Phần số của anh tôi – Truyện ngắn Trạch An Trần Hữu Hội (TP.HCM)
Thứ Hai, 13 tháng 4, 2015
Nhiều năm sau khi anh tôi mất, mẹ tôi vẫn thường kể về chuyện ấy, bà kể rằng:
- Năm ấy là năm Nhâm ngọ, mẹ tôi cùng một người trong làng có việc phải ra Đông Hà, chiều lại, khi đi bộ về ngang chùa Sắc Tứ. Một ngôi chùa nằm phía bắc tỉnh Quảng trị, tọa lạc trên một vùng cát trắng mà sau này khi chiến tranh tràn lan, vùng này mọc lên một căn cứ quân sự của Mỷ, bao quanh ngôi chùa chỉ trừ một lối vào vừa đủ cho Phật tử trong vùng vãn chùa, đảnh lể. Khi bà cùng người làng ghé chùa,
Thông
tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác
giả Trạch An
Tên thật Trần Hữu Hội
Sinh 1955. Tại An Lưu, Quảng Trị.
Hiện ở: Ninh Sơn, Ninh Thuận
Email: trachan555@yahoo.com.vn
_____
Trạch An Trần Hữu Hội
Tên thật Trần Hữu Hội
Sinh 1955. Tại An Lưu, Quảng Trị.
Hiện ở: Ninh Sơn, Ninh Thuận
Email: trachan555@yahoo.com.vn
_____
Trạch An Trần Hữu Hội
Nhiều
năm sau khi anh tôi mất, mẹ tôi vẫn thường kể về chuyện ấy, bà kể rằng:
- Năm
ấy là năm Nhâm ngọ, mẹ tôi cùng một người trong làng có việc phải ra Đông Hà,
chiều lại, khi đi bộ về ngang chùa Sắc Tứ. Một ngôi chùa nằm phía bắc tỉnh
Quảng trị, tọa lạc trên một vùng cát trắng mà sau này khi chiến tranh tràn lan,
vùng này mọc lên một căn cứ quân sự của Mỷ, bao quanh ngôi chùa chỉ trừ một lối
vào vừa đủ cho Phật tử trong vùng vãn chùa, đảnh lể. Khi bà cùng người làng ghé
chùa, sư trụ trì cùng các sãi đang đạp lúa trước sân, mẹ tôi vái thầy rồi tỏ ý
muốn xin xăm. Một chú tiểu tóc để chỏm nhanh nhạy theo lời sai của thầy, dẩn mẹ
tôi vào chính điện, mẹ tôi đặt bó nhang lớn mua từ Đông Hà, đặt thêm một đồng
bạc làm lễ vật rồi khấn vái, sau đó qua bên một chiếc bàn khấn lại, rút một thẻ
tre gọi là xăm, đem ra cho sư trụ trì xem, Sư ngừng đạp lúa, nhìn vào xăm rất
lâu rồi nói chậm rãi:
-
Mợ đang mang thai, một nam nhưng mạng này lại vắn số!
Mẹ
tôi sững sờ đáp lại:
-
Thưa thày, tôi vừa bỏ một đứa con chưa bao lâu, sao lại như vậy được?
-
Xăm nói sao tôi nói vậy, mợ về xem lại.
Là
người Quãng Tri, nhưng trong nhà tôi gọi cậu mợ, có lẽ cách gọi này là “mốt”
thời thượng của những gia đình từng đi làm cho Tây thời đó, tôi gọi cậu mợ cho
tới khi gia đình tôi rời quê lên tỉnh vì chiến tranh.
Bố
mẹ tôi mong mỏi một đứa con trai, nhưng hai lần sinh đều là gái, cái thai thứ
ba mẹ tôi vừa bị hư cũng là gái, trong khi đó tuổi của bố tôi đã bốn mươi tám
và mẹ tôi hai mươi tám.
Chuyên
của bố mẹ tôi gặp nhau là một chuyên hiếm hoi, nguyên bố tôi đã có một đời vơ,
bốn đứa con. Thời gian này người được bỗ ra làm việc ở Quảng Bình, năm sau, môt
trận dịch hạch xảy ra, cả vùng Quảng Bình, Quảng Trị chết rất đông, có nhà mất
cả gia đình, đi đâu cũng nghe tiếng khóc than! Mẹ đích tôi cùng các anh chị nằm
trong số đó!( trong nhà tôi gọi vợ trước của ba tôi là mẹ đích) .
Sau
khi an táng vợ và các con, người buồn rầu trở lại Quảng Bình làm việc. Trước là
một người hoạt bát năng nổ, nhưng nay u uất buồn rầu.
Ông
ngoại tôi là bạn đồng liêu thân thiết với bố tôi.
Sau
hôm giỗ mãn tang mẹ đích tôi không lâu, ông ngoại tôi trong một bữa rượu, đã
gợi ý gả con gái cho bố tôi, dù con mình còn quá trẻ, mới mười bảy tuổi!
Mẹ tôi kể lại khi ông ngoại gọi, mẹ tôi đang
bẻ bắp sau nhà, nghe ông ngoại nói ra ý mình, mẹ tôi cúi mặt nói lí nhí:
-
Thầy muốn vậy cũng được ạ!
Bởi
bố tôi là bạn thân thiết với ông ngoại tôi, mẹ tôi không lạ gì người đàn ông
hiền lành, thích thơ phú và vui tính này!
Trở
về nhà, mẹ tôi kể chuyện lá xăm với bố tôi, ông liền đưa mẹ tôi lên tỉnh, nhờ
một người bạn là bác sĩ, trong tỉnh ai cũng gọi ông là “Đốc tờ Hy”.
Sau
khi thăm thai, Đốc tờ Hy trở ra nơi bố tôi ngồi, vui vẽ bắt tay bố tôi, nói:
-
Thai bốn tháng rồì, mong là trời cho “xừ” một quý tử.
Bố
tôi theo Tây học, ít khi tin vào tử vi bói toán, nhưng rôi cũng hoang mang với
lá xăm!
Gần
cuối năm thì anh tôi chào đời, cả nhà tôi, hai chị còn nhỏ, bố mẹ tôi và hai
bên nội ngoại…hoan hỷ vui mừng. Nhưng mẹ tôi thì lo âu tùng ngày vì tin vào số
mệnh, vị sư nói “vắn số” nhưng khống biết “vắn” là tại thế được bao lâu!!!
Nỗi
lo âu thường trực trong lòng bà cho tới khi anh tôi qua đời!
Bấy
giờ chúng tôi đã lớn, nhưng vì thương mẹ nên cũng ngồi nghe kể dù đã thuộc nằm
lòng, thỉnh thoảng chen vào, hỏi mẹ một vài chuyện về anh, cũng đã nằm lòng,
nhưng dù đã nằm lòng vẫn không khỏi khóc. Chẵng hạn như sau khi anh tôi được ba
tuổi, mẹ tôi sinh thêm chị gái tôi, năm sau, giặc Tây càn, những trận càn liên
miên thời đó. Mẹ bồng chị tôi, anh tôi chạy cùng hai chị, không may đạp nhằm
cái gai tre xuyên qua bàn chân, đau lắm! Thấy anh tôi không chạy được, các chị
cũng còn nhỏ không cõng nổi, mẹ tôi muốn bỏ lại chị tôi bên đường để cõng anh
tôi. Nhưng anh tôi không chịu, khóc lóc, nhất định là: “Con đi được, mợ đứng bỏ
em!” Rôi anh tôi tấp tểnh đi bằng gót chân non nớt! Chúng tôi luôn khóc về
chuyện này, khi chị tôi đã lớn khôn, chị vừa khóc vừa gọi “Anh ơi !!!” làm
chung tôi sụt sùi!
Thời
gian này bố tôi đã bỏ việc ở Quảng Bình, thoát ly lên chiến khu Ba lòng, được
một vài năm, ông bị Tây bắt phải nằm nhà lao mấy năm. Trở về, bố tôi nhớ lại
lời của lá xăm, người nguyên xin ơn trên cho thêm đứa con trai nữa, trời cho
thật, anh kế tôi ra đời vào năm Nhâm thin, bố tôi đặt tên là Trần Như Nguyện,
nhưng vài năm sau, sinh thêm tôi khi mẹ tôi đã bốn mốt tuổi, bố tôi sáu mốt!
Tôi thường bị trêu là con ông già. Vậy là gia đình tôi có sáu người con, ba
trai ba gái.
Tản
cư lên tỉnh, gia đình tôi nhờ ông Tỉnh trưởng giúp cho một chỗ ở, công việc
sinh nhai là nấu cơm cho thợ hồ. thợ mộc xa nhà. Ăn ngày, ăn tuần, ăn tháng
tùy…
Ông
Tỉnh trưởng thường đến nhà tôi chuyện trò cùng bố tôi, ông từng là một thầy
giáo dạy văn. Ông là tỉnh trưởng dân sự cuối cùng vì sau đó những tỉnh trưởng
đều là Quân đội.
Có
một lần, bố tôi đọc cho ông nghe câu đối mà bố tôi mới làm xong:
“Bán
cháo, bán cơm, không bán nước,
“Mua
đồng, mua trự. chẵng mua quan.
Ông
Tỉnh trưởng khen rồi xin cắt nghĩa, bố tôi nói:
- Tôi
tản cư lên tỉnh, nhờ ông Tỉnh trưởng giúp cho chổ ở, nấu cơm bữa cơm tháng sinh
nhai, nên chỉ bán cháo bán cơm, còn nước thì lấy từ sông Thạch Hản lên, ai khát
thì cho người ta uống chứ không bán. Nhà tôi nghèo, chỉ có tiền đồng tiền trự,
chứ làm gì có tiền quan mà mua. (Lúc này tiền tệ không còn “trự” “quan”, Nhưng
ông mượn đơn vị tiền tệ cũ để nói lên ý mình trong câu đối.
Tâm
đắc với câu đối, ông Tỉnh trưởng về, hôm sau cho chở tới 10 bao gạo. rồi giới
thiệu các công chức xa nhà đến ăn cơm, nhả tôi đông như quán cơm xã hội. Mẹ tôi
đã vất vả càng vất vả hơn!
Vất
vả bận rộn, nỗi lo về anh tôi cũng vơi đi phần nào. Cho đến một hôm, có một
thầy chấm số Tử vi từ Huế ra, chuyên chấm tử vi cho những nhà giàu, quan chức
trong tỉnh…đến ăn cơm, ông thầy đau bao tử nên hơi tái xanh, gầy. mẹ tôi chừa
phần cơm thường bỏ thêm cho ông một miếng cháy bởi ông rất thich cơm cháy
Năm
trước, anh tôi thi rớt tú tài phần nhất. găp lúc tòa hành chánh tính có tổ chức
“Đoàn cán bộ hành chánh lưu đông”. Anh tôi được tuyển dụng.
Tôi
còn bé nhưng cũng nhớ là đêm ấy là đêm mưa rét, bố tôi ngồi chuyện trò cùng
thấy tử vi, ông ấy gọi anh tôi, bào vào trong phòng xem dưới hạ bộ có nốt ruồi
đen hay không, anh tôi theo lời rồi ra xác nhận lả có. Ông cười bảo với anh
không có gì, ông ngồi cùng bố tôi một lát rồi về nhà trọ.
Hôm
sau ông lại đến ăn cơm, ông nói nhỏ với bố tôi:
-
Ba mươi mốt tuổi nó hết số anh à!
Bố
mẹ tôi buồn lắm, nửa tin nửa không muốn tin!
Ba
mẹ tôi dấu không cho chúng tôi biết, nhưng cũng chẵng giấu được bao lâu, anh
tôi và cả nhà đều biết, ai cũng cố không tin ông Thấy tử vi!
oOo
Lá
xăm và lời thầy tử vi cũng chỉ là hé lộ mơ hồ về só phần của anh tôi, có vẻ như
đã được định mệnh sắp đặt. Tin hay không tin cũng chỉ biết đợi chờ!
Những
lắng lo xoay trở tạo cho mình có được một “cái gì đó” trước khi tuổi ba mươi
mốt đến là ý nghỉ luôn hiện hữu và chi phối những chọn lựa của anh tôi!
Anh
tôi thích thơ-văn, anh cùng hai người bạn ra một tập thơ mỏng chép tay, in
roneo, lấy tựa là “Thi phẩm: Buồn hôm nay”, anh cũng gởi thơ cho các báo, một
vài bài thơ của anh được đăng trên bào “Phổ Thông” và “Bách khoa”.
Anh vào lính, thi lại tú tài rối xin vào làm ở
Đài Phát Thanh Quân đôi, ở Huế.
Năm
sau anh cưới vợ, ở tuổi hai mươi mốt, mặc cho gia đình phản đối!
Làm
ở đài phát thanh không bao lâu thì cuộc chính biến 1963 xãy ra cùng với chiến
sự lan tràn, anh về làm lính tiểu khu Quảng trị, ở đó cho đến biến cố tết Mậu
Thân.
Những
đứa con ra đời, anh tôi lại có thêm nỗi lo kinh tế! Là lính tiểu khu, ngoài
những giờ gác đêm, anh tôi được tự do, anh làm thông dịch cho những nhà thầu
nơi các căn cứ Mỷ để kiếm thêm thu nhập, phụ vào đồng lương ít òi của anh binh
nhì.
Ông
Tỉnh trưởng dân sự ngày nào, sau khi thôi làm tỉnh trưởng, ông ứng cử Hạ nghị
viện và lúc này dang là Bí thư hạ viện tại Sài gòn. Khi ứng cử nhiệm kỳ đầu,
anh tôi đến các quận trong tỉnh để vận động cho liên danh của ông, trong lần về
lại, gặp anh tôi, ông khuyên anh tôi vào trường Bộ binh Thủ đức, sau khi ra
trường sẽ ứng cử Hạ viện như ông trước đây. Trong thời chiến, cứng cử viên là
sĩ quan quân đội sẽ được cử tri quân nhân ủng hộ.
Năm
1970 bố tôi mất vì bệnh phế quản. Có lẽ là di chứng của những năm nằm nhà lao.
Theo
lời khuyên của ông Tỉnh trưởng anh tôi vào trường sĩ quan Thủ Đức, khóa 3/70.
Mãn
khóa, anh nằm trong số được chọn đơn vị. Chiến sự căng thẳng khắp nơi, bốn đứa
con là động lưc cho anh tôi chọn tiểu khu Phong Dinh vì nghỉ rắng Miền tây gạo
và thức ăn rẽ! Chuyện ứng cử Hạ viện không còn trong tầm tay.
Anh
vẫn viết, cộng tác với các nhật báo. Anh viết những bản tin, phóng sự, thỉnh
thoảng đăng một vài truyện ngắn và thơ…đem lại một khoản tiền nhuận bút cho
kinh tế của anh.
Văn
thơ anh lúc này bi quan với những: “mộ phần, nghỉa trang, cái chết”, những gian
truân đời lính, bên cạnh những bài thơ mang ước vọng hòa bình…
(Tôi
còn nhờ vài câu:
“Đường đi vào nghĩa trang,
Buổi chiều nghiêng nắng đổ
Em cúi mình hỏi mộ
Mộ anh ở nơi nào?!
……………………
Hay
như:
“Nếu một mai Quê hương tàn tiếng
súng,
Anh giã từ vũ khì trở về em
Anh quên hết những oán hờn xưa cũ,
Gối đau thương trong giấc ngủ say
mềm…
………………………………………….)
Gia
đình tôi vẫn ở Quảng Trị cho đến tháng 4 năm 1972. Quê tôi rực lên bởi đạn
pháo. Chết chóc, ly tán… Gia đình tôi nhờ chạy trước nên không qua đoạn Quốc lộ
1, nơi được gọi là “Đại lô kinh hoàng”.
Anh
tôi từ Cần Thơ đăng báo tìm “me và em”, anh cho tôi địa chỉ một người bạn gái ở
đường Võ Tánh Sài Gón. Đến đó, anh sẽ đón mẹ và tôi đưa về Cần Thơ.
Anh
kế tôi lúc này cũng đã vào trường Thủ Đức, khóa 4/71. Các chị tôi ở lại Đà Nẳng
trong các trại tạm cư, chờ khi tái chiếm được Quảng Trị sẽ hồi cư.
oOo
Gặp
lại anh ở Sài Gón, mẹ tôi rơi nước mắt vì mừng mà cũng vì anh gầy và tái xanh,
anh cười bảo là muổi nhiều nên sốt rét. Anh muốn mẹ và tôi ở lại vài ngày ở Sài
gòn để anh đưa đi thăm bà con nhưng mẹ tôi không muốn, bà nôn nóng về với các
cháu, chị dâu tôi đang mang thai đứa thứ năm!
Ngồi
trên chiếc xe về miền tây ở bến xe Chợ lớn, anh nói nhiều cho tôi biết về Cần
Thơ, những bến Ninh Kiều, Phi trường Bình Thủy, Phà Cần Thơ rộng qua sông Cửu
Long, Rạch Chanh nơi đơn vị anh đóng quân…Anh cũng nói đến Nghĩa Trang Quân Đội
Biên Hòa, anh muốn nếu chết thì chôn anh ở đó! Câu nói như bất chợt ấy làm tôi
nặng lòng!
Một
cô gái mang một chồng sách lên xe bán dạo, tôi vui trở lại. Anh chọn bốn cuốn:
“Chiến trường tồi tệ“ của Ngô Đình Vận, “Một chút mặt trời trong nước lạnh” của
F. Sagan, bản dịch của Kiều Diểm Hồng, anh nói về nhà văn nữ người Pháp cho tôi
biết, nói qua về trào lưu “Hiện sinh”… mua thêm cho tôi hai số nguyệt san“Văn
Học”: Một số viết về nhà thơ Quang Dũng và số về Hoảng Cầm. Hình bìa số về
Quang Dũng có in hình nhà thơ, anh tôi nói đó là áo của sĩ quan Hoàng Phố, nói
cho tôi nghe về trường quân sự này, cũng nói thêm về Vũ Bằng và mấy cây bút
trong những số này làm tôi háo hức đến Cần Thơ, nơi căn nhà mướn của anh để
xem…
Căn
nhà mướn chật chội làm tôi thương anh hơn, những ngày phép còn lại thật quý,
anh em tôi ngồi chuyện trò về thơ, văn, nhạc… Tuy tuổi chênh nhau nhiều nhưng
anh em tôi gần gủi nhau hơn các anh chị khác. Lúc này tôi mới mười sáu còn anh
ba mươi mốt! Vốn thơ tôi không quá cuốn “Việt Nam Thi Nhân” của Hoài Thanh.
Nhạc thì tôi kha khá nhờ nghe nhiều, chúng tôi cùng sở thích. Nhạc Tiền chiến
và Trịnh Công Sơn. Thời gian này băng nhạc “Như cánh vạc bay và Cỏ xót xa đưa”
của Trịnh Công Sơn đang thịnh hành, trong những cuốn băng Cassete tôi mang theo
được về Cần Thơ được nghe liên tục. tôi cũng mang theo được cuốn “Yêu nhau khi
còn thơ và Khi loài thú xa nhau” của Lê Uyên và Phương, còn có một cuốn nhạc
chọn lọc tôi rất quý vì tôi đã cất công vào nhà thu băng Hoa Đàm ở cửa Thượng Tứ,
Huế- thu chọn những bài mà tôi thích “Trăng mờ bên suối” “Suối mơ” Chiếc lá
cuối cùng” “Đêm đông”… Tôi chọn cho được giọng ca Thái Thanh và Sỹ Phú. Thu
chọn bài đắt gấp ba lần thu nguyên băng, nhưng tôi vẫn kiếm tiền thu cho được.
Thế
mà vài ngày sau tôi phải bán cái máy Cassete ấy! cái máy này tôi mang theo từ
Quảng Trị. Khi hết phép, anh tôi về đơn
vị nhưng không có tiền, tôi đề nghị bán chiếc máy, anh không cho, nhưng rồi
cuối cùng cũng phải chấp nhân vì ngoài tiên mang theo về đơn vị, còn tiền ăn
cho cả nhà! Tôi nghiệp anh, tự an ủi là lãnh lương sẽ mua lại cho tôi cái máy
tốt hơn!
Hai
anh em, tôi xách cái máy, anh tôi vác cài thùng loa shap, qua các phố Cần Thơ
tìm chổ bán. Mồ hôi dẩm chiếc áo lính của anh tôi, khi tới một tiệm sửa máy,
đồng ý mua lại, anh tôi rút khăn lau mặt, không biết anh lau mồ hôi hay những
giọt nước mắt, có lẽ cả hai!
Trước
khi trở lại đơn vị, anh tôi xin cho tôi đi học. Tôi vừa xong lớp chin, muốn bỏ
lớp mười để vào lớp mười một. anh tôi ngại tôi không theo kip, nhưng tôi hứa là
sẽ cố gắng. Tôi vào lớp mười một trường Nông Lâm Súc Cần Thơ nhờ thầy Giám học
cảm thông cho hoàn cảnh chiến tranh của Quảng Trị, không đòi hỏi hồ sơ lớp
mười.
Sáng
ngày anh về đơn vị, mẹ tôi đưa cho anh ba ngàn, trong số tiền bán cai máy,
nhưng anh chỉ lấy một ngàn, nói là “con chỉ đi ba ngày rồi về”,
Những
ngày ở nhà, anh thường hỏi tôi mấy giờ rồi, tôi sợ anh về đơn vị không biết giờ
nên cởi cái đồng hồ hiệu Bulova bào anh mang theo, tôi ở nhà không cần, bởi anh
nghĩ chỉ ba ngày rồi xin phép về nên cũng mang vào tay.
Có
lẽ mẹ tôi đã đếm tùng ngày của năm Nhâm Tý, 1972 và mừng thấm vì đã đến tháng
bảy! Anh tôi trở lại đơn vị hôm mồng một, mẹ tôi phấp phỏng âu lo, có những lúc
tôi thấy bà ngồi lầm rầm khấn ông bà. Những lúc như thế, tôi thường nói rằng mẹ
đừng lo lắng, anh đang bênh, là Đại đội phò thí anh ấy cũng chỉ ở hậu cứ chứ
chết chóc gì!
Tôi
cũng không buồn đi chơi đâu, dù rằng Cần Thơ là nơi tôi thường nghe tiếng là
Tây Đô với nhiều cái đẹp, tôi nằm ngấu nghiến mấy cuốn sách vừa mua.
Đúng
ba ngày từ hôm anh tôi đi, sáng sớm có một bà ở cuối lộ 19 bị trúng gió độc
chết, bà cũng ba mươi mốt tuổi! Mẹ tôi bần thần như người mất hồn, đúng lên
ngồi xuống, đi ra đi vào!
Chừng
mười giờ sáng, có một anh lính đi ngang nhà, mẹ tôi bảo tôi chạy ra hỏi, tôi đi
ra:
-
Anh tìm nhà ai?
-
Nhà Thiếu úy Dụng ở đâu ạ?
-
Tôi là em anh Dụng!
Anh
lính đứng im không nói thêm gì, mẹ tôi lao ra hỏi dồn dập:
-
Thằng Dụng sao rồi, sao rồi?!
-
Thiếu úy chết rồi ạ!
Mẹ
tôi và chị dâu thét lên rồi lăn lóc giửa đường, tôi cố trấn tỉnh hỏi anh lính
là anh chết lúc nào, hiện ở đâu?
-
Ổng chết năm giờ sáng, xe của đơn vị đang ở đầu lộ chờ đưa thân nhân xuống nhà
xác quân khu…
Mẹ,
chị dâu và tôi đến nhà xác, xe vẫn chưa đưa xác anh về, hốm ấy mất điên, nhà
xác ngập ngụa máu từ các ngăn lạnh chứa xác chảy ra! Chừng hai mươi phút sau,
anh tôi về trên chiếc xe cứu thương, với một mãng mặt vở nát và ba vết đạn trên
ngực và bụng!
Anh
tôi bảo chỉ đi ba ngày rồi xin phép về, đúng ba ngày, anh tôi trở về như thế!
Hôm ấy là ngày 03 tháng 7 năm 1972, anh tôi đúng ba mươi mốt tuổi như trong là
số tử ví mà ông thầy chấm ngày nào!
Thẻ
xăm và lá số tử vi khiến anh tôi lo lắng rồi có những chọn lựa sai lầm, đưa đến
cái chết đúng như lá số tử vi, hay dù có làm gì chăng nữa, cũng không qua được
số phần mà định mệnh đã đinh dặt cho cuộc đời ngắn ngủi của anh tôi?
Đó là câu hỏi luôn dằn vặt tôi cho đến bây
giờ, không chỉ riêng định mệnh của anh tôi, mà tất cả những con người tồn tại
trong cõi hiện sinh mong manh này.
Tháng III, 2015
Trạch An Trần Hữu Hội © Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Sài Gòn ngày 13.4.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét