Giọt lệ mo hồn1 – Truyện ngắn Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015
Hai giờ chiều, để thực thi một nhiệm vụ tối đặc biệt, phó Ban di dân tái định cư tỉnh là Cầm Mai Cư bỏ xe con công vụ, một mình nhảy xe ôm đi một chặng đường dài, rồi xuống đò tới một trong những bản cuối cùng còn vướng mắc giải tỏa: bản Púng Lầm. ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn
Anh Tuấn
Bút
danh khác Nguyễn
Yên Thế
Địa
chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT:
0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
Hai
giờ chiều, để thực thi một nhiệm vụ tối đặc biệt, phó Ban di dân tái định cư
tỉnh là Cầm Mai Cư bỏ xe con công vụ, một mình nhảy xe ôm đi một chặng đường
dài, rồi xuống đò tới một trong những bản cuối cùng còn vướng mắc giải tỏa: bản
Púng Lầm.
Trên
con thuyền đuôi én sứt sẹo vượt sóng, Cư nhìn về phía thượng nguồn. Hàng chục
cây số dọc bờ sông, cách đây không lâu từng là những khu dân cư trù phú, giờ đã
tiêu điều hoang vắng dành cho lòng hồ thủy điện. Từ ngoài bến vào bản, lối đi
trồi sụt, cỏ rậm rì. Vài ba con khỉ rừng thập thò trong các mảnh vườn lút cỏ.
Những cối giã gạo bằng nước và bằng chân chỏng trơ đã mốc thếch. Vài túp lều
dựng tạm bằng nilông, tôn lợp, tre nứa... Có người quay về chỉ để thu hoạch nốt
vườn tược nương rẫy, có người khăn gói quay lại hẳn bản cũ. Và cũng có người
quyết không đi đâu cả! Tại đây, theo một nguồn tin, các gia đình cố thủ còn dấu
hai khẩu súng kíp, họ tung lên "tai rừng" những tuyên bố đáng sợ! Ba
lần cán bộ của Ban đã tới thuyết phục, rồi đều phải quay về, lắc đầu. Một cuộc
họp liên tịch căng thẳng. Cưỡng chế! Cư như bị á khẩu. Kinh hoàng. Sao cứ phải
gạch vỡ, nhà cháy, máu đổ?!... Nhưng tình hình quá nghiêm trọng, lại trước một
tập thể "cây đa cây đề", Cư tạm bó tay. Trước đó, Cư và một số người
trẻ trong Ban đã không chỉ làm "Dân vận" mà còn phải làm "Quan
vận" nữa! Chính anh là người kiến nghị để đồng bào được di chuyển ngôi sàn
đến nơi tái định cư, phù hợp với nguyện vọng, tập quán. Và không chỉ một lần,
Cư xin trực tiếp đến ăn ngủ tại những gia đình chây lỳ, khiến vợ anh phải bồn
chồn lo lắng cả đêm. Nhưng lần này...
Vợ
Cư, một cô giáo người Thái dạy PTTH, lại là người đầu tiên được anh tâm sự về
các diễn biến trong và sau cuộc họp ( Dĩ nhiên là không có hai khẩu súng kíp!).
Cư đã gặp trưởng Ban xin được giải quyết êm thấm vụ này. Ông chỉ tay lên trên.
Cư đã phải gõ vài cửa, bằng sự nhẫn nại mà không hiểu vì sao anh có được, cùng
những lời hứa như đinh đóng cột. Anh được toại nguyện, kèm sự ái ngại không dấu
diếm của những người "ra ơn lần cuối" cho anh... Trước khi đi, thấy
vợ lúi húi nhét ếp-khẩu2 còn lựng thơm nếp nương vào cặp, Cư xua tay:
"Khỏi cần. Vào bản Thái mà!" Chị cứ cài lại chiếc cặp căng phồng. Cư
với túi thổ cẩm đang treo góc nhà, phủi bụi, rồi lấy ếp-khẩu, tập sách truyện,
cuốn sổ tay, chiếc đèn pin và con dao găm từ cặp chuyển vào túi. Nghĩ sao, anh
bỏ cuốn sách và con dao ra. Chị lặng đi nhìn anh, không dấu được nỗi thảng thốt
trong đáy mắt: "Anh thận trọng nhé... Người bản ấy có súng...". Anh
nói như quát: "Ai bảo em thế?". Chị quay ngoắt bước đi.
Lúc
này, bên những vết tích còn lại của bản Thái hoang tàn, Cư có cảm tưởng lạc vào
nơi từng ghi dấu sự tích kể về cô gái con tạo bản đã héo hon mà chết vì mong
nhớ người yêu; nhưng mọi người không sao đem nổi xác nàng ra khỏi nhà, bởi hồn
nàng quyết không chịu rời đi. Bản bị hồn ma ám, không ai dám ở. Còn chàng trai
nghèo thất tình, khi trở về đã ôm ấp nàng suốt bảy ngày đêm mà không biết đó là
thi thể giá lạnh, giữa cái bản vắng tanh... Cư sinh ra, lớn lên ở phố núi, học
chuyên nghiệp xong vào cơ quan Nhà nước, phải tới đận làm công tác di dân, anh
mới thực sự được sống với vui buồn của người dân bản. Lần đầu tiên anh mới có
dịp thấm hiểu nỗi day dứt nhớ thương đàn gia súc mà người phụ nữ vẫn hàng ngày
chăm sóc, giờ phải chia xa: "Ở lại nhé, đàn vịt nhỏ thường đẻ trứng/ Đàn
gà nhỏ thường gáy của ta ơi!/ Chiều chiều ta không còn được nắm gạo xuống
chăm" 3... Cũng lần đầu tiên, khi tận mắt chứng kiến cảnh phụ nữ già trẻ
của một bản đều khóc ở lễ Lúng ta (Gội đầu) lần cuối bên đoạn sông sẽ biến mất,
Cư mới được cảm nhận bằng trực giác thế nào sự gắn bó của con người với quê hương,
xứ sở...
Một
người đàn bà địu ngô từ nương bên kia sông về bản. Trò chuyện đôi câu với chị,
Cư vỡ lẽ, vì sao thầy dạy văn cũ của anh, một nhà báo trung ương, tháng trước
đã từ chối đề nghị của trò cũ đang là một quan chức, không muốn đi cùng anh
bằng phương tiện của Ban để tới các địa điểm giải phóng lòng hồ. Ông vác máy
quay đi một mình, lang thang nhiều ngày qua các làng bản đã hay sắp di dời, ghi
lại tâm tư của người dân. Chết thôi, phải lập tức đề nghị ông giữ kín những tư
liệu đó, để khi thành công thủy điện công bố cũng chưa muộn. Nhưng chắc mình lo
xa quá. Đúng là "cầm đèn chạy trước ô tô"! Cư mỉm cười tự diễu. Song
ngay lập tức, một nỗi lo sợ bủa vây anh. Một nòng súng đang bí mật theo dõi mọi
hành tung của anh, chỉ đợi chút gì thất thố hay bất cẩn là sẽ tóe lửa. Rồi sau
đó có thể là một, hai ngôi nhà bốc cháy đùng đùng. Gai ốc bỗng nổi lên. Cư đứng
lặng, hít một hơi thở thật sâu tự trấn tĩnh. Khi đã bớt hoảng loạn, lòng thương
vợ con chợt len lỏi tận ti vi huyết quản. Tay anh bất giác sờ lên chiếc
ếp-khẩu, dường để tìm một chỗ dựa cần thiết. Giọt lệ giấu vội của vợ lúc quay
ngoắt đi chập chờn ẩn hiện. Lúc này, chắc cô ấy đang lo lắng đến tê dại. Anh
chợt ân hận đã nói như quát khi tạm biệt. Lần này, đâu phải như mọi lần... Nếu
một cô gái gia đình cán bộ quen sống từ bé ở đô thị, phải sống trong cảnh sắp
rời bỏ ngôi nhà sàn như người con gái của Xống chụ son sao: "Ở lại nhé,
nái lợn đen ở gầm sàn/ Chiều chiều ta không được xách đậu cám xuống cho
ăn", thì cô ấy sẽ nghĩ gì? Cư tỉnh táo trở lại. Đồng thời, một niềm rưng
rưng chợt dấy lên... Cư chưa được biết những tư liệu của thầy giáo cũ có những
gì, nhưng anh đã xem phóng sự "Giã biệt Cà Nàng" của ông, ở đó anh
đồng cảm với tình thương, sự mến phục nghẹn ngào trước sự hy sinh cho nghĩa cả của
đồng bào anh.
Mặt
trời vừa lặn sau dãy núi bên kia sông. Núi liền sẫm đen lại hung dữ. Sương mù
ập xuống. Bên này sông, bản cũ hoang vu càng thêm lạnh lẽo trong màn sáng lem
nhem, mờ ảo. Cư đã quay lại bến sông, kịp hỏi han ghi chép thêm tin tức qua mấy
đứa trẻ trai đang bơi lội, đùa nghịch. Một đứa tỏ ra biết kỹ: "Hai nhà bắc
ván thông nhau. Cửa sổ có bao cát. Có cả súng kíp mua của người Mông tận Co
Tòng cơ!". "Thế các cháu không đi học à?"- Cư ngắt lời nó như
thể xóa bỏ cái ấn tượng khó chịu bởi sự hồn nhiên của trẻ thơ trước tội ác chưa
xảy ra. Hỏi xong mới thấy vô duyên. Chúng nhìn lạ lùng. "Chú là cán bộ di
dân à? Không phải, vì không có cặp da!"- "Chú là ai thì cũng là khách
của bản. Tập tục người Thái ta thế nào?". Một đứa láu táu: "Chú vào
nhà cháu, cháu mời chú uống nước...- Nó ngần ngừ - Nhà cháu mấy hôm nay ăn cháo
ngô rồi...- Mắt nó sáng lên - Nhưng chú vào hai nhà ông Khem, ông Bình sẽ được
mời cơm cá đấy! Họ trữ lương thực để ở lại bản thật lâu mà". Cư bật hỏi:
"Thế nếu nước hồ dâng lên thì sao nào?". Đứa lớn nhất trạc tuổi con
gái út anh, vẻ trịnh trọng: "Họ bảo không thèm di vén lên, mà chìm cùng
nước!". Một đứa đế thêm: "Nhưng không chết đuối bởi thuồng luồng đâu
nhé! Tự giết cả nhà để nước làm mồ chôn". Cư thoáng rùng mình. Sực nhớ,
anh lấy ếp-khẩu xôi đưa cho lũ trẻ. Chúng rụt rè nhìn nhau. Chắc thấy anh khẩn
khoản, đứa lớn nhất cầm lấy. Rồi chúng lại nhìn nhau vẻ nghi ngại. "Chú
không đói. Mà sao chú không được một lời cảm ơn?". Bọn trẻ nói lí nhí.
"Chú phải cám ơn các cháu trước mới phải". Bọn trẻ liền xúm quanh đứa
cầm ếp-khẩu, mắt hau háu chờ chia phần. Ánh sáng nhập nhoạng trên những gương
mặt hốc hác, lam lũ trước tuổi vì đói ăn và những ngày tháng sống hoang dại. Cư
chợt nhớ câu chuyện mẹ kể khiến anh thổn thức suốt thời thơ ấu: có một gia đình
nghèo đông con, đúng năm hạn lớn, người mẹ kiệt sức. Người chồng sang nhà tạo
bản vay được một nắm gạo, dành tới khuya nấu cháo cho vợ. Nhưng khi muôi bát lỡ
chạm nhau, bọn trẻ đã vùng dậy. Hai vợ chồng nhường các con cả nồi cháo, rồi
đành bí mật đưa chúng vào rừng tự kiếm sống. Năm sau được mùa, họ vội vào rừng
tìm các con. Nhưng, "Cô chị cả đã hoá thành khỉ kêu/ Cô chị hai thành vượn
hót mặt đỏ/ Còn thằng Căng và thằng Khằng đã thành con dím, con dũi đào đất làm
ổ sâu"5... Cư lặng lẽ rời bọn trẻ, đi sâu vào bản hoang, lòng xáo động bởi
câu chuyện vừa sống dậy sau nhiều năm quên lãng... Nhưng chiếc túi thổ cẩm giờ
nhẹ tênh, bước chân anh sao trĩu nặng. Anh có quyền quay trở về. Vẫn còn kịp.
Không ai trách móc, phê bình hết. Thậm chí, có người sẽ vỗ tay hoan hỷ... Còn
vợ anh thì sẽ chỉ cấu véo trách yêu vì đã để chị mất oan một đêm lo âu thót
tim! Cái vụ này, quả là mình ăn gan Trời. Mặc dù vẫn lễ phép, nhẫn nhịn, song
cái ý chí sắt đá của mình khi đề nghị bỏ cưỡng chế, đã khiến không ít vị chưng
hửng, thậm chí kinh ngạc. Hôm đó, sao mình hăng thế. Còn thề thốt đủ thứ...
Nhưng ai dám bảo là mình đã sợ hãi? Dớ dẩn! Cư lấy ra chiếc đèn pin, sốc lại
chiếc túi thổ cẩm nhẹ hều trên vai, thầm tiếc đã bỏ cuốn sách và con dao ra.
Bạn Cư làm luận văn thạc sĩ về kịch Sê-khôp, từng kể một nguyên lý kịch học:
nếu có một khẩu súng treo ở đầu cảnh một, thì tới cảnh năm, nhất định nó phải
nổ súng. Nhưng đó là kịch! Con dao sẽ chỉ cần thiết cho đúng khoảnh khắc này,
chỉ giúp làm nặng thêm cái bờ vai không phải lúc nào cũng đủ tự tin như mình...
Dớ dẩn nốt! Cư nảy cảm giác liều lĩnh, bất cần. Những ánh mắt thương hại, sự dè
bỉu coi thường của mọi người trong Ban, kể cả của vợ con anh nữa, bỗng dưng
khiến anh sôi tiết. Cư soi chúc đèn pin, khum bàn tay che bớt sáng, chậm rãi
bước về phía hai ngôi nhà mà vài giờ trước anh quan sát được từ xa. Ve rừng bắt
đầu nhưng nhức hòa âm giữa không gian đen kịt. Loài ve đã nhập vào các phi bản,
phi mường (hồn ma) đây, định dọa ta chắc? Đừng có hòng! Nhưng một tiếng chim
đêm cô độc cất lên khắc khoải khiến Cư chợt nao lòng, rã rời ý chí... Một bà mẹ
đi đào củ mài, vì quá mệt và đói nên cắm đầu chết trong hố củ. Đứa con nhỏ ngồi
chờ phía trên cứ gọi mãi, giục mãi mẹ về cho em bú, rồi nó biến thành con chim
đêm. Có phải là loài chim này không? Đừng hủy hoại nốt lòng dũng cảm ta vừa vun
lại được! Cư tắt đèn pin, nấp sau một gốc cây để lấy lại tinh thần, và để mắt
quen với đêm tối, quan sát địa hình. Anh căng mắt nhìn ánh đèn dầu hắt qua các
cửa sổ của hai ngôi nhà sàn truyền thống, trong đó một nhà từng được phá để di
dời, rồi chính nó được dựng lại sát kề nhà hàng xóm thành thế liên kết, dù mong
manh vẫn là đáng kể. Chúng xếp hàng ngang trước mắt, vì thế anh không thể nhìn
thấy bốn cửa ra vào phía bốn đầu hồi, trong đó có một cửa bên quản, một cửa bên
chan phải được nối với nhau bằng ván- nếu bọn trẻ nói đúng. Ở mấy cửa sổ, hình
như nổi lên các bao cát để kê nòng súng, và để tránh đạn. Trẻ con không biết
bịa! Chà! Thành một vế tục ngữ mới được đấy, kiểu như: "Trẻ con không biết
mệt, con gái không biết đói"... Ờ, làm người ai mà chẳng biết đói, biết
mệt! Nhưng ở các vùng quê nghèo quen tự cung tự cấp xưa nay, mối quan tâm hàng
đầu là “khẩu đón, tón pa khao”(gạo trắng, miếng cá bạc), mà hoàn cảnh lại khắc
nghiệt, thì vô tình phụ nữ và trẻ con bao giờ cũng phải chịu đựng, chịu thiệt
thòi nhiều nhất... Mai về, đọc câu tục ngữ cổ này cho vợ nghe, xem gái Thái
mang danh trí thức hiểu tới đâu? "Ngày mai" lập tức kéo anh một cách
phũ phàng về đáy thực tại "Ngay lúc này". Cư dụi mắt để có thể quan
sát kỹ hơn hiện trạng "pháo-đài-nhà-sàn" chưa từng có kể từ thời mưa
máu chinh chiến vùng Thập châu. Ừ, mà sao mình lại có vẻ dấm dúi thế? Hãy làm
khách đường hoàng. Chuyện gì xảy ra chưa biết, nhưng trước tiên hãy để họ có cơ
hội thể hiện là người dân miền núi quý khách, trọng khách như luật tục bao đời.
Cư bước tới giữa hai ngôi nhà, cất giọng nói to:
-
Có ai ở nhà không ạ?
Ánh
sáng đèn dầu lay động. Tiếng dẫm sàn nứa cót két. Một tiếng nói trầm trầm tựa
dưới Âm ty vọng ra từ mép cửa sổ:
-
Ai vậy?
Nghe
giọng đoán tuổi, Cư đáp:
-
Ải lung (bác, anh), em ở mường xa tới, xin miếng cơm ngụm nước!
-
Vậy à? Mời lên sàn.
-
Lên thang nào đây ạ?
-
Nếu tự cho là khách quý, lên đằng quản!
May
rồi, như thế là mình sẽ được tận mắt nhìn thấy tấm ván liên kết phòng thủ của
hai nhà. Sẽ chủ động khi xảy ra sự cố. Và có dữ liệu cụ thể cho bản báo cáo...
Cư bước tới giữa hai ngôi nhà, chậm rãi bước lên thang quản ngôi nhà bên phải,
anh nhìn thấy một tấm ván lớn lao từ bên quản nhà này sang chan nhà hàng xóm
một cách chắc chắn. Quả là một sự đoàn kết sống mái, không kém mọi cuộc uống
tiết ăn thề!
Bữa cơm rượu đãi khách được bưng ra trên một mâm gỗ lên màu thời gian
trộn bồ hóng. Dòng rượu táo mèo phản chiếu đèn dầu hỏa và lửa bếp sàn sóng sánh
tựa mật ong. Chủ nhà không hỏi anh từ đâu đến, làm gì, ông chỉ lặng lẽ uống và
nhiệt tình rót như lâu ngày mới có khách tới thăm. Ông hàng xóm cũng được mời
sang ngồi mâm. Sau mấy chén, họ mới trò chuyện dè dặt. Khi biết chủ nhà vốn là
một ông mo, Cư hơi thất vọng. Trời ạ, thuyết phục sao nổi một người đang làm
chủ văn hóa cả mường bản!... Ông kể, ông chia một nửa gia đình tới vùng tái
định cư cách đây gần trăm cây số để thăm dò trước. Nhưng nơi đó quá lạnh, lại ở
nhà làm toàn bằng bê tông nên càng lạnh, vườn tược không có. Gia đình được phân
một lô chè và hai con bò sữa. Sau hơn nửa năm bỡ ngỡ trong lĩnh vực làm ăn hoàn
toàn mới, lại chưa được hướng dẫn kỹ thuật đầy đủ, bò ốm chết, gạo tạm ứng hết
sạch, đành phải kéo nhau về, kết với một gia đình cùng cảnh ngộ ăn thề trụ lại.
Còn mấy gia đình khác cũng quay về, chấp nhận cảnh di vén theo mực nước, bất kể
nơi đó có điện, nước, trạm xá, trường học hay không; nhưng họ không nằm trong
diện bị cưỡng chế...
Khi
chủ khách đã ngà ngà, ở buồng giữa chăng màn đen, lời “khắp” của một người đàn
bà vọng ra: “À…ới…ì... Rượu này là rượu tình rượu nghĩa, không phải là rượu
phản rượu thù...” Cư giật mình bay hết
rượu. Câu hát có ẩn ý gì đây ? Họ đoán được mục đích của mình? Không phải! Mình
trở nên đa nghi, cảnh giác từ bao giờ vậy? Nhưng đó là bài hát đầu cuộc rượu,
sao đến lúc này mới hát? Một đòn tâm lý thăm dò? Cư vội lắc đầu nhẹ để tự xóa
bỏ cái ý nghĩ có phần thiếu lương thiện. Chính mình là kẻ đã đến đây trong tâm
địa dò tìm địch thủ trước, trong khi lẽ ra phải là một người bạn chỉ mang tới
điều họ hằng khao khát: tình và nghĩa. Việc họ phải trang bị cả súng cho việc
cố thủ, có lẽ chỉ là một phản ứng tuyệt vọng, bị dồn tới cùng đường, sẵn sàng
buông hết cho số mệnh...
Trong
lúc Cư đang miên man với bao ý nghĩ dằng xé gay gắt, ông mo đã từ góc nhà quay
lại, mang theo trên tay mấy cuốn vở học sinh. Ông hàng xóm cáo lỗi ra về. Lúc
ông ta đứng lên chào, Cư có cảm giác hai người làm dấu hiệu gì đó với nhau.
Những bao cát phía sau lưng Cư là đồng lõa nham hiểm, chúng lầm lỳ lắng nghe để
giải mã lời chủ nhân:
-
Về Mường Húa, tôi ghi lại được một bản chiêu hồn quý lắm nhé! Cậu thích nghe
không?
-
Em chưa được biết văn bản này của người Thái ta, nên chắc cái gì cũng lạ, cũng
thích...- Cư hồi hộp, nghe rõ từng hơi thở của mình.
Thế
là ông vừa đọc vừa hát bằng cái giọng khê nồng song truyền cảm, về hành trình
chiêu hồn của một ông mo mường xưa từ các tầng của mường Trời tới nhiều nơi
dưới trần gian... Đúng nghề đúng việc cũ, lại gặp người thích nghe, không coi
lời Mo khuôn là vô bổ, nhàm chán, ông có thể hài lòng sống qua một đêm chờ đợi
dường vô tận.
Các trai và đoàn gái ta ơi
Niết Bàn dù cao sang chớ ở
Không cùng lứa đôi chớ nằm với nhau
Ma chia ruộng cho chớ làm
Ma chia rẫy chia nương chớ lấy
Ma phần phai cho chớ ngăn...
Người
dân ai cũng muốn phân biệt rõ hồn ma tốt hồn ma xấu để soi lại cõi đời mình; và
người hướng đạo phần hồn - các ông mo, hơn ai hết phải nhận chân sự thật nhằm
giúp cho hồn dù ở trên trời hay nơi hạ giới, cả người chốn dương gian tránh bớt
rủi ro, bất hạnh... Đối tượng của Cư lâu nay chính là những con người vốn có mơ
ước cuộc sống bình dị, như các hồn của "Mo Khuôn" kia đang dung dăng
dung dẻ đi qua sướng khổ của kiếp người, kiếp ma, với niềm tin chất phác: những
ai đã làm điều thiện khi sống, thì lúc chết, không trước rồi sau sẽ được hóa
thành vì sao sáng; còn những kẻ làm trái đạo người sẽ bị Then Xội trừng trị, bị
nhốt vào cõi u minh vĩnh viễn... Ở cảnh ngộ nào, họ cũng lạc quan: "Dù
miếng ăn còn nắm đầy nắm vơi, nhưng lúa gạo ở dưới đất, thức ăn ở trong
rừng...". Nhưng anh và các cộng sự đã có đủ khả năng thuyết phục nổi những
người đã mang nặng tâm lý bao đời: "Mười bản không bằng bản rụng rốn, mười
mường chẳng bằng mường chôn nhau"?
Ngừng
đọc một chút, ông cất giọng buồn hơn cả tiếng pí-thiu5 đêm vắng:
-
Cậu biết không, nhiều nơi đẹp đẽ hồn đi qua, và cả nơi sinh ra bản Mo hồn này
cũng sẽ chìm mãi trong nước lạnh...
Cặp
mắt mờ đục của ông ư ứ nước. Ý chí Cư bị quật ngã, anh nôn nao say sóng. Phải
chăng, đây mới là nguồn cội chính của mọi việc?... Ông chủ nhà chợt cắt ngang
tâm tư xáo trộn của Cư:
-
Cậu nghe nữa không? Lúc nãy là hành trình mường Trời. Giờ mới là hành trình Hạ
giới...
Cư
gật đầu lia lịa.
-
Vâng, vâng, ải lung chưa mệt thì em còn muốn nghe. Ít khi em có dịp...
Ông
lại khề khà, nửa đọc nửa như cúng ma với đầy đủ lễ vật, kèn pí-lao, đèn nến
lung linh trước mặt một mo mường. Trong khi hồn được dẫn qua các địa danh cả xa
lạ lẫn quen thuộc đối với Cư - Mường Khiêng, bản Hốc, đồng Pụa, Mường Bon, bản
Mòn..., Cư chợt hình dung cảnh những con bò sữa đã biến thành bò rừng gầy guộc
run rẩy, đi ngơ ngác giữa những ngôi nhà xây cứng đờ theo kiểu doanh trại,
không hề có những mảnh vườn thân thiết với phụ nữ, trẻ em, những lô chè mướt
xanh hóa lùm cây dại, cỏ hoang trùm lấn... Hiện trạng này thực ra cũng đã được
khắc phục khá nhiều. Nhưng nơi đó còn biết bao gian nan đang đón đợi. Nhiều
điểm tái định cư khác tuy có thuận lợi hơn, song chuyện xóa đói giảm nghèo thực
sự, vẫn còn là nỗi đau đầu. Rồi những kẻ bất lương cấu kết với không ít cán bộ
đã lưu manh hóa, tuồn hàng rởm, hàng Tàu kém chất lượng tràn ngập nhiều làng
bản chưa kịp hồi sinh, nhẫn tâm vơ vét những đồng tiền ít ỏi được đền bù của
dân, ăn chặn đồ viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ, khiến đời sống của họ đã
bấp bênh lại càng thêm cơ cực, khốn khó...
-
Này, cán bộ!...
Tiếng
của một người phụ nữ tựa tiếng thanh la xóc vào tai Cư. Anh choàng tỉnh. Chị
tuổi ngoài năm mươi, dáng sắt lại như lõi cây rừng, mái tóc tằng-cẩu6 gọn ghẽ
chắc chưa hề được gỡ ra đêm nào suốt những ngày qua. Chị đăm đăm như soi vào
mắt Cư.
-
Cậu vừa khóc đấy à? Sao lại khóc ở nhà anh chị?
Giọng chị bớt căng, và chuyển sang lối xưng hô
thân mật gia đình của người Thái. Cư ngỡ ngàng vì điều đó, mà cũng vì xấu hổ.
Đúng là anh đã chảy nước mắt tự lúc nào. Cư vội lấy tay quệt hai má.
-
Dạ... Chắc là do lời Mo Khuôn đấy ạ...
-
Cậu đừng giấu chúng tôi! Cậu là người của Ban di dân tái định cư! Cậu tới đây
để lại vận động chúng tôi chứ gì?- Giọng người phụ nữ bỗng đanh lại.
Cư
chết lặng. Anh đã lộ chân tướng. Một cách bị động. Một cách nhục nhã. Cư muốn
hét lên: "Phải đấy! Thế thì sao? Anh chị có biết sự ngoan cố của anh chị
đã khiến bao người thêm vất vả, biết bao thời giờ quý báu bị mất, nước hồ thì
sắp dâng lên...". Nhưng Cư bị chẹn ngang họng. Cần phải nói gì, phải làm
gì bây giờ? Một con thú mắc bẫy giương mắt nhìn người săn. Giọng người phụ nữ
trở nên nhẹ nhàng, song Cư có cảm tưởng chị đang bỡn cợt một con dũi trong lồng
trước khi lôi ra làm thịt:
-
Có đứa trẻ báo... Nó được trả công hàng ngày mà! Chúng tôi đếm từng khắc chờ
cậu đến, nhưng không mong chờ cậu sẽ lại tuyên truyền những thứ ai cũng thuộc
làu đâu!
Như
đọc được ý nghĩ của Cư vừa lóe lên, người đàn ông tiếp lời:
-
Chúng tôi cũng không chờ đợi sự đe dọa lẫn những lời hứa hẹn. Mà cần ai đó hiểu
cho: chúng tôi mệt mỏi lắm rồi. Cũng sợ chứ! Sợ đổ máu. Sợ phạm pháp... Nhưng
hai tuần qua, ngày một thất vọng. Lại nghe ngóng là sẽ cưỡng chế, nên bảo nhau
chuẩn bị sẵn sàng cùng sống chết...
Mồ
hôi Cư toát đầm lưng áo. Ông chủ nhà thủng thẳng:
-
May là cậu không nói ra những điều chúng tôi chẳng mong đợi...
Người
phụ nữ tranh lời chồng:
-
Có đấy, có điều chẳng mong đợi đấy!
Cư
ngước mắt nhìn chị. Chị mỉm cười, nụ cười mệt mỏi còn hằn vết lo âu, sợ hãi
nhiều ngày qua:
-
Chính là nước mắt của cậu đấy!...
Và
chị cũng chảy nước mắt thương cả cho mình nữa.
Cư
bật đứng dậy, lóng ngóng nhét lại áo vào thắt lưng để kìm nén một cảm xúc đột
ngột khiến anh mất tư thế- điều thực không xứng đáng đối với một cán bộ không
còn trẻ trung gì nữa, lại trước người dân dù sao cũng đang "có vấn
đề". Anh lúng búng:
-
Em... Em quấy rầy anh chị lâu quá rồi... Anh chị và bà con yên tâm. Sẽ không
bao giờ có một cuộc cưỡng chế nào hết! Nhưng...- Cư ghìm lại được, và thầm tiếc
chót nói từ "bà con" đậm tuyên huấn trước đông người - Nhưng... sao
em không thấy con cháu anh chị ở nhà?
-
Một nửa trực nhà, chúng đang đi săn... Một nửa đến những lều canh nương. Đang
vụ mà - Bà chủ nhà nhanh nhảu.
Bỗng
một tiếng súng nổ dội vào vách đá chát chúa. Cư giật bắn mình. Ông chủ nhà cau
mày:
-
Chắc thằng út hạ được cầy bay rồi... Lâu lắm, chúng mới về bản! - Ông quay bảo
vợ- Tôi đã nói mà chúng nó không nghe à? Nếu có đi săn, thì bằng nỏ và bẫy thôi
nhé!
Rồi
ông đứng lên nói với Cư :
-
Cậu cứ về đi đã!
-
Thế gia đình anh chị sẽ di dời chứ?- Cư nóng ruột.
Ông
chủ nhà quắc mắt, hơi sẵng giọng:
-
Cậu cẩn thận đấy! Về nhà đi! Mọi việc đâu có đó!- Ông chợt trầm ngâm- Chúng tôi
đến chỗ nào cũng được, miễn là nơi đó áp dụng được lời có vần của ông cha:
"Mất của dễ tìm, mất lòng khó kiếm..."
Khi
xuống sàn, Cư mới có dịp quan sát, dù chỉ trong vài giây- khẩu súng kíp treo
sát cửa sổ. Và lần đầu tiên anh mới thấy khâm phục, tự hào trước kỹ thuật kỳ lạ
cùng sự kiên nhẫn phi thưòng của người vùng cao: cái nòng thép đã được khoan
bằng sức nước chảy ngày đêm suốt một năm ròng...
Viết
thêm
Cuộc
cưỡng chế đã không diễn ra, bởi Cư đã có cam kết với lãnh đạo thế nào đó. Mười
ngày sau, ông mo Khem mang lên nộp hai khẩu súng kíp và thuyết phục được tất cả
các gia đình bản Púng Lầm còn lại tới nơi tái định cư. Và Cư phải viết báo cáo.
Nhưng anh chật vật cả tuần liền. Anh không biết phải kể lại những gì. Về mối
thương tâm của đôi vợ chồng nhìn các con biến thành thú vật trong rừng, hay về
cô gái bỏ chồng thản nhiên dạo chơi chẳng che vú trong những câu hát đưa hồn
giúp anh lật ngược thế cờ? Về thái độ kiêu ngạo của một số người máy mê tín
khẩu hiệu tuyên truyền, hay nỗi xót xa căm giận của anh trước những việc hủy
hoại lòng tin của người dân đã nghèo đến độ không còn gì nữa ngoài niềm tin?...
Dù sao thì anh cũng không thể viết như mọi khi được nữa, như mọi người vẫn viết
và mong nhận được từ anh.
Tây Bắc- Hà Nội, cuối năm 2014
(Nhà báo, đạo diễn điện ảnh)
----
1. Tức Mo Khuôn- một tác phẩm cổ nổi tiếng
của dân tộc Thái Tây Bắc (Vương Trung dịch)
2. Vật đựng cơm xôi làm bằng giang, mây
3. Trường ca dân gian Thái "Xống chụ xon
sao" (Tiễn dặn người yêu- Mạc Phi dịch)
4. Dân ca Thái Tây Bắc (Cầm Trọng kể)
5. Một loại sáo dọc của người Thái
6. Theo phong tục, phụ nữ Thái đen có chồng
búi tóc lên cao, gọi là tằng cẩu.
----
Mai An Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hà Nội ngày 30.3.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Mai An Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hà Nội ngày 30.3.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét