Truyện ngắn Mai An Nguyễn Anh Tuấn (Đạo diễn điện ảnh)
Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015
Mảnh
vườn của cô giáo già - Truyện ngắn Nguyễn Anh Tuấn
Thứ
sáu - 14/09/2012 04:32
Cây táo
khom lưng Quả tròn trĩu nặng… Phải, xuân đã về. Cứ nhìn lên những trái táo thì
biết… Bà giáo Lý cởi chiếc áo bông hoa cà, treo lên vách tủ rồi chậm rãi bước
ra vuờn. Lớp lá tre dày chưa kịp quét hôm qua, bây giờ kín lấp ngõ. Bà gạt một
cành ổi vướng mái tóc hoa râm, lớp mưa phùn mau hơn, biến thành từng giọt, rơi
xuống lộp bộp. Vài chú cóc đốm nhảy ra từ ngóc ngách ẩm ướt trong khu vườn. Táo
rụng lăn lóc…
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
Cây táo khom lưng
Quả tròn trĩu nặng…
Phải, xuân đã về. Cứ nhìn
lên những trái táo thì biết… Bà giáo Lý cởi chiếc áo bông hoa cà, treo lên vách
tủ rồi chậm rãi bước ra vuờn. Lớp lá tre dày chưa kịp quét hôm qua, bây giờ kín
lấp ngõ. Bà gạt một cành ổi vướng mái tóc hoa râm, lớp mưa phùn mau hơn, biến
thành từng giọt, rơi xuống lộp bộp. Vài chú cóc đốm nhảy ra từ ngóc ngách ẩm
ướt trong khu vườn. Táo rụng lăn lóc… Chà! Sắp Tết đến nơi rồi. Không biết có
chia đủ đều cho bọn trẻ mấy nhà trên phố không đây?... Năm nào cũng vậy, ngày
mồng một Tết, tất cả anh em, con cháu, họ hàng đều tụ tập ở khu vuờn này… Mấy
thằng cháu lớn ngộc, chẳng cần dùng vợt sào, chỉ kiễng chân lên hái một loáng
là đầy túi quần, mũ len. Những đứa cháu gái lớn dần, thích của chua, chúng đều
biết ăn diện lắm rồi…Chóng thật, những trái táo chín nhanh quá. Mới hôm kia bà
vừa chống thêm một cây khô vào cành sai nhất. Những con ong ruồi quấn quýt bên
mỗi chùm. Thế mà sau trận gió Đông Bắc muộn tối qua, trên cành thấp quả bự đã
thưa đi nhiều. Bà ngước mắt theo thói quen bói quả, mặt rạng lên: trên cao quả
còn chi chít, chúng trắng xanh, căng tròn. Bà rón rén lượm cả quả chín nứt lẫn
uơng rụng vào cái thau rồi đem ra giếng. Ở đấy, bà gột đất mùn bám bết vào đôi
dép cũ. Đợt gió ấm quay về, trán bà dịu mát. Tia nắng mới xuyên qua làn mưa bụi
nhỏ…
Chẳng việc nào có tên mà
bà luôn bận rộn. Về hưu từ lâu. Những vần thơ đều đặn ra đời trong khu vườn này
như dòng nhật ký. Vào mùa xuân, người ta tặng bà thơ và bà họa lại. Cảnh già
làm cho khung cảnh thêm tĩnh mịch. Trẻ con hàng xóm ngại ngần trước hàng rào
tre dày đặc, lại cách ao chuôm, chỉ chừa một con đuờng nhỏ lối đi. Cây khế ngọt
bao lần ra hoa, kết trái lủng lẳng trên nóc chuồng gà. Chú mèo cũng già lắm,
khó đoán tuổi, thuờng lim dim mắt cạnh đó. Sát bờ hiên có vô số đồ vật cũ mình
bà không sao dọn hết, cứ xếp chồng lên phơi mưa nắng. Số phận những chồng thư
chất đầy một hòm gỗ trên nóc tủ thì có khá hơn: đôi khi vào năm mới, bà bê
xuống lục lại, giương mục kỉnh ngồi hàng giờ, đợi các cháu đến chúc tết và các
cụ ở tổ hưu trí, tổ thơ đến ngâm vịnh. Kết thúc, bà chia khế và táo cho họ.
Ngày truớc, bà là nhà
giáo, lại là Hiệu trưởng, nên đến ngày Hiến chương năm nào cũng vậy, phải đi
thăm lại nhiều bạn bè đồng nghiệp, tiếp đón nhiều học sinh cũ. Nhưng năm vừa
rồi, bà đã yếu đi nhiều, cái khớp xương đau nhức mỗi khi gió đổi mùa… Khách
cũng đến thưa hẳn… Bà bất chợt rùng mình nghe tiếng pháo tét vang lẻ tẻ đầu
ngõ. Hàng xóm im lìm bấy lâu, nay xuất hiện ồn ào những nóc nhà mái bằng, lầu,
gác. Sự giàu sang mọc lên cuống quýt hai bên khu vườn rậm rạp ấy. Một điền chủ
cho cất lên tòa nhà lừng lững, kiên cố, tân kỳ. Nó vượt lên quá khóm tre sau
vườn, chắn lấp khoảng trời phía tây. Từ giờ, bà không thể mắc võng ngắm hoàng
hôn như mọi chiều được nữa...
Nhưng vẫn còn khung cửa
xanh để mở nhìn ra miếng ao rộng. Tháng này phải gọi người ta đến vớt bèo, vun
chúng lại dưới gốc cây ăn quả, bón thêm cho mầm đất, chặt bán bớt lứa tre, ngâm
thêm tiếp bè nữa; mấy gốc ổi, hồng xiêm phải tỉa đi. Sau đó, thả nuôi con lợn,
mấy con ngan… Bà nhẩm tính…Sát chuồng lợn bỏ hoang, hàng chuối bị bèo tây phủ
lấn gốc. Ở chân tường đầu hồi, rêu với rễ trầu không bám chằng chịt. Bà buồn bã
nhìn những kẽ nứt vô hình tứa lên từ duới nền móng lún, ẩm của ngôi nhà cấp
bốn, tay thả buông mấy cành củi mục trên lớp lá khô dày và quả héo rụng. Nhìn
chiếc nhẫn của hai đời chồng "vắn số” trên ngón tay gầy guộc, bà bất giác
thở dài kín đáo, giống như mỗi lần các cháu chào bà rồi vội biến mất sau cánh
cổng gỗ… "Giá ta có một mụn con…”
Dáng hơi còng xuống, bà
bước tới chỗ quang đãng hơn. Phía truớc nhà, một khoảnh trồng xen kẽ nhiều loại
rau thơm, cây thuốc lúp xúp dưới hai gốc chanh cắm que rào thập cẩm. Búi xương
sông ngút lên, át mấy ngọn tía tô, diếp cá. Bà quan tâm nhất đến bụi hồng bạch
mà một bà giáo bạn bà tặng hồi tháng truớc. Nó đã nhú nụ. Một bông còn ngậm
sương, tách ra vài khía trắng. Bà định cắm mấy bông vào đêm giao thừa, cạnh mâm
ngũ quả. Bà sẽ chuẩn bị một cành lộc to gồm táo, khế như mọi năm. Quất đã có
rồi, chỉ còn cành đào: thằng cháu trưởng dạy học ở Tây Bắc viết thư hứa sẽ kiếm
đào phai và mang tới lúc giáp Tết. Túp nhà này là trung tâm hương hỏa, bài vị.
Bà luôn giữ cho làn khói nhang nghi ngút khi tề tựu đông đủ đại gia đình về
đây. Sau đó, khi chỉ còn lại một mình, bà vận vào chiếc áo dài vẫn nhét đáy
rương và ngồi bên bức ảnh của nguời chồng sau quá cố, lặng lẽ khóc…
Chẳng ai biết bà khóc đâu,
kể cả những bà bạn thân nhất. Trong những dòng thơ bà làm tặng họ nhân dịp lễ,
hội, ngày vui đều chan chứa lời khuyên nhủ, lạc quan, những bối cảnh nhân gian
tươi sáng hứa hẹn. Bà chép chúng đầy cả hai cuốn sổ to. Riêng cuốn bà làm hồi
con gái thì hiếm khi bà giở ra đọc lại, trong đó có bài "Em là chiếc lá”-
bài thơ đầu tay và cũng là bài tâm đắc nhất của bà…
Vào mùa thu xưa, khi bà
mười tám tuổi, tứ thơ đó đã khởi đầu cho số phận người con gái truân chuyên.
Hai cuộc kháng chiến qua đi, nhan sắc bà vẫn còn, ngoài mái đầu đốm bạc. Nụ
cười vẫn nở ra, với đôi gò má cao đầy đặn làm gương mặt bà tươi tắn. Những khi
bà bước lên bục giảng hoặc khi đọc một bài thơ, nguời ta không thể hình dung
nổi những gì bà đã trải qua. Giờ đây, ở tuổi 60, đôi mắt bà chỉ hơi có vết mờ
mà những năm tháng dài thao thức, ước ao một lần được làm mẹ đã hằn lên.
Mấy năm nay, bà thường trị
bệnh khớp bằng lá ngải cứu đắng ngắt. Cuộc sống giản dị khắc khổ gần như tu sĩ
của bà tách biệt hẳn với diễn biến thời cuộc, với sự leo thang giá cả và những
bức sốt kim tiền… Rặng ổi đào mỗi năm lại thêm chi chít quả. Một cành lớn ngả
hẳn sang nhà bên cạnh. Nhưng bà chúa sợ những đứa trẻ rung trộm cây trong vườn.
Khi quả rào rào lăn lóc do một cơn gió mạnh, bà tê tái như bắt gặp một lọ thủy
tinh rơi vỡ. Vào mùa hè, bà thường bận chiếc áo cộc tay, đạp chiếc xe tàng từ
thời Pháp thuộc đến nhà bạn bè giáo viên quanh vùng. Sau rốt, đến tổ thơ phụ
lão "Sông Tô” bình thơ. Trên ghi-đông xe, lúc nào cũng đeo một túi khế
ngọt và ổi. Người ta thích thơ của bà, nhưng cuộc đời thanh bạch của bà còn gây
chú ý, xúc động hơn. Từ lúc về hưu, bà không làm thơ kiểu viết hồi ký nữa,
nhiều dòng bà dành cho tuổi thanh, thiếu niên… Ngay những phụ huynh học sinh đã
già hơn bà, cũng kính cẩn lắng nghe lời ân cần thấm đạo lý từ thơ bà.
Lại sang một năm nữa.
Nguời ta ít thấy bà Lý ra khỏi mảnh vườn. Thỉnh thoảng, mấy đứa cháu có ghé tạt
qua. Xe đạp xe máy dựng túm tụm ở gốc khế ngoài ngõ. Chúng chỉ đến vào đầu mùa
quả. Cô gái ở nhà kề bên thường sang đây vớt bèo về cho lợn, mua bán, cơm nước
nhà giúp bà. Hình như bà nhận cô ấy làm con nuôi. Học sinh không có ai lại thăm
bà nữa. Những trái ổi vàng rụng nổi đầy ao.
Ngày Nhà giáo năm nay,
người ta thấy bà quần áo chỉnh tề, mới tinh, là phẳng, hơi so vai, dắt từ từ
chiếc xe đạp cũ ra cổng. Khoác thêm chiếc áo len kiểu gilê, bà lùa con ngan
trắng vào rồi khóa cổng lại. Chiếc túi to tướng ép trong cái nón quang vắt
ghi-đông … Bà đi dự lễ kỷ niệm Hiến chương ở mái trường xưa, nơi bà gắn bó đời
dạy học, rồi làm hiệu truởng. Học sinh bây giờ đông đúc lắm, chả biết bà là ai.
Các thầy cô giáo trẻ cũng vậy. Chỉ khi vào phòng truyền thống, người ta mới
biết có bà. Họ đã đưa thiếp mời bà đến làm khách danh dự. Bà chuẩn bị rất kỹ
một bài thơ để lên đọc ở buổi lễ trước toàn thể nhà trường. Mọi người coi bà là
bậc tiền bối của sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ.
Nhưng bà đã không kịp đọc
bài thơ cuối cùng tặng lớp măng non chứa đựng tâm huyết trọn đời nhà giáo thanh
khiết của mình, và không bao giờ trở về khu vườn nữa. Bà đã ra đi lặng lẽ trong
bệnh viện…
Hôm đó, ngày hội, hoa và
trẻ con tấp nập, xô lấn từ mọi phía. Những cô, cậu học trò rồng rắn đi nghênh
ngang. Chúng không ngờ bà lão đi xe đạp long ngóng đó là cô giáo Hiệu trưởng
của trường ngày xưa. Chúng chỉ cuời hô hố khi thấy tay lái bà loạng choạng vì
sợ va phải hàng ngang mà chúng dăng giữa đường. Vừa lúc ấy, chúng chạy tản ngay
vì bất chợt, một ô tô tải đằng sau rồ tới không thắng kịp, đã cán ngang hông
bà…Bà ngã bên chiếc xe đạp, không hề kêu lên một tiếng.
Nguời ta kể là trước khi
chết, bà còn kịp chỉ vào túi xách, trong đó có ổi, khế và bài thơ chưa ráo nét
mực…Mọi người mở túi ra mới biết nơi bà định tới là truờng phổ thông cơ sở phía
trước.
Đám tang bà đông lắm, toàn
bộ giáo viên, học sinh hôm ấy bỏ buổi lễ 20.11 để đi đưa tiễn bà theo chiếc xe
đòn. Có đến năm chục vòng hoa, trong đó, một vòng của hội thơ phụ lão
"Sông Tô”.
Mùa xuân năm nay, táo lại
nặng trĩu xung quanh lối xóm, nhưng cây táo thiện phiến vườn bà đã bị chột đi,
không còn trái nữa. Cây khế ngọt vẫn còn lác đác quả nhưng đã chuyển sang vị
chua. Những đứa trẻ thậm thụt lách qua cổng gỗ mọt rệu rã. Căn nhà ẩm thấp như
một hòn đảo xanh xám, rong rêu, nhô lên giữa bốn mặt ao tù… Tre, chuối rậm rì,
gai góc. Ra giêng, hàng xóm chặt hết các gốc táo, quệt lớp vôi bạc trừ sâu,
trước cửa ngõ vuờn bà xuất hiện một hố vữa to tướng. Người chủ mới đã mua lại
khu vuờn từ hai em trai bà, cửa khóa im ỉm. Hình như họ quyết định không cải
tạo lại, mà chờ được giá thì bán...
Viết thêm
Nơi khu vườn ấy nay đã
thành một khu dân cư đông đúc, được xây dựng hoành tráng, áp đảo theo lối
"tả pí lù", không ai có thể hình dung ra cảnh quan cũ nữa. Và có lẽ
chẳng một ai rỗi hơi rảnh việc nhớ về cái chốn tù đọng xưa kia... Duy chỉ có
đứa cháu trai, kẻ hàng năm trước đây thường mang cành đào Tây Bắc về cho bà Lý
sát giao thừa là còn đôi lúc chợt lặng người rưng rưng mỗi khi ngọn gió xuân
đầu tiên thoảng về mang theo hương táo, hương khế ru cho nỗi buồn thanh cao của
một cô giáo nghèo...
Hà nội, 11-2010
(Đạo diễn Điện ảnh)
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2- ngày 11/05/2015
Cập
nhật lại lần 1- ngày 14/09/2012
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 14/09/2012
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Nhà sử
học và viên công sứ - Truyện ngắn lịch sử Nguyễn Anh Tuấn
Thứ
hai - 10/09/2012 02:08
Trước
khi lên tới chốn “rừng thiêng nước độc” này, ngài tân chánh sứ Cút-xô
(Cousseaux) đã nuôi những dự định hết sức hấp dẫn phù hợp với “tinh thần khoa
học”' và lòng ham mê những điều mới lạ của ngài, dĩ nhiên là cũng phải phù hợp
với tinh thần “khai hóa” của “nước mẹ Pháp vĩ đại” đang ban phát cho dân chúng
thuộc địa đến cả những nơi heo hút hoang dã nhất...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Trước khi lên tới chốn
"rừng thiêng nước độc” này, ngài tân chánh sứ Cút-xô (Cousseaux) đã nuôi
những dự định hết sức hấp dẫn phù hợp với "tinh thần khoa học”’ và lòng
ham mê những điều mới lạ của ngài, dĩ nhiên là cũng phải phù hợp với tinh thần
"khai hóa” của "nước mẹ Pháp vĩ đại” đang ban phát cho dân chúng
thuộc địa đến cả những nơi heo hút hoang dã nhất...
Vừa chân ướt chân ráo đến
Sơn La, chưa ngồi ấm chỗ chiếc phô-tơi dành cho ngài trong buồng riêng, chánh
sứ đã gọi "con lợn" Ga-bô-ri (ngài gọi viên "sếp" ngục như
thế) sau khi đã được nghe rất nhiều chuyện không "sạch sẽ” gì về một vị sĩ
quan của nước Pháp quang vinh, cùng những quan chức người Pháp và người Việt
tới tòa sứ để ngài huấn thị. Trong cuộc xã giao "lịch sử" đó, ngài
chánh sứ mới đã gây được một ấn tượng đặc biệt trong lòng người. Thay thế cho
một đít-cua hùng hồn bằng tiếng mẹ đẻ, ngài đã tuôn ra hàng tràng câu tiếng
Việt có đầy đủ các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, làm người nghe bực
bội và mệt mỏi hơn là thích thú và khâm phục. Tuy nhiên, cái ấn tượng mạnh mẽ
về tính sùng bái khoa học ngôn ngữ lẫn phong cách mẫu mực của một nhà thuộc địa
đã choán hết tâm trí của những người được ngài chánh sứ tiếp chuyện. Hơn nữa,
ngài cũng không quan tâm đến phản ứng của người nghe bằng chính cái tâm trạng
bị kích động của ngài. Ngài liên tưởng tới nhà truyền giáo Pháp La Phít-tơ ở
thế kỷ XVIII đã từng nghiên cứu về người Anh-điêng (l) ở Bắc Mỹ. Ngài
thầm so sánh mình với Brô-ni-slap Ma-li-nôp-xki (2) và nghĩ rằng
chính cái trường phái dân tộc học mà ông ta khởi xướng ra trong những năm hai
mươi của thế kỉ này, hiện giờ chính ngài đang đổ mồ hôi ra để thực nghiệm và bổ
sung cho hoàn chỉnh. Trong những nhà khoa học thực dân châu Âu cận đại và hiện
đại, có mấy ai giàu lòng dũng cảm và tinh thần thực tiễn như ngài. Bọn thổ dân
ngu dốt ở cái lục địa châu Mỹ, châu Phi và châu Ấ, cả ở đây nữa- dân Anamít hèn
hạ- làm sao hiểu nổi tư tưởng cao quí của những người mang sứ mệnh "khai
hóa thuộc địa” mà ngài là đại diện?
Một trong những việc đầu
tiên mà quan Cút làm là kiểm tra danh sách tù chính trị cùng những hoạt động
của nhà tù. Nhận được từ tên chúa ngục bản danh sách mật, Cút-xô muốn vò nát
tập giấy đánh máy khi luồng mắt cú vọ của y đập phải một cái tên ở phần ghi
những người mới đến Sơn La cùng năm với y. "Trần Huy Liệu- số tù
vuông B 1573”. Dòng chữ đè nặng lên kí ức Cút-xô, gợi cho y những cảm xúc
trái ngược. À thì ra tục ngữ An-Nam vẫn lưu truyền: "kẻ cắp gặp bà
gìa", "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” là như thế này đây! Tính sĩ điện bị
tổn thương bấy lâu nay tưởng đã vĩnh viễn chôn vào quá khứ giờ lại đùng đùng
trỗi dậy. Nhưng ngay sau đó nó được lắng xuống trong một tình cảm tai quái: chỉ
cần nghĩ đến trả thù là y cũng được khoái trá và thỏa mãn. Trong đời chinh
chiến, Cút-xô ít khi hồi hộp, nhưng bây giờ y phải hồi hộp. Y sắp phải đối đầu
với một đối thủ lợi hại. Nhạy cảm đặc biệt của một tên mật thám cáo già đã đánh
hơi được tính chất quan trọng và mức độ gay gắt của cuộc đụng độ sắp tới giữa y
và kẻ thù riêng của y.
Chính tù nhân R 573 cách
đây không lâu đã "chơi” y một vố khá đau. Dạo đó Cút-xô làm giám đốc
sở địa chính Bắc Kì. Nghiên cứu chính sách thuộc địa của các vị toàn quyền Đông
Dương- từ Pôn Đu-me (Paul Doumer) cho tới Bơ-rê–vi-ê (Brévié) , tự cho mình có
một bộ óc cách tân táo bạo, Cút đã có những ý kiến phê phán tinh vi. Trước khi
Bơ-rê-vi-ê sang làm toàn quyền Đông Dương, thuế thân của mỗi dân đinh ở Việt
Nam nhất loạt là 2đ5 một người không kể phụ đảm. Sang Đông Dương, Bơ-rê-vi-ê
bãi bỏ chế độ đó và thay vào một chế độ thuế thân có nhiều bậc khác nhau: người
dân đinh không có ruộng mỗi năm buộc phải đóng mỗi năm 1 đồng, người có vài
thước đất trở lên phải đóng 2đ5, rồi đến những loại thuế thân 7 đồng, 40 đồng
một năm. Cút-xô phát hiện ngay ra tính chất "công bằng phi lí" trong
chính sách thuế khoá của bậc bề trên - một người theo y mới chỉ có đầu óc chính
trị chứ chưa có đầu óc kinh tế. Lợi dụng tính không khí ôn hòa của tình thế lúc
bấy giờ, muốn bắn một phát súng trúng nhiều đích, Cút-xô với cương vị giám đốc
sở địa chính Bắc Kì đã đưa ra một chủ trương rất hấp dẫn.Y muốn mị dân thuộc
địa và gây tiếng tăm ở chính quốc, và biết đâu những lực lượng cánh tả sẽ tôn y
lên làm nhà cách tân táo bạo của thế kỉ hai mươi, tên tuổi y sẽ được đưa lên
những đòng "tít" lớn của báo chí phương Tây. Nhưng cái chính yếu của
vấn đề thì y không dám thừa nhận ngay với chính bản thân (nó trái ngược với cái
tinh thần "khoa học” và táo bạo của y) - tức là chủ trương này nếu được
thực hiện, y sẽ thu thêm lợi cho quỹ nhà nước thực dân hàng triệu đồng - và dĩ
nhiên là nhà băng Đông Dương lẫn những nhà băng lớn ở Pari, Thụy Sĩ cũng sẽ
không hẹp hòi gì mà không nhận thêm từ túi y những khoản tiền lớn bù đắp cho
những năm tháng lặn lộn vất vả ở một xứ sở xa xôi... Cút chủ trương thế này:
đem ruộng đất các làng xã chia đều cho nông dân, như vậy, mỗi dân đinh sẽ có
một vài chục mét vuông ruộng hay vài trăm mét vuông ruộng. Hạng thuế thân 1
đồng sẽ không còn nữa và chí ít mỗi dân đinh một năm sẽ phải nộp chính quyền là
2đ5 . Y không mất gì. Chính phủ Pháp và bộ máy cai trị thuộc địa giờ
đây cũng chẳng mất gì. Hơn thế, y sẽ phá vỡ được cả một tập quán lâu đời của
công xã nông thôn Việt Nam như một dấu hiệu đáng buồn của một xã hội thiếu văn
minh! Những người cố nông Việt Nam không mảnh đất cắm dùi từ bao đời nay đã
được một lối thoát bé nhỏ, trên những mảnh ruộng công mà họ gọi là ruộng
"quan điền” này, sau khi đã bị địa chủ bóc lột đến xơ xác. Dù sao, cầy cấy
trên mảnh ruộng công và tuân theo một hình thức luật lệ làng xã mà cả đến vua
chúa cũng phải tôn trọng, họ được cái vỏ khá vững chắc của một tập quán bảo vệ
phần nào. Sản phẩm họ làm ra trên mảnh đất ấy tuy không được "bát cơm đá
lớn quan tiền trao tay" như họ từng mong ước, nhưng cũng không đến nỗi để
họ phải dứt từng khúc ruột khi nhìn thấy chúng chảy như trút vào kho của bọn
địa chủ. Nếu ruộng công chia ra thì có khác gì một miếng mồi béo bở cho những
tên có "máu mặt” ở làng xã! Đến được tay người cày thì có lẽ chỉ còn xương
xẩu, rồi ngày một ngày hai cũng tuột khỏi tay những người đáng lẽ phải là chủ
nhân thực sự của ruộng đất, vì nợ nần thuế khóa. Trong lúc đó thì định mức thuế
thân mới sẽ rơi xuống đầu người dân nghèo như một định mệnh khủng khiếp...
Phải tưởng tượng được sự
hí hửng của viên giám đốc địa chính thì mới hiểu được sự điên khùng của y khi
đọc một bài báo đã công khai đập thẳng vào cái dã tâm khoác vỏ hào nhoáng mà y
chưa kịp đem ra thực hiện. Y căm tức cái thời kì dân chủ chó má làm cho những
tên cộng sản cũng dám ngang nhiên chửi bới một người có vai vế trong hàng quan
chức Pháp như hắn ở ngay cái đất thuộc địa này. Nhưng lịch sử nước Pháp là lịch
sử chuyên chế- y nghĩ như vậy và lập tức gọi têlêphôn thẳng về trụ sờ báo Đời
nay, lúc bấy giờ đương kim chủ bút là Trần Huy Liệu, một nhà báo đã nổi tiếng
từ Nam Kì tới Bắc Kì. Trịch thượng và lạnh lùng, Cút-xô cố giải cái giọng nói
chứa đầy tiếng sủa bên trong: "Thưa ngài chủ bút nhật báo Đời Nay, tôi là
một độc giả đã hân hạnh được đọc một tiểu luận tân văn của ngài đăng trên quý
báo, phê phán một chủ trương cấp tiến mà tác giả chủ trương đó là tôi,
vâng, là tôi- y nhấn mạnh- Với một thiện ý cao cả đối với đồng bào của
ngài, với một tinh thần khoa học tôi rất hoan nghênh lòng dũng cảm của ngài,
một kí giả trung thực. Tôi rất mong ngài đến gặp tôi tại văn phòng Tòa địa
chính Bắc Kì, vào lúc mười bốn giờ đúng chiều nay". Nhưng y cũng lập
tức được nghe một giọng nói bình thản và đượm vẻ khiêu khích từ bên kia dây
nói:
- Thưa ngài giám đốc địa
chính, nếu như ngài đã tự cho là một độc giả của báo, thì yêu cầu ngài hãy đến
tòa báo chúng tôi để thảo luận những vấn đề ngài còn thắc mắc. Vì điều kiện
thời gian, chúng tôi không thể đến gặp từng độc giả được. Mong ngài thứ lỗi.
Cút-xô cố giữ lịch sự:
- Tôi là một quan chức
Pháp, tôi không thể đến tòa báo của người cộng sản Việt Nam. Mời ông đến nhà
riêng của tôi vậy.
- Nếu một quan chức Pháp
như ông không thể đến chỗ những người cộng sản Việt Nam, thì tôi, một người
cộng sản lại không thể đến nhà một quan chức Pháp.
Cút-xô muốn bóp nát ống
nghe trong tay. Cơn giận dữ làm y tím mặt...
Vậy mà không ngờ bây giờ
kẻ thù riêng lại nằm gọn trong tay y. Con quỉ báo thù ngóc cổ đậy và phun phì
phì, đốt cháy lòng dạ y. Vớ vội cái ba- toong nạm bạc treo trên tường, Cút-xô
rảo cẳng bước tới nhà tù.
Trần Huy Liệu được gác
ngục gọi ra gặp công sứ. Ông đeo kính đen vì đau mắt, đi đôi guốc mộc cao lênh
khênh, chiếc áo tù màu cháo lòng: trang phục đó cộng với dáng gầy, nước da đen
của ông gây cho Cút-xô ngay từ đầu một cảm giác vừa khó chịu, vừa thất vọng.
Quên cả thói quen chào hỏi lịch sự, vừa nhìn thấy Trần Huy Liệu, y chống ba
toong gật gù:
- À thì ra đây là chủ bút
báo Đời Nay. Thế nào, ông lại ở đây à, sự đời lắm tình cờ thật.
Trần Huy Liệu ném vào mặt
tên công sứ:
- Vâng, tôi đây, chủ bút
báo Đời Nay.
Cút xô ngoáy ba toong và
cười khầy:
- Kể ra đời làm báo của
ông cũng nay đây mai đó nhỉ. Ít người được lịch lãm như ông. Tôi cũng phải ghen
với ông đấy, ông Trần Huy Liệu ạ- Y nhấn mạnh ba chữ Trần Huy Liệu.
- Tôi cũng vậy, thưa ngài
chánh sứ. Tôi cũng ghen tị với ngài bởi cho đến bây giờ ngài vẫn được lận đận
đến chốn này để đo đất cho riêng ngài. Ngài quả là người trung thành với nghề
nghiệp đấy- Trần Huy Liệu hơi nhếch mép.
- Ông Trần Huy Liệu, ông
không nên khiêu khích làm gì. Hiện giờ ông là khách của tôi.
- Ấy, đâu dám, ông
đến thăm tôi kia mà.
- Thôi được, tôi đến đây
để báo trước với ông rằng: tôi và ông còn món nợ với nhau cần thanh toán. Chắc
giờ ông vẫn sẵn sàng tiếp độc giả của ông chứ?
- Vâng, đó là điều chắc
chắn, thưa ngài chánh sứ. Tôi sẵn lòng hầu ngài, bất cứ lúc nào ngài muốn.
Một tia mỉa mai phóng ra
qua cặp kính đen. Trần Huy Liệu quay người bước vào buồng giam.
Sáng hôm sau, trong giờ
điểm danh, viên giám binh Pháp trại lính khố xanh lệnh cho đội Miên áp giải
chính trị phạm đeo số vuông Trần Huy Liệu tới trình diện công sứ. Đội Miên đến
trại giam, đưa giấy xuất tù của người chúa ngục cho người gác. Đây là lần thứ
hai đội Miên được giao công việc "ngoại thành”, coi kho quân trang. Do cần
cù chịu khó và ít mắc lỗi lầm, năm 1939 anh đã được thăng lên đội nhất... Anh
đi sau người tù nhỏ bé, mảnh khảnh, và tương phản với cái oai phong bệ vệ của
người đội là những ý nghĩ xao động thầm kín. Linh tính của một người thanh niên
dân tộc trót mặc bộ đồ khố xanh vẫn còn nhiều lương thiện giúp anh đoán được
những gì ghê gớm sẽ đổ xuống người tù này. Anh đã được nghe nhiều chuyện về
viên công sứ mới đổi lên. Sự khát máu cũng như những "chiến công” của y
người ta đồn đại như những truyền thuyết về ma quỉ. Người tù kia liệu có thể
chịu được nổi cuộc đối mặt này không? Lòng trắc ẩn pha chút xót xa tội nghiệp
cho người tù chợt dấy lên. Đội Miên đã từng đọc nhiều sách báo tiến bộ hồi Mặt
trận Dân chủ. Nhưng những đống sách báo ngồn ngộn chỉ làm cho cái đầu óc vốn là
học sinh tiểu học của anh thêm rối rắm bao vấn đề xa lạ và khó hiểu. Những biến
động lớn của thời cuộc chỉ đến với anh nơi rừng rú này quanh những trang báo
Đời Nay, Đông Pháp, Le Peuple (Dân chúng), Le Travail (Lao động), v.v, thông
qua một nhận thức chính trị mở hồ đã bị nhồi nhét bao quan điểm thực dân. Anh
cũng nghĩ về hai chữ cộng sản như mọi người vẫn nghĩ về những điều thời thượng
khác, có xen lẫn hoài nghi đối với sự bôi bác của bọn bồi bút hay ở miệng những
thượng cấp của anh. Và đây, người tù nằm trong tầm một qua thụi của anh kia là
một "chính trị phạm nguy hiểm" - có gì là đặc biệt? Đôi guốc mộc ngất
ngưởng, bộ quần ảo trắng ngả màu vàng đục, cái đầu tù cạm nham nhở, mảnh số tù
vuông nhức nhối đập thẳng vào mắt, tất cả mọi thứ đó trong hầu hết mọi trường
hợp đối với anh đều gợi lòng thương hại nhiều hơn là căm ghét hay bất cứ một thứ
tình cảm nào khác. Nhưng dội Miên không ngờ rằng chính người tù đi trước anh
vài bước lúc này lại là người sẽ cứu anh thoát khỏi cái vực thẳm mà anh đang
chớm chân tới, sẽ mãi mãi đi vào trong tâm khảm anh...
Tòa sứ được xây ngất
ngưởng trên mỏm đồi, cách nhà tù không xa. Càng gần tới tòa sứ, đội Miền càng
hồi hộp. Anh cũng không hiểu rõ mình chờ đợi cái gì- cơn thịnh nộ của tên công
sứ, số phận của người tù hay số phận của chính anh?
Phòng khách của công sứ
Cút-xô hiện ra. Một chiếc bàn dài phủ nỉ xanh xám ở giữa, các cạnh bàn được
đánh véc-ni tăm-pông bóng loáng. Cút-xô đứng tựa thành cửa sổ, y mặc chiếc áo
vét-tông trắng, quần dạ màu xám, thắt cà-vạt màu nước biển.
Đội Miên dập gót chào theo
đúng qui định:
- Thưa chánh sứ, tôi đội
Miên có mặt theo lệnh ngài.
Cút-xô vồn vã giơ cả hai
tay:
- Ô bông-giua
mơ-xi-ơ (3) Trần Huy Liệu! Mời ông vào và ngồi xuống đây- Y tự tay
kéo ghế và dường như để cho đối thủ không kịp trở tay trong sự ồn ào, y tiếp
thêm- Vậy là hôm nay chủ bút Đời Nay phải đến tòa sứ chúng tôi.
- Tôi là tù Trần Huy Liệu
đến gặp công sứ Sơn La- Trần Huy Liệu dằn từng tiếng.
- Ấy ông Trần! Ở đây chúng
ta xin xóa bỏ mọi ranh giới, mọi hằn thù. Tôi rất trọng những người có tài năng
và tâm huyết như ông. Nếu ông Ga-bô-ri lỗ mãng và bọn lính tráng có xúc phạm
đến ông, mong ông rộng lượng đối với họ. Họ là những người ít văn hóa. Có gì,
ông cứ đề nghị thẳng với tôi.
- Xin cảm ơn ông. Xưa nay
tôi vẫn ưa những người biết lẽ phải và công bằng. Vậy xin hỏi thẳng: ông cho
mời tôi đến đây để làm gì?
Trần Huy Liệu vốn là người
trầm tĩnh, nhưng ông đã thấy nóng ruột và muốn chấm dứt càng sớm càng tốt cái
trò đấu trí vô bổ sắp diễn ra.
Cút-xô xoa tay tự mãn:
- Hôm nay tôi với ông sẽ
tranh luận với nhau về bài báo của ông dạo nọ, đăng trên tờ báo của ông.
- Vâng, nếu như ông cho
phép nhà báoTrần Huy Liệu nói chuyện với độc giả Cút-xô...
Cút xô cười ha hả.
- Tôi vẫn nghe người ta
nói rằng ông là một chính khách khôn ngoan. Tiếng đồn quả không ngoa. Vâng, tôi
xin chiều ý ông. Tôi sẽ cởi áo công sứ để tiếp chuyện với ông.
Trong cử chỉ và giọng nói
của tên thực dân có một cái gì mềm mại uyển chuyển, nhún nhường. Cút-xô buông
mình trong những cảm giác của một con báo vồ được mồi, trước khi dự bữa tiệc
ngon lành phải đùa dỡn con vật khốn khổ sa vào tròng đến mệt lử mới thôi. Bằng
sự lọc lõi, ngạo mạn, bằng quyền lực, hiển nhiên là y có thể ngấu nghiến ngay
lập tức kẻ thù riêng, bất cứ lúc nào muốn. Khoái cảm dâng đầy lồng ngực, Cút-xô
cố kéo dài những giây phút đó. Y chắp tay đi đi lại lại trong phòng, nhấm nháp
những ý nghĩ sắp sửa tuôn ra, để bẻ gãy một tư tưởng, đè bẹp một tinh thần có
danh vọng trong hàng ngũ đối phương. Y chẳng cần ước lượng sức nặng của những
điều sẽ nói. Thậm chí Cút-xô thấy rằng đây là lúc chứng tỏ cho mọi người- và
cho chính bản thân y nữa- rằng y không phải là một kẻ keo kiệt những tình cảm
chân thành. Vì thế, y nói rất du dương, bóng bẩy, như bộc bạch tâm sự:
- Ông thấy đấy, ông Trần
ạ, tôi là một người yêu đời và lo đời thái quá, đến nỗi mọi người phải hiểu lầm
tôi.
- Riêng tôi thì không hiểu
lầm ông chút nào cả!
Trần Huy Liệu cắt ngang.
Nhưng cảm xúc của Cút-xô không hề giảm bớt.
- Sao, ông Trần, đúng dạo
đó ông đã hiểu lầm tôi rồi đấy. Tôi xin nói để ông rõ: bây giờ tôi cũng là một
người cộng sản Pháp, tôi vốn yêu thích những tư tưởng cộng sản- Y xòe hai bàn
tay chuối mắn và lông lá ra như để phân trần- ông là một người cộng sản Việt
Nam. Chúng ta cùng là cộng sản.
Cút-xô đã nhiều lần vung
ba-toong tới khắp các khu trại giam để thuyết phục anh em tù chính trị tin
rằng y là một người cộng sản, và làm điều đó một cách đầy cảm hứng y
hệt lúc chứng minh cho người tù rằng: ăn ớt cay có thể chống lại bệnh sốt rét
và cho một nắm ớt vào mồm nhai nhồm nhoàm... Trần Huy Liệu đập bàn đứng dậy,
quắc mắt:
- Ông là một chính khách
thực dân! Ông đừng bôi nhọ những người cộng sản Pháp. Ông không có một tư cách
nào để tự nhận đứng trong hàng ngũ của họ!
- Ấy, ngồi xuống ông Trần.
Đừng nóng, đừng nóng vội ông- Cút-xô có thói quen ấn người khác đang nóng ngồi
xuống bằng sự nhã nhặn đặc biệt của y. Nhờ vậy, một người đã đang nóng tới đâu
khi ngồi xuống, mọi ngọn lửa giận dữ sẽ có cơ bị dập tắt- Tôi cần khẳng định
với ông một điều rằng: Tôi là một người cộng sản. Người cộng sản Tây Âu chúng
tôi có những điều khác với các ông. Dĩ nhiên. Nhưng tôi đã từng nghiên cứu Mác.
Vì thế chủ trương cải cách của tôi trên đất nước này là phù hợp với tiến trình
lịch sử. Ông nghĩ lại mà xem?
Trần Huy Liệu nhìn y, cái nhìn
đầy khinh bỉ.
- Tôi cũng phải bật cười,
ngài chánh sứ ạ. Không hiểu ông đã có những ý nghĩ kì quặc đó từ bao giờ. Chắc
ông còn cho rằng ông là một người cộng sản lập dị và đã mang cái nhãn cộng sản
dán lên lá cờ ba sọc của nước Pháp thực dân, vì đã "hạ cố" đi theo
một đội quân viễn chinh xâm lược thuộc địa?
- Sự đời nhiều khi lạ lùng
và trái ngược thế đấy. Nhưng dù ở cương vị nào, tôi cũng không quên mình
là một người cộng sản.
- Này ông Cút-xô, ông
tưởng rằng thuyết phục được chúng tôi một điều hết sức ngây ngô như vậy, ông sẽ
bắt chúng tôi phải qụi lụy, xin xỏ ông? Xin thưa với ông, điều đó đối lập với
cái mà ông gọi là tư tưởng cộng sản!
- Xin lỗi ông Trần. Tôi
thấy những bậc tiền bối của ông sáng suốt hơn ông nhiều, khi họ đã nêu cao ý
chí đề huề Pháp- Việt. Huống chi, tôi với ông lại là những đồng chí không may
mắn của nhau.
Một thoáng giễu cợt trên
cặp mắt nhăn nheo hơi nhíu lại của tên công sứ quỉ quyệt.
- Ông không có quyền xúc
phạm đến cả những sai lầm của họ. Các ông, ngay cả đến thống chế Pháp nữa cũng
không xứng đáng nói về những bậc tiền bối của chúng tôi!
Tên thực dân đã động đến
phần sâu thẳm nhất trong lòng Trần Huy Liệu. Ông xuất thân từ một gia đình nho
học. Cụ tú Trần Huy Trình, thân sinh ra ông là một nhà nho "bất đắc chí”
đã để nhiều thời gian dạy ông chữ Hán. Và cũng giống như cụ tú thân sinh, nuôi
chí hướng trong mớ giáo lí Khổng - Mạnh, ông cũng không quên được cái thân phận
nhục nhã của một người dân mất nước. Trong trái tim ông từ thuở tóc trái đào đã
mang dòng máu của thủ khoa Huân, Nguyễn Cao, Nguyễn Quang Bích... Đã mấy thế hệ
rồi, những người Việt nối tiếp nhau làm cho đội quân xâm lược Pháp chưa một
phút nào yên trên mảnh đất này. Cách mạng Việt Nam từ thời kỳ cận đại chuyển
sang thời kỳ hiện đại, cho tới hôm nay đã trải qua những chặng đường đầy máu và
lửa. Bản thân ông cũng đã bị lưu đầy hết khám lớn Sài Gòn tới Côn Lôn; và ông
đã từ một người Hán học, một nhà nho đọc "Tân thư” trở thành một chiến sĩ
cách mạng dày dạn. Những năm tháng hoạt động và tù đầy đã in lên vầng trán của
ông. Để đối địch với một kẻ ghê gớm như Cút-xô, ngoài sự từng trải lão
luyện của một cán bộ cách mạng, ông còn có cái khí tiết của các bậc chí sĩ và
nho tướng thuở nào. Trần Huy Liệu rất hiểu ưu thế của mình so với tên quan lại
cai trị thuộc địa đang dương đương tự đắc kia. Những cao trào cách mạng
ngày một rộng lớn khắp ba kì, mặt trận chống Phát xít đã hình thành trên phạm
vi toàn thế giới. Còn đế quốc Pháp đã lao đầu vào vòng chiến như một con thiêu
thân để hòng duy trì địa vị và quyền lợi của một kẻ đã từng làm mưa làm gió ở
những thuộc địa vùng Viễn Đông, châu Phi. Nhưng liệu chính phủ quân phiệt độc
tài Pê-tanh (Pétain) và đội quân đánh thuê có được nổi một phần mười dũng khí
cần thiết của nhà binh trước uy lực của bọn Đức quốc xã và bọn phát xít Phù
tang? Trần Huy Liệu cười khẩy... Bấy lâu nay, Trần Huy Liệu có dịp nghiền ngẫm
về những sự kiện lịch sử trong và ngoài nước. Ông yêu khoa học lịch sử lắm và
dự định khi nào được thanh thản sẽ đi sâu vào nghiên cứu lịch sử một cách có hệ
thống. Với năng khiếu tiềm tàng của một sử gia, ông có thể dễ dàng nhìn thấy
cách mạng Việt Nam đang bước vào con đường lớn của lịch sử trong sức mạnh không
gì ngăn cản nổi… Trần Huy Liệu hơi nghiêng mắt nhìn tới người đội khố xanh đang
đứng ở một góc nhà, như ước lượng sức tác động của những điều minh sắp nói. Ít
ra ở đây ông cũng có thể tranh thủ thêm được một người bạn đồng minh. Cần hạ uy
thế của Cút-xô trước mặt hạ cấp của y. Chất hùng biện trong con người diễn giả
và nhà báo của ông đã trỗi dậy. Trần Huy Liệu nhìn thẳng vào viên công sứ đang
tái mặt đi vì bị xúc phạm. Ông không thể kìm lòng được nữa.
- Các ông là những kẻ hậu
sinh đáng hổ thẹn của những người Pháp đáng kính thế kỷ trước. Các ông đi
"bảo hộ” thuộc địa, nhưng các ông đã làm những gì để giữ gìn thanh danh
của nước Pháp? Ông tự cho mình là một người cộng sản, thật là một sự ngộ
nhận kì quặc, nếu không muốn nói là một ảo tưởng điên rồ. Không! Vì sự trong
sáng của những người cộng sản thực sự, chúng tôi còn nhìn thấy điều còn lố bịch
đáng ghê tởm hơn thế: ông đang lừa bịp mọi người. Phải, đều là một sự lừa bịp
trắng trợn, cái "mác" cộng sản lẫn cải cách điền địa!
Cút-xô cười nhạt.
- Ông Trần Huy Liệu, tôi
cho mời ông đến để cốt được tâm sự với một trí thức có tên tuổi. Ông không nên
mạt sát một quan chức như vậy.
- Tiếc rằng ông
chưa được nói chuyện với những người nông dân một chữ bẻ đôi không biết vì
chính sách ngu dân của các ông, nhưng lại có thể dạy cả những người tự xưng đại
trí thức những điều về đạo lí, về công bằng và bác ái, về sự thật hiển nhiên.
- Ông bênh vực đồng bào
của ông là phải, và tôi tin rằng công cuộc cải cách của tôi sẽ mang lại cơm áo
hạnh phúc cho hàng triệu người dân thuộc địa. Lẽ nào một người uyên thâm như
ông lại không hiểu tình cảm của những người nông dân đối với ruộng đất dù ở
vùng Xanh Giéc-manh hay ở xứ Bắc Kỳ, đâu cũng vậy?
Giọng Trần Huy Liệu bỗng
chứa đầy sự mỉa mai, giễu cợt, ông từ tốn nói như người ta vẫn dạy trẻ con vậy.
- Chắc một người thông
thạo Á Đông như ngài cũng đã biết câu chuyện Thư Công nước Tống nuôi khỉ? Một
lần Thư Công muốn hạn chế lương ăn của bọn khỉ, ông mới hỏi những con vật đáng
thương thế này: bây giờ ta sẽ cho chúng bay ăn sáng bốn, chiều ba hạt dẻ, chúng
bay thấy sao? Bọn khỉ nhao nhao phản đối. Ông ta liền bảo: vậy ta cho chúng bay
ăn sáng ba, chiều bốn. Những con khỉ tội nghiệp liền reo lên mừng
rỡ... Thật bịp bợm! Nhưng ngay từ những phát ca-nông đầu tiên của chiến
hạm các ông nã vào cửa biển Đà Nẵng cho tới nay, người dân Nam Việt đã hiểu rõ
những "thiện ý” của một đạo quân xâm lược nhà nghề, chuyên bắn giết, đốt
phá và hãm hiếp...
Ngừng lại một chút để thở,
Trần Huy Liệu nói tiếp, mỗi lúc một tăng,, lòng căm giận và khỉnh bỉ đã tràn
ngập tâm hồn khảng khái của ông:
- Hãy mở to mắt ra mà
"chiêm ngưỡng” những "thành quả vĩ đại” mà người Pháp ở Đông Dương đã
gây ra đối với đất nước và nhân dân Việt nam, nếu ông còn chút lương tri của
một con người nó đã giúp ông tự dám cho mình có tư tưởng cộng sản! Ngay trên
đống tro tàn và xương máu do các đồng sự của ông và cả chính ông gây ra, ông
lại định xây dựng một tòa lâu đài bịp bợm chỉ có thể đánh lừa được những kẻ mê
ngủ và được sự thừa nhận của những kẻ đã cam tâm bán rẻ tổ quốc, cúi đầu làm nô
lệ?
Cút-xô đã bị kích động sâu
sắc. Y đập bàn:
- Trần Huy Liệu. Ông là
một người không biết điều! Ông phải nể uy tín và sự trân trọng của tôi với ông
chứ?
- Xin lỗi, nếu điều đó làm
ông không hài lòng- Trần Huy Liệu cố tình nói theo kiểu câu tiếng Pháp, ông
nghiêng đầu tỏ vẻ lịch sự nhạo báng- Nhưng nếu ông cần đến sự vuốt ve và chiều
chuộng những thói quen của ông bằng sự uốn gối bợ đỡ, thì ông không nên cho gọi
tôi đến đây.
Cút-xô lại đập bàn. Y
giống như một viên chánh án thiếu công minh, phải liên tục tuyên bố lời bác bỏ
một cách tuyệt vọng và khổ sở khi người ở vành móng ngựa đang chất vấn lại nhân
chứng ép uổng.
Trần Huy Liệu cũng đập bàn
trả lại, kiêu hãnh. Dự kiến của Cút-xô hầu như sụp đổ hoàn toàn. Y lồng lộn.
Nhưng biết làm thế nào được! Sự đắc thắng một lần nữa của kẻ thù riêng mà y
chôn chặt nỗi uất hận trong lòng thật là hiển nhiên, nhưng cũng thật là vô
hình, trước bạo lực của y. Còn sự bất lực của y thì trương phình ra trong một
bộ não mệt mỏi, cay cú và điên loạn. Nhưng không thể để kéo dài tình trạng
thanh danh của một viên công sứ mới đưa ra bị báng bổ nhiều hơn nữa; không thể
kéo dài một sự tự công nhận bi đát lâu hơn nữa. Cút-xô dưa ngón tay trỏ dứ dứ
vào Trần Huy Liệu, tưởng chừng hiệu lực của sự đe dọa này phụ thuộc vào tốc độ
di động của ngón tay thô bỉ. Một tràng tiếng Pháp như bị nén lại sau cả tiếng
đồng hồ mới chọn được thời cơ để xổ ra một cách chối tai.
- Păng-xê-vu, Trần Huy
Liệu, vu-dết-ong pơ-ri-zon-ni-ê ! (4)
Không hiểu có phải ngài
chánh sứ muốn thông qua một thứ ngôn ngữ nào đó để diễn đạt tất cả sự xúc động
nội tâm lẫn khuynh hướng của tình thế một cách tế nhị hơn, bớt trơ trẽn đi? Dù
sao chăng nữa, ngài vẫn đủ tỉnh táo để nhớ rằng tiếng mẹ đẻ có thể làm tốt nhất
công việc nhiều thiện ý này đối với một địch thủ "bản xứ". Như vậy
vẫn là đáng qúi hơn cái ngôn ngữ bằng quả đấm quả đá, ít nhất trong lúc này,
giữa căn phòng khách sang trọng. Và oái oăm thay, viên công sứ đã vô tình lột
tả được cái định mệnh của nhà sử học đối phương!
- Thôi được- Trần Huy Liệu
ngán ngầm xua tay. Tuy vốn tiếng Pháp còn ít ỏi và giống như tất cả những người
tự học ngoại ngữ, ông không quen nói, quen nghe tiếng Pháp, nhưng cũng hiểu hết
nội dung những lời lẽ vừa thốt ra từ miệng quan công sứ, cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng- ông đã muốn "lấy thịt đè người” thì đành chịu. Theo tôi được biết
thì những người Pháp chân chính biết cách cư xử hơn ông nhiều.
Trong đời, chưa bao giờ
Cút bị người nào lăng nhục đến thế, tệ hại hơn lại là một người tù sinh
mệnh nằm trong tay y. Cút gầm lên:
- Mẹc!...
Y ghìm ngay được câu chửi
tục tĩu chưa xổ hết vì chợt nhớ ra y là một viên công sứ có học cao.
Trần Huy Liệu từ tốn đứng
dậy, không thèm nhìn đối thủ vừa bị ông "điểm huyệt” lần nữa. Ông quay đi,
bước ra cửa, qua mặt người đội áp giải đang đứng ngây ra như tượng.
Người lính khố xanh đeo
lon đội nhất sau khi đặt chân trên con đường rải sỏi theo người tù về trại giam
vẫn không tin được sự việc vừa xảy ra là đúng như thế. Anh giống như một kẻ vừa
bị ném từ trên mây xuống, bỡ ngỡ và lạ lùng, có chút sợ hãi mơ hồ.
Từ đầu cuộc đối thoại đến
giờ, anh đã không thể tự chủ được cảm giác của mình. Anh bị dẫn dắt từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác. Trong cuộc đời chỉ biết tuân theo những qui định
ngặt nghèo của binh lính, những mệnh lệnh quái gở và tàn nhẫn của bọn sĩ quan
võ biền Pháp, đội Miên đã dần bị thít chặt ý thức phản kháng. Một ngôi nhà sàn,
một người vợ và hai đứa con, những đồng lương mỗi kỳ tút-xê, một tâm hồn hay mơ
mộng kết hợp chất thị vị của núi rừng và những khúc tình ca Thái với màn sương
lãng mạn của "Tự lực văn đoàn”, "Tiểu thuyết thứ bảy”... tất cả những
cái đó đã vô tình buộc anh vào một sự cam phận hầu như tuyệt đối. Nhưng tại sao
anh lại cảm thấy nhoi nhói trên đỉnh đầu, bệnh đau đầu từ sáu năm trước đến bây
giờ lại trở về hành hạ anh. Đội Miên nhớ lại rõ mồn một... Dạo đó, anh mới đăng
lính. Tên giám binh tên là Đơ Noay-ăng được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ Sơn La.
Miên cùng một số người nữa phải đi theo hắn phục dịch. Anh thường phải mang
theo ghế, bàn con, hộp dụng cụ cho hắn. Một hôm đi đo, đang ngắm thước thợ, anh
nghe thấy tiếng mấy cô gái Thái đi qua trêu chọc nhau. Vốn tuổi trẻ, anh hơi
quay ngang liếc trộm họ. Nhưng không may dây dọi bị lệch. Thế là một trận mưa
nắm đấm giáng xuống đầu; anh chỉ biết đau ba bốn quả đầu tiên, sau đó bị tê đi
như một cái bị thịt vô tri vô giác. Sau trận đòn ấy, Miên bị nhức buốt tận đỉnh
đầu trong suốt mấy năm liền những khi trái gió trở trời. Một lần khác, Miên
mang hộp dụng cụ cho hắn, sơ ý để rơi cây bút chì vót nhọn khi đi qua một cái rãnh.
Anh nhặt lên mà không xem lại, cho ngay vào hộp. Thằng Pháp này thực sự là một
kẻ dã man tới mức điên rồ: Hắn nhìn cây bút chì gẫy đầu kẹp trong hai ngón tay
múp míp, đôi mắt tròn xoe vì tức tối, hắn xòe cả bàn tay lông lá to sụ ra chộp
một cái khủng khiếp vào bộ ngực anh lính khố xanh - chỗ mà hắn quen làm như vậy
đối với đàn bà con gái "bản xứ” (Ngực Miên sau đó tím bầm đến ba tháng
trời). Miên liền chạy xuống vườn rau nhà tù ngồi một xó khóc tấm tức. Một người
tù số vuông làm rau gần đó bèn buông cuốc, đến gần anh và ân cần hỏi han. Lúc
đó, sự sợ hãi và nỗi đau đớn thể xác của anh dần được thay thế bằng một cảm
giác nhục nhã.
Giờ này đội Miên lại cảm
thấy nhoi nhói cái cảm giác ấy ở đâu đó trong lòng anh. Anh thấy xót xa cho
chính mình, và hầu như tất cả lòng thương hại cho người tù lúc sớm đã dồn
trở về cho anh. Một giọt nước mắt to bất chợt hiện ra trên khóe mắt đục mờ. Và
chính khi đó, một nỗi xúc động ấm áp dâng lên chầm chậm giữa ngổn ngang bao tâm
trạng của đội Miên. Sao anh lại trở nên đa cảm thế này. Người tù đáng kính kia
nếu quay lại nhìn thấy thì thật chẳng hay ho gì. Miên lén đưa ống tay áo có
thêu kim tuyến lên quệt vội giọt nước mắt cứ chực lăn ra để vỡ òa giữa tim
anh...
Giây phút đó mau chóng qua
đi như một con mưa rừng đầu hạ. Giờ đây đội Miên bình thản hơn để ngắm nhìn
người tù với một thái độ trân trọng, vì nể- cái vì nể gần giống như đối với tên
giám binh Mi-la-ni lúc hắn khoe đã từng đấu đá và kiện cả công sứ Hải Dương tận
phủ thống sứ Bắc Kỳ, nhưng lại không xen một chút sợ sệt cố hữu của một người
lính đối với thượng cấp. Và lòng trân trọng vì nể đó cứ toát ra một niềm vui
trìu mến kì lạ, quấn quít quanh chiếc áo tù sạch sẽ, trắng mộc mạc- như một cái
gì thật gần gũi và cũng thật cao cả.
Trần Huy Liệu bước xuống
ca-sô và đi tới cửa xà- lim dành riêng cho ông. Người cai gác kéo chốt sắt ở
cửa nghe rờn rợn. Trần Huy Liệu quay lại. Dường thấy rõ cả đôi mắt ông đang
nheo cười sau cặp kính đen, trong bóng tôi hầm ngầm mờ ảo.
- Thế nào, ông đội, ông
thấy buổi gặp gỡ vừa rồi thế nào?- Đội Miên chưa kịp trả lời, ông đã hỏi tiếp-
ông không nói được nhiều tiếng Kinh à?
Đội Miên chỉ gật đầu lấy
lệ, ngượng nghịu. Người tù lập tức bị đẩy vào căn buồng giam tối mịt. Cánh cửa
gỗ nghiến nặng nề sập lại. Khóa sắt loảng xoảng.
Khi đội Miên bước lên khỏi
hầm ngầm xà-lim, nắng tháng ba đã rọi trên đỉnh đầu. Mùa xuân miền Tây đang độ
chớm gió Lào, giữa xuân mà nắng gay gắt tựa mùa hè. Những dải núi trập trùng
đang tràn ngập trong một biển nắng lóa trước mặt cổng trại lớn. Nắng chói chang
như sắp làm bốc cháy cả những bức tường đá xám xịt và nham nhở rêu đen.
Nếu lúc đó đứng trên một
ngọn núi khác nhìn sang, cả khu nhà tù giống như một con quái vật khổng lồ đang
hấp hối nằm phủ phục giữa sa mạc lửa.
(Đạo diễn Điện ảnh)
----
(l)
Tên gọi chung của những người bộ lạc da đỏ ở châu Mỹ
(2)
Nhà dân tộc học người Ba Lan, đề xướng ra trường phái chức năng của dân tộc học
tư sản hết sức phản động.
(3)
Lời chào buổi sáng - ngài, ông
(4)
Trần Huy Liệu, anh hãy nên nhớ rằng anh là một tên tù!
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2- ngày 11/05/2015
Cập
nhật lại lần 1 ngày 10/09/2012
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 10/09/2012
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Một số
phận kỳ lạ - Truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Anh Tuấn (ĐDĐA)
Thứ
hai - 13/08/2012 20:54
Lời của
người biên tập: Tô Hiệu- người Bí thư Thành ủy đầu tiên của Hải Phòng, cùng với
những đồng chí của ông trong giai đoạn tiền Khởi Nghĩa đã bộc lộ những phẩm
chất tinh thần cao quý giữa hiểm nguy chết chóc, đã nêu cao tấm gương sáng chói
của "Tính kỷ luật cao độ, sự tôn trọng nhân dân, thái độ bất khuất cương
trực trước mọi kẻ quyền lực hống hách, lòng thương người và sự giúp đỡ mọi
người vô điều kiện, những bộ quần áo tàng được giặt giũ sạch sẽ và vá víu cẩn
thận, sự thông thạo và ngăn nắp trong mọi công việc lao động… tất cả những cái
đó đã được truyền tụng trong dân chúng như những truyền thuyết đẹp đẽ nhất của
họ, đã sưởi ấm và rọi sáng cho biết bao số phận u tối, bất hạnh…" (Truyện
"Một số phận kỳ lạ"). Vẻ đẹp Tâm hồn và Nhân cách của những nhà Cách
Mạng Tiền bối lại càng trở nên có ý nghĩa đặc biệt đối với hôm nay, khi mà bóng
đen hắc ám bao phủ vài khoảng trời của xã hội mới có khi lại xuất phát bởi
không ít người đang thay mặt Nhân Dân để "cầm cân nảy mực" xã hội...
Nhưng toàn thể Nhân dân & Cán bộ Thành phố Hải Phòng (còn được gọi là
"Thành Tô", Thành phố Tô Hiệu) - không vì một số kẻ Sâu Mọt trong
hàng ngũ công quyền mà mất đi niềm tự hào cao quý về những Người Con Chân Chính
của mình cả trước kia lẫn hiện tại! Xin được trân trọng giới thiệu thiên truyện
lịch sử viết về Tô Hiệu này- như một sự đóng góp nhỏ bé vào công cuộc chỉnh đốn
Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW IV đề ra!
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
(CÂY ĐÀO CỦA NGƯỜI TÙ ÁO SẠCH)
"Chợt một giấc mơ lạ lùng đến với anh: có nhiều người cầm dao dựa, dao
quắm đang mím môi mím lợi dang tay chặt cây đào của anh! Một dòng máu tươi vọt
ra cùng tiếng rên rỉ thương tâm làm anh lạnh toát người. Anh thét to lên một
tiếng, chạy lại gần, thì thấy trong số những kẻ đó, bên cạnh tên công sứ
Cút-xô, tên chúa ngục Ga-bô-ri, tên cai khố xanh, lạ chưa, có cả một vài người
đồng chí thân yêu của anh!..."
*
Thị xã Sơn La buồn tẻ lại
vào đêm. Trên ngọn đồi Khau Cả, khu nhà tù và khu trại lính khố xanh yên ắng
đến rùng rợn.
Mõ cầm canh ba tiếng đều
đặn, cứ mười lăm phút một, từ chòi canh này qua chòi canh khác theo lối dây
chuyền. Mõ ngắn, mõ dài, kẻng dài, kẻng ngắn. Âm thanh khác nhau, nhưng vẫn tạo
nên một sự đơn điệu tẻ ngắt. Thỉnh thoảng trên những đường rải sỏi ở bên trong
và bên ngoài khu nhà tù lại có tiếng giày đinh lạo xạo. Đó là những người trực
tuần do trại lính khố xanh cử ra hay một người phó quản đi kiểm tra các chòi
canh (một loại lô cốt có lỗ châu mai), kho bạc, dinh thống sứ v.v. Họ xách đèn
bão đi bất thần. Liệu hồn những anh lính của một tốp canh nào đó ngủ gật. Mỗi
ngày có vài ba tốp canh, mỗi tốp khoảng mười hai người trở lên có một đội hay
cai đứng đầu, lúc sáu giờ tối thổi kèn tập hợp trước trại lính khố xanh để đi
đổi gác. Mỗi tốp canh như thế lại chia ra thành bốn nhóm nhỏ, mỗi nhóm ba người
thay phiên canh gác bốn lần trong một ngày tại các chòi canh. Tại những nơi
quan trọng, ngoài các chòi canh còn có đồn canh- ở đó đặt bàn giấy của gác-điêng.
Đêm nay, cũng như mọi đêm,
không có quy định trước về giờ giấc, bước chân của người đốc canh lại lạo xạo,
lạo xạo trên đường rải sỏi.
- Ách-tơ-la! Ki-vi? (Ai,
đứng lại)
Một người lính ở một chòi
canh kêu lên. Lập tức có tiếng trả lời cụt lủn:
- Rông! (Đội tuần)
Sau đó là những câu trao
đổi ngắn gọn về mật hiệu. Rồi bước chân đốc canh đi đến các chòi canh khác. Lại
những câu ngắn vang lên. Sau khi hết các chòi canh của khu nhà tù, đội trực
tuần lại quay về cổng lớn. Người lính canh ở cổng lớn quay về phía đồn canh nằm
trong nhà tù, gọi to:
- Sếp đơ pốt! Vơ-nê
rơ-con-net (sếp bốt, hãy đến tiếp nhận)
Chỉ một lát sau, có tiếng
mở khóa loảng xoảng: gác-điêng đã ra, đưa đội trực tuần vào ghi nhận trong sổ
kiểm tra về tình hình canh gác của tốp canh đêm đó.
Trong khu nhà tù có một
cái "cu-loa” (đường bao quanh) hẹp nằm giữa bức tường bao ngoài và những
khu trại giam bên trong. "Cu-loa” này cũng rải sỏi. Đôi khi, đội tuần tra
cũng đi một lượt khắp "cu-loa”.
Trong cái "cu-loa”
của những bước tuần tra đơn điệu ấy, ít ai chú ý đến một ngách riêng biệt, gần
chỗ ngoặt, ăn sâu vào tường bên trong của nhà tù. Đó là một cái buồng giam nhỏ
hình tam giác, sàn xi-măng, có một cửa sổ chấn song sắt hình bán nguyệt và cửa
ra vào bằng sắt. Nó tách biệt với tất cả các khu buồng, trại giam khác bởi một
bức tường xây bằng gạch và đá đồng thời cách biệt hẳn với bên ngoài qua một mét
đường "cu-loa” tiếp giáp với bức tường chắn bằng đá hộc vây quanh cả khu
nhà tù. Đây là nơi trước kia dùng để tạm xác chết tù nhân. Ngay cạnh buồng giam
đó là cửa sau của hai hố xí ăn vào bên trong. Và, một cây đào đang tuổi lớn mọc
từ kẽ nứt của chân tường, những cành lá non tơ của nó xòe ngang ngực một người
tầm thước. Những người tù mỗi sáng tập hợp điểm danh trước cổng doanh trại lớn
để đi làm cỏ-vê (công việc khổ sai nặng nhọc) nhìn sang trái, thấy cây đào lớn
từ bao giờ vẫn thường ngạc nhiên và thầm trao đổi với nhau về sự sống của nó.
Một cây đào mọc dưới chân tường đá, lại ở trên đường tuần hàng ngày của cai,
đội hay những người đốc canh thật không dễ dàng gì. Chỉ cần một sự ngứa mắt nào
đó là a-lê-hấp! cây đào sẽ đi tong. Nhưng điều đó cuối cùng cũng không thể xảy
ra. Khi có tên cai khố xanh ton hót lên Tòa Sứ tin tức giật gân này, anh em tù
chính trị được thông báo ngay lập tức. Và trước khi Công sứ kịp nổi giận, Ban
đối ngoại của Ủy ban hàng trại Chi bộ đã cử người đến Tòa Sứ tuyên bố cho y
biết: Nếu như tính mạng của cây đào không được đảm bảo, toàn bộ anh em sẽ đình
công- có nghĩa là tất cả những công việc nặng nhọc trong và ngoài nhà tù như xe
nước, làm gạch, chăm vườn rau, giặt giũ cho gia đình công sứ, dọn chuồng ngựa,
v.v, sẽ bị ngừng trệ vô thời hạn. Sau đó không thấy động tĩnh gì cả. Hình như
rồi cả tên cai xấu bụng kia cũng nhắm mắt làm ngơ, hay quen với sự có mặt của
cây đào. Một cây đào mọc ở đấy thì có ảnh hưởng gì đến lối đi, đến sự an toàn
của bức tường kiên cố? Hơn nữa, trong số lính khố xanh có những kẻ mê tín rỉ
tai nhau: cây đào này hình như là hiện thân của một vị thần rừng nào đó, chớ
nên động vào!
Cây đào cứ thế lớn dần,
vững chãi, với tất cả bản tính tự nhiên và vẻ đẹp mà rừng núi đã ban cho nó.
Nhưng đúng cái lúc cây đào bước vào thời kỳ sung sức, người sống gần gũi nhất
với nó lại lâm vào một cảnh ngộ hoàn toàn trái ngược. Trong gian tối hình tam
giác, người Bí thư chi bộ trẻ tuổi đã yếu lắm rồi. Anh không còn đủ sức lê ra
tới cây đào. Những trận ho đột ngột và dữ dội kéo dài như ném quật cái thân
hình còm cõi của anh xuống sàn xi-măng rắn lạnh. Tiếng thở của anh giống như
tiếng kéo bễ, có lúc lại giống tiếng thổi qua một ống sắt tây dài hun hút hay
tiếng những mảnh vụn kim loại nghe rờn rợn khi xóc lên trong một cái bình thủy
tinh. Anh thở hết sức khó nhọc, dường như trái đất này đang thiếu dưỡng khí một
cách trầm trọng. Nhưng đôi mắt của anh muốn nói rằng xung quanh anh đang tràn
đầy ánh sáng, và như vậy có nghĩa thực ra dường khí không phải là hiếm hoi! Mỗi
lần nhìn ánh mắt Tô Hiệu muốn nói điều đó, những người tù đeo số
vuông 1 ngồi bên anh đều thấy lòng quặn thắt. Những ngày Tô Hiệu lên
cơn sốt nặng và ho ra những tia máu, ai cũng muốn tới chăm sóc anh, chi bộ CS
nhà tù phải ra nghị quyết về chế độ luân phiên đến với Tô Hiệu. Mới đầu Tô Hiệu
cương quyết không đồng ý bất kỳ ai trông nom anh, hay ngồi bên anh quá lâu. Nhưng
điều đó đã thành quyết định của chi ủy, Tô Hiệu mới đành chịu. Mọi người đều
cảm thấy rõ rệt những ngày cuối cùng của bạn tù đã tới… Nhưng không ai nói ra
và cố gắng xua đuổi ý nghĩ khủng khiếp đó ra khỏi tâm trí mình. Còn nước còn
tát. Những cặp mắt thâm quầng ngơ ngác vì lo âu, vì thiếu ngủ. Số lương thực dự
trữ và số thuốc dự trữ quý nhất trong "Quỹ cứu tế” của chi bộ được đem ra
cho người ốm sử dụng. Không còn một chút bóng dáng của sự ngại ngùng, e sợ. Sự
sống của Tô Hiệu lúc này là trên hết. Quý giá biết bao một giấc ngủ tạm yên,
một hơi thở nhẹ nhàng của Tô Hiệu. Những cặp mắt ghé nhìn vào và những tiếng
thở dài nhè nhẹ an tâm. Những yêu sách về sức khỏe người tù đặc biệt này được
liên tiếp gửi đến tòa Sứ. Có lần một y tá dân tộc đến khám và tiêm cho Tô Hiệu
vài ống thuộc rẻ tiền. Người y tá cũng phải lắc đầu buồn bã. Một người tù
"đặc biệt nguy hiểm” ở giữa rừng rú mịt mùng này lấy đâu ra những loại
thuốc đặc hiệu mà y học lúc đó cần đến để có thể trị được cái bệnh được liệt
vào một trong "tứ chứng nan y”- thứ bệnh được mệnh danh một cách ghê sợ là
bệnh "cô lập” (Isolé) với mọi người! Siêu vi trùng Kốc (tên một nhà khoa
học đã phát hiện ra vi trùng lao) đang hoành hành trên cơ thể thư sinh của Tô
Hiệu. Nhìn vẻ đăm chiêu và cái lắc đầu chậm rãi của người y tá, những người tù
đứng quanh nhìn nhau lòng tê tái.
Giờ đây Tô Hiệu không còn
làm bí thư chi bộ nữa, bệnh của anh đã quá nặng, khi ra khỏi buồng giam thường
phải có hai người dìu hai vai. Nhưng đã từ lâu, mọi người vẫn quen coi Tô Hiệu
như linh hồn của các cuộc đấu tranh chính trị trong và ngoài tù. Những buổi hội
ý, trao đổi với chi ủy vẫn diễn ra trong căn buồng giam riêng biệt. Những tài
liệu quý báu vẫn được viết ra và giấu ở một nơi kẻ thù không sao ngờ tới.
Những tiếng mõ cầm canh
lại vang lên đơn điệu. Bóng tối chụp lên những chòi canh nhô cao khỏi dãy tường
đá, trông đen trùi trũi. Người ta dễ có cảm tưởng khung cảnh đó giống một tòa
lâu đài của một lãnh chúa thời Trung cổ Châu Âu. Một đôi chim từ quy kiên nhẫn
khắc khoải, tiếng kêu của nó như rơi vào một nơi xa vắng mênh mông - đại dương
của sự im lặng. Có điều, sự im lặng đó là sự im lặng trước một cơn giông lớn
đang tới gần. Một không khí ngột ngạt bao trùm lên tất cả. Những ngọn đèn đường
vốn tù mù lại bị khoác thêm những cái chụp phòng không. Cái thị xã nhỏ bé của
cảnh tù đày lại càng thêm ảm đạm…
*
Một buổi sáng Tô Hiệu gắng
gượng ngồi dậy. Anh lê ra khỏi khung cửa sắt buồng giam đã gỉ loang lổ. Lúc
này, mặt trời còn nằm ở bên dưới tường phía ngoài, nên toàn bộ vẫn còn là bóng
râm mát lạnh. Sương mù vẫn chưa tan hết. Những người tù đã đi làm cỏ-vê cả. Các
khu trại giam vắng lặng. Chỉ có tiếng chim rừng lảnh lót và tiếng mõ trâu lốc
cốc ven đồi vẳng lại. Tô Hiệu ngồi trên đường rải sỏi. Anh ngước mắt nhìn cây
đào. Nó đã cao được gần một phần ba bức tường ngoài có gắn mảnh chai và chằng
chịt dây điện trần. Lớp vỏ cây sần sùi đã hình thành, bao quanh thân hình mỏng
mảnh làm nên vẻ cứng cáp. Tô Hiệu vừa ốm dậy, người anh mỏng dính, tiều tụy.
Duy còn đôi mắt là vẫn sáng một cách lạ lùng, vẫn linh hoạt đón nhận những màu
sắc của bên ngoài. Mấy tháng ròng, người dán chặt xuống sàn xi-măng, giờ anh
mới lại được thấy cây đào. Nó thay đổi nhanh chóng quá! Sự khắc khổ đã hiện
hình, len lỏi đằng sau màu xanh non của lá và màu hồng phơn phớt của hoa. Lần
đầu tiên cây đào ra hoa! Tô Hiệu lặng người. Cây đào đã ra hoa! Cái điều đơn
giản ấy cứ thầm thì bên tai anh. Tô Hiệu không thể chạy đến cây đào, nâng niu
từng cánh hoa đầu mùa và hôn lên cái sắc hồng thoáng dịu của nó. Anh chỉ biết
ngồi đúng cái vị trí mà từ đó, ánh mắt đầu tiên của anh bắt gặp cây đào nở hoa.
Nhìn khuôn mặt hiền hiền hơi ngây ra vì sung sướng và ngạc nhiên lúc ấy, ai có
thể nghĩ rằng con người đó vừa trải qua những cuộc vật lộn với thần chết, với
những ngày tháng giá lạnh của mùa đông Tây Bắc!
Nắng đã tràn ngập đường
"cu-loa”. Cây đào được tắm trong nắng sớm và dường như cũng tự tỏa một thứ
ánh sáng lung linh nào đó của riêng mình. Nó làm cho màu đá xám xung quanh bớt
đi cái nhức mắt quen thuộc. Thế là, màu hoa đàu đơn sơ, nguyên thủy lần đầu
tiên xuất hiện trong cái nhà tù nổi tiếng được dựng lên từ năm 1908. Tô Hiệu
không làm thơ bao giờ, anh thuộc về những người ưa trào phúng và thiên về lý lẽ
hơn cảm xúc trữ tình, nhưng giây phút đó, anh lâng lâng trong một trạng thái
tinh thần đặc biệt. Tâm trí đầy hứng khởi dẫn anh quay về những năm tháng chưa
xa…
Một buổi sáng tinh sương,
như thường lệ, tiếng kèn la-vầy (hiệu lệnh báo thức) dội lên từ phía trại lính
khố xanh, những người tù vội vàng chạy ra sân, trước cổng lớn nhà tù tập hợp để
đi làm cỏ-vê. Tiếng khóa xích cổng nhà tù kêu loảng xoảng. Ở ngoài cổng lớn có
tiếng hô tập hợp của trại lính khố xanh. Những đội lính đi coi tù đã vào sân
nhà tù nhận tù đi làm. "Sếp” ngục Ga-bô-ri đọc danh sách tù. Một người tù
đại diện nói to:
- Ông "sếp” ngục, anh
em chũng tôi có ba người lên cơn sốt rét.
Ga-bô-ri xua tay:
- Đi làm "tú”!
Đúng lúc đó, một người tù
bỗng ngã lăn ra. Mọi người đổ xô lại. Vài tiếng gọi: "Mạnh! Mạnh ơi!”
Một người tù giơ hai tay
lên, giọng thảm thiết:
- Trời! Mạnh… Nó đi đái ra
máu 2 hai hôm nay rồi!
Một người khác ngỡ ngàng:
- Hôm qua nó còn trèo cây
đào ngoài kia mang về một vạt áo đầy cho anh em mà!
Một người ghé sát vào ngực
người bạn tù nằm dưới đất, rồi lắc đầu, đứng lên, ngậm ngùi lau nước mắt. Mọi
người đứng yên lặng, cúi đầu bên xác bạn tù. Ga-bô-ri vung roi gân bò:
- A-lê! Chúng mày còn đứng
đây làm gì! Nó chết thì đưa ra nghĩa địa Gốc Ổi! Lính đâu, khiêng xác! Còn
chúng mày, đứa nào phận nấy!
Những người tù nặng nề lê
bước ra khỏi cổng nhà tù. Sân nhà tù trống không. Tô Hiệu lần từng bước trên
đường "cu-loa”, đến chỗ người tù vừa ngã xuống. Anh nhìn thấy quả đào cắn
dở lăn ra từ túi áo Mạnh. Anh nhặt lên và ngậm ngùi… Chốn này, hầu như chưa một
ai mắc bệnh sốt rét đái ra máu mà qua khỏi. Mạnh ơi, chắc mẹ và vợ cậu đang
mong cậu mỏi mắt đây. Ngày nào cậu cũng nhắc tới mẹ già… Quả đào anh nắm chặt
trong tay là đồ vật duy nhất Mạnh để lại cho cuộc đời…
Tên chúa ngục đã quay trở
lại, nhìn thấy Tô Hiệu, hắn sủa nhặng lên:
- Lại mày, trông thấy mày
tao ngứa mắt! Mày lê la khắp các xó xỉnh trong "cu-loa”. Nhưng liệu có ích
gì? Có kéo dài tuổi thọ cho mày, hoặc cho mày nghĩ âm mưu gì đó để lật đổ chúng
tao hở?- Hắn cười hô hố, nhưng chợt im bặt khi nhìn vào tay Tô Hiệu, hắn xông
tới giật quả đào trong tay người tù ốm yếu một cách quá dễ dàng- Cái gì thế
này, mày cầm cái gì, tài liệu mật trong này hả?... Ồ, rừng Sơn La có quả này
ngon đấy, lại nhiều, không phải mất tiền mua. Chỉ tội khắp khu đồi này chỉ có
mỗi cây ở vườn rau nhà Tòa Sứ. Này, thứ quả này chúng mày làm thế nào ăn được
ngon hơn, bổ hơn? Có nấu được rượu không, hả? Sao mày im lặng vậy, khinh tao
chắc- Chợt Ga-bô-ri lùi lại- Mày nhìn tao bằng con mắt căm hờn thế kia, hở tên "Thống
sứ đỏ”! Đã vào tay chúng tao thì chỉ nên ngoan ngoãn thôi, may ra còn giữ được
thân mà về với vợ con.
Tô Hiệu nhổ một bãi nước
bọt xuống đất, anh vẫn giữ nguyên cái nhìn làm tên chúa ngục quan hống hách
phải hoang mang. Hắn làm rơi quả đào cắn dở và như người bị thôi miên.
- Này, "sếp”
Ga-bô-ri! Tốt hơn cả, mày hãy về ngày với con vợ mày đi (Ga-bô-ri có cô vợ
người Việt), nó đang chửi ầm lên là mày đang làm nhục nước Pháp đấy; vì hôm
qua, cái việc mày ăn bẩn của tù chính trị hai ký gạo, cả tòa Sứ và trại lính
khố xanh cũng đều biết cả.
Tức
nổ mắt, Ga-bô-ri gào lên:
- Im mồm! Mày dám bôi nhọ
tao à!- Hắn giơ roi định quật xuống, nhưng nhìn ánh mắt của người tù hắn rụt
tay lại, rồi quay đi hậm hực, không quên giơ roi lên hoa tít- Liệu chừng!
Nhưng Tô Hiệu, không thèm
để ý đến lời đe dọa của Ga-bô-ri, chính lúc đó đã để lòng mình vào nỗi nhớ
thương u uất khôn cùng… Mạnh ơi, vĩnh biệt! Cậu yên nghỉ. Anh em chúng mình sẽ
tiếp tục cuộc đấu tranh. Chỉ thương cho cậu, mẹ già gần đất xa trời đang bấm
đốt tính từng ngày mong cậu trở về, vợ cậu một nách hai con không biết rồi sẽ
sống sao?... Mình sẽ tìm cách báo cáo với tổ chức đề nghị giúp đỡ gia đình cậu.
Mai sau, anh em sẽ đưa gia đình cậu trở lại nơi này, thăm mộ cậu. Yên lòng ra
đi, Mạnh ơi, cậu đã sống xứng đáng…
Sực nghĩ đến điều gì đó,
Tô Hiệu lần đến chân tường đá. Trên đường "cu-loa” này, anh thuộc từng dấu
vết nhỏ. Anh lúi húi bên một kẽ nứt chân tường, tìm cách cho quả đào cắn dở
xuống chỗ đó, bới đất dưới lớp sỏi dày và phủ kín quả đào. Từ hôm đó, hàng ngày
Tô Hiệu để giành ít nước trong chiếc ca nhỏ vừa dùng để uống, vừa dùng để rửa
ráy, tưới xuống phía dưới chân tường…
Hồi ấy, bệnh lao của anh
đã phát nặng. Nơi giam biệt lập của anh, những tên quan Tây không bao giờ tới. Chúng
gọi đấy là "Dinh thự của tên Thống sứ đỏ”, vì thế cả cái "cu-loa”,
đặc biệt là gần nửa "cu-loa” bên này chỉ có bước chân của người lính tuần
và Tô Hiệu. Anh được tự do đi lại trong toàn "cu-loa”, thỉnh thoảng cũng
được ra ngoài cổng lớn. Nhưng kẻ thù không thể ngờ được rằng con người mang cái
tử bệnh bị giam cô lập kia lại là người nắm toàn bộ những hoạt động bí mật của
nhà tù và trực tiếp điều khiển những hoạt động đó. Chính tại cái sàn xi-măng
hình tam giác, Tô Hiệu đã ngồi viết những dòng chữ li ti trên những mẩu giấy
báo, vỏ diêm, giấy nháp, giấy cuốn thuốc - đó là những tài liệu huấn luyện
chính trị. Những đêm không ngủ được vì bệnh tật dày vò cũng là những đêm thức
trắng gò lưng ngồi viết tài liệu dưới ánh sáng của một ngọn đèn leo lét (Dầu
thắp anh có được là nhờ một vài người lính khố xanh có cảm tình với tù số vuông
mua ở thị xã).
Và một ngày kia, điều kỳ
diệu tự nhiên đã xảy ra: từ hốc đá, một màu xanh đã nhô lên đón nắng và không
khí. Chiều chiều, lúc đi làm khổ sai trở về, anh em tù chính trị Cộng sản đến
thăm Tô Hiệu đều say sưa ngắm nghía cây đào nhỏ xíu đang vươn lên. Những người
lính khố xanh cũng trầm trồ khen cây đào đẹp và mau lớn. Mỗi buổi, hết giờ làm
khổ sai, những người tù rẽ thăm Tô Hiệu và cây đào có người mang cả một gói đất
trong túi áo đổ vun vào gốc cây:
- Đi làm vườn rau nhà tòa
Sứ, thấy đất tốt quá, lấy trộm về một ít đây. Cảm ơn quan chánh nhé! Ở đây toàn
đá với sỏi thôi
Rồi
mỗi người một câu vỗ về cây:
- Đào ơi, đào ơi, mày cố
mà sống nhé! Số mày thật vất vả, phải lớn lên ở một nơi khắc nghiệt thế này.
- Bao giờ nó ra hoa
nhỉ?
- Hai năm rồi còn gì. Có
lẽ phải sang năm. Thường là ba, bốn năm đào mới bói ra lứa quả đầu tiên.
- Mình nóng lòng muốn biết
hoa và quả của cái cây này nó ra sao.
- Cậu không nghĩ đến điều
này à: đã chắc gì mình con ở đây cho đến khi đào ra hoa, bói quả?
Khi mọi người đã tản đi
hết, người tù trẻ mang gói đất lúc nãy còn chần chừ, đứng nán lại bên cây đào.
Linh tính báo cho Tô Hiệu.
- Mình chú ý từ nãy tới
giờ cậu có điều gì khang khác?
Người tù trẻ không dám
nhìn thẳng vào Tô Hiệu, anh vịn tay vào gốc đào, nói như sắp khóc:
- Anh Tô ơi, em rất thương
và quý các anh… Nhất là đối với anh.
Tô Hiệu dịu dàng nói, anh
đoán lòng người bạn trẻ có điều uẩn khúc:
- Ừ, cậu thương mình thì
đi ăn cơm đi, chiều nay còn làm cỏ-vê chuồng ngựa kia mà. Cậu mệt hay sao?
- Không, anh cho em ở lại
một chút với anh, với cây đào…
Tô Hiệu cảnh giác
- Cậu định đi đâu? Tạm
biệt đấy à? Này tôi bảo thật, cậu đừng giở trò nhé! Định vượt ngục vô tổ chức
à? Anh em đang tổ chức vượt ngục có kế hoạch hẳn hoi. Cậu quên cái đầu anh Lý
treo trên cọc sắt cổng nhà tù à? Trời ơi!...
- Em không sao chịu được
nữa rồi! Em đã có kế hoạch chu đáo, không làm ảnh hưởng đến ai. Em xin anh, em
van anh. Em rất tin anh nên mới thổ lộ với anh. Anh đừng ngăn cản em, đừng nói
với em những lời đau lòng như thế…
Tô
Hiệu thấy cần phải cương quyết. Anh nhìn sát vào đôi mắt chàng trai:
- Cậu bị ảnh hưởng quá
nhiều tiểu thuyết lãng mạn, phiêu lưu mạo hiểm. Không được!
Người tù trẻ bật khóc rưng
rức lên cây đào.
Tô Hiệu lắc cái đầu ái
ngại, anh cảm thấy rõ rệt ở trong mình cái tình thương và trách nhiệm của người
anh.
- Cậu định một mình vượt
núi cao rừng thẳm, vượt bao lưới bủa vây bằng thứ nghị lực yếu hèn kia. Tôi
tưởng cậu phải lì lợm hơn đấy.
Người tù trẻ gạt ngước
mắt:
- Trước anh, em không thể
giấu được con người thật của mình. Em lì lợm sao nổi?
- Chính trong những lúc
này, chúng ta phải kết thành một khối thống nhất. Phải kiên nhẫn chứ!
Người tù trẻ nhìn Tô Hiệu,
chỉ nói được câu: "Anh nằm nghỉ đi, anh Tô”, rồi chạy đi.
Tô Hiệu nhớ lại một sự
kiện cũng trong năm ấy… Con gái của viên giám binh Len-nê tên là Mac-gơ-rit
(Margueritte ) học ở Hà Nội, vào dịp nghỉ hè lên Sơn La. Khi được vào nhà tù
(sau một thôi một hồi thuyết phục và giận dỗi ông bố) để xem những người tù
Cộng sản bản xứ có kinh khủng như những lời đồn đại hay không, điều làm cô bé
ngạc nhiên và thích thú hơn cả có lẽ là cây đào. Len-nê đã sai chúa đất tuần
phủ Cầm Ngọc Phương dẫn con gái vào thăm nhà tù. Mac-gơ-rit túm váy đi dò dẫm,
nhìn quanh, rồi dừng lại trước cây đào nhỏ.
- Ôi, gì thế này? Cây gì
vậy? Này ông tuần phủ, ông có biết cây gì đây không?
Tuần phủ cũng ngỡ ngàng nhìn cây đào một lát
- Thưa tiểu thư, nếu hạ
quan không lầm thì nó là một cây đào, tiếng dân tộc Thái gọi là co má cai.
Chúng mọc đầy ngoài kia.
- Từ ngày bước chân sang
xứ sở nhiệt đới này theo cha ta, cứ mỗi mùa xuân, ta lại được ban bè con quan
lại An-Nam tặng những cành đào tuyệt đẹp. Nhưng lần đầu tiên ta mới được nhìn
thấy cả một cây đào. Mà một cây đào mọc ở một nơi như thế nào chứ? Chao, đến
Vec-len 3 cũng không có được một tứ thơ như vậy!
Hai bàn tay trắng trẻo như
những cánh hoa hồng bạch của thiếu nữ châu Âu chắp lại, vặn vẹo theo nhún nhảy
cả thân hình kiều diễm trước cây đào non nớt được mọc lên một cách kỳ lạ.
Mac-gơ-rit xuýt xoa. Đôi mắt xanh lơ ngời lên niềm vui sướng, vừa ngây thơ, vừa
có gì hoang dã. Cô đã từng biết tời bầu trời xứ Náp-lơ, những đỉnh tuyết vùng
Ban-căng, và bây giờ là vùng sơn cước bí hiểm của Đông Nam Á… Chợt thấy một
người áo tù gầy gò, xanh xao ngồi bệt ở góc tường đang nhìn mình, Mac-gơ-rit sợ
hãi rú lên, nép người vào tên tuần phủ. Khuôn mặt choắt của lão dê già nhăn
lại:
- Tiểu thư kính mến, sao
vậy?- Hắn nhìn theo tay chỉ của Mac-gơ-rit - À, đây là tên "Thống sứ đỏ”
bị nhốt biệt lập bởi vi trùng Kốc và bởi những tư tưởng nguy hiểm đang đục rỗng
con người hắn.
- Phải, cha ta đã nói
trước rồi, thế mà ta vẫn cứ nghĩ là ma hiện hình. Này, mi là ai?
Câu hỏi trẻ con mang vẻ
trịch thượng rơi tõm vào im lặng. Cầm Ngọc Phương sấn đến, giọng sừng sộ:
- Đây là con gái yêu của
quan giám binh. Ít nhất mi cũng phải biết kính trọng phụ nữ Tây Âu đã hạ cố đến
thăm mi chứ! Đứng dậy!
"Bóng ma” lên tiếng:
- "An nha”! (một cách
gọi chúa đất Thái) Đề nghị ông đừng làm ầm ĩ lên như vậy, điều đó không phù hợp
với ông đâu, nhất là khi đi bên một người đẹp như thế này.
Mac-gơ-rit reo lên- bản
năng hồn hậu của người thiếu nữ trong cô ta chưa bị thói hợm hĩnh ngu xuẩn giết
chết:
- A, hắn đã cất tiếng nói
rồi! Mà không phải tay vừa đâu nhé. Ông tuần phủ thế là thua một keo rồi nhé!
Thôi, cảm ơn ông, ông có thể đi làm việc riêng của ông. Tôi muốn nói chuyện với
tên tù này- Thấy Cầm Ngọc Phương chần chừ, Mac-gơ-rit hét lên:
- Ông đi đi, tôi không cần
đến ông nữa!
Tên chúa đất hơi khom lưng
xuống.
- Thưa tiểu thư, mong tiểu
thư xin nhớ lời căn dặn của quan giám binh…
Mac-gơ-rit giẫm chân bành
bạch:
- Thôi đi, ta đã có quá
nhiều gia sư và bảo mẫu rồi. Ta cần được tự do!
Cầm Ngọc Phương đành quay
trở ra, không quên chỉ tay dọa người tù:
- Liệu hồn đấy, mi mà xúc
phạm đến tiểu thư thì sẽ mất xác!
Vừa khuất bóng tên tuần
phủ, Mac-gơ-rit đã nói bằng giọng mềm mại, trong vắt:
- Ông nói và nghe được
tiếng Pháp chứ?- Người tù gật đầu miễn cưỡng- Xin lỗi ông vì sự khiếm nhã vừa
rồi của tôi. Xin được hỏi ông: Cây đào này là do ông trồng?
- Vâng, do chúng tôi
trồng, bằng chính hạt của nó. Để giải trí thôi mà!
- Tôi rất vui sướng được
chiêm ngưỡng cây đào này của ông. Chắc là ông muốn tên tuổi lưu truyền hậu thế
bằng cây đào này?
Tô
Hiệu lắc đầu,
- Không phải. Xin lỗi, cô
đã tỏ ra thông minh không đúng chỗ. Chúng tôi làm điều đó chỉ vì nó cần và có
thể mọc được ở nơi này.
Mac-gơ-rit nhún gót đi
quanh cây đào, thản nhiên hỏi:
- Các ông sống ở đây thế
nào?
- Cảm ơn, cũng tàm tạm
đấy, nếu cái sàn xi-măng mà chúng tôi đang nằm được thay bằng nệm bông thì có
lẽ tốt hơn, và nếu mùa đông lạnh lẽo đến, mỗi chúng tôi được một chiếc áo ấm
thì cũng không đến nỗi nào. Dĩ nhiên là lòng tốt của những người gần gũi cô đối
với chúng tôi- nếu như quả là có thì cũng chỉ là ít ỏi, thông thường đó chỉ là
sự mua chuộc giả dối và đê tiện. Chúng tôi trong phần lớn trường hợp thường chỉ
trông vào bản thân mình.
- Thế cây đào của ông cũng
là một trong những trường hợp đó?
- À, cái này thì… không
đơn giản chỉ như vậy.
- Tôi hỏi thế này xin ông
tha lỗi: liệu những công việc mà ông làm sẽ được đồng bào của ông đánh giá thế
nào? Ví như cây đào này chẳng hạn?
- Thú thực là tôi chưa hề
nghĩ đến điều này
- Các ông tin rằng, các
ông sẽ chiến thắng?
Tô Hiệu nhìn về phía cây
đào. Anh mỉm cười và nghiêng mình tỏ vẻ lịch sự:
-
Cây đào này có thể có sức thuyết phục hơn những lời nói của tôi, thưa tiểu thư.
Mac-gơ-rit lắc đầu, vẻ
hoài nghi và ái ngại:
- Nhưng liệu ông có sống
nổi đến lúc ấy không?
- Điều đó đối với chúng
tôi lại không thành vấn đề. Con cháu chúng tôi sẽ đến thăm cây đào trong một
cảnh ngộ hoàn toàn khác chúng tôi hiện giờ. Chắc chắn vậy.
- Xin lỗi ông, ông đã lập
gia đình hay chưa? Ông có thể cho biết bà ấy làm gì, nếu ông vui lòng?
Tô Hiệu đã cảm thấy chối
trong cuộc đối thoại chẳng đâu vào đâu này; vả lại anh cũng đã thấm mệt. Nhưng
cứ thử xem con bé tinh quái này tuân lệnh bố nó, hoặc công sứ, chúa ngục, sẽ
giở những trò gì đây? Anh đã được nghe một người lính khố xanh kể qua về đứa
con gái này của viên thượng cấp "Trại gác bản xứ”. Những điều anh nói liệu
có lọt tai một đứa con gái đang sống trong sự xa hoa phè phỡn trên mồ hôi xương
máu của đồng bào anh? Một cảm giác hầu như ghê tởm dâng lên làm anh nghẹt thở.
Những ý nghĩ của anh chợt bùng ra:
- Cảm ơn cô đã hỏi về
chuyện riêng tư của tôi. Đây này, nếu tôi có vợ, thì người vợ của tôi sẽ là…
một trong rất nhiều người phụ nữ đau khổ vì những chính sách thực dân tàn bạo,
phải đứng dậy chống bọn xâm lược Pháp. Trong số kẻ thù không đội trời chung của
chúng tôi, có ông bố tốt bụng của cô đấy!
Tô Hiệu ôm ngực ho. Tuần
phủ và "sếp” ngục bước tới, chúng đã nghe được những lời vừa rồi.
- Thưa quan "sếp”
ngục, quả là không phải là tôi đặt điều đấy nhé!
Ga-bô-ri vung roi gân bò
quật người tù và rống lên:
- Này, đây là ngục Sơn La
này! Đồ khốn kiếp!
Mac-gơ-rit ôm mặt, kêu
lên:
- Thế này là thế nào?
Người tù này đang bệnh tật, ốm yếu. Ga-bô-ri, yêu cầu ông không được đụng đến
người ta. Tôi không hề bị xúc phạm, ông nghe rõ chứ!
Ga-bô-ri vẫn không ngừng
quật roi túi bụi, trút hận thù đã tích tụ từ lâu của hắn xuống thân hình tơi tả
của người tù. Tô Hiệu ngã dúi xuống, lại gượng đứng lên, rồi anh không đủ sức
đứng lên được nữa, chỉ ôm ngực quằn quại.
Ga-bô-ri vừa đánh vừa nói:
- Cần cho chúng những bài
học đích đáng, thưa tiểu thư.
Mac-gơ-rit chạy đến giằng
roi từ tay tên chúa ngục đang say máu.
- Tôi phản đối! Tôi sẽ kể
lại hành vi tàm bạo, bỉ ổi này của ông trên báo chí Hà Nội.
Tên đao phủ nhe cả hàm
răng cải mả ra cười khi có một người "phái đẹp” định tô điểm thêm cho cái
sức lực trâu bò của hắn.
- Ấy, thưa tiểu thư kính
mến, tiểu thư quá nóng nảy rồi. Không sao, lúc tiểu thư tỏ cơn giận dữ thì càng
đẹp mê hồn…
Mac-gơ-rit vênh mặt lên:
- Ông đừng giở giọng dân
hạ lưu xứ Cooc-xơ ra với tôi. Mời ông đi ra khỏi đây! Tôi sẽ kể lại chuyện này
với ngài công sứ.
Không hiểu do quyền lực
của người đẹp hay do uy phong của công sứ, tên chúa ngục khét tiếng hung bạo
trở nên khúm núm, nhã nhặn.
- Xin vâng lệnh tiểu thư.
Cũng mong tiểu thư sớm ra khỏi đây ngay- Hắn giơ roi về phía người tù- Cấm mày
không được nói chuyện với tiểu thư! Liệu cái thân xác mày!
Hắn khệnh khạng bước đi,
không quên quật roi túi bụi vào cây đào. Cành lá rụng tơi tả. Mac-gơ-rit giơ cả
hai tay ôm lấy mặt.
- Trời ơi! Tàn bạo! Tàn
bạo khủng khiếp. Tôi không sao chịu đựng nổi.
Cầm Ngọc Phương hốt hoảng:
- Chết, mong tiểu thư bình
tâm lại. Xin mời tiểu thư đi ra ngay cho.
Mac-gơ-rit nhìn tên quan bản xứ từ đầu đến
chân, vẻ khinh miệt ra mặt:
- Các ông là những con thú
chứ không phải là con người. Tại sao Thượng đế chưa trừng phạt những con quỷ
Sa- tăng trong con người các ông!
Lời
của Tô Hiệu bỗng nhẹ nhàng cất lên từ một góc chân tường đá:
- Thưa cô, chúng tôi rất
thông cảm với cô, không oán trách gì cô cả. Nhưng… cô đã sang đây theo chân
những tên lính viễn chinh xâu xé một đất nước bé nhỏ đáng thương. Và những hành
động tàn bạo của chúng cũng đang bảo vệ cho sự an toàn của cô trên mảnh đất này
đấy thôi!
Như bị một cái tát bất
ngờ, Mác-gơ-rít quay phắt lại nhìn trừng trừng, chỉ một lát sau mới nói được
như trong mê sảng:
- Trời, sao ông lại nói
những lời nhẫn tâm như vậy?
Tô Hiệu chua chát:
- Có gì lạ, họ còn nói
chúng tôi là khát máu, là cuồng tín, là những kẻ không gia đình, không quê
hương, không Tổ quốc nữa kia!
Mác-gơ-rít chợt nhớ lại
không sót một lời của bố trước khi cô vào đây: "Đó là một chốn nguy hiểm,
đáng lẽ con không được bén mảng đến… Nhưng con đã nhất quyết thì ta đành nhượng
bộ. Con phải cảnh giác nếu gặp một tên Cộng sản bị lao nặng, hắn đã từng làm Bí
thư Thành ủy Hải Phòng. Thực ra, con cần biết hắn làm gì, khi qua ngón tay xinh
đẹp của con, lật trang sách, sẽ hiện lên chân dung thật sự của hắn- "Mặt
nạ Cộng sản”? (đó là tên cuốn sách của một tác giả Pháp được lưu hành rộng rãi
trước Cách mạng).
Lập tức, như một phản xạ,
Mac-gơ-rit gay gắt hỏi:
- Ông muốn gì ở tôi?
Người đáng được thương hại
bây giờ chính là cô gái kiều diễm kia chứ không phải là anh. Tô Hiệu hiểu rõ
điều đó, giọng của anh không còn lạnh lùng như vừa nãy:
- Đừng sợ cô gái ạ. Tôi
chỉ muốn nói lên một vài sự thật giúp cô và những người lương thiện ở nước cô
hiểu rõ hơn về đất nước chúng tôi. Còn cô là một người biết thương xót cho một
cành đào vô tội, chắc sẽ biết thương xót và muốn bảo vệ cho một đất nước nhỏ bé
đang bị bọn xâm lược đọa đày.
Tên tuần phủ không còn giữ
được bình tĩnh vốn có của hắn nữa:
- Câm ngay, thằng tù ruỗng
phổi! Mày lảm nhảm những gì vậy?... Thưa tiểu thư, nó là một thằng bị lao nặng,
rồi biến chứng thành mất trí đấy. Tiểu thư không nên nán lại ở đây phút nào
nữa!
Nhưng Mac-gơ-rit không
nghe thấy một lời nào của tên tuần phủ. Cô sống trong một nỗi hốt hoảng chưa
từng thấy. Lần đầu tiên trong đời cô được nghe những lời như vậy. Người tù và
cây đào bồng trở nên thật xa lạ, thật khó hiểu đối với tri giác và suy nghĩ
thông thường của cô. Như mọi khi, cô sẽ thấy rằng những lời lẽ của người tù là
điên rồ, là láo xược mà cô có thể "hạ cố” lắng nghe để thỏa mãn lòng hiếu
kỳ. Nhưng có một sức mạnh gì đó toát ra từ những lời nói bằng thứ tiếng Pháp
còn ngượng nghịu của người tù ốm yếu kia buộc cô phải khuất phục một cách vô ý
thức. Trong cuộc sống đầy sự thỏa mãn, chán ngấy lên vì sự thỏa mãn, thêm
một lần Mac-gơ-rit cảm thấy một sự khao khát trong sạch mơ hồ mà tuổi thiếu nữ
của cô ít khi được biết đến. Cô nói với người tù, giọng run run:
- Xin lỗi ông, tôi thấy
sợ. Sao ông lại nỡ nói những lời đầu độc tâm hồn tôi đến như vậy?
Nói rồi cô quay lưng và đi
như chạy ra khỏi nhà tù, Cầm ngọc Phương theo sát gót.
Tô Hiệu sau một phút đứng
lặng, tới bên cây đào, nhặt lên một cành đào gãy và cúi đầu trầm ngâm. Thêm mấy
chiếc lá rụng về cội nguồn…
Hồi còn đi học ở làng, sau
ra thị xã Hải Dương học trường tiểu học Pháp-Việt, nhất là hồi phải ra Hà
Nội học trường tư vì bị cố tình đánh trượt tiểu học, Tô Hiệu đã ngấm ngầm nuôi
một lòng thù địch đối với tất cả bọn con Tây và con nhà giàu. Cuộc sống là lượt,
cùng những kiểu cách lố bịch và thái độ hống hách nhìn đời bằng nửa con mắt của
chúng đã in hằn trong trí nhớ sôi bỏng của Tô Hiệu một mối khinh bỉ, căm ghét
tột độ. Nhưng cái cô "đầm” non mặt bự phấn kia đã vô tình gợi lại trong
anh một cái gì gần như là vết thương lòng. Vết thương anh tưởng đã chôn sâu mãi
mãi trong dĩ vãng… Dạo đó bà mẹ có hỏi cho anh một người cùng làng nhưng buôn
bán tận Hải Phòng. Bà cụ đã mang trầu cau đi hỏi. Người con gái ấy phục Tô Hiệu
rồi đến chỗ yêu anh. Nhưng Tô Hiệu đã cam lòng viết một bức thư khước hôn. Về
sau anh có tâm sự với một số đồng chí thân thiết về nội dung bức thư ấy. Đại
khái là anh trình bày rõ hoàn cảnh bệnh tật của anh, rồi những trắc trở khác
nữa mà hai người khó có thể khắc phục được. Lý do trên là chủ yếu. Song, Tô
Hiệu chẳng dễ quên người con gái đáng lẽ trở thành vợ anh- chị cũng là một cơ
sở cách mạng tích cực. Những năm Tô Hiệu được phụ trách miền Duyên Hải và trực
tiếp làm bí thư Thành ủy Hải Phòng, do những yêu cầu công tác và để đảm bảo bí
mật, hai người gần như không gặp mặt nhau lần nào. Tin Tô Hiệu bị sa vào lưới
địch, bị tra tấn dã man chắc các anh đã báo cho chị hay. Biền biệt từ đó đến
nay đã bốn năm ròng. Không một địa chỉ, không một dòng tin tức về nhau. Kí ức
về người con gái ấy, thường chỉ thoáng qua trong tâm trí Tô Hiệu, nhưng đọng
lại nhiều dư âm khó tả….
Tô Hiệu nhìn ra bên ngoài
cổng lớn nhà tù. Mây và nắng bao phủ trên những dải núi điệp trùng. Anh yêu
những buổi sớm, buổi chiều sương rừng buông dày đặc. Anh thường thả tâm hồn theo
tiếng nhị réo rắt của người con trai dân tộc trên đường đến vơí người yêu trong
những đêm trăng vọng từ phía Chiềng Lề. Vẻ đẹp nơi xứ sở thung lũng không chỉ
một lần khiến anh mải mê. Hồi còn là học sinh tiểu học, anh có đọc một cuốn
tiểu thuyết nói về miền thượng du rùng rợn và những người sơn nữ bí ấn…Thế mà
giờ đây anh lại đang sống giữa vùng đất này- dĩ nhiên là trong một hoàn cảnh
đặc biệt. Tô Hiệu bất giác mỉm cười. Không, ngay cả lúc đi bộ trên con đường
mang tên một công sứ Pháp4 ngổn ngang đá rải cấp phối, tay bị xích chuỗi
cùng đoàn tù mệt mỏi bơ phờ, Tô Hiệu cũng không hề cảm thấy cái điều thường gặp
trên sách báo công khai viết về miền ngược. Hầu hết bạn tù cùng tâm trạng như
anh. Miền Tây hùng vĩ ùa ngập vào những tâm hồn khoáng đạt quen vẫy vùng giữa
thử thách gian nguy. Chốn tù đày đâu có mất đi cảnh sao Hôm sao Mai long lanh
đính trên nên trời thung lũng. "Sao Hôm”, "Sao Mai” lại biến thành
biệt danh do những người tù số vuông4 đặt cho hai cô gái Thái. Những người
dân nghèo khổ áo chàm có tâm hồn bình dị, chất phác tìm thấy ở những người
"tù áo sạch” một sự cảm thông và trìu mến lạ kỳ. Và bất cứ người tù số
vuông nào khi bị chuyển đi nới khác cũng đều có thể thốt lên câu thơ của bạn tù
thi sĩ: "Ta đi ta nhớ Sơn La”… Mỗi lần anh em hết buổi làm lao dịch
về rẽ qua thăm Tô Hiệu, anh đều rủ rỉ hỏi han về tình hình bên ngoài. Giá gạo
hôm nay bao nhiêu? Những người buôn bán chuyến ở phố Chiềng Lề có mang những
tin tức gì mới nhất ở xuôi lên? Cô Sao Mai có còn giận dỗi người yêu- anh chàng
lính khố xanh của cô ta nữa hay không?… Rồi sự nóng lòng lớn nhất của Tô Hiệu
mà các bạn tù dễ thấy khi nhìn vào con mắt dò hỏi chờ đợi của anh: Đã bắt được
liên lạc với Trung ương? Muôn vàn sợi dây vô hình gắn bó Tô Hiệu với cuộc đời
bên ngoài. Trong khi đó, cây đào cứ dần dần lớn lên…
*
Đêm tối như bưng.
Trời đã sang xuân từ lâu,
nhưng đêm đến miền Tây Bắc còn rất lạnh. Trong gian tù hình lăng tam giác có
bốn người ngồi xổm bó gối trên sàn xi-măng được rải một manh chiếu- nơi Tô Hiệu
đang nằm. Lại một đêm nữa, những người tù số vuông đến bên nâng giấc cho Tô
Hiệu. Không biết anh có qua khỏi đêm nay? Giá có thể đem được sự sống bản thân
đổi lấy tính mệnh của Tô Hiệu đang bị cướp đi từng phút, từng giờ! Họ nhìn mãi
vào trong đêm tối, như muốn xóa tan cái bóng đen đang đè nặng lên hơi thở nhọc
nhằn của bạn tù.
Tô Hiệu từ từ mở mắt. Anh
hơi ngóc cổ lên:
- Ờ, ờ các anh… sao đến
đông thế này? Không nể cái thằng Kốc trong ngực tôi đang hành quân ra từng binh
đoàn à?... Tôi đã chết đâu mà như đưa đám cả lượt thế… Buộc tôi phải tuân theo
nghị quyết chi bộ… mà chính các anh lại vi phạm nghị quyết thế là không được
đâu nhé! Bất công!
- Không ai nỡ bất công với
cậu đâu, Tô ạ. Chúng mình đang cùng nhau đạp đổ mọi áp bức bất công kia
mà!
Tô Hiệu cố gắng vượt ngồi
dậy gạt mấy cánh tay định đỡ anh.
- Để tôi tự ngồi lấy xem
nào… Nói thật với các anh, tôi biết là tôi không còn sống được bao lâu nữa. Chỉ
ngày một ngày hai… Các anh chịu khó trông nom cây đào nhé!
- Bậy nào, Tô, đừng có
nghĩ linh tinh!
- Cậu có định chết thì cố
gắng đợi đến ngày mùng Tám tháng Ba hãy chết nhé, để chị em còn tưởng nhớ đến
cậu.
Tô
Hiệu lắc đầu:
- Không, tôi tính từng ngày như thế để phân phối thời gian cho bản
kinh nghiệm dân vận ở vùng dân tộc ít người… Viết gần xong rồi, nó lộn xộn lắm…
Nhờ các anh bổ sung sắp xếp cho hoàn chỉnh… Còn bây giờ, thời gian còn lại, tôi
muốn viết một bức thư cho u tôi… U tôi già yếu và đang mong tôi lắm… Nhất định
phải an ủi bà cụ….
Mọi người im lặng, có
người quay mặt đi.
- Anh Tô, em sẽ giúp anh
viết.
- Không, tôi còn tự
viết được… Tôi muốn u tôi nhìn thấy nét chữ cuối cùng của tôi… bà cụ thương tôi
lắm….
- Tô, cậu nằm xuống đi cho
đỡ mệt. Rồi lát nữa viết thư.
Tô Hiệu đã nằm xuống bỗng
ngượng nhổm dậy, cố lấy hết sức tàn để nói:
- Các cậu phải tuyệt đối
cẩn thận nhớ! Lúc này… chúng mà đánh hơi thấy mình rục rịch chuẩn bị cho… khởi
nghĩa vũ trang ngoài kia… Chúng sẽ lập tòa án quân sự "tiêu” mình đi ngay…
- Yên chí- tay phó quản
biết lính cho tù mượn súng tập quân sự nhưng cũng làm ngơ đi. Bọn này đã vận
động anh ta rồi mà. Buồn cười, lính bản xứ nhà ta lại thích cho anh em mình
mượn súng chứ, vừa không bị mất súng, lại vừa sạch sẽ, bớt được cái khoản lai
chùi vất vả! Chiều nay, lúc hết giờ làm việc, đợi mãi không thấy mấy
"ngài” canh gác đến lấy súng, hóa ra là các ngài đánh một trận thẳng cẳng
ở góc đồi, bọn này phải đến lay dậy để cùng về. Vui thật!
Tô
Hiệu muốn nói nhưng không thể nói được nữa. Một con quái vật đang cấu xé lồng
ngực anh. Nhưng toàn bộ con người anh lúc này đã tập trung vào một điểm chói
sáng ở đâu đó trong tâm hồn. Tô Hiệu âu yếm nhìn những người bạn tù thân thiết
quá chừng đối với anh. Họ đã sống cùng anh qua những trận sốt rét rừng, những
buổi sương mù, những bữa cơm nếp mỡ lợn ghê người, những công việc khổ sai,
những lần tuyệt thực, làm reo (grève - một hình thức đấu tranh gần như bãi
công, đình công) đòi quyền lợi của tù chính trị… Trong bóng đêm, chỉ cần anh
đưa bàn tay ra là gặp những bàn tay xương xẩu của bạn tù riết chặt mãi không
rời, truyền cho anh một nghị lực sống mới mẻ. Nhưng đêm nay, Tô Hiệu đã thấy
mình khó thở ghê gớm. Anh cố vận dụng những tàn lực cuối cùng để khỏi sai lệch
trong cảm giác, để quên đi chút ít sự đau đớn giày vò của cơ thể. Tuy vậy, anh
lại thấy mình tỉnh táo lạ thường. Anh biết rõ, đối với anh, đấy là dấu hiệu của
sự tận cùng… Thỉnh thoảng lại có tiếng hỏi: "Tô, cậu thấy bây giờ thế
nào?” Hay: "Uống nước không?”... Anh chỉ trả lời bằng cái nắm tay vụng về
lạnh buốt. Cuộc sống sao cần thiết và đáng yêu! Bóng đêm ghê rợn, sàn xi-măng
rắn lạnh, cái nhà tù nặng nề, cả cái chết đang đến với anh, chẳng có nghĩa lý
gì hết! Tâm trí sáng láng của Tô Hiệu trong những giây phút đó đưa anh trở về
nơi chôn rau cắt rốn- cái làng Xuân Cầu bé nhỏ mà anh xa đã bao năm nay. Ít khi
Tô Hiệu có dịp hồi tưởng về quê hương nhiều và da diết như bây giờ. Cái làng có
nhiều người phiêu bạt tứ xứ để buôn bán, làm thuê, đi phu. Cái làng phụ nữ nổi
tiếng về nhuộm thâm bằng lá bàng và buôn bán giỏi, có đặc sản là thứ bánh mỡ
không đâu có. Hồi Mặt trân Dân chủ hoạt động ở Hà Nội, chủ nhật Tô Hiệu hay đạp
xe về Xuân Cầu, đánh chim choi choi, bắt chuột đồng, và khi ra không quên đem
theo một bọc tướng bánh mỡ cho anh em cùng ăn. Thấy ở trong làng có nhiều em
đến tuổi đi học mà không có đủ trường lớp, Tô Hiệu nhân một dịp về thăm quê đã
vận động bà con cho tre nứa và góp sức xây dựng trường học. Chỉ trong vài ngày,
những lớp học mới đã được dựng lên: chính anh cũng là người chôn cây cột đầu
tiên cho đến lúc buộc những nút lạt cuối cùng. Nhà Tô Hiệu mùa nước lụt, nước
tràn vào đến nửa vách- sân nhà trở thành một nơi bơi lội thú vị cho bọn trẻ
trong làng. Dạo còn học ở trường làng, Tô Hiệu cùng một số học trò tai quái lập
nhóm chuyên đi bẻ trộm roi- trong đó có một cây roi lớn sai quả ở trước nhà Tô
Hiệu, rồi làm vè chế giễu chánh tổng, kỳ hào. Một lần nhân có người cố nông
chết trong làng, nhóm học trò ấy vẽ một cái xác trương phềnh- trên đó là chánh
tổng, lý trưởng ngồi ăn uống no say, rồi đem treo ở cổng làng… Những đứa trẻ
tinh nghịch đó lớn lên đều đi thoát ly hoạt động cách mạng. Tô Hiệu không thể
quên được những gì đã đến với tuổi trẻ nồng nhiệt của anh trong những năm còn
là học sinh tiểu học thị xã Hải Dương. Dường như còn vẹn nguyên niềm rạo rực
của những người thanh thiếu niên yêu nước buổi truyền tay nhau tờ sớ "Thất
điều trần” (Bài văn gồm bảy điều kết tội Khải Định do cụ Phan Chu Trinh viết
năm 1922 tại Pháp, nhân dịp Khải Định sang Pháp dự đấu xảo), lúc dự các lễ tang
cụ Phan Châu Trinh, cụ Lương Văn Can và đòi thả cụ Phan Bội Châu. Như còn hiển
hiện Nam Kỳ chói nắng và Sài Gòn sôi động thời bỡ ngỡ theo anh Tô Chấn vào hoạt
động Việt Nam Quốc dân đảng. Rồi ngục tù Côn Đảo. Rồi những năm hoạt động ở Hà
Nội và Hải Phòng. Những xóm thợ nghèo anh đã sống... Những tiếng ồn ào, náo
nhiệt, những tấm lưng trần bốc vác… Những lần cơ sở bị phá vỡ, lại chắp nối,
gây dựng…Và hình ảnh người mẹ hiền từ, nghiêm nghị khắc khổ đã hiện trong tâm
trí anh tự lúc nào. Hình như kí ức về người mẹ là nơi quy tụ của mọi ý nghĩ,
mọi gian lao vất vả, mọi thể nghiệm, cũng như mọi nỗi buồn vui trong đời một
người con. Tô Hiệu bùi ngùi nhớ mẹ… Bao nỗi đắng cay, tủi nhục đã rơi trên mái
đầu bạc trắng của bà. Bà là con gái cụ Tán Ngô - cánh tay phải của người anh
hùng Bãi Sậy Tán Thuật năm xưa, người đã bị thực dân Pháp kết án khổ sai chung
thân và đày đi Côn Đảo vì "tội” yêu nước. Tô Chấn, người con thứ hai của
bà cũng bị đày đi Côn Đảo. Tô Chấn tìm cách vượt biển nhưng bè bị đắm… Bu ơi,
chắc bu vẫn chờ tin anh Chấn và đếm từng ngày mong con trở về. Có lẽ giờ bu vẫn
chưa biết tin gì về anh Chấn. Anh Chấn còn đâu nữa hở bu! Thằng con út ít của
bu cũng sắp vĩnh biệt bu ở một góc rừng xa. Chắc bu đang mỏi mắt trông tin
những đứa con đi biệt xứ. Con không sao về được nữa rồi để phụng dưỡng thân mẫu
lúc tuổi già…Trên bàn thờ, bu sẽ lại khấn thờ cho cha con và hai anh em con.
Chắc bu sẽ ân hận nhiều vì không được vuốt mắt cho con, không được nghe lời dối
giăng của con chứ gì. Thằng còn út-ít-khụt-khịt cả ngày của bu đang nằm đây, bu
ơi! Con hẹn bu sau năm năm sẽ trở về với bu, theo bản án của chúng nó quàng lên
cổ một thằng bệnh tật như con. Nhưng làm sao được hả bu?... Dù sao, con cũng
mong có ngày trở về gục đầu vào dải yếm bạc phếch của bu, ăn bát canh riêu của
bu nấu riêng cho thằng Tô-gầy-còm ăn.
Tô Hiệu chìm trong những
kỷ niệm lắng sâu về người mẹ chưa một lần được anh nâng giấc lúc ốm đau... Hồi
Tô Hiệu được thả ra khỏi Côn Đảo, anh đã mắc bệnh lao. Trở về làng, anh giấu
kín mẹ về bệnh tình. Bà mẹ không hiểu vì sao cứ đến bữa, Tô Hiệu lại ăn bát
riêng, dừng hai đôi đũa. Bà thắc mắc và lắm lúc tủi thân. Bà nhiều lần thúc Tô
Hiệu lấy vợ, nhưng anh chỉ trả lời bà bằng những câu đùa ý vị, dí dỏm- thói
quen từ khi anh còn nhỏ. Rồi bà cũng chẳng thành công trong việc "mối mai”
cho đứa con trai út... Những trưa hè nắng như rang như thiêu, một người mẹ già
lọm khọm với cái giỏ bên hông bắt cua cáy ở những thửa ruộng chiêm ngập nước.
Mắt anh hoa lên những vòng quáng nắng. Cái chõng tre đã lung lay. Cái phiên nhà
đã mọt. Cái chổi cùn trong xó bếp lạnh tạnh… Đất nước nghèo trong bùn lầy, vách
nát, buồn trong từng câu ca, trong mỗi cái nhìn và mỗi đường gân trên bàn tay
răn deo của người mẹ già. Tô Hiệu thấy sống mũi cay cay… Thôi đừng buồn và
thương con nhiều nữa bu ạ. Các đồng chí của con sẽ làm nốt phần việc con bỏ dở.
Những gì chúng con đã nuôi dưỡng và phấn đấu không thể nào chết được, cũng
không kẻ nào vùi dập được… Tô Hiệu bồi hồi và lưu luyến nhìn khắp căn buồng đã
chứng kiến những trận ho dữ dội bật máu tươi của anh, những đêm chống chọi với
giá lạnh sương muối và cái chết rình mò. Kia là cái cọc sắt gần cổng trại lớn -
địch đã bêu đầu một đồng chí ta vượt ngục. Kia là nơi dựng bàn bán
"căng-tin” ngày Tết của tù số vuông. Kia là nơi ra báo bí mật "Suối
Reo”. Kia là nhà bếp mà ra đã tranh giành được quyền tự xử dụng. Kia là nơi cậu
Mạnh đã ngã xuống và để rơi một quả đào ăn dở…Và đây, cây đào của anh, cây đào
đã lớn lên giữa bao hằn thù và bao tình đùm bọc. Lòng anh chợt dào lên một tình
thương tấm thía, xót xa. Cái hoàn cảnh nó sinh ra và lớn lên thật quá khắc
nghiệt! Số phận của nó thật đầy ngẫu nhiên và bất trắc! Nhiều khi chính anh
cũng không hiểu vì sao cây đào lại có thể sống được. Trong những ngày anh em tù
số vuông bị cuốn vào những cuộc đấu tranh sinh tử, mà anh thì nằm bẹp trên sàn
xi-măng, có ai nhòm ngó đến cây đào! Hồi những người tù tuyệt thực bị nhốt dưới
hầm ngầm, anh đã dành toàn bộ những giọt nước tiếp tế hiếm hoi cho những bạn tù
đang ngắc ngoải- qua một lỗ thông hơi bí mật ở mép đường "cu-loa”. Còn cây
đào, lúc đó mới chưa đầy một gang tay, đã không bị héo khô đi cùng với chủ của
nó trong cái nắng gắt của tháng Năm, vì may thay, dưới chân tường đá hộc vẫn
còn chất ẩm…
Có những đêm hè trời đầy
sao và ngập tiếng côn trùng, anh lê ra ngồi bên gốc cây đào nhỏ, cùng nó uống
cho thỏa cái vị ngọt lành lạnh của sương đêm. Trong những ngày mùa đông, nhìn
cây đào non nớt trụi lá khẳng khiu có một vẻ gì như thách thức nghịch ngợm, Tô
Hiệu thường cảm thấy lòng mình chợt ấm áp. Sang xuân, cây đào vào tuổi mới lớn
trở nên e ấp, những giọt sương mai đọng trên lá non dịu dàng của nó vẫn làm anh
thoáng ngẩn ngơ. Và có những lúc nhìn thân cây bé nhỏ cố vươn lên, bất chấp
những rủi may, lòng anh từng se lại vì thương cảm. Đúng là anh đã gieo hạt,
thầm mong từng ngày nó nảy mầm, nhưng khi nó thành hình thì chính anh cũng
không hiểu mình nên buồn hay nên vui… Tạo ra một sự sống đã khó, nhưng bảo vệ
sự sống ấy còn khó hơn nhiều. Và cũng khó chẳng kém việc phải chịu đựng thon
thót từng ngày, từng giờ cái ý nghĩ: sự sống ta tạo ra đó sẽ bị hủy diệt không
biết lúc nào, còn ta thì sẽ bất lực đến đau đớn! Hàng ngày cây đào vẫn sống bên
anh, ít khi anh nghĩ đến sự tồn tại của nó. Nhưng lúc này, anh nghĩ tới cây đào
với toàn bộ cảm giác của da thịt và trí não, với toàn bộ tiềm thức. Hơn lúc nào
hết anh đang sống với cây đào bằng tất cả nỗi đau của sự sinh thành và li biệt.
Cây đào này sẽ là cái nhịp nối giữa cõi chết vĩnh hằng với sự sống lớn lao mà
anh mắc nợ; là một hiện hữu vật chất không tầm thường mà dù muốn hay không anh
đã để lại cho đời…
Chợt một giấc mơ lạ lùng
đến với anh: có nhiều người cầm dao dựa, dao quắm đang mím môi mím lợi giang
tay chặt cây đào của anh! Một dòng máu tươi vọt ra cùng tiếng rên rỉ thương tâm
làm anh lạnh toát người. Anh thét to lên một tiếng, chạy lại gần, thì thấy
trong số những kẻ đó, bên cạnh tên công sứ Cút-xô, tên chúa ngục Ga-bô-ri, tên
cai khố xanh, lạ chưa, có cả một vài người đồng chí thân yêu của anh!... Thật
đau lòng hơn gấp nhiều lần việc cây đào bị chặt! Mồ hôi toát ra khắp người, Tô
Hiệu nhắm mắt lại, lắc đầu liên tục, cố xua đi cái hình ảnh tưởng tượng ghê sợ
đó, và cuối cùng ý chí tàn kiệt của anh cũng làm được điều ấy. Rồi, từ cây đào,
anh lại miên man trong những cảm xúc và ý nghĩ về các bạn tù- điều đó bao giờ
cũng làm cho lòng anh dịu lại… Đã từ lâu nay, binh lính, những người phục dịch
và vợ con của bọn quan lớn, quan bé trên cái ngọn đồi "tử khí” này mệnh
danh những người tù số vuông là "tù ông, tù cha”, họ tỏ thái độ khâm phục
và kính nể không chút giấu diếm. Tính kỷ luật cao độ, sự tôn trọng nhân dân, thái
độ bất khuất cương trực trước mọi kẻ quyền lực hống hách, lòng thương người và
sự giúp đỡ mọi người vô điều kiện, những bộ quần áo tàng được giặt giũ sạch sẽ
và vá víu cẩn thận5, sự thông thạo và ngăn nắp trong mọi công việc lao động…
tất cả những cái đó đã được truyền tụng trong dân chúng như những truyền thuyết
đẹp đẽ nhất của họ, đã sưởi ấm và rọi sáng cho biết bao số phận u tối, bất
hạnh…
Một - thị - xã - nhà - sàn
heo hút chìm trong sương chiều. Những ngọn núi mờ lam chướng. Một chiếc thuyền
độc mộc tã nát bên sông. Những ngọn lau xám phất phơ, hiu hắt. Những nóc sàn
bạc phếch, đơn độc. Một cánh chim đại bàng lượn trên khoảng trời xanh hun hút
của rừng đại ngàn. Một con đường đất đá lổn nhổn, nắng chang chang- con đường
tù đày. Những công-voa tù xích chuỗi dài dằng dặc. Những lời ca cách mạng vang
lên, giọng trầm khỏe, những bàn tay chắp lại giơ cao để cảm ơn và đáp từ lại
những sự giúp đỡ, cùng những giọt lệ tiễn biệt của đồng bào đứng hai bên đường
Quốc lộ miền thượng du… Những chiếc roi gân bò vụt xuống vun vút. Những khuôn
mặt xạm đen kiên nghị và bất khuất ngẩng cao… Cứ mỗi lần hồi tưởng hay nghe
những người mới bị đưa lên kể lại những cảnh đó, Tô Hiệu đều thấy rưng rưng một
nỗi xúc động khôn tả… Ký ức vụt qua như một cuốn phim đen trắng đầy những hình
ảnh tương phản đã kích thích mãnh liệt tâm trí Tô Hiệu. Anh thiếp đi, mê man,
hơi thở vẫn không nhẹ hơn một chút nào.
*
Người bó gối, người dựa
lưng vào tường. Không gian lặng lẽ. Chỉ còn tiếng thở khò khè của Tô Hiệu là âm
thanh duy nhất của khu nhà ngục trong đêm... Chợt một người còn tỉnh ngủ lay ba
người kia đang gật gù trong cơn buồn ngủ trĩu mắt.
- Các cậu! Các cậu ơi! Anh
Tô… Anh Tô làm sao rồi!
Tất cả choàng dậy, cuống
cuồng.
- Tô, Tô! Sao thế này hở
Tô? Giời ơi!
Một người ghé sát miệng,
mũi Tô Hiệu tìm cái hơi thở khò khè yếu ớt quen thuộc của anh. Một người vội vã
làm hô hấp nhân tạo cho anh. Nhưng thân hình Tô Hiệu chỉ còn là một cái xác
lạnh ngắt, lạnh như cái sàn xi-măng anh đang nằm duỗi thẳng trên đó. Trời đã
sắp sáng.
- Hai cậu ra ngay chỗ
gác-điêng, đề nghị được lên gặp "sếp” ngục và công sứ vào sáng hôm sau,
yêu cầu họ cho một cái quan tài và những đồ khâm liệm cần thiết, còn tôi sẽ lo
điếu văn bây giờ. Báo với họ là chúng ta sẽ cho mai táng ngay buổi sớm- người
tù lớn tuổi nhất nói vội vã.
Hai người liền chạy vụt ra
ngoài "cu-loa”, đến thẳng đồn canh. Hai người còn lại quỳ bên xác Tô Hiệu.
Người tù trẻ- người đã từng một lần tạm biệt Tô Hiệu để tìm cách vượt ngục một
mình đang nấc lên những tiếng xé lòng:
- Anh Tô- gày ơi! Sao vội
đi thế, hở anh Tô- gày ơi!...
Chợt anh vùng dậy, đứng
trên cái sàn xi-măng, đấm những nắm đấm vào mặt tường đá, báo hiệu các buồng và
trại giam xung quanh. Người tù kia cũng đứng dậy làm theo, cả hai người vừa đấm
vừa kêu lên những tiếng kêu lạc giọng trong sương mù: "Tô...ô…ô
chế…t...rô…ồ…i…ì!” Sương mù buông đầy làm mờ ảo mọi cảnh vật, như làm nghẹn lại
những tiếng kêu. Cả khu nhà tù bỗng ồn ào, náo động. Những tiếng đập cửa sắt
thình thình. Những tiếng la hét khản giọng. Tiếng kẻng ngắn, kẻng dài, tiếng mõ
ở tất cả các chòi canh đánh ngũ liên báo động. Những tiếng chân người chạy
thình thịch. Bên trại lính khố xanh đã thổi kèn sắp-măng (lệnh tập hợp-
Rassemblement).
Một cuộc nổi loạn phá nhà
tù như năm 1909 chăng? (Cuộc khởi nghĩa phá nhà tù Sơn La của những người tù
yêu nước do Cai Khạt- người Thái Than Uyên lãnh đạo nổ ra năm 1909). Hay có một
cuộc đột nhập đánh cướp tù?
Chỉ sau mấy phút, tất cả
những người trong khu nhà tù đều biết rõ sự việc. Trong số những người đứng
chật cả một đoạn đường "cu-loa”, có mấy người tù thường phạm vào loại
"anh chị” đã được Tô Hiệu cảm hóa. Cái chết đột ngột và bi đát của người
tù đâu phải chuyện đặc biệt ở chốn được mệnh danh là "địa ngục dương gian”
này! Nhưng cái chết của Tô Hiệu mà ai cũng có thể đoán được sẽ xảy ra bất cứ
lúc nào khi ái ngại nhìn thân hình xơ xác tiều tụy của anh, lại gây một chấn
động lớn trong tâm não mọi người. Những giọt nước mắt lã chã khôn cầm lăn trên
những khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn, đói ngủ đang tê dại đi bởi đau đớn xót
thương. Những tấm chăn mỏng do anh em tù góp lại cứu Tô Hiệu thoát khỏi mùa
đông sương muối năm 43, giờ đang đắp trên cái thân hình gày guộc và cứng đờ của
anh. Đám đông đứng ngoài cửa sắt buồng giam Tô Hiệu bỗng rẽ ra hai bên: Một
chiếc quan tài sơn đen đã được đưa tới. Những người đại diện nhóm "trật tự
ngoài” của Chi bộ đã xin phép cai ngục lên thẳng công sứ Cút-xô đòi tổ chức
tang lễ Tô Hiệu. Lúc này, Cút-xô đã biết nể tù chính trị hơn trước. Thời thế đã
thay đổi, y không còn dám hống hách huênh hoang như ngày xưa. Bây giờ Cút-xô
thường tỏ ra "nhân đạo” với tù chính trị, lấy lòng anh em.
Chiếc quan tài được nâng
lên, trôi chầm chậm ra phía cổng lớn. Vài người lính khố xanh bồng súng đứng
nghiêm với vẻ mặt buồn rười rượi. Dòng người áo tù loang lổ chữ P.S (Prison de
Sonla) chầm chậm bước đi. Hết khu đồi Khau Cả, lại sang một khu đồi khác…
Nơi đây, dưới những hàng
phi lao thưa cằn và những gốc ổi hoang dại, bao thế hệ người yêu nước và chiến
sỹ cách mạng đã yên nghỉ. Buổi sáng cuối xuân, sương mù đang dần tan hết. Mặt
trời lên trên rừng phi lao, rọi những tia nắng mai qua muôn trùng lá nhọn, tạo
nên những luồng ánh sáng thanh thoát. Một cái huyệt được đào khẩn trương. Chỉ
có tiếng mai, thuổng thình thịch và tiếng chim hót trong trẻo đây, đó. Chiếc
quan tài sơn đen được hạ huyệt. Lúc này, người tù trưởng "Ban trật tự
ngoài” đã tới, tay cầm một mảnh giấy nhỏ lem luốc, ghi vội những dòng chữ
nguệch ngoạch. Tất cả, không ai nói một lời tự động đứng quanh lỗ huyệt mới
đào. Một giọng trầm vang đọc lời vĩnh biệt cất lên giữa đám đông lặng lẽ, giữa
khung cảnh yên ắng xa vời của núi rừng… Những lời thống thiết từ đáy con tim
mỗi người thốt lên. Đó là máu xương, là hơi thở, là mỗi cuộc đời đã sống. Là
hình bóng Tổ Quốc hôm nay và ngày mai. Là giọt lệ của người mẹ và những người
thân thích. Là lòng uất hận đang chực bùng lên phá tan mọi cảnh bất công, tù
đày, nô lệ… Sau một lúc ngừng lại, người tù thay mặt anh em đọc lời vĩnh biệt
đã nói những lời cuối cùng:
- Chúng ta xin hứa với
đồng chí Tô Hiệu: Quyết tâm giành lại tự do thiêng liêng cho Tổ Quốc!
Người bí thư chi bộ vốc
một nắm đất thả xuống nắp quan tài.
- Xin vĩnh biệt người đồng
chí, người anh, người bạn yêu quý!
Tiếp sau đó, từng người
làm theo. Những khối đất màu đỏ và da cam rơi xuống huyệt mỗi lúc một nhiều
hơn… Rồi một tấm mộ chí sơ sài bằng đá mọc lên với những dòng chữ khắc vội: Tô
Hiệu. Sinh: 1912 tại Văn Giang- Hưng Yên. Chết: 7/4/1944 tại Sơn La. Những cái
đầu tù cạo trọc nham nhở cúi xuống mặc niệm. Không ai có thể nhớ nổi thời gian
trôi đi đã bao lâu. Họ không hát Hồn Tử Sĩ: Chiều nay súng vang. Dưới bóng cờ
thiêng… Chỉ có tiếng phi lao ru gió xào xạc. Chỉ có tiếng nức nở cố ghìm lại
của một vài người đa cảm. Những người tù mà cái chết và bao sự đàn áp khốc
liệt, bao nỗi gian lao đắng cay không hề làm nhụt chí, giữa lúc này đây dang
chìm trong một nỗi chạnh lòng sâu thẳm, một nỗi xót thương vô hạn… Nhưng không
thể đứng mãi ở đây. Bao công việc quan trọng và cấp thiết đang chờ đợi. Phải giành
giật lấy thời gian từng phút, giành giật từng hơi thở, từng mạng sống con
người. Mỗi người tù số vuông đều cảm thấy một cách rõ rệt những ngày trọng đại
đó đã tới rất gần.... Những bàn chân tù lại tản đi khắp nơi làm cỏ-vê, như mọi
ngày bình thường.
*
Trong lúc đó, đường
"cu-loa” trong nhà tù vắng tanh. Chủ nhân” của nó đã đi xa mãi mãi, để lại
cây đào. Lúc này trên cây đào, hoa đầu mùa đã tàn hết, lá tỏa một màu xanh trơ
trọi giữa những bức tường đá xám ngoét, âm thầm. Nhưng kể từ năm ấy trở đi, nó
sẽ tiếp tục ra hoa như mọi cây đào trong khắp các cánh rừng Sơn La vào mùa
xuân. Nó vẫn đang lớn lên từ chân tường kia, dường như không có sự chết chóc
nào đã xảy ra xung quanh nó. Chắc hẳn là nó phải ăn rễ thật sâu xuống đất, đợi
tới lúc thật cứng cáp, lớn khỏe, mới bắt đầu phá vỡ những mảnh tường đá bên
trong để tiếp tục phát triển. Còn bên ngoài nhà tù, trên khắp đồi Khau Cả lúc
này không có một cây đào nào- ngoài cây đào ở vườn rau Tòa Sứ nằm dưới chân
đồi. (Theo lời kể lại của những người già xung quanh thị xã, cây đào ấy là do
một cô gái- được gọi là "con nuôi” của những người "tù áo sạch” trồng
trong một lần đi nhặt củi, khi cô đang ở tuổi tranh nhau với lũ bạn chạy đi
nhặt những quả còn lạc của các anh chị trong hội ném còn mùa xuân). Nhưng ngay
trong năm đó, cây đào trong nhà tù bói lứa quả đầu tiên, những người tù nhớ Tô
Hiệu đã ăn quả ở cây này rồi đem gieo hạt quanh đồi Khau Cả khi đi làm cỏ-vê…
Từ đó, cứ độ xuân về, những cây đào trên khắp đồi Khau Cả cùng với cây đào
trong nhà tù lại nở hoa và kết quả, như sự nhắc nhở thầm kín về một Con Người..
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
Chú thích:
1. Tù chính trị CS, phân biệt với tù thân
Nhật đeo số hình thoi.
2. Tức là bệnh sốt rét sưng gan đặc biệt nguy
hiểm đối với người tù Sơn La.
3. Paul Verlaine, thi sĩ lãng mạn Pháp thế kỷ
XIX.
4. Xanh Pu-lôp tự lấy tên mình đặt cho con
đường Quốc lộ 6 hồi làm Công sứ ở Sơn La.
5. Đồng bào các dân tộc quanh thị xã Sơn La
hồi ấy (và cho đến cả hôm nay) vẫn quen gọi tù chính trị của ngục Sơn La là
"tù áo sạch" vì những bộ quần áo tù bao giờ cũng được vá víu tươm tất
sạch sẽ và đặc biệt có thái độ rất hòa nhã, gần gũi, thông cảm sâu sắc với dân
nghèo...
Hiện giờ, cây đào này được gọi là "Cây
đào Tô Hiệu", ở ngay sát phòng giam ông Tô Hiệu, nằm trong di tích lịch sử
Nhà tù Sơn La - là nơi đang hàng ngày thu hút nhiều đoàn khách các lứa tuổi của
nhiều địa phương toàn quốc tới tham quan, nghiên cứu. Đã có nhiều người viết về
cây đào này (kể cả người nước ngoài), và tất cả đều cố gắng tìm hiểu lai lịch
thật sự của nó. Song việc gắn nó với ông Tô Hiệu- trong hầu hết các trường hợp
chỉ thuần túy mang ý nghĩa biểu tượng, thậm chí, có những cựu tù nhân chính trị
ở Sơn La đã phủ nhận sự tồn tại của cây đào có từ trước Cách mạng, hoặc khẳng
định rằng: nó không phải là do ông Tô Hiệu trồng! Vậy sự thật ở đâu? Tác giả
thiên truyện lịch sử này, sau nhiều tìm hiểu, cân nhắc, qua nhiều nguồn tư liệu
điền dã- đặc biệt là qua một người số người từng là cai, đội, quản cũ của trại
lính khố xanh có cảm tình với tù chính trị (nhất là phó quản Mười- sau là nhà
thơ, nhà giáo Lò Văn Mười sống ở Thuận Châu), đã đi đến một phương án lý giải
khá chắc chắn: cây đào này đích thực là do ông Tô Hiệu trồng. Tuy nhiên, sự
thực cuối cùng vẫn đang còn chờ đợi các nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử...
(Nguồn: tập truyện lịch sử: "Người tù áo
sạch"- NAT- Nxb Thanh niên, 1993)
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2- ngày 11/05/2015
Cập
nhật lại lần 1- ngày 14.8.2012
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 21.02.2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét