếu như chuyện đó làm em bực mình.
Ngọc
im lặng. Tôi chờ câu nói: "Không! Em không bực mình, mà ngược lại…”. Nhưng
Ngọc không nói câu đó và không nói gì hết. Cô chậm chạp bước lên gác.
Chiều
hôm ấy, Ngọc nhờ tôi giúp thể hiện bài hát đã gây xúc động cho cô trong cái đêm
ấn tượng nhất đời ca sĩ của tôi.
Như
nhiều ca sĩ Sài Gòn cũ, Ngọc bị ảnh hưởng nặng lối hát thảm thiết cố định dành
cho mọi bài hát có giai điệu buồn. Cũng giống lối diễn xuất quá tự nhiên thành
thạo của các diễn viên cải lương nhà nghề.
-
Em đừng hát theo cách buồn bã đơn điệu như thế. - Tôi nói với Ngọc. - Hãy hình
dung ra những người Di gan mệt mỏi bơ phờ, khép chặt vạt áo choàng, cúi rạp
mình ngược gió, lê những bước chân lưu đầy trên thảo nguyên trơ trụi, vô tận.
Hãy tưởng tượng rằng em ở trong đám người đó. Em đau đớn và kiêu hãnh vì được ở
trong số những người bị Chúa trừng phạt suốt đời lang thang, nhưng lại được
Chúa ban cho những khả năng kỳ diệu… vì chính nỗi khổ đau cay cực đã nuôi dưỡng
những tài năng. Đó là sự an ủi của đấng tối cao đối với những số phận bất hạnh.
Em hãy hát như những người Di gan hát bài ca dành cho họ.
Ngọc
lặng nghe, nét mặt cô bỗng trở nên u uất hoang dại và kiêu hãnh. Rồi cô hát,
cặp mắt ướt, tiếng hát từ trong ức phát ra, tự nhiên như lối hát của những ca
sĩ đồng quê phương Tây:
-
Dạt trôi khắp nơi… Đời gió cuốn theo cát bụi và tôi…
Khi
Ngọc hát xong, tôi lặng người đi một lúc, sau mới xúc động khẽ nói với Ngọc
rằng ngay cả I ma xu mắc, nữ ca sĩ da đỏ nổi tiếng của Mỹ cũng không thể hát
hay hơn em. Ngọc sung sướng bảo tôi: "Giải phóng quân mà cũng biết nịnh
đầm!”.
-
Anh đã bị mất hồn từ lúc em tặng hoa cho anh. - Tôi nói. - Bắt đầu từ một rung
động nghệ sĩ tức thời, sau đấy là những đồng điệu về tâm hồn.
Ngọc
không nói gì. Mà cần gì phải nói khi đôi mắt đã biểu hiện tất cả. Chúng tôi hôn
nhau, không phải cái hôn trên sân khấu hôm nọ.
Nhưng
có một rào ngăn vô hình giữa chúng tôi.
Trước khi chuyển sang Đoàn ca nhạc Quân giải
phóng, tôi ở một đơn vị pháo phòng không và đã tham dự trận Khe Sanh nổi tiếng.
Khẩu đội của tôi đã hạ tại chỗ một trực thăng HU - 1A và bắn trọng thương một
phản lực cơ F4H. Chiếc máy bay ấy, sau cũng rơi ở khu rừng gần đó. Thằng em tôi
ở bộ phận quân giải phóng đã chết vì rốc két bắn từ máy bay đối phương. Có thể
chính quả đạn rốc két ở máy bay của ba Ngọc đã giết chết em trai tôi? Có thể
chiếc máy bay ba Ngọc lái đã tan tành vì đạn pháo của tôi? Những chuyện dù
thuộc về quá khứ ấy sẽ như quả bom nằm sâu trong quên lãng, có dịp vẫn có thể
phát nổ.
Rồi
có một chuyện đã đến thật bất ngờ.
Một
tối, Hùng rủ tôi ra quán cà phê. Cuối cùng thì cũng có sự thay đổi đáng mừng
cho tình huynh đệ của chúng tôi. Tôi nghĩ thế và thân mật bảo thằng em:
"Lẽ ra anh em mình phải đi nhậu tay đôi một bữa, nếu như mày nói sớm với
anh. Tao đủ tiền bao mày tới bến”. Nó im lặng một cách khó hiểu cho đến khi
chúng tôi ngồi ở một góc vườn ít ánh điện. Tôi bảo Hùng:
-
Không biết nói thế này có vô chính trị không, chứ tao với mày "Cộng sản,
Quốc gia” gì thì cũng là anh em. Đúng không? Như vậy ông già sẽ không còn buồn
về chuyện thế sự nữa.
- Vứt mẹ nó chuyện chính trị đi! Tôi muốn nói
với anh về một chuyện khác. - Hùng bỗng dưng nổi đoá, dằn mạnh tách cà phê,
khiến tôi sửng sốt. Nó thở hắt ra. - Chuyện Ngọc!
Tôi
lờ mờ hiểu. Và thằng em tôi đã nói với giọng cay độc:
-
Anh cứ làm những gì mà kẻ thắng trận muốn làm, thậm chí anh có thể chiếm cả cái
nhà mà ông già tôi có ý định chia đôi cho tôi và anh. Nhưng… Ngọc là của tôi!…
Anh đừng có giở trò đấu hót. Tôi nói để anh biết, tôi và Ngọc sẽ vượt biên. Còn
lại tất cả là của anh. Chúng tôi sẽ vượt biên, vượt biên…
Hùng
nói to như quát, làm tôi hốt hoảng:
-
Câm mồm đi, thằng khùng! Chuyện vượt biên mà mày sủa ầm lên như chó ấy! - Nhà
tôi gồm những người dễ nổi nóng. Nhưng thực ra tôi đâu có nổi nóng. Tôi choáng
váng như bị nện một gậy vào đầu.
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc lâu. Hùng rít
đến sáng rực đầu điếu thuốc lá, soi rõ khuôn mặt khổ sở đanh lại như sắt. Rồi
nó nói, giọng khác hẳn:
-
Anh Hai ơi, em xin anh. Em thương Ngọc từ khi em đi học tập cải tạo. Ngọc đến
thăm nuôi, săn sóc em như má, như chị, như vợ. Lúc đó em mới thấy mình chẳng
còn gì cả, chỉ có Ngọc. Ngọc là tất cả đối với em. Bây giờ anh để yên cho chúng
em đi.
-
Tao đâu có biết chuyện đó. Được rồi. Mày khỏi lo về Ngọc. Cả chuyện nhà cửa
nữa. Ngay ngày mai tao về đoàn ở. Tháng sau đoàn ra ngoài Bắc, rồi đi nước
ngoài. Mày và Ngọc việc gì phải bỏ hai ông bà già đi đâu cho cực? - Tôi nói ra
vẻ một ông anh độ lượng, cao thượng. Nhưng tim tôi lại gào lên câu hỏi: "Mày
nói là mày thương Ngọc. Thế còn Ngọc? Hay là cô ta chỉ coi đó là tình anh em?
Hai đứa ở một nhà từ bé, như ruột thịt, với những chuyện thông tục thường nhật,
dễ gì đổi thành tình yêu!”.
-
Anh cứ để mặc chúng em. Chỉ cần thỉnh thoảng anh thăm nom hai ông bà già cho
chúng em. Em cầu xin anh Hai đấy. Em không bao giờ nghĩ rằng anh Hai lại phá
em, nên mới có cuộc nói chuyện này.
Tôi còn có thể nói gì được nữa?
Hôm
sau, tôi nói với mọi người rằng đoàn chúng tôi được lệnh chiều nay đi công tác
miền Trung rồi ra Bắc. Hùng hớn hở như một đứa trẻ được chiều theo ý muốn.
Ông
chú đang uống rượu, đã lơ mơ, gật gù bảo tôi:
-
Con cứ đi. Đời trai giang hồ, chí lớn bình thiên hạ. Cứ đi đi!… ờ, mà chí lớn
chí bé gì chúng mày! - Cái thuyết vô vi của ông lại trỗi dậy. - Kỳ này xong ba
cái vụ hát xướng rồi chuyển vào đây. Tao với thím về Sóc Trăng. Nhà này một nửa
của mày. Chú cưới vợ cho, rồi mở cửa hàng băng đĩa nhạc. Tao đã hứa với vong
hồn ba mày là tao sẽ lo mấy cái chuyện vặt đó cho mày.
Ngọc
lặng lẽ giúp tôi thu dọn hành lý.
-
Anh Hai! Sự thật là thế nào? - Ngọc hỏi tôi. Linh tính của một người đang yêu
đã mách cô biết có điều gì không bình thường. Tôi nhìn vào mắt Ngọc và hiểu
được cô sẵn sàng đi cùng tôi với cuộc sống lang thang ca hát. Nhưng Hùng là em
trai tôi, nó đang vô vọng.- Không có gì đặc biệt cả! - Tôi cười, đeo cái túi du
lịch lên vai rồi cung tay chào Ngọc theo kiểu "chưởng”. Hiền muội, hãy bảo
trọng! Hẹn tái ngộ.
Tôi
đã rời khỏi nhà ông chú như chạy trốn một sự phiền toái.
Ra
Bắc ít lâu, tôi được ông chú báo tin Hùng và Ngọc đã vượt biên.
Tôi
thấy có điều gì đó giống như sự thanh thản. Nhưng cũng từ đó tôi chọn hát những
bài về lửa, về những cơn giông bão và về vùng cao nguyên cằn khô khắc nghiệt.
Tôi
nhanh chóng nổi danh trên các sân khấu ca nhạc.
***
Bây
giờ thì tôi đang ngồi với Ngọc, trong quán rượu "Lính hầu Bi ba”.
-
Em nói đi, vì sao em ở đây?
-
"Không có gì đặc biệt cả”. Ngày xưa anh đã trả lời như thế khi em hỏi về
một điều hệ trọng đối với em.
- Lúc
đó anh không thể nói khác được. Vì Hùng rất cần em. Còn bây giờ, hãy cho anh
biết về em đi. - Tôi nói như van vỉ.
-
Chúng em đến Tây Đức, rồi phiêu bạt qua Hung ga ri. Ở đó, Hùng đã bỏ em để sang
Mỹ cưới con gái ông sếp cảnh sát cũ của anh ấy.
-
Chú anh đã kể. Anh muốn biết về em hiện giờ.
-
Anh đã có vợ con rồi phải không? Dượng cho em biết thế. - Ngọc vẫn không nói về
mình.
Tôi
thở dài: "… Nhưng chúng mình vẫn là anh em kia mà. Em hãy về nước đi.
Dượng vẫn thương em như con đẻ. Về đi! Dượng sẽ lo mọi chuyện cho em”.
Ngọc
uống cạn ly vang đỏ, ngắm chiếc ly không một lúc rồi đứng lên, mỉm cười:
-
Má mất rồi. Em chẳng còn gì ở đấy để về. Em đã có cuộc sống khác. Chồng em kia
kìa! Anh ấy là người Di gan. Lấy nhau ở Hung ga ri. - Ngọc đưa mắt về phía gã
chơi phong cầm lúc nãy đang vừa kéo đàn vừa nhảy như choi choi. Một gã béo lùn
có cái đầu to xù, tóc xoăn tít, bộ ria rậm đen nhánh như mực. - Định mệnh đấy!
Có lẽ vì em thích cái bài ca của người Di gan mà anh đã hát.
- Không phải! Em nói dối! Nói dối! - Tôi hốt
hoảng giữ tay Ngọc một cách tuyệt vọng. - Đừng tự đọa đầy như thế! Anh xin em.
Anh bay chuyến bảy giờ tối ngày kia, nhưng anh có thể xin ở lại lo việc hồi
hương cho em. Anh có bạn thân ở sứ quán.
-
Không cần phải thế. Em vẫn bình thường mà. Còn anh cũng nên về ở hẳn với dượng
em để ông đỡ cô quạnh. Được, mất gì thì cũng đã được mất rồi. Đừng lang thang
nữa, cực lắm. - Ngọc ho khan. Khuôn mặt thoáng tái đi. Chắc em không quen với
mùa đông băng giá. Và rượu, và những cuộc nhảy múa ca hát kiếm sống thâu đêm
đang tàn phá sức khỏe của em.
-
Thế còn em thì sẽ chịu mãi được nỗi cực khổ vì lang thang? - Tôi hỏi.
-
Chắc rồi cũng có lúc em không chịu được, lúc đó em sẽ chết. - Ngọc cười, như
nói đùa - Có lẽ chết ròi, hồn em vẫn lang thang. Em thiêng lắm đấy nhé. Em sẽ
tìm đến anh, luôn ở bên để phù hộ cho anh nổi tiếng hơn nữa. Nhưng nhớ đốt
nhiều tiền vàng cho em làm lộ phí… Lâu lắm rồi mới nhớ đến tục đốt vàng mã của
người xứ mình. Có lần em muốn đốt vàng mã cho má em mà không có.
Tôi
định nói rằng rồi tôi sẽ đốt vàng mã cho má em, nhưng tôi im lặng vì cơn nghẹn
ngào dâng đầy lồng ngực. Ngọc như miễn cưỡng rút bàn tay ra khỏi tay tôi rồi
"ôm quyền” chào theo kiểu "chưởng” như ngày xưa tôi đã đùa cợt em lúc
chia tay:
-
Bái biệt! Xin đại huynh hãy bảo trọng! - Ngọc ngập ngừng. - Có thể… muội sẽ đến
phi trường tiễn huynh.
Nhưng
mãi đến khi máy bay cất cánh, tôi mới mơ hồ thấy bóng Ngọc váy áo đổ sẫm đứng
lặng trên cây cầu vượt vắng tanh.
Cho đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi rằng, trong
chuyện này, tôi có phải là người cao thượng, độ lượng không?
Khi
bà thím tôi mất, tôi về đội khăn tang thay cho Ngọc, theo ước nguyện của bà. Có
lẽ trước lúc theo Hùng vượt biên trong tâm trạng tuyệt vọng, Ngọc đã nói hết
với mẹ về tôi. Hay vì cảm tính của người mẹ đã mách bảo bà? Ma chay xong, trong
bữa cơm, ông chú say rượu, chửi tôi: "Thằng ngu xuẩn! Không, mày là thằng
hèn nhát, ích kỷ, độc ác! Đúng, đồ hèn nhát! Hèn nhát! Hèn nhát!… Ngọc ơi, con
ơi!”. Ông bưng mặt khóc rưng rức như kiểu những người quá say. Câu "Hèn
nhát” được thét lên liên tục như những cái tát làm mặt tôi rát bỏng.
Sau
này, trong lần ngồi uống rượu với ông chú, tôi nói rằng những tính từ không hay
ho mà ông ném tới tấp vào mặt tôi lúc đó là vô lý và bất công.
Ông
chú nhìn tôi như nhìn một quái vật khốn khổ:
-
Trước khi vượt biên, con Ngọc ngơ ngác như mất hồn. Nó hỏi tao: "Anh Hai
chỉ rung động chốc lát kiểu nghệ sĩ chứ đâu có thực lòng yêu con. Anh ngán con
vì ba con là thiếu tá ngụy, chứ anh ấy thừa biết con chỉ coi Hùng như anh ruột,
phải thế không dượng?”. Đấy, mày thử trả lời hộ tao! Còn thằng Hùng, nếu con
Ngọc ở lại, thì nó đâu có đi!
Gió
mạnh từng cơn dồn cuốn màn tuyết dày thành hình thù sống động của một con thú
lớn có bộ lông trắng đang vật vã vì đau đớn. Trong khoang máy bay, tôi như nghe
thấy tiếng rú rít thê thảm của con thú bất hạnh ấy. Và, tôi vẫn thấy trên cây
cầu vượt, bóng em nhỏ nhoi trơ trọi, nhoè mờ trong làn bụi băng giá, bộ váy áo
màu đỏ sẫm như một vết thương ứa máu trên mình con thú tuyết khổng lồ kia. Vết
thương trong không gian lạnh buốt. Chiếc máy bay đưa tôi vượt qua mùa đông châu
Âu trở về với nắng ấm. Dưới kia là những thành phố, làng mạc và những cánh rừng
tuyết phủ. Một ý nghĩ dày vò tôi, rằng sẽ có một ngày em vĩnh viễn nằm lại đâu
đó trên con đường lưu đày vô định ở một xứ xa lạ, giữa cơn bão tuyết mù trời.
Và tôi nhớ đến câu nói của em lúc chia tay trong quán rượu Bi- ba: "Có lẽ
chết rồi, hồn em vẫn lang thang. Em thiêng lắm đấy. Em sẽ luôn ở bên anh, phù
hộ cho anh nổi tiếng hơn nữa. Nhưng nhớ đốt nhiều tiền vàng cho em làm lộ phí,
để hồn em tìm đến với anh…”.
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 31/03/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bữa
thịt dê núi – Truyện ngắn của Bão Vũ (Hải Phòng)
Ngày
25/03/2011
Suốt
đêm qua Miên đã băng núi đi tìm Mê. Con dê tội nghiệp đến tuổi đi theo bạn
tình; bị lạc, kẹt kẽ đá, đã kêu cầu cứu chủ. Nhưng cô bé chưa kịp đến thì gã đồ
tể trong đám chúng tôi đã đánh chết nó. Và bây giờ Mê đang bị chúng tôi ăn
thịt.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Bão Vũ
Bút danh Bão Vũ
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Địa chỉ: TP. Hải Phòng
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
Những ngày chiến tranh.
Nhóm thiết kế công trình đặc biệt phải sơ tán sâu vào vùng núi để giữ bí
mật. Thực ra chỉ là thiết kế những trạm xá dã chiến có thể tháo lắp dễ dàng,
chuyên chở gọn trên ô tô dùng cho các đơn vị quân y tiền phương. Nhưng cũng
thuộc công trình quân sự, phải tuân thủ nguyên tác bảo mật. Chúng tôi được đưa
đến một nơi cách biệt với dân chúng. Mọi liên hệ với bên ngoài thông qua một
nhân viên bảo mật kiêm tiếp phẩm.
Trời cuối đông, lạnh buốt. Sương mù trắng đục đặc sệt bao phủ khắp vùng,
thỉnh thoảng có chỏm núi cố vượt thoát khỏi lớp sương mù với những cây trụi lá
khẳng khiu, trông đẹp và buồn như tranh thủy mặc. Một buổi sáng, chúng tôi tỉnh
giấc vì tiếng reo to của Luận:
-
Cây trên đỉnh núi đã có lá xanh. Tết đến nơi rồi. Dương béo hôm nay phải cố
kiếm món gì cho anh em.
Hơn
một tháng nay bữa ăn chỉ có ruốc cá và rau cải trắng. Món ruốc cá của nước
ngoài viện trợ, là thứ cá không tên xay dối, sấy khô đóng thành bánh cứng như
những thỏi gỗ, khi ăn dằm vụn ra. Rau cải mua của dân địa phương là giống rau
cải Trung Quốc, bẹ trắng ngắn ngủn trông tươi non mập mạp nhưng ăn thì nhạt
phèo. Lúc đầu, ruốc cá được chúng tôi coi là thức ăn ngon và quý hiếm. Nhưng
sau ăn lâu thì trở thành một thứ hình phạt và chúng tôi nghi món ruốc cá còn lẫn
những mẩu xương này chỉ là một phụ chất gì đó dùng cho việc chăn nuôi gia
súc.
Dương béo, gã cấp dưỡng bất đắc dĩ của chúng tôi là một gã to con, chỉ
là sơ cấp kỹ thuật nhưng được vào nhóm công tác đặc biệt vì có thể nấu ăn cho
nhóm.
Ông
nội Dương từng là đầu bếp của một hiệu ăn Trung Hoa thời trước, biết chế biến
thông thạo từ những món ăn dùng cho nội cung để các đức ngài "ngự"
cho đến các thức phàm dã, nên con cháu cũng được truyền cho ít nghề. Dương
thuộc thế hệ thứ ba, chỉ học được những món bị thất bản từ một người ông đã lẫn
cẫn và bằng những nguyên liệu tầm thường. Nhưng Dương có cái miệng tán giỏi.
Hắn đã nghĩ ra đủ mọi trò với những tên gọi theo chữ Hán bịa đặt học lỏm từ ông
nội.
Cải
tàng Ngư: rau cải trần tưới "sốt cá", tức là đun ruốc cá với nước
thành một món sền sệt rồi đổ lên đĩa rau cải luộc chưa chín hẳn. Ngư Cải giao
hoan: canh ruốc cá rau cải. Cải Ngư đấu: rau cải xào ruốc cá. Cải hàm Ngư: rau
cải bọc ruốc cá hấp cách thủy. Bữa cơm nào Luận - một gã có nhiều chữ nghĩa nhất
trong bọn, cũng nhìn hai món, cười như mếu:
-
Thằng cha cung cấp thức ăn cho bọn ta, cái thằng Ruốc-Cá ấy, sáng nào cũng mò
ra Cảng từ tờ mờ đất, thấy cái tầu thủy nào đi qua cũng nhảy cỡn lên vẫy khăn
rối rít: "Ruốc cá phải không, đem hết vào đây!"
Nhân chêm vào, giọng đanh thép như bình luận viên thời sự:
-
Tội hủ hoá với con gái chủ nhà, tội ăn cắp và các tội nghiêm trọng khác phải
chịu mức án cao nhất: Ăn ruốc cá và rau cải cho đến chết.
Hôm
ông Táo chầu trời, Dương chế ra một món kinh khủng. Đó "Tam bảo hợp",
tập hợp ba thứ quý : Cơm gạo hẩm ghế lẫn với ruốc cá và rau cải băm nhỏ, thỉnh
thoảng còn để nguyên một cộng rau cho ra vẻ điệu nghề. Nhân nếm thử, gật gù
khen: "Tuyệt không kém gì cám lợn" rồi bất chợt nó hất tung cả mâm cơm
đi, cười phá lên như điên.
Chúng tôi cũng chẳng buồn tiếc bữa cơm. Thậm chí còn coi việc làm của
Nhân như một sự giải thoát cho cả bọn. Dương lẳng lặng thu dọn bát đĩa vỡ, lầu
bầu:
-
Chiều nay, ta sẽ kiếm một con gà mái ghẹ, hầm nhừ, luộc chín tới, quay thật
ngậy thật đượm, ... cho các con tọng một bữa đến bội thực, rồi chết luôn đi, đỡ
khổ đời.
Cả
bọn nuốt nước miếng. Những gã trai đang lớn ăn uống kham khổ như chúng tôi lúc
này mà được một bữa thịt gà thì chết cũng đáng.
Nhưng rồi Dương béo đã cho chúng tôi ăn con gà vẽ. Bữa chiều vẫn rau cải
và ruốc cá. Ruốc cá rang dầu lạc, rau cải luộc. Dương không đặt tên là món gì
nữa, và cũng không ăn cơm, nằm ôm bụng nhăn nhó. Hắn bị đi kiết vì ruốc cá.
Luận cười thích trí:
-
Đáng đời tên béo ị độc ác. - Và Luận cũng bỏ cơm, đi nấu nồi cháo trắng cho cả
hắn và Dương.
Sáng hôm sau, trời lạnh buốt. Ngoài cửa sổ, sương muối phủ trắng núi,
óng ánh như tuyết, chúng tôi chui vào chăn chờ hửng nắng, dậy làm thông tầm.
Chợt có tiếng " be-be... be-be" vang lên lúc gần lúc xa. Nhân lẩm
bẩm:
-
Kèn báo thức của đơn vị bộ đội đêm qua đến đóng quân gần đây.
-
Thời chiến bí mật, ai thổi kèn ầm lên làm gì. - Tôi nhắc đến hoàn cảnh hiện
tại. Tiếng "be-be... be-be" vẫn vẳng đến. Luận bật cười:
-
Tiếng dê kêu. Có thế mà cũng không biết. "Ai uống nuớc này thì hóa ra
dê". Ai ăn ruốc cá nhiều cũng hóa ra dê. - Luận nằm phủ phục nhún nhảy
chiếc giường tre cót két, miệng kêu lên "be-he-he" - Ước gì tất cả
ruốc cá trên đời biến thành thịt dê. Hay là chỉ một mình tên Ruốc Cá biến thành
dê cũng được. Ta sẽ chén thịt hắn.
Giá
mà có con dê ở đây nhỉ. Chúng tôi nhao nhao bàn về thịt dê. Món dê sốt vang hầm
nhừ có tra bột nghệ và tưới rượu nho cho dậy mùi. Sườn dê ướp tỏi nướng. Dê
thui trên lửa đến độ chín tới. Món bíp-tết dê tươi còn lòng đào. Tay Rô-bin-sơn
trên hoang đảo đã uống sữa dê và chế ra món phó mát dê. Hình như anh ta còn làm
cả thịt dê sấy khô nữa.
Sách thuốc cũng nói đến món "Dương nhục", " Dương huyết
tửu" và "Dương ngọc hoàn tửu". Dê là món mỹ vị, là thực dược bổ
dương tráng khí tuyệt hảo. Sau này trở thành những người có quyền chức, được
thụ hưởng nhiều của ngon vật lạ, chúng tôi đã biết về những gì thuộc về con dê
như vậy.
Nhưng, tất cả xếp dưới một món tuyệt ngon và đơn giản : Tái dê.
Còn
lúc này, những gã trai bị đi kiết, bị táo bón, bị " lở miệng long
móng" vì thứ ruốc cá bã đắng như mùn cưa gỗ mục và những lá rau cải trắng
nhạt toẹt, chúng tôi chỉ ước ao món dê luộc chấm muối chanh ớt, khi ăn miếng thịt
vẫn bốc khói.
Tiếng dê kêu lại vẳng đến đứt quãng. Tiếng của một con dê non. Chúng tôi
im lặng nuốt nước miếng, thưởng thức món thịt dê trong tưởng tượng theo cách
của mỗi người.
-
Ta ăn món "Tiếng dê kêu". - Nhân nói. - Nhưng ăn dè thôi, còn để bữa
chiều. Thằng nào nghe nhiều bây giờ, đến chiều phải bịt tai lại, nhịn.
-
Này, Dương béo, món "Tiếng dê kêu" gọi là gì?- Tôi hỏi Dương.
Dương không còn nằm trên giường. Chắc bệnh kiết ruốc cá lại hành hắn.
Tiếng dê kêu đứt quãng, nghẹn ngào như tiếng trẻ khóc. Tiếng dê không còn gợi
cho chúng tôi nỗi thèm khát thực phẩm tươi ngon nữa. Nghe thê thảm như những
tiếng kêu của một sinh thể nhỏ bé yếu đuối đang chịu sự đau đớn cùng cực. Chúng
tôi nằm im lặng. Tôi nhớ tới con dê trắng nhỏ có tên là Mê.
Trước khi rời sâu vào núi chúng tôi ở nhờ nhà một gia đình nguời dân tộc
Trại, nằm dưới chân núi. Người bố chừng bốn muơi tuổi khuôn mặt vuông vức phúc
hậu, nhưng ông bị bệnh chân voi, suốt ngày ngồi im lìm trên tấm phản gỗ duỗi
thẳng đơ chiếc chân to quá khổ như cây chuối bất động. Ông chăm chú nhìn chúng
tôi vẽ, thỉnh thoảng húng hắng ho rồi nhéch mép mỉm cười vô cớ. Ông goá vợ, có
một cô con gái chừng mười bảy tuổi tên là Miên. Cô bé rất xinh đẹp, ngây thơ
nhí nhảnh và cũng hay cười như bố. Hàng ngày, Miên lên núi chăn đàn dê nhà.
Chiều về, cô hái cho chúng tôi những mớ rau, củ rừng không rõ tên nhưng nấu ăn
rất ngon. Có hôm cô còn cho chúng tôi mấy quả trứng gà.
Một
lần, Nhân nói với cả bọn, ra vẻ xúc động lắm:
-
Sau này, khi nước nhà bình yên, ta sẽ xin về hưu, trở lại đây, cùng nàng vui
hưởng tuổi già. Các ngươi có thấy nàng hay cười với ta không?
-
Có. - Luận gật gù thừa nhận, nhưng lại nói thêm - Em cũng rất hay cười với
tao...
Tôi
không muốn nói ra rằng, chính Miên cũng hay cười với tôi. Dương béo bỗng phì
cười hi hi, khoái trá:
-
Hôm nọ, tao gửi em đi chợ mua thịt trâu, tao không lấy lại tiền thừa, bảo để
cho em mua cái gương soi, em cười rất nhiều với tao. Nói thật, lúc đó tao đã ôm
hôn em. Vào má thôi. Nhưng bị em cắn một miếng vào tay.
Không biết Dương có khoác lác không, nhưng chúng tôi thấy có hôm hắn
buộc băng ngón tay bảo bị dao cứa.
Miên rất yêu con dê lông trắng bé nhất đàn. Cô đặt tên cho nó là Mê. Mẹ
của Mê sa xuống vực chết. Những con dê mẹ khác từ chối không cho Mê bú. Miên
vắt sữa của lũ dê mẹ để nuôi Mê. Cô thường hay bế Mê lên lòng nựng nó và khẽ
đung đưa như ru em. Con dê con lúc nào cũng quấn quýt bên chân Miên, ăn những
búi cỏ non trên tay cô và đứng yên, mắt lim dim để được vuốt ve.
Chúng tôi gọi đó là "Nàng dê của ông Sơ-ganh", theo một truyện
ngắn cổ điển Pháp. Con dê lông trắng của ông chủ trại Sơ-ganh ngày ngày nhìn
lên đỉnh núi khao khát những vạt cỏ non ngọt lịm bên kia núi, và mơ đến một chú
dê đực tơ. Nó đã dứt đứt dây buộc, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của ông Sơ-ganh,
mặc cỏ sắc đá nhọn vực sâu, bất chấp cả tiếng sói hú, hăm hở dấn thân vào trong
núi. Nó đã thấy những vạt cỏ và gặp một con dê đực như mơ ước . Và rồi nó đã
làm mồi cho chó sói.
Dương béo không văn chương gì cả. Hắn bảo: "Con sói ấy đúng là tay
sành ăn. Con Mê nhà này chỉ vài tuần nữa, bắt đầu động hớn mà ngả ra thì ăn
xong, chết cũng không ân hận gì."
***
Những tiếng kêu nghẹn ngào thảm thiết cuối cùng của con dê như tiếng van
xin tha mạng. Rồi khu núi im ắng như mọi buổi sớm. Có lẽ con dê đã chết hẳn.
Rất lâu sau mới có tiếng chim hót xa lắc, khe khẽ. Lũ muông thú quanh đây đã
khiếp đảm vì tiếng kêu của con dê bất hạnh, giờ mới hoàn hồn.
-
Hay là con Mê của em Miên? - Nhân hỏi.
Không ai trả lời nhưng chúng tôi cùng có một dự cảm như thế. Cả bọn trở
dậy nhóm đống lửa sưởi. Mới bảy giờ sáng. Đêm qua chúng tôi đi nằm từ rất sớm,
nghe Luận kể chuyện "Thần hổ" ma quái để tránh khỏi cuộc bàn luận về
những món ăn như thường lệ. Bây giờ mấy đứa khoác chăn ngồi sát vào nhau, nhớ
lại câu chuyện kinh dị về con hổ thành tinh báo oán. Rồi chúng tôi lại nói đến
con dê non kêu gào thảm thiết trong núi đã chết. Có lẽ con dê bị hổ vồ. Vùng
này có hổ không nhỉ ? Nhân chợt kêu lên:
-
Chết rồi. Dưong béo vẫn chưa về.
Nhân hất tấm chăn, chạy ra ngoài rồi trở lại hốt hoảng: Nhà xí không có
Dương. Chúng tôi nghĩ đến hổ.
Nhưng ngay lúc ấy Dương béo đạp cánh cửa liếp ì ạch bước vào, vai vác
một con dê. Ánh nắng ùa vào lán. Mặt trời đã mọc. Dương ném con dê đã chết
xuống đất, thở hồng hộc:
-
Nó bị kẹt khe đá, gẫy chân. Ta sẽ làm chầu tái dê thoả thích. Còn đâu bó giò,
kho đông, ăn Tết. Tạm biệt ruốc cá.
Con
dê lông màu sữa, ở ức có một vệt đen như chiếc cravat. Chiếc "cravat
" đã khiến chúng tôi nhận ra đó chính là "Nàng dê của ông
Sơ-ganh".
-
Đây là dê hoang, sơn dương. Sừng con Mê của em Miên chưa thành vòng thế này.
Chúng mày, nhóm bếp bắc nồi nước lên. - Dương bác bỏ sự hoài nghi của chúng
tôi. Hắn là đầu bếp có nghề gia truyền, không thể nói sai. Chúng tôi hào hứng
nghĩ tới bữa thịt dê gần kề.
Khi
món dê tái tỏa mùi thơm , Luận bật cười ha hả:
-
Có câu đối này, tên nào đối được, sau này có con gái ta gả cho: "Tết Đinh
Mùi, Trần Dương làm tái dê, bếp dậy mùi dê ". Ha-ha "Trần Dương - tái
dê ", lại " mùi - dê " nữa thì đến Trạng ngày xưa cũng đầu
hàng.
Không ai hưởng ứng trò chữ nghĩa cổ điển của Luận vì đầu óc chỉ chăm
chăm nghĩ tới món thịt dê, mà cũng chẳng ai biết đối đáp là thế nào.
Rồi
cũng đến lúc được ăn. Mâm thịt dê bốc khói đúng như ước muốn lúc nãy của chúng
tôi. Cái đầu dê thui qua lửa để trên bàn vẽ, trang trọng như kiểu trưng thành
tích của những tay thợ săn. Để ngày mai làm món hầm.
Nhân vừa nhai vừa hỏi Dương:
-
Người ta bảo, phải nện cho con dê thật đau trước khi giết thịt thì ăn mới ngon.
Có cái trò dã man ấy không, hả Dương?
-
Dã man cái đếch gì? - Dương, miệng đầy thịt dê, trợn mắt nhìn Luận - Thế khi ăn
thịt nó thì mới là đạo đức với nó à? Phải đánh cho ra mồ hôi mới hết mùi hôi
chứ. Con này què, không chạy được, tao lấy cành cây giã cho nhừ tử.
Tiếng kêu như van xin một cách tuyệt vọng của con dê non là thế. Chúng
tôi dừng đũa.
Đúng lúc ấy có tiếng gọi hốt hoảng lo lắng ngay cạnh lán chúng tôi:
" Mê-ê-ê-ê... Mê-ê-ê-ê...ơi..."
Tiếng của Miên, con gái ông chủ nhà người Trại.
Để
giữ bí mật, ô tô chở chúng tôi đi loanh quanh trong đêm rồi vòng lại chính ngọn
núi cũ ở một phía khác. Miên hiện ra trước cửa lán, xinh đẹp rực rỡ hơn mấy
tháng trước, nhưng tóc rối bù, áo quần rách xước.
Suốt đêm qua Miên đã băng núi đi tìm Mê. Con dê tội nghiệp đến tuổi đi
theo bạn tình; bị lạc, kẹt kẽ đá, đã kêu cầu cứu chủ. Nhưng cô bé chưa kịp đến
thì gã đồ tể trong đám chúng tôi đã đánh chết nó. Và bây giờ Mê đang bị chúng
tôi ăn thịt.
Miên chạy bổ vào lán của chúng tôi, đứng sững nhìn chằm chằm mâm thịt dê
và hiểu hết.
-
Nó trốn đi tìm dê đực. Thế mà các anh lại giết thịt nó.
Miên lao đến bên cái bàn vẽ ôm chầm lấy cái đầu của Mê khóc òa lên.
Chúng tôi buông bát đũa, cúi gầm mặt. Chỉ có Dương béo là bình thản nhai nuốt
xong miếng thịt trong miệng rồi đứng lên, móc túi lấy ra xấp tiền, đếm cẩn
thận. Hắn đặt tay lên vai Miên vuốt ve như dỗ dành. Nhưng cái cách vuốt ve của
hắn lại làm cho chúng tôi không nghĩ là hắn thông cảm với nỗi đau đớn của cô
bé. Dương nắm lấy tay Miên, giúi mớ tiền vào lòng bàn tay cô bé. Miên cầm nắm
tiền một cách vô ý thức, rồi lại mở bàn tay thả những tờ giấy bạc nhàu nát
xuống đất.
Dương cúi nhặt từng tờ giấy bạc nhét vào túi áo trên bộ ngực căng đầy
của Miên. Động tác của Dương hơi lâu và thô bạo. Thằng đểu, rồi hắn sẽ hi hi
cười tự đắc với chúng tôi về chuyện này.
Chợt Miên thét lên: "Mê-ê-ê-ê !..." Tiếng kêu cũng giống như
tiếng kêu nghẹn ngào tuyệt vọng của con Mê. Rồi Miên túm lấy tay Dương đưa lên
miệng cắn lấy cắn để. Dương thét lên đau đớn.
Chúng tôi vẫn ngồi ngây. Nhưng khi Dương giơ nắm đấm lên cao định giáng
xuống đầu cô bé thì Nhân chồm dậy tóm lấy cái nắm đấm đồ tể, bẻ quặt ra sau
lưng. Chúng tôi gỡ được Dương ra khỏi Miên. Cô gái chạy vụt ra cửa lao theo con
đường mòn hẹp dẫn xuống chân núi. Dương rũ xuống ôm chặt bàn tay trái máu chảy
ròng ròng. Không ai nghĩ tới việc tìm bông băng cho hắn.
Luận chửi một câu rất tục tĩu rồi hất tung cả mâm thịt dê đi như trước
kia nó đã hất cái món "Tam bảo hợp" quái gở của Dương.
Hai
hôm sau, mồng một Tết Đinh Mùi. Dương khoác balô một mình lủi thủi xuống núi.
Bàn tay quấn băng trắng của hắn thấp thoáng khuất dần sau đám lá. Lấy cớ Dương
cần phải đi khỏi đây để tránh sự căm phẫn của Miên và dân bản, chúng tôi đã
trục xuất hắn.
Chúng tôi quay về với hai món cổ truyền mà tay Ruốc-Cá lại tiếp tục gửi
lên.
Mê
- "Nàng dê của ông Sơ-ganh" đã liều mình vì tình yêu và tự do. Chỉ khác
một chút ở đoạn kết. Nàng dê trong thiên truyện ngắn kia đã ngoan cường chống
trả con sói hung dữ, cố chờ cho đến mặt trời mọc mới chịu gục thân hình với bộ
lông trắng đẫm máu xuống làm mồi cho sói. Còn con dê non của cô bé Miên, thì
vẫn muốn sống, nhưng khi mặt trời mọc nó đã bị chúng tôi ăn thịt.
Xin
Mê và cô bé Miên hãy tha tội cho chúng tôi, những kẻ đói khát đã trở nên tàn
nhẫn.
Ngọc Châu gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật lại- ngày 10/12/2014
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 25/03/2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét