Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Phổ Đồng thong dong vào chốn bụi hồng – Bài viết Tâm Nhiên (Kiên Giang)
Phổ Đồng thong dong vào chốn bụi hồng – Bài viết Tâm Nhiên (Kiên Giang)
Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào
đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một
thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy
nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu
trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi
lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao
thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa.
Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao
học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
Thông
tin cá nhân: (VanDanVietNet)
Tác
giả Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
******
Từ vô thủy ta luân hồi cát bụi
Vẫn miệt mài bám lấy cõi trần gian
Vẫn hít thở âm thầm yêu cuộc sống
Trần gian ơi! Nghe cát bụi mơ màng
Mơ
màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng
ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua
cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan
ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy
trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô
thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo
truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn,
tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa
Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
Tâm
hồn sâu lắng lặng lẽ, thần khí thâm trầm ẩn mật vô vi, khi viết về Thiền tông
như Buông tay hố thẳm, Thõng tay vào chợ
thì lấy tên Đại Lãn, còn lúc làm thơ như Đường
bay mây vô thường, Bụi hồng thì lại đổi tên Phổ Đồng, dường như để nhớ miền
cố xứ thân yêu, chốn làng quê chôn nhau cắt rốn, nơi nhà thơ sinh ra ở vùng núi
non Bình Định hùng vĩ xa mù.
“Như giấc mộng, bụi hồng cứ rong chơi mà chưa
từng biết mình là thật hay là hư, chỉ biết mình đang hiện hữu như là giấc mộng
từ nguồn vô thủy đến đời vô chung và chỉ biết nỗi buồn vui qua đi như một giấc
mộng…” Mở đầu tập thơ Bụi hồng, thi sĩ tự giới thiệu một cách
ly kỳ ẩn ngữ như thế. Phải chăng, cuộc đời là một giấc mộng đặt lên trên một
giấc mộng u uẩn trầm mê? Thi hào Lý Bạch có hai câu thơ nổi tiếng, hàm ý khuyên
chúng ta xem cuộc sống như giấc mộng, không nên vì lợi danh mà đấu tranh giành
giật, hơn thua nhau chi khổ nhọc, làm cho thân xác mệt mỏi rã rời: “Xem đời như giấc mộng thôi. Làm chi cho mệt một đời phải không?”
Kinh Kim Cang cũng dặn dò nhắc nhở chúng ta rằng, hãy thường xuyên quán niệm,
xem tất cả thế gian, vạn pháp hữu vi đều như mộng như huyễn, như bọt nước sương
rơi, như ánh chớp lóe giữa không trung:
Hữu vi pháp hiện trùng trùng
Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh chớp như sương rơi
Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu
nhiên
Còn
nhà thơ Phổ Đồng từ thuở lọt lòng ra cho đến nay, từng đã trải nghiệm qua hơn
nửa thế kỷ trên mặt đất, thì ý thức sâu xa mình có mặt giữa trần gian cát bụi,
dù đang đi đứng nói cười, đang mở mắt nhìn thấy mọi sự nhưng vẫn là mở mắt
trong chiêm bao mộng mị mà thôi:
Ta đến từ giấc mộng
Mây buồn bay bơ vơ
Giọt sương cười nắng vỡ
Ra đi về chiêm bao
Ồ! Ồ!
Không còn phân biệt được đây là thực tế hay chiêm bao mộng huyễn, tuyệt nhiên
lặng lẽ, lắng nghe trong tịch mịch vô ngôn, một ý tưởng mơ hồ khởi lên từ tiền
kiếp nào giữa muôn trùng xa thẳm trên dặm ngàn tuế nguyệt mênh mang:
Từ hoa kết mọc đá vàng
Nở tâm rạng mặt ngỡ ngàng chiêm bao
Suốt từ mộng mị lao xao
Đến nay vẫn mộng truyền trao bao lần?
Mật
pháp nào, bí quyết nào đã bao lần truyền trao nhau trong cuộc mộng phù sinh ?
Thưa rằng không biết nữa. Chỉ biết chuyện vui buồn, sướng khổ, thành bại …
trong cõi trăm năm thấm đẫm giọt lệ sầu. Những cơn gió nghìn năm thổi về se sắt
lặng đìu hiu cóng buốt lạnh thấu cỗi nguồn hiu hắt hoang liêu. Thôi thì bóng ngã
tà dương, mộng trong cuộc mộng lên đường trầm ngâm:
Trăm năm thành bại vui buồn
Nghìn năm mưa gió xô nguồn tịch liêu
Ngày tàn bóng hiện đìu hiu
Thoảng trong nỗi nhớ thiên thu phận
mình
Ra đi gợi nhớ tự tình
Thuyền không bến đậu lênh đênh nẻo về
Bơ vơ bến mộng bờ mê
Chơi vơi ẩn hiện bốn bề mênh mông
Mông
mênh thiên địa giữa càn khôn vũ trụ bao la, nhà thơ cảm thấy bơ vơ lạc lõng,
trôi dạt theo bờ mê bến mộng, bồng bềnh heo hút cuối truông ngàn vạn dặm lênh
đênh nên trằn trọc băn khoăn tự hỏi thầm trong dạ:
Ta tự hỏi thời gian thành con rối
Ngày qua rồi sao cắt nghĩa hôm nay
Mai mốt đó chưa bao giờ lầm lỗi
Có hay không như giấc mộng đêm ngày?
Ngày
đêm, sáng tối nối tiếp nhau trôi qua chập chùng man thiên huyễn mộng. Ngày đi
tháng đi năm đi và đời mình rồi cũng sẽ đi qua trong thoáng chốc mong manh hư
ảo vô thường. Thời gian cứ miên man trôi chảy bềnh bồng không mục đích, để cho
thi sĩ chạnh lòng xao xuyến nỗi đời du mục hoang lương:
Có không huyễn tướng vô thường
Xem ra hư thật sao lường được đây?
Triều dâng sương đợi nguyệt đầy
Dấu chân du mục nhớ ngày nguyên sơ
Chân
hay vọng, không hay có, thật hay hư, còn hay mất… là những nghi vấn muôn đời
của những tâm hồn khát khao đi tìm tuyệt đối và nhà thơ Phổ Đồng cũng không
ngừng thao thức, trăn trở trên cuộc lữ đăng trình giữa hoang vắng tịch liêu với
bao điều suy gẫm đăm chiêu:
Chiều buông vó ngựa chơi vơi
Dặm trường sương khói vàng rơi cuối
đường
Đìu hiu quán trọ câu vương
Nghìn năm mây trắng mù sương gót hài
Đêm tàn ráng đỏ ban mai
Giật mình ngỡ bóng chiều phai bên
thềm
Giữa
muôn trùng cô lữ thi ca qua ngút ngàn khói sương ướt đẫm trầm tư, dụng công
miên mật từ sớm tinh sương thường tịch chiếu đến chiều tà phủ trùm bóng tối
trong hố thẳm tâm linh. Rồi một hôm nọ, tình cờ dừng gót nghỉ ngơi bên quán trọ
tiêu điều cạnh dốc núi ven rừng, thi nhân bỗng giật mình sửng sốt bàng hoàng,
hốt nhiên trực ngộ một điều chi, khi nghe Tiếng
hét của Lâm Tế:
Giật mình mộng vỡ tràn lan
Khối nghi triền kiếp cưu mang bao giờ?
Ô hay sự thể nào ngờ
Xưa nay đây đó bây giờ ở đâu?
Tiếng
hét sấm sét của thiền sư gây chấn động kinh hồn làm bùng vỡ khối nghi sinh tử,
thấy ra lẽ thật xưa nay vô thủy vô chung. Có lẽ thi nhân trong một phút giây hy
hữu đã trực nhận, thấu triệt chuyện tử sinh vốn chưa từng sinh diệt, vốn không
sống, không chết, không đến không đi như thiền sư Lâm Tế đã từng thấy: “Chánh kiến là thấy được các tướng không đến
không đi, không sinh không diệt của các hiện tượng xuất thế, thành đạo, chuyển
pháp luân và nhập Niết bàn của Phật. Chánh kiến là thấy được tường tận tướng
Không của các pháp, rằng không pháp nào có thật, khi quý vị đi vào pháp giới vô
sinh, rong chơi trong các quốc độ và đi vào pháp giới Hoa tạng. Chánh kiến là
thấy rằng chính cái con người không cần chỗ nương tựa đang nghe pháp kia chính
là Phật vì tất cả Phật đều do chỗ không nương tựa mà phát sinh….”* Một khi
tự tri, tự có chánh kiến, thấy được tướng Không, tánh Không, thực tướng vô
tướng của vạn pháp vô sinh, bất diệt thì tự nhiên giải thoát, an tịnh. Sinh
diệt đã không thì đến đi còn có chỗ nào nữa chớ? Đó chẳng qua là khí âm dương
chuyển hóa hòa hợp, ngưng tụ tạo thành hình dáng mà con người sinh ra như một
biểu hiện thuần nhiên:
Bụi hồng mang hạt vô biên
Từ cha yêu mẹ nỗi niềm gởi trao
Nắng vàng nâng cánh phượng chao
Hai mươi năm ấy biết bao đổi dời
Ơi
chao! Ồ thì ra là như thế. Cái thân tứ đại này do nhiều nhân duyên giả huyễn
kết hợp tạo thành, tạm thời hiện hữu cũng có vui có buồn, có sướng có khổ, có
được có mất… nhưng bản chất, thật tánh
vốn là Không, thế thôi:
Duyên đầy duyên thiếu hợp vơi
Hiện tiền hiện khởi tuyệt vời tánh Không
Giờ còn hiển hiện trang không
Đầu tiên ngôn ngữ cuối cùng tái sinh
Bản
chất của con người chúng ta và muôn nghìn sự vật chung quanh vốn là do nhiều
nhân duyên hợp lại tạo thành, nên chúng không có thực thể nhất định, chẳng có
hiện hữu thực, tuyệt nhiên không có một thực tại có thể nắm bắt được, vì thế
gọi là tánh Không. Đi sâu vào duyên sanh, chúng ta bắt gặp tánh Không như thiền
sư Long Thọ nói:
Chưa từng có một pháp
Không từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Đều ngọn nguồn tánh Không
Tánh
Không lồng lộng như hư không mông mênh chẳng ngằn mé, tuy nhiên vẫn biểu hiện
thiên hình vạn trạng qua nguyên lý duyên sinh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa tuyên bố:
Vạn pháp từ xưa đến nay
Tướng thường tịch diệt đủ đầy tâm tư
Pháp nào yên pháp nấy từ
Thế gian tướng thường trụ như nhiên
rồi
Từ
vô thủy đến vô chung giữa trùng trùng vô tận thời gian và không gian, tất cả
vạn hữu như càn khôn vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, mặt đất, con người, con vật,
nói chung muôn loài thực vật, động vật, thập loại chúng sinh đang sinh hoạt ngày
đêm trên khắp hoàn cầu, hết thảy đều do chập chùng nhân duyên cấu tạo nên cả.
Đương nhiên mọi sự ấy không có một tự tánh nào riêng biệt, cho nên gọi là tánh
Không. Vì thế, muôn vàn vạn hữu ấy cũng là một cách biểu hiện, là hiện tướng
tịch diệt Niết bàn, vốn “không sinh không
diệt, chẳng đến chẳng đi” trong bầu trời thênh thang tâm thức tự tại tự do.
Pháp nào thì an trụ ngay pháp đó, như nụ cười là một pháp, giọt lệ là một pháp,
tánh thương là một pháp, tánh giận là một pháp cho đến cỏ cây, mây gió, trăng
sao, sông núi, vui buồn, sướng khổ, phiền não, bồ đề, quỷ ma, thần thánh, địa
ngục, niết bàn… đều là “thị pháp trụ pháp
vị” như như cả, đều có thể rỗng
rang qua lại giữa lòng tánh Không lồng lộng. Bấy giờ, tướng thế gian vô thường,
sinh diệt không còn tác động nữa, vì đã kiến chiếu, thể nhập Chơn Không Diệu
Hữu ngay trước mắt sáng bừng.
Thực
ra, tánh Không chẳng phải là không có gì cả mà là một khái niệm chỉ cái trạng
thái không có những vọng tưởng thấy biết sai lầm về thực tại hiện tiền. Biết rõ
tường tận tất cả vạn pháp, muôn loài vạn vật trong vũ trụ đều không có tự tánh
riêng biệt mà chỉ do nhiều nhân duyen giả hợp tạo thành. Cho nên tánh Không
thường nhiên, tuy vô hình mà vẫn muôn chiều diệu dụng giữa thực tại chân thường
luôn luôn hỷ lạc, an tịnh vĩnh hằng:
Trăng nằm chết giữa muôn thu
Người nằm chết giữa mối sầu thiên di
Ô hay! Sự việc diệu kỳ
Cho chân thường hiện giữa nơi vô thường
Khi
lãnh hội được điều cực kỳ vi diệu đó, là ngay nơi vô thường sinh diệt này vốn
hiện hữu chân thường bất diệt vô vi, thi nhân mỉm cười an nhiên biết mình có
mặt nơi đây như là hạt Bụi hồng tinh
khôi nên tha hồ thư thả vờn bay theo áng phù vân trong nắng sớm, tung lướt ngàn
sương nghi ngút giữa trùng dương hoang đảo lúc chiều tà, hòa điệu vào cuộc lữ
du sĩ ca:
Ta từ hạt bụi rong chơi
Lang thang khắp chốn luân hồi bước chân
Ra đi sớm nắng phù vân
Tối về hạt nắng sương ngàn trùng khơi
Mỏi mòn hạt bụi bên trời
Nhịp chân rong ruổi gót bời dặm xa
Bóng đời mấy dạo sương sa
Buồn vui mắt gợn bóng tà huy rung
Bước
phiêu bồng phiêu diêu lãng đãng, chiêm ngưỡng mười phương tám hướng qua cái
nhìn thấu thị chiêm bao, thấy tâm cảnh trùng trùng vạn pháp đều như như bất
động ra vào:
Vô thường gió thoảng chao cánh bướm
Động cả chân thường cõi tịnh không
Người ơi! Cảnh động hay tâm động
Mà cả trời thơ chợt vỡ tung?
Cảnh
động hay tâm động, làm gợi nhớ lúc Lục tổ Huệ Năng tình cờ nghe hai vị sư tranh
cãi nhau về lá phướn trước sân chùa. Người này thì cho là lá phướn lay động,
người kia thì nói là do gió thổi làm cho phướn đông. Lục tổ bước tới bảo: “Không phải gió động hay phướn động mà chính
do tâm các ông động đó thôi.” Hai vị sư liền ồ lên một tiếng, giật mình
hiểu ra. Nhà thơ cũng bùng vỡ cả trời thơ đất mộng giữa thực tại trinh tuyền,
hiển lộ cái đang là tịch nhiên rỗng lặng, ngắm nhìn bất cứ sự đời hay cảnh vật gì gì cũng thấy mới mẻ ngạc nhiên.
Ngạc nhiên sững sờ trước vẻ đẹp huy hoàng tráng lệ, rực ngời tinh khôi mới lạ
của từng ngọn cỏ lá cây, từng giọt mưa vệt nắng bên hè. Nghe nhẹ nhàng thanh
thản an nhiên, chẳng bận tâm chi khi nhận biết toàn diện ngay trong mỗi sát na
rào rạt chan hòa:
Đếm từng phút qua từng giây mới lạ
Ngạc nhiên đầu cũng là
ngạc nhiên sau
Vì biến dịch nên vô
thường sắc lá
Cho tim ta luôn mới nhận
hương màu
Phần đông người đời thế gian,
hạng phàm phu tục tử như chúng ta, khi nói đến chuyện vô thường, biến dịch đều
sợ hãi, kinh hoàng nhưng đối với các thiền sư thi sĩ thì chính nhờ sự biến
dịch, vô thường kia mà cuộc sống mới sinh động rạt rào, mới cao hứng bừng reo
cung cầm hấp dẫn, cây lá mới trổ lộc đơm chồi và cuộc đời mới rạo rực máu tim trong
niềm hân hoan nghe và thấy:
Niềm vui còn một chút
này
Dâng người ở lại từ rày
về sau
Đó là niềm vui óng ánh thanh
thoát, nhập cảnh giới hoan hỷ địa, thưởng thức được hương vị cô liêu phiêu dật,
rất đỗi bồng tênh trên cách điệu phong quang phóng khoáng. Thi nhân lang thang
giữa phù trần mà chưa từng vướng nhiễm, không hề dính mắc, chẳng dừng trú,
nương tựa vào bất cứ đâu, vẫn thung dung từng giây khắc lặng im xuất cốt nhập
thần:
Thong dong rất mực vô ngần
Hố sâu không đáy lại gần
đỉnh xưa
Suối nguồn sự thể đong
đưa
Lòng như gái đá tắm mưa
giữa trời
Mốt mai lòng chảy qua
đời
Nước xuôi mặc nước mưa
trời dính ai?
Bình sinh lịch kiếp nào
phai
Sắc không hóa hiện Như Lai hiện tiền
Như Lai là tự tánh tự tâm,
thường xuyên hiện hữu ở ngay thực tại hiện tiền, ngay trong sâu thẳm tâm linh
mình đây thôi. Hãy nhận lấy cái mặt mũi xưa nay vốn sẵn có tự bao giờ, từ muôn
thuở muôn nơi và thường xuyên hiện hữu ngay trong từng hơi thở nhẹ nhõm vào ra
hài hòa:
Ta hít thở cõi thiên thu
phía trước
Và phía sau nhịp đập tới
hồng hoang
Con bướm nhỏ quạt cánh
mềm từng bước
Dội hư vô nghe sóng dậy
trong lòng
Ngày mới mở đang từng giây phút sáng
Tháng năm rồi thôi có
nghĩa gì đâu
Người huyễn tưởng đôi
mép bờ xa cuối
Nào ngờ đâu chỉ chớp
nhoáng ban đầu
Từ buổi hồng hoang sơ thủy tới
vĩnh hằng miên viễn muôn sau vẫn nhịp thở trung dung cùng thực tại hiện tiền,
một cách toàn vẹn như nhiên. Trở về nhập cuộc với muôn loài vạn vật, với nguồn
sống vô cùng vô tận ở trong ta và ở ngoài ta. Trở về để hòa cùng ánh sáng, trộn
lẫn cùng cát bụi như một con người hết sức bình thường mà rộng lượng yêu thương
dạt dào vô điều kiện. Dẫu đời có hư huyễn phù du thì vẫn thương yêu trìu mến.
Xem mọi sự ở đời như một trò hý lộng, một cuộc rỡn đùa tiêu sái đại hòa điệu
chơi:
Phù du thương một cõi
đời
Gió lay ngọn sóng vàng
soi bọt tàn
Nguồn xuôi cuối bãi điêu
tàn
Biển dâu hiu hắt vọng
vang bóng chiều
Dù cho hiu hắt biển dâu, dù
cho bọt bèo tan vỡ, dù cho phù du mộng tàn thì thi nhân vẫn yêu bóng chiều tà
vạn niên thiên cổ tàn xiêu, vẫn tấu khúc nghêu ngao hát giữa long lanh sương
khói lấp lánh thanh tân, vì đã thấu thị lẽ bất sinh bất diệt, đã nhận biết tận
tường chuyện phiền não tức bồ đề, phù du tức vĩnh cửu rồi, nên mở rộng lòng
chấp nhận tất cả mọi sự được mất, sinh diệt, đến đi... với một nụ cười như thị,
tự tại tự do giữa đời sống thường nhật:
Sống hay chết không có
gì phải bận
Khổ hay vui một thoáng
hiện qua thôi
Vì duyên sống không gì
không chấp nhận
Nên rốt cùng tự tại hiện
trong ta
Tự tại
hỡi! Hãy chờ ta một chút
Vội vàng chi ta dọn dẹp
tự do
Đã đến lúc chuyện đời
rơi hun hút
Nắng vàng hong sương
nặng hạt nào ngờ
Ta hít thở với hương
ngàn gió mới
Chạm từng giây như chợt
sống bây giờ
Bây giờ và ở đây thôi mới thực
sự tự do tự tại, vì thi nhân biết chấp nhận tất cả mâu thuẫn, thuận nghịch của
toàn thể cuộc đời, bởi đã thấy muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong pháp
giới vô ngại, nhất như. Sự sự viên dung trong tự tánh thanh tịnh của chính
mình. Một lần nhận diện là nghìn năm thấu suốt ruột rà giữa mặt đất mở phơi:
Tử sinh bước một hai đời
Đầu truông cuối nẻo gọi
mời lãng du
Thì thôi cũng mặc phù hư
Nhìn mây lãng đãng sa mù
vây quanh
Hồi đầu bóng hiện tinh anh
Một lần nhận diện để
thành thiên thu
Hồi đầu thị ngạn, quay đầu là
đến bến bờ. Bến mê hay bờ giác đều huyền đồng nơi nội tâm trầm hậu, ngay trong
lòng Phật tánh xanh biếc nguyên trinh của chính mình:
Vô thấy Phật ra thấy
mình
Theo
nhau triền kiếp mà thành xa nhau
Bây giờ đã tỏ mặt nhau
Chén trà sen ướp mời
nhau một lần
Một lần kỳ ngộ là thiên thu
vĩnh cửu. Mời Phật chính là mời mình một chén trà như thị như nhiên. Từ chiêm
nghiệm Bụi hồng của tự thân mà thi sĩ
chợt bừng ngộ ra tự tánh vô tiền khoáng hậu, nên cúi hồn trân trọng kính chào
vô hạn, tri ân vô vàn vạn đại thiết tha:
Ta xin chào tất cả
Hạt bụi của ta ơi!
Nghìn năm bay lãng đãng
Trăm
năm hết một đời
Vô thường lay bóng xế
Cô đơn
lay phận buồn
Nay ta lay giấc mộng
Mộng thật trả về không
Lần đầu như lần cuối
Bước lãng du không cùng
Thiên thu mơ còn đọng
Bên thềm hạt bụi rơi
Thế là cuộc phiêu bồng ngoạn mục của hạt Bụi hồng từ giấc mộng đến thực tại tự
tri, thi nhân đã thông suốt một đời người, một kiếp nhân sinh trong một hơi
thở. Một hơi thở chứa đựng cả vô lượng vô biên. Đó là điệu thở thiêng liêng,
huyền hòa với trời đất, nhật nguyệt uyên thâm. Nhập vào cái trật tự tự nhiên,
không thủy không chung của pháp giới diễm tuyệt nguyên xuân rực rỡ muôn đời:
Hỏi trời đất trả rằng ơi!
Tận nguồn vô thủy cuối
trời vô chung
Quê nhà chỉ một bước
chung
Đến đi mất dấu nghìn
trùng nguyên xuân
Bừng hiện lên, hiển lộ ra giữa
con đường sương khói, một phương trời cao rộng liễu tri, thi sĩ Phổ Đồng đã
bồng tênh trên những lượn sóng ba đào ảo dị chiêm bao mộng huyễn, nhập diệu tâm
chứng vào thực tại đang là và khai mở một lối đi riêng biệt tuyệt mỹ dị thường.
Thi nhân đã thấy nguyên xuân bừng sáng ngời ngời, nên thong dong Thõng tay vào chợ** rong chơi suốt bốn
mùa mưa nắng, trộn lẫn cùng gió trăng phiêu phưỡng sương khói tuyệt trần:
Bao
nhiêu năm cõng Phật
Tử
sinh đường tìm dài
Hôm
nay ta quẵn Phật
Lưng
không thõng tay về
Cõng Phật rồi quẵn Phật là một
quá trình gần 70 năm trời đằng đẵng, trải qua quá nhiều khúc khuỷu nhiêu khê,
để về lại với chính mình. Trở về với tự tánh thanh tịnh, khi nghe thiền sư Lâm
Tế khai thị : “Chân Phật là gì?
Chân Pháp là gì? Chân Đạo là gì? Phật thật là sự thanh tịnh của tâm mình, Pháp
thật là ánh sáng của thân mình, Đạo thật là ánh sáng thanh tịnh chiếu soi khắp
chốn. Ba cái vốn là một, đều là giả danh, không thật có. Người học đạo chân
chính thì phải duy trì chánh niệm về ba đối tượng ấy một cách miên mật… Nếu quý
vị đạt tới tính vô sinh của vạn pháp, biết rằng tâm là huyễn hóa, thật ra không
có một đối tượng nào, một hiện tượng nào có thật. Bất cứ đâu cũng là thanh tịnh
thì đó là Phật rồi.
Này chư vị! Người hành giả chân chính thì
không nắm bắt Phật, nắm bắt Bồ tát, tuyệt nhiên không nắm bắt những cái gì gọi
là tốt đẹp nhất trong ba cõi. Người ấy một mình thong dong, không bị sự vật nào
câu thúc. Dù trời đất có đảo ngược, tôi cũng không bị một chút nghi hoặc nào
làm cho ngăn ngại. Dù cho chư Phật mười
phương có xuất hiện trước mắt thì tôi cũng không khởi một niệm vui mừng.
Dù cho địa ngục và ba đường dữ xuất hiện trước mặt thì tôi cũng không khởi một
niệm sợ hãi. Bởi tôi đã thấy được tướng không của các pháp. Khi biểu hiện gọi
là có, lúc chưa biểu hiện gọi là không, ba cõi đều do tâm, vạn pháp đều do
thức. Cũng vì vậy cho nên tất cả đều là mộng huyễn, đều là hoa đốm giữa hư
không. Tại sao ta phải chạy tìm kiếm, nắm bắt chi cho thêm mệt nhọc?”*
Khi
thấy rõ tận tường tất cả vạn pháp đều là hoa đốm giữa hư không thì thong dong,
rỗng rang vô ngại, nhẹ nhàng niêm hoa vi tiếu về lại với thực chất nguyên sơ
của chính mình, tùy thuận chúng sinh giữa mưa chiều nắng sớm, thấy trời xanh
mây trắng trăng sao đẹp diễm tuyệt huyền hòa:
Như hoa đốm hạt nắng vàng ảo hóa
Giọt mong manh từng giọt đẹp vô ngần
Theo duyên hiện hóa thân vào vô tận
Duyên trùng trùng cho đến mãi vô
chung
Vô
thủy vô chung là “vô sở tòng lai diệt vô
sở khứ” là không từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu. Có về chăng là về ngay “đương xứ tức chân”
ngay ở đây bây giờ, trên cách điệu phiêu nhiên nhẹ vờn đơn sơ giản dị, vì ở đâu
cũng là diệu dụng, cũng là cõi miền cố quận chốn quê:
Rỗng rang một cõi đi về
Đến đi mất lối đường về
Chân không
Ngược dòng sóng vỗ đầu
non
Chim non bỏ tổ ngọn nguồn
bay xa
Đường về nào biết gần xa
Hiện thân một cõi quê
nhà mây bay
Hòa cùng mây bay nước chảy
sương trôi, người thi sĩ thượng thừa bồng tênh nhẹ mỉm cười Buông yay hố thẳm*** nhảy tung xuống vực
sâu không đáy:
Hãy sống
tận lòng cõi chết
Buông
tay! Buông tay!
Như
đóa hoa dại
Đang
nở ra giữa hố thẳm
Tận
cùng của tự do là giải thoát
Tận
cùng của giải thoát là buông tay
Và
ngược lại
Mọi
việc đều an bình trong hơi thở
Trên con đường mây trắng thênh
thang đó, qua từng nhịp thở bình yên đây, tôi đã gặp thi nhân nhiều lần giữa
phong trần cuộc lữ, nơi các chùa An Linh và Già Lam ở Sài Gòn. Chùa An
Linh ở quận 12 nằm yên tĩnh tịch mịch
gần nhánh sông Vàm Thuật, do thầy Huệ Thành là em ruột nhà thơ làm trụ trì. Đó
là nơi chốn còn sót lại chút màu xanh thơ mộng giữa đời sống đông đúc ồn ào,
náo nhiệt thành đô, phố thị và cũng là nơi tôi hay quay về lưu trú sau những
tháng ngày du mục, rong ruổi bụi đường xa. Rót chén trà thi ca mà cảm nhận biết
bao niềm hân hoan an lạc, khi được đối ẩm cùng thi sĩ. Chẳng biết nhà thơ Phổ
Đồng có còn nhớ bài thơ mà lang thang sĩ này đã đọc tặng bên góc hiên chùa Già
Lam thuở nọ, vào một buổi chiều phiêu lãng cuối năm nào đó xa lắc hay không?
Thôi bây chừ cũng gần cuối năm nữa rồi, xin đọc lại cho vui nghe thiền sư thi
sĩ:
Sớm chiều qua phố bụi hồng
Vàng xanh đủ thứ vốn
không có gì
Vì đi chỉ để mà đi
Đến đâu cũng thế thuận
tùy hỷ thôi
Ngay trong đi đứng nằm
ngồi
Bình thường nước chảy
mây trôi gió lùa
Chuyện đời hết nắng thì
mưa
Chưa hề bận rộn bốn mùa
thanh lương
Như đường bay mây vô thường
Chẳng nơi chốn đến nên
tương ứng cùng
Thõng
tay vào chợ hòa chung
Thánh phàm mê ngộ đều
trùng phùng nhau
----
* Lâm Tế ngữ lục, Người vô sự. Nhất Hạnh bình giảng.
Lá Bối xuất bản 2000
** Đại Lãn. Thõng tay vào chợ. Phương Đông xuất bản
2009
*** Đại Lãn. Buông tay hố thẳm (Bản thảo)
Thơ Phổ Đồng (chữ nghiêng) trích trong thi phẩm:
Bụi hồng. Phương Đông xuất bản 2009
----
© Tác giả giữ bản quyền. . Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Kiên Giang ngày 14.02.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanVietNet Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét