Trang Tiểu luận phê bình Nguyễn Anh Tuấn 1
Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015
Trang Tiểu luận phê bình Nguyễn Anh Tuấn
Thứ ba - 14/08/2012 20:39
Kịch bản tuồng "Liệu đố" (chữa bệnh ghen) có thể nói là một kịch bản văn học khá kỳ lạ. Khoác cái vỏ lụng thụng của những điển tích cổ, thơ Đường, Kinh thi..., nhưng kịch bản này tận cốt lõi lại là sự sống dân gian Việt, và điều đặc biệt nhất là chứa đựng nhiều yếu tố hiện đại trong nội dung tâm lý cũng như về hình thức biểu hiện. Tôi xin mạn phép được minh chứng điều này bằng chính văn bản vở tuồng "Liệu đố" mà tôi có được trong tay nhờ các nhà nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm của "Trời văn” Bình Định. ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TÂM LÝ HIỆN ĐẠI
Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Kịch bản tuồng "Liệu đố" (chữa bệnh ghen) có thể nói là một kịch bản văn học khá kỳ lạ. Khoác cái vỏ lụng thụng của những điển tích cổ, thơ Đường, Kinh thi..., nhưng kịch bản này tận cốt lõi lại là sự sống dân gian Việt, và điều đặc biệt nhất là chứa đựng nhiều yếu tố hiện đại trong nội dung tâm lý cũng như về hình thức biểu hiện. Tôi xin mạn phép được minh chứng điều này bằng chính văn bản vở tuồng "Liệu đố" mà tôi có được trong tay nhờ các nhà nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm của "Trời văn” Bình Định.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn, "Liệu đố thuộc dòng dân dã như các vở Trương Ngáo, Trương Đồ Nhục, Nghêu Sò Ốc Hến, Lưu Bình-Dương Lễ… không cân đai mũ mãng". Nghĩa là, nó không có xuất xứ từ một tích cổ từng ghi trong sử sách nào hết, tức không dính líu tới bất kỳ sự kiện lịch sử hoặc nhân vật có thực nào! Về nội dung, nó đề cập trực diện tới Cái Ghen. Xưa cũng như nay, chứng bệnh khó chữa này rất phổ biến, và thời hiện tại, có lẽ nó càng phát triển gay gắt. Còn trong văn chương nước nhà, cái ghen của một người đàn bà quý tộc khiến Truyện Kiều vốn đã lừng danh về quá nhiều phương diện phải lưu lại cho đời cái biểu tượng đặc sắc "Nhà Ghen Hoạn Thư"!...
"Liệu đố" bắt đầu bằng câu chuyện anh cử nhân Châu Anh cùng với vợ là Ngọc Mai bàn tính chuyện đến kinh dự thi Hội. Lúc này, Ngọc Mai đã chứng tỏ tính hay ghen của mình khi nhất quyết không cho chồng đi, vì sợ chồng lúc công thành danh toại (đắc lộ) thì sẽ "Kiếm hầu xinh hầu tốt...chốn thị thành kiếm năm bảy đứa hầu áo đỏ, quần tía...". Nhưng không thể cản nổi bước phong vân, Ngọc Mai đành căn dặn chồng kỹ lưỡng, bắt thề bồi, trao cho chồng vòng ngọc uyên ương làm tín chấp... Châu Anh cùng hề đồng trên đường đến kinh kỳ thì gặp bọn tướng cướp Hắc Sát, Bạch Hoạch dẫn lâu la đón đường cướp của. May nhờ có cha con Thạch Nghị - Kim Liên giỏi võ đánh bọn cướp cứu giúp. Thầy trò Châu Anh chạy vào nhà Thạch Nghị trốn, riêng Châu Anh tình cờ lọt vào buồng ngủ của Kim Liên...Trước đó, Kim Liên nằm chiêm bao thấy một con cọp chạy vào buồng ngủ của mình, giờ đây thấy người lạ trong buồng, nàng sợ quá đánh thức cha dậy nhờ đoán xem điềm lành- dữ. Cha nàng đoán định là điềm lành, con gái sẽ gặp đức ông chồng là trang hào kiệt. Khi hỏi kỹ nguyên do, ông biết được Châu Anh đã đậu cống sĩ khoa Nhâm Dần, cho là "Bà nguyệt đã se duyên", ông bèn đề nghị Châu Anh kết nghĩa Châu Trần với con gái mình, mặc dù Châu Anh nói thật là mình đã có vợ nhà. Kim Liên mới đầu phản đối cuộc hôn nhân mà theo cô là ""đem con đi biếu", nhưng trước "Lời cha nói xót xa", nàng cũng vâng lời. Còn Châu Anh cũng rơi vào cái thế buộc phải ưng thuận, bởi theo lời Thạch Nghị, "Giường con tôi ông đã đặt mình" làm nhơ danh con gái lão... Thế là Châu Anh mặc nhiên có thêm vợ hai, dù miệng nói "Đã phỉ nguyện non sông/ Lại bén duyên cầm sắt", nhưng trong lòng thì lại nhờn nhợt lo sợ sư tử Hà Đông ở quê nhà!
Châu Anh từ biệt vợ mới đến kinh kỳ dự Hội thí, được nhạc phụ Thạch Nghị tiễn chân một đoạn dài. Kim Liên đã lục lấy vòng ngọc của chồng để làm kỷ niệm. (Đó là một đạo cụ quan trọng liên quan đến sự phát triển kịch tính về sau)
Ngọc Mai ở nhà đang trong tâm trạng nhớ thương, lo lắng cho chồng thì có dì Bảy Nhạn tới chơi, cho biết Châu Anh đã "Mua một hầu tốt tựa tiên sa"... Trong đoạn này, chúng ta thấy tác giả rất khéo léo khi miêu tả sự phát triển và xung đột tâm lý giữa hai nhân vật. Trước hết, ta cần lưu ý cái lối nhẩn nha đưa chuyện của Bảy Nhạn: từ nỗi buồn của mình lân la sang nỗi buồn của Ngọc Mai, đến nhận xét chung về đàn ông "Được phòng này, khuây phòng nọ/ Ăn miếng cá, nhả miếng cơm" làm cơ sở cho tin "đồn lởn vởn"; từ đó Bảy Nhạn bắt đầu tung hoành trí tưởng tượng thay cho Ngọc Mai về cuộc tình kia, lại có sự phán xét chắc nịch về thứ đàn ông đã coi vợ nhà như "ngựa già trâu mỏi bất dụng". Kết cục là Ngọc Mai nổi điên lên, túm tóc Bảy Nhạn cho một trận. Tâm trạng Ngọc Mai lúc đó được nữ đồng nói hộ: "Bởi tại dì nói lẻo/ Làm cho mệ sợ thầm".
Khi sang nhà ông bà Hương mục xin thang thuốc "hạ hỏa", trước lời khuyên "Xin đừng ghen bóng" thì Ngọc Mai đã lại như lửa đổ thêm dầu, nàng đã thốt lên những lời chửi rủa của dân gian đối với người vợ bé của chồng: "Mả mẹ", "Mồ cha"... Với chữ nhẫn của bà Hương mục, người hiểu phận "Thân con gái mười hai bến nước" và hiểu thói thường đàn ông qua chồng mình, và nhất là trước lời khuyên cần bình tĩnh ra tận ngoài đó để "gặng đục lóng trong" rồi hành sự cũng chưa muộn, Ngọc Mai đã nguôi dần. Trước mặt gia đình hàng xóm trí thức, nàng đã trở lại lịch thiệp với những câu chữ bóng bẩy: "Muốn biết tuổi vàng/ Phải nhờ sức đá"... Nhưng khi về tới nhà, nàng đã lộ nguyên hình là một con Sư tử Hà Đông với tất cả cơn cuồng nộ, gọi đối phương là "con đĩ ngựa" và thề "Quyết không dung mạng nó"! Kịch tính đã được đẩy lên một cao trào mới trong lúc Ngọc Mai hờn giận và bất cần truyền lệnh cho gia đinh trông coi nhà cửa để ra đi tìm chồng, cùng những lời nguyền rủa đối phương thật cay độc; sau đó thì nàng mường tượng ra cảnh chồng mình đang "kề vai dựa vế" cùng vợ mới, tự độc thoại bằng cách than khóc với chồng... Ở đây có hai nấc thúc đẩy tâm trạng ghen với những sắc thái phong phú, bởi sự can thiệp của hai người đàn bà đã tác động sâu sắc tới Ngọc Mai.
Xin hãy nhớ lại trường đoạn miêu tả cái ghen của dũng tướng da đen trung thực Ô-ten-lô trong vở kịch cùng tên của U.Sêc-xpia đã được đẩy lên từng bước như thế nào qua những lời đưa đẩy nham hiểm của Đi-a-gô để dẫn tới án mạng khủng khiếp sau đó, sẽ nhận ra: ông đồ Tú Diêu với tư cách là một nghệ sĩ ngôn từ cũng thực đáo để trong lĩnh vực hiểu biết và vận dụng tâm lý con người cho nhân vật của mình!
"Ngày phục thù báo oán" của Ngọc Mai cũng là ngày bọn tướng cướp Hắc Sát - Bạch Hoạch trả thù riêng với Thạch Nghị ngay tại tư dinh, nhân lúc lão đi vắng. Kim Liên bị chúng bắt sau một cuộc giao chiến. Trong khi hai tên tướng cướp đang tỏ ra cao thượng nhường nhịn nhau "chiến lợi phẩm" là trang thục nữ để làm người "vầy duyên tơ tóc", Ngọc Mai vô tình lạc vào lãnh địa của chúng; và giữa lúc nàng còn đang hận đến độ muốn "móc tròng con mắt" đối phương thì bị sa vào tay bọn cướp. Ngọc Mai bị giam cùng với Kim Liên.
Trong ngục tối, Ngọc Mai đau khổ vật vã, được Kim Liên bình tĩnh an ủi. Tình cờ, Ngọc Mai nhìn thấy vòng ngọc của Kim Liên thì bật khóc, hỏi ra mới biết: "Ngọc đó tức là ngọc đây/ Chồng em tức là chồng chị". Sau khi nghe Kim Liên giải thích mọi nguồn cơn, Ngọc Mai đã trân trọng ơn nghĩa trời biển của cha con Kim Liên, và thừa nhận rằng mình đã nhất thời oán trách người vô tội... Còn Kim Liên không những tỏ ra là một phụ nữ biết điều khi cúi xin Ngọc Mai tha thứ cho sự vô tình của mình (dù là cái vô tình "thiên duyên"- duyên trời ban), nàng còn thể hiện là một nữ lưu sáng suốt, thông minh, dũng cảm: Kim Liên bày mưu cùng Ngọc Mai hạ độc tên Bạch Hoạch rồi rủ nhau trốn thoát. Hắc Sát dẫn lâu la truy đuổi hai người.
Trong hoạn nạn, tình chị em thân thiết đã gắn kết Ngọc Mai với Kim Liên. Suốt chặng dài chạy trốn, Kim Liên luôn động viên giúp đỡ Ngọc Mai, và họ đã phải đối diện với lưỡi gươm tanh máu của bọn cướp truy sát đến cùng... Giữa khi nguy cấp, Kim Liên phải vừa dỡ gươm giáo vừa cõng Ngọc Mai tìm cách thoát vòng vây, thì cha nàng là Thạch Nghị kịp tìm đến nơi. Hắc Sát bị Thạch lão giết chết trong cuộc giao chiến...
Tất cả trở về dinh cơ Thạch Nghị. Tại đó, Ngọc Mai chìm trong nỗi nhớ thương, uất hận đến độ chết ngất đi, lâm trọng bệnh. Hiểu rằng Ngọc Mai đã mắc bệnh nội thương do chính mình gây ra, Kim Liên rất xót xa, nàng nguyện mắc tội bất hiếu là cắt da thịt mình lấy máu hòa vào thuốc cho Ngọc Mai uống... Ngọc Mai tỉnh lại, lòng tràn đầy nghi hoặc: vì sao mình vẫn còn sống an toàn cho đến lúc này...
Hiểu được tâm sự ngổn ngang của Ngọc Mai - mà căn cốt của chúng là mối ghen tuông dày vò, thần Thổ địa đã đưa linh hồn mẹ Ngọc Mai là bà Kim Cảnh từ cõi âm về cõi dương mong giải tỏa được mối ghen tuông đó. Trong chiêm bao, nhờ những lời lẽ giàu lý nặng tình của mẹ, và nhất là khi được mẹ báo mộng cho biết: Kim Liên đã cắt thịt hòa huyết cho mình uống, Ngọc Mai đã đột nhiên tỉnh ngộ về cái ơn nghĩa sánh với "trời sinh đất dưỡng" kia...
Đúng vào lúc đó, Kim Liên sinh hạ được một bé trai. Trước niềm hạnh phúc của người mẹ trẻ cùng nỗi "cảm thương" cho đứa bé "chưa thấy mặt cha", trái tim Ngọc Mai mềm lại; và nàng như bật khóc trước tấm lòng của một người làm cha làm ông, trước nỗi mừng mừng tủi tủi của ân nhân Thạch lão - người mà nàng đã tự nhiên thốt gọi là "thân phụ". Nàng đề nghị được đáp đền ơn nghĩa "Cho trọn vẹn cha đâu con đó". Từ giờ khắc ấy, dù chồng chung còn đang lận đận đâu đó với công danh, nhưng ở nơi này "Chị em hòa thuận phỉ nguyền cùng nhau"...
Cái kết "Cha con chồng vợ sum vầy ấm êm" theo triết lý "ở hiền gặp lành" phù hợp với tâm lý chờ mong của dân gian, và cũng xuất phát từ những tình huống tâm lý chân thực, không hề có chút gượng ép nào!
Cảnh thần Thổ Địa hiện về và giấc chiêm bao gặp mẹ của Ngọc Mai là yếu tố phi thực duy nhất của "Liệu đố". Nhưng, thần Thổ Địa trong kịch bản này thực ra chỉ là tượng trưng cho lương tri dân gian- người phát ngôn cho những điều của đạo lý tồn tại vượt qua mọi dây nhợ trói buộc xã hội. Và hồn bà Kim Cảnh, xét cho cùng cũng chỉ là tiếng nói của đáy sâu tâm hồn Ngọc Mai! Nếu như Ngọc Mai không sẵn có một trái tim lương thiện, lại không trải qua bao đận gian nguy để có dịp thấu hiểu lòng người, thì dù có hàng ngàn lần hồn mẹ hiện về cũng không thể gỡ bỏ nổi cơn ghen khiến nàng "Ôm lòng chịu trăm đường tức tối"! Những lời giảng giải của mẹ về đạo nghĩa làm người trong chiêm bao thực ra đã sẵn có trong lòng Ngọc Mai, hơn thế, chúng đã được kiểm nghiệm, được soi sáng bằng thực tiễn khốc liệt đầy máu lửa! Mượn hồn ma để khắc họa & khai thác tâm lý nhân vật chính một cách thấm thía, rung cảm, đầy sức thuyết phục- phải nói đó là sự tìm tòi sáng tạo quý báu của tác giả. Và, cũng như ở những vở tuồng khác của cụ Tú Diêu- ví như "Ngũ hổ bình liêu", cảnh ngộ càng éo le nguy hiểm bao nhiêu thì tình cảm con người càng có điều kiện bộc lộ sự gắn kết bấy nhiêu. Phải chăng, đó cũng là một trong những bí mật của sức cuốn hút người xem trong các tác phẩm nghệ thuật lớn xưa nay- đặc biệt là kịch?
Sự kiện kịch ở đây dồn dập nhưng không hề che lấp diễn biến phức tạp của tâm lý; còn sức mạnh của tâm lý tình cảm nhân vật đã dẫn dắt câu chuyện kịch một cách tự nhiên và hấp dẫn! Đằng sau/ bên cạnh cái hồi hộp do tình tiết câu chuyện đem lại, là cái thổn thức âu lo, cái quặn đau xé lòng xé ruột, là nỗi chua xót đắng cay...trong nội tâm nhân vật do ngoại cảnh tác động, do những quan hệ mới, những khám phá sự thật mới nảy sinh bởi các tình huống xung đột. Ngược lại, nhiều tình huống xung đột được tạo ra lại xuất phát bởi chính tâm trạng và các động lực tâm lý! Ngoài ra, kịch bản "Liệu đố" xử dụng khá điệu nghệ những lời độc thoại nội tâm và những cơn mơ, những ảo giác, sự mê man (mà cuộc gặp của Kim Liên với mẹ ở Âm phủ hiện về là tiêu biểu) của thủ pháp điện ảnh hiện đại khiến cho tác phẩm càng có sức thấm sâu và bùng nổ trong lòng người đọc/ người xem diễn... Đó cũng là bài học khá sinh tử đối với nhiều người làm nghề Sân khấu & Điện ảnh hôm nay; và trong các khoa Văn hay các khoa của Nghệ thuật biểu diễn, vở "Liệu đố" có thể được đưa vào giảng dạy như một kiểu mẫu của bộ môn Kịch học! Ở góc độ điện ảnh, tôi cho rằng, nếu được chuyển thể, kịch bản "Liệu đố" chứa đựng khá đầy đủ những yếu tố để hứa hẹn trở thành một bộ phim ăn khách và có giá trị nghệ thuật...
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn đã có một nhận xét chí lý về căn bản nội dung nghệ thuật vở tuồng "Liệu đố": "Phương thang của Quỳnh Phủ tiên sinh chữa cái bệnh kinh niên này (bệnh ghen- NAT) là kêu gọi lương tri, lương năng của con người thông cảm, chia sẻ cho nhau những vui buồn; nhường nhịn thương yêu nhau những được mất mới giải quyết nổi một vấn đề xã hội thường xảy ra mà không ai muốn cả. Điều quan trọng trong phương thang là vị thuốc sống thật, là sự thật. Biết được sự thật thì con người có thể sướng khổ sống bên nhau." (Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu - ông đồ nghệ sĩ- Văn hiến VN, số 8/2011). Tôi thiển nghĩ, đó cũng là nguyên do chính khiến cho vở "Liệu đố" mang hơi thở của cuộc sống hiện đại và có sức sống lâu bền qua thời gian.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 28.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Trò Chuyện Với Chân Dung Mộng Mị * - Nguyễn Anh Tuấn.
Bản đồ thế giới mà ta có thể tưởng tượng nên, chỉ được vẽ ra trong giấc mộng..."
Chasles Nodier (1)
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Trò Chuyện Với Chân Dung Mộng Mị * - Nguyễn Anh Tuấn.
Bản đồ thế giới mà ta có thể tưởng tượng nên, chỉ được vẽ ra trong giấc mộng..."
Chasles Nodier (1)
Xưa nay, những giấc mộng thường được miêu tả trong văn chương, và nhiều khôn xiết- ví như những giấc mộng trong truyện của Edga Pô, trong hồi ký Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, trong tiểu thuyết Hồng Lâu mộng của Tào Tuyết Cần, trong kinh sách của Trang Chu, trong thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch, v.v. Nhưng miêu tả giấc mơ trong hội họa thành cả một phòng tranh thì theo hiểu biết của tôi, mới chỉ có mình nữ họa sĩ trẻ Nguyễn Lý Phương Ngọc! Và cái độc đáo là những giấc mơ hiển hiện thành tranh của em lại tập trung vào những chân dung mà em đặt tên một cách vừa thật thà vừa khái quát bay bổng: "Chân dung mộng mị". Trong hai tuần qua, thỉnh thoảng tôi lại vào mạng để ngắm nghía những bức họa của phòng tranh kỳ lạ ấy, và cứ mỗi lúc, ấn tượng về từng bức tranh lại khơi dậy trong tôi bao cảm nghĩ, đánh thức những điều đã đọc đã ngẫm ngợi- có điều còn mơ hồ và có điều đã kịp in hằn trong trí nhớ...-
Phương Ngọc đã hồn nhiên kể về lai lịch của séri tranh đó như sau: "...có một dạo tôi rất hay nằm mơ vào ban đêm, gặp những khuôn mặt tôi vừa mới nhìn thấy hoặc sẽ nhìn thấy sau giấc mơ đêm ấy vài giờ... Trong số ấy, có chân dung của mẹ tôi, người đàn bà tuyệt vời nhất mà tôi chưa bao giờ mở miệng nói Con Yêu Mẹ lắm, có ba tôi, một phần quan trọng của đời tôi, và có nhiều nhiều người khác mà tôi đã tiếp xúc, đã tình cảm....". "…. Khoảng giữa năm thứ 4 đại học, vì hay suy nghĩ lung tung về các tác phẩm của bản thân, tôi hay có những giấc mơ ngồ ngộ, không đêm nào không nằm mơ, người không ra người tiên không ra tiên, cứ nhập nhòe vào nhau. Vì thế tôi bắt đầu vẽ những chân dung trong giấc mơ của mình. Chân dung tôi, chân dung những người xung quanh tôi, chân dung những người xa lạ, khỏa thân hay không khỏa thân..." (tranhphuongngoc.com)
Lai lịch này rất quan trọng- nhất là đối với một người muốn tìm hiểu cặn kẽ về tranh của em như tôi, kẻ vốn là bạn vong niên của ba mẹ em từ khi tôi còn một sinh viên văn khoa, khi đó em còn chưa ra đời, mà tôi lại mất liên lạc suốt nhiều năm với song thân của em- hai nhà thơ đã có danh từ mấy thập kỷ trước: Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên! Thật thú vị, Phương Ngọc đã cho biết: ba mẹ em chính là nguyên mẫu (prototif) quan trọng cho bộ sưu tập mới của em! "Người đàn bà tuyệt vời" và "một phần quan trọng của đời tôi" đó đã giúp cho Phương Ngọc một cội nguồn thật phong phú và sâu sắc về văn hóa, về nghệ thuật, hơn thế- về phẩm cách làm người để em có thể bơi lội, tưới tắm và trưởng thành một cách đầy tự tin trên đường đời chông gai và trên đường nghệ thuật cũng chông gai không kém! Nếu nói rằng đó cũng chính là "vật bảo đảm" cho tác phẩm của Phương Ngọc thì chẳng ngoa ngôn chút nào!
Một họa sĩ vừa tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật đã có một phòng tranh khá nổi trội- đó là kết qủa của nhiều lợi thế hiển nhiên, nhưng đồng thời cũng là một thử thách không nhỏ! Phương Ngọc vừa thoát khỏi tuổi vị thành niên, nhưng bên cạnh sự tươi tắn hồn hậu chưa mất của trẻ thơ, em đã có những suy nghĩ khá già dặn, chứng tỏ một bản lĩnh nghệ thuật không phải là vừa: "không phải ai trong giấc mơ cũng là thiên thần. Trong cái nhập nhằng hỗn độn của ý thức, những chân dung hiện ra thật kì dị..." Và không phải chỉ bằng tuyên ngôn, tranh của Phương Ngọc cho thấy nhận thức của họa sĩ trẻ đã vượt xa khỏi cái nhìn cuộc đời chỉ như một món quà thi vị- nói theo cách nói của nhà văn Nga K. Pautovski, mà đã bắt đầu thấm đượm sự lo âu, sự cảnh giác, thậm chí cả sự phẫn nộ trước cái xấu cái ác, mà lăng kính còn trẻ của Phương Ngọc tái hiện thành ma, quỷ, hoặc những hình thù gợi đến ma quỷ ("Những chân dung hiện ra thật kỳ dị" thực ra chỉ là một cách nói giảm khinh) Nhưng tôi chắc có một điều mà không ít người xem phòng tranh phải tự hỏi: vì sao nữ họa sĩ lại cứ phải nhất thiết chọn những giấc mơ để diễn tả ý tưởng và cảm xúc của mình? Không thể có câu trả lời trọn gói, cũng không thể có cách giải thích đơn giản. Và điều này chỉ một mình Phương Ngọc mới có thể lý giải nổi phần nào. Nhưng, có một điều chúng ta có thể khẳng định được ngay là: mặc dù tranh em có đầy rẫy sự kỳ bí, hỗn độn, khó hiểu, có sự thay đổi vị trí một cách kỳ quặc, có những cách cảm nghĩ tưởng chừng xa lạ với đời thường, nhưng chắc chắn đó không phải là "một sản phẩm vô nghĩa của hoạt động bị nhiễu của tâm linh", mà ngược hẳn lại, bộc lộ rõ rệt rằng: những "Giấc mơ là một thành quả Tâm lý riêng của người chiêm bao", là kết quả của "sức chống đối giữa cái tôi đã thức tỉnh và cái vô thức bị chèn ép"- nói như nhà phân tâm học nổi tiếng người Áo Sigmund Freud (2). Sau khi phân biệt "nội dung hiển nhiên của giấc mơ" và "nội dung tiềm ẩn của giấc mơ", Freud đã viết rất hay và đầy thuyết phục như sau: "... thường những suy nghĩ trong Giấc mơ gần nhất lại dễ thu hút chúng ta nhất bởi vẻ ngoài khác thường của chúng. Chúng được diễn đạt không bằng ngôn ngữ đời thường mà chúng ta quen tư duy, mà bằng thứ ngôn ngữ biểu tượng đầy những sự so sánh và phép ẩn dụ, và giàu hình ảnh như ngôn ngữ thi ca" (3) Và chính Freud đã trân trọng nhắc lại lời của nhạc sĩ thiên tài Schubert trong chuyên luận quan trọng nhất của ông ("Về Giấc mơ"): "Giấc mơ là sự giải phóng cho Tâm linh khỏi các trói buộc của thiên nhiên bên ngoài, là sự cởi trói cho Tâm linh thoát khỏi năng lực cảm nhận." (4) Có thể lấy ngay những bức tranh Chân dung mộng mị của Phương Ngọc để làm dẫn chứng sinh động cho những dòng trên viết cách đây tròn hai thế kỷ!
Hãy nghe chính Phương Ngọc nói về nội dung những bức Chân dung mộng mị của mình: "Tôi vẽ những trạng thái cảm xúc của người hoạ sĩ. Những lúc bế tắc, những lúc xấu xí, những lúc hoảng loạn, những lúc thăng hoa..."- "Tôi đưa những mờ ảo, những suơng khói không thực của mộng mị hòa cùng các phụ nữ khỏa thân, để họ đuợc bay lên, đuợc tan ra, và đuợc tung hoành theo kiểu của riêng tôi..."
Khi vẽ Chân dung mộng mị như một thể nghiệm đề tài và bút pháp, dường như họa sĩ đã không quan tâm nhiều lắm đến cách thức thể hiện- chúng có thể là sơn dầu cổ điển, là thủy mạc, là tranh kính, là tranh đồ họa, là ký họa, v.v. Chúng có thể bị ảnh hưởng bởi các trường phái Siêu thực, Đa đa, Dã thú... Chúng có thể làm người xem gợi nhớ đến Vlaminh, đến Vangoc, đến Rútxô, đến Goganh... Nhưng điều quan trọng đối với Phương Ngọc lúc này là diễn đạt được điều muốn nói, bộc bạch được cảm nghĩ đến người xem tranh một cách trực tiếp. Con đường của họa sĩ trẻ còn rất dài, và ta tin ở bản lĩnh vượt khỏi chính mình cùng những ảnh hưởng ngoại lai của em!
Trong năm cách phân loại về Giấc mơ hình thành từ thời cổ xưa cho tới trước những những công trình phân tâm học của Freud, có một loại rất gần gũi với những bức tranh Chân dung mộng mị của Phương Ngọc: coi mộng là sự khao khát, sự kêu gọi của tiềm thức đối với cái Chân- Thiện -Mỹ. Thi hào Đức Goethe từng viết: "Trong đời tôi có nhiều lần đau khổ, nuốt nước mắt. Nhưng sau khi tôi lên giường nằm, cảnh mộng có thể dùng mọi hình thức dẫn dắt và an ủi tôi, làm cho tôi siêu thoát khỏi nỗi bi thương mà đổi lại được sự nhẹ nhàng vui vẻ..." (5) Trong mơ, khi cầm một khuôn mặt để làm gương soi, Phương Ngọc phải chăng muốn tìm lại "sự nhẹ nhàng vui vẻ" ấy qua ký ức êm đềm của tuổi thơ?
Điều khiến ta nể trọng ở họa sĩ này là, mặc dù em vẽ như hết sức thoải mái, tưởng chừng không gò bó câu thúc về cách thể hiện, không quan tâm chúng có vô tình lặp lại phong cách của một họa sĩ nào trong nước hay quốc tế hay không, song thực ra, em đã có những cân nhắc suy tính kỹ lưỡng trước khi cầm cọ. Họa sĩ từng tâm sự: "Làm sao có thể chuyển tải những mờ ảo của giấc mơ từ không gian 3 chiều lên mặt tranh 2 chiều? Làm sao có thể diễn tả những chân dung mộng mị kì quặc một cách hội họa nhất? Làm sao nêu lên những ý tưởng của mình cho người xem một cách rõ nhất, để người xem có thể tiếp nối mạch cảm xúc và ngẫm nghĩ thêm?"
Những suy tính như thế chỉ có thể có ở một họa sĩ chuyên nghiệp đã từng kinh qua một quá trình học tập bài bản lâu dài và căng thẳng, rồi sau đó lại theo học Quốc họa ở nước ngoài... Nhưng đáng trân trọng hơn cả là người họa sĩ trẻ ấy đã tìm đến cội nguồn văn hóa dân tộc cho sáng tác của mình, coi đó là nguồn cảm hứng chính, nguồn nguyên liệu chính, và coi đó là những người Thầy cho cả đời mình. Em đã "tìm về cội nguồn màu sắc để thấy men tranh Việt khác với men tranh các tộc người khác, để tiếp thu, kế thừa và nuôi dưỡng chất men ấy trong nền hội hoạ đương đại Việt Nam, mà giấc mơ theo đuổi." Phương Ngọc lý giải điều này như sau:"Mỗi dân tộc đều có "men" mặt riêng... Không thể trộn lẫn hay hoà tan men Việt thành men dân tộc khác. Men Việt ấy ẩn sâu trong ánh mắt thoảng buồn và nụ cười hoa gió. Men Việt ấy tự xưa đã chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên vách đá Động Người Xưa, rừng Cúc Phương và trong các tích chèo cổ. Và sau này, trăm năm lại đây, men Việt ấy hoạ vào tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống..." Tôi đã phải giật mình: thi hứng "Kinh thành cổ tích" của ba em phải chăng cũng tham dự phần đáng kể vào nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào đang khơi mạch trong em? Trong bài thi tốt nghiệp Mỹ thuật chuyên khoa, chẳng phải là em đã dựng lên không ít những Gương Mặt chèo cổ- gian nịnh có, trung nghĩa có, đau khổ có, tươi vui có- chúng sẽ là nguyên mẫu, là sự gợi ý trực tiếp cho các Chân dung mộng mị đó sao?
Nhưng có một điều mà họa sĩ trẻ cũng chưa ý thức được hết: khi trăn trở để vẽ Chân dung mộng mị, em đang làm cái việc mà chính những nhà phân tâm học hàng đầu trong lĩnh vực giải thích, đúng hơn là đi tìm kỹ thuật giải thích Giấc mơ đã từng khai mở và đang còn tiếp tục tìm kiếm: tức là đi tìm Hệ ký hiệu toàn vẹn và thống nhất cho giấc mơ, bởi như Freud đã viết: "Hệ ký hiệu còn dẫn dắt đi xa, vượt ra ngoài phạm vi Giấc mơ. Nó không phải của riêng Giấc mơ, nó còn ngự trị như vậy ở các truyện cổ tích, truyện thần thoại và truyền thuyết, truyện cười và văn hóa dân gian..." (6) Trong tranh Phương Ngọc, có thể dễ dàng tìm thấy những dấu vết đậm đà của một thời trẻ thơ chìm đắm trong thần thoại cổ tích thần kỳ Việt Nam, trong truyện Andersen, truyện cổ Grim, v.v- qua những gương mặt lúc là công chúa, hoàng tử, các bà tiên, lúc là mụ bạch tuộc lấy cắp giọng hát của Nàng tiên Cá, hoặc quỷ Mêđuyza với chùm rắn lượn trên đầu...- có nghĩa là trong tư duy sáng tác của em từng diễn ra cái chặng đường tìm tòi của nhân loại từ thuở ấu thơ, như nhà Folklore học cự phách người Nga E.M. Meletinsky đã nhận xét: "có những nhân tố còn chưa phân tách con người ra khỏi tự nhiên trong tư duy thần thoại nguyên thủy..." và sau đó "là sự chuyển dịch từ huyền thoại sang cổ tích- nghĩa là sang số phận của cá nhân con người" (7). Theo Meletinsky, "các nhà lãng mạn Đức nhìn thấy ở huyền thoại một nền nghệ thuật lý tưởng, đối lập gay gắt với chủ nghĩa cổ điển về sự phục tùng tuyệt đối của thiên nhiên trước các nền văn minh... đã đặt nhiệm vụ sáng tạo một hệ huyền thoại nghệ thuật mới, có thể diễn tả sự đồng nhất sâu sắc, lâu đời giữa thiên nhiên và tinh thần con người, giữa tự nhiên và lịch sử..." (8) Họa sĩ Phương Ngọc đang thực hiện cái sự nghiệp gian khổ đó- bằng những sáng tác vừa hồn nhiên vừa trầm lắng suy tư của mình, và đặt thêm một viên gạch vững chãi cho nền nghệ thuật hậu hiện đại đang còn mới mẻ ở nước ta!
Trong loạt tranh Chân dung mộng mị, tôi đặc biệt chú ý đến những bức tranh mà các nhân vật (chủ yếu là nữ) được chìm trong nước- và theo tôi đó là những bức tranh đẹp nhất, gợi nhiều suy nghĩ nhất... Phương Ngọc có bài viết Ma trận mầu sắc, em cho biết: "Theo lộ trình Kinh Dịch với Âm Dương - Ngũ Hành tôi tìm về cội nguồn màu sắc tranh Việt." Em đã phân tích kỹ các màu sắc theo ngũ hành, và dành cả một phần nói vềSinh, vượng và kiêng kỵ của màu sắc Thủy qua các mùa. Hãy ngắm nhìn những Giấc mơ chìm trong nước... Những dáng hình người được dung dưỡng, được mơn man, được chở che trong nước... sao mà quyến rũ, sao mà gợi nhớ thương và trìu mến đến vậy! Tôi nhớ đến những dòng viết về nước cực kỳ lý thú của nhà phê bình phân tâm học người Pháp Gaston Bachelard. Theo ông, thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung thực ra chỉ là sự mơ mộng xoay quanh các yếu tố vật chất nguyên thủy làm nên sự sống: lửa, nước, đất và không khí. Sau khi đã có một công trình "Phân tâm học về lửa" thật công phu, G. Bachelard lại viết về nước như một đối tượng tâm học quan trọng đối với ông- tác phẩm "Nước và giấc mơ". Ông viết thật say sưa: "... đối với trí tưởng tượng vật liệu hóa, cái chết của nước tư lự hơn cái chết của đất vì nỗi vất vả của nước là vô tận" (9) "Đối với tôi, một chi tiết nhỏ nhoi trong cuộc đời của nước thường trở thành một tượng trưng tâm lý học chủ yếu... rằng cái cây của lòng suối phải phát ra tâm hồn của nước... và nó thức dậy trong tôi một cảm giác khác thường" (10) Với nhà phê bình phân tâm học độc đáo này, nước "là một giá đỡ các hình tượng và sớm thành sự gom góp hình tượng, là nguyên lý sáng tạo ra các hình tượng... nước ngày càng trở nên một yếu tố của trí tưởng tượng đang vật liệu hóa..." Và: "nước là một bộ phận của thế giới, là chất nuôi dưỡng cho hình tượng đang trôi chảy, là yếu tố đang mọc vươn lên, yếu tố sáng loáng, là cơ thể của nước mắt..." (11)
Trước tình yêu hội họa và lòng quyết tâm đầy tự tin của nữ họa sĩ trẻ, tôi chỉ còn biết nghiêng mình kính nể: "Càng vẽ tôi càng yêu những "Chân dung mộng mị" của mình..."- "Có thể bây giờ, khả năng vẽ của tôi chưa đạt đến trình độ chín muồi, nhưng cảm xúc thì luôn tươi mới, luôn mạnh mẽ và đủ để chinh phục chính bản thân mình..."
Lúc này, chắc Phương Ngọc lại đang chật vật và phóng túng tìm kiếm những Chân dung mộng mị mới của em, không cần biết tới những thuật chiêm mộng thời cổ đại, những máy thăm dò các giấc mơ của Mỹ, những lý thuyết hiện đại rắc rối về Giấc mơ, em đào sâu vào nội tâm mình, kích thích trí tưởng tượng, giải phóng năng lượng Tâm linh để có thể tiếp tục chiêm nghiệm về cuộc đời thông qua những Gương Mặt- những Dáng Người chất chứa năng lượng của thơ ca, âm nhạc, triết lý- đó cũng là một thứ lịch sử của thế giới có khả năng giúp con người sống gần với chất Người hơn...
Tôi xin kết bài viết nhỏ này, cũng là một cách tóm lược lại cái nội dung cảm xúc dồn nén và bùng nổ trong Chân dung mộng mị của họa sĩ bằng một đoạn của cuốn sách rất thú vị viết về hội họa- "Đại tượng vô hình": khi miêu tả đời sống hội họa Trung Hoa cổ, nhà triết học Pháp F. Jullien đã nhấn mạnh tới cái không gian mà tâm linh được giải thoát khỏi những kiểu cách sự vật để có thể biến hóa mặc sức, ông viết: "bằng cách kín đáo liên kết lại trong một trực cảm những thứ mà trong cuộc sống thường ngày người ta thấy riêng rẽ, họa sĩ cho ta thấy một sự nhất quán sâu kín hơn, đào sâu vào sự tưởng nhớ đến căn nguyên và giải thoát khỏi phạm trù hóa sự vật... trong nội tâm và bàn tay của họa sĩ "tự nó đáp ứng và hòa đồng"... "đạt đến" cái nhất quán bên trong của cái thấy được và "thâm nhập" vào lĩnh vực tâm linh: lúc đó ý độ biểu đạt không còn tính chật hẹp, riêng biệt, cá thể của một cảm xúc riêng thuộc loại hình nhất định, mà là một cảm xúc tỏa ra tự phát, bất tận của mọi xúc cảm trên thế giới xuyên qua bản thân tôi..." (12)
Cảm ơn nữ họa sĩ trẻ Phương Ngọc!
Hà Nội, 11/1/ 2011
Nguyễn Anh Tuấn
(Đạo diễn điện ảnh)
----
* Phòng triển lãm tranh Chân dung mộng mị của nữ họa sĩ Phương Ngọc tại 218A Pasteur từ 15-12-2010
1. Dẫn theo: Phân tâm học và văn học nghệ thuật- Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội-2000, tr.294
2. S. Freud- Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ- Nxb Thế giới, HN- 2005, tr. 47-197
3. S. Feud... Sđd, tr. 56, 72
4. S.Freud... Sđd, tr.48
5. Dẫn theo: Bí ẩn của Chiêm mộng- Diêu Vĩ Quân- Nxb Văn hóa-Thông tin, HN- 1996 -tr.192
6. S.Freud... Sđd, tr.100
7. Thi pháp của huyền thoại- Nxb ĐHQG Hà Nội- 2004- tr.359
8. Thi pháp...Sđd, tr.387
9. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa-Thông tin, HN- 2000, tr.273
10. Phân tâm học và...,Sđd, tr.275.
11. Phân tâm học và..., Sđd, tr. 282-283
12. F. Jullien- Đại tượng vô hình- Bàn về tính phi-khách thể qua hội họa- NXB Đà Nẵng, 2004 (Chương: Hội họa viết nên cái gì?, trang 349)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 11.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Một không gian nghệ thuật kỳ lạ.
Nguyễn Anh Tuấn.
* Phòng triển lãm tranh Chân dung mộng mị của nữ họa sĩ Phương Ngọc tại 218A Pasteur từ 15-12-2010
1. Dẫn theo: Phân tâm học và văn học nghệ thuật- Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội-2000, tr.294
2. S. Freud- Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ- Nxb Thế giới, HN- 2005, tr. 47-197
3. S. Feud... Sđd, tr. 56, 72
4. S.Freud... Sđd, tr.48
5. Dẫn theo: Bí ẩn của Chiêm mộng- Diêu Vĩ Quân- Nxb Văn hóa-Thông tin, HN- 1996 -tr.192
6. S.Freud... Sđd, tr.100
7. Thi pháp của huyền thoại- Nxb ĐHQG Hà Nội- 2004- tr.359
8. Thi pháp...Sđd, tr.387
9. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa-Thông tin, HN- 2000, tr.273
10. Phân tâm học và...,Sđd, tr.275.
11. Phân tâm học và..., Sđd, tr. 282-283
12. F. Jullien- Đại tượng vô hình- Bàn về tính phi-khách thể qua hội họa- NXB Đà Nẵng, 2004 (Chương: Hội họa viết nên cái gì?, trang 349)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 11.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Một không gian nghệ thuật kỳ lạ.
Nguyễn Anh Tuấn.
Nghệ thuật hậu hiện đại (còn được gọi là Nghệ thuật đương đại)- một hiện tượng đã quá quen thuộc tại các nước phát triển, nhưng cho đến nay, ở nước ta vẫn đang chỉ là những thể nghiệm mới mẻ, đầy rụt rè, và dư luận công chúng còn ở trạng thái thăm dò… Vì vậy, những tìm tòi có tính chất tiên phong của những nghệ sĩ giàu tâm huyết trong nền nghệ thuật mới này là rất đáng trân trọng. Hoạ sĩ Văn Ngọc là một trong những nghệ sĩ như thế…
Dường như cái nắng gió quá thừa thãi của Thành phố biển Vũng Tàu lại khiến hoạ sĩ Văn Ngọc cảm thấy sự thiếu thốn đến ngẩn ngơ cái mộc mạc của đất đai, cây cỏ; và điều đó dẫn đến sự bức bối đến ngột ngạt của không gian…Ta lờ mờ hiểu vì sao anh đặt tên cho ngôi nhà mình đang sống ở một ngõ hẻm cái tên kỳ dị: "Prison”(nhà tù), và nó gắn với tên anh như một định mệnh! Nhưng bỏ qua cái biển "Prison”, vừa bước vào bên trong, ta thấy ngay sự "nổi loạn” của anh chống lại định mệnh, anh "tuyên chiến” với những gì là "quy phạm”, những gì mà thiên hạ coi là "văn minh”: anh tìm mọi cách đưa thiên nhiên, kể cả những thứ phế phẩm vào khung cảnh sống của gia đình mình (mẩu gỗ cháy dở, thanh côp-pha nham nhở vữa bỏ đi, nồi gốm sứt mẻ, ống thoát nước đất nung bị loại, v.v.) Thế rồi, những con ong bay về tìm đến các hộp gỗ đục lỗ để làm tổ. Dây leo cây dại mọc tự nhiên trên những hòn đá được bày làm ghế ngồi quanh sân. Tượng gỗ hình bù nhìn đuổi chim thường thấy ở các ruộng vườn Bắc Bộ chiếm lĩnh các góc sân nhà… Anh làm sống dậy những mảnh vụn đã bỏ đi đang trôi dạt giữa biển cả, giữa lãng quên và bao sự ngổn ngang bụi bặm của đời, cho chúng một linh hồn, thậm chí thổi vào chúng cái cảm hứng của vũ trụ- một vũ trụ vẫn thường hiện hữu quanh ta mà chỉ với sự hồn nhiên không vụ lợi của người nghệ sĩ mới có thể phát hiện ra được. Hàng ngày anh vẫn đối thoại với những mảnh vụn ấy, tìm cho chúng một vị trí tồn tại, hơn thế- một lý do để tồn tại, nghĩa là tạo cho chúng một hình thức mới, một hàm nghĩa mới có khả năng giao cảm trực tiếp với người xem. Cảm xúc nồng nàn, trí tưởng tượng hầu như không có giới hạn, cộng với mồ hôi của một thứ lao động khổ sai hàng ngày hàng giờ đã tạo ra các chi tiết nghệ thuật, và các chi tiết nghệ thuật đó luôn luôn mằm trong cái "tâm thế ” sẵn sàng hoà nhập vào những tổng thể nghệ thuật được mang tên: Bộ Tứ bình, Bộ Đèn lồng, Bộ Nghĩa trang, Bộ Máng, Bộ Chữ cái, Bộ Vũ trụ, v.v. Tất cả lại được sinh ra trong một không gian như chỉ để dành riêng cho chúng! Và cái không gian ấy, ở vùng biển xa phương Nam, lại càng đậm sắc thái vùng trung du miền Bắc... Trong "Vựng tập Hoạ sĩ trẻ VN" của hai tác giả Phan Cẩm Thượng và Lương Xuân Đoàn, nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng đã viết về Văn Ngọc như sau: "Sinh trưởng ở Vĩnh Phú, một vùng trung du khô cằn hoang vu, Văn Ngọc trải qua thời niên thiếu gian nan phản chiếu đầy mâu thuẫn trong tranh của Văn Ngọc. Trong đó vừa có sự cằn cỗi khắc khổ, vừa có sự tự lạc quan mơ ước bình yên. Cảm giác cay đắng chen lẫn ý vị ngọt ngào. Tâm trạng đó đã dẫn đến một bút pháp mạnh mẽ… tính chất mở được đảm bảo bởi đời sống nhân văn có tính mạch ngầm từ các truyền thống làng xã Bắc Bộ”.
Những dòng trên nhận định về tranh của Văn Ngọc, và hoàn toàn cũng có thể dùng để nói về điêu khắc-sắp đặt của anh...
Văn Ngọc tốt nghiệp khoa hội hoạ năm 1992, ở cái "lò” đào tạo hoạ sĩ nổi tiếng của VN theo trường phái École des Baux Arts trong nhiều thập kỷ của thế kỷ truớc (giờ là trường ĐH Mỹ thuật Hà Nôị). Từ năm 1995 đến năm 2006, anh đã có mặt trong nhiều triển lãm, trại sáng tác trong nước và nước ngoài, các phòng sưu tập tranh… Anh đã ghi được dấu ấn riêng của mình- dù còn khá khiêm tốn trong lịch sử hội hoạ VN đương đại… Nhưng hoạ sĩ Văn Ngọc không dừng lại ở những thành tựu đã có. Với sức sáng tạo chưa hề vơi cạn, anh đã tìm sang lãnh địa điêu khắc, và tìm tòi những hình thức thể hiện mới cho các ý tưởng nghệ thuật ngày một sâu sắc của mình. Đã từ lâu, hoạ sĩ này không còn là một hoạ sĩ vẽ tranh- theo cách hiểu cổ điển về một hoạ sĩ là phải làm việc với toan, sơn dầu, pa-let… Văn Ngọc giờ đây làm việc với các chất liệu gỗ, sắt, gốm…- chủ yếu là gỗ, dĩ nhiên bằng cả màu trong tuýp, bên cạnh màu của thiên nhiên… Sau một thời gian miệt mài lao động, anh đã có quyền giới thiệu với công chúng yêu nghệ thuật những tác phẩm mới nhất của mình- không phải hội hoạ, không phải điêu khắc, cũng không phải là một sự trộn lẫn hội hoạ với điêu khắc một cách cơ học.
Ở giai đoạn sáng tạo mới mẻ này, trong khi tìm tòi những cách thể hiện mới, anh vẫn trung thành với những niềm tin mỹ học của mình. Nghe anh kể say sưa về những bộ phim "kén” khán giả như Muì đu đủ xanh, Mùa hè chiều thẳng đứng, Long vân khánh hội, Đèn lồng đỏ treo cao… thì cũng có thể hiểu được phần nào những suy tư nghệ thuật của người hoạ sĩ này. Anh đang muốn đi đến tận cùng những tìm tòi nghệ thuật của mình, nhưng không phải bằng sự liều lĩnh, bất chấp mọi quy luật thẩm mỹ chung, mà bằng những trải nghiệm căng thẳng có sự soi sáng của tri thức văn hoá nhân loại, và dĩ nhiên- bằng cả vốn liếng tạo hình rất cơ bản được mài rũa qua nhiều năm tháng. Mấy năm trước, anh đã được mời tham các dự trại sáng tác về nghệ thuật đương đại ở Pháp (Toulouse), ở Mỹ (Vermont). Tại "quê hương” của những sáng tạo mỹ thuật đương đại, anh đã học hỏi được những điều lý thú, kết hợp với những trải nghiệm và kiến thức của bản thân, anh đã vận dụng linh hoạt những hình thức mới mẻ để làm phong phú cho chính tác phẩm của mình. Anh đã có những tác phẩm sắp đặt- trình diễn được chú ý ở hai Trại sáng tác quốc tế này, như: "Phản đối chiến tranh”, "Sự bất đồng ngôn ngữ”, "Hành trình của người nghệ sĩ”… Và đặc biệt, việc lấy những tờ in tác phẩm Truyện Kiều làm chất liệu cơ bản cho tác phẩm sắp đặt "Tưởng nhớ người xưa” đã được các đồng nghiệp ở trại sáng tác quốc tế tán thưởng, khâm phục. Ý tưởng sáng tạo đó chỉ có thể xuất phát từ một nền tảng văn hoá thấm đẫm hồn dân tộc, giúp cho sự vận dụng những hình thức mới không rơi vào sự lai căng, xa lạ… Cách đây 8 năm, Văn Ngọc đã có tác phẩm sắp đặt độc đáo mang tên Dư chấn trong triển lãm khu vực miền Đông Nam Bộ, và đã được giải thưởng của Hội Mỹ thuật VN- giải thưởng đầu tiên được công nhận như công nhận ngôn ngữ nghệ thuật sắp đặt là một ngôn ngữ bình đẳng với các hình thức mỹ thuật khác, sau rất nhiều tranh cãi gay gắt. Và gần đây nhất, trong năm 2008, Bộ tác phẩm Vũ Trụ của anh đã đến được với người xem đông đảo. Cũng chính ở tại không gian nhỏ hẹp này, hai chiếc xe tải lớn phải hết sức chật vật mới chuyển nổi hàng tấn tác phẩm bằng gỗ và sắt của anh lên Thành phố HCM để bày triển lãm mang tên: "Điêu khắc - Sắp đặt Vũ Trụ". Anh đã tự giải thích: "Mặt trời - mặt trăng - mặt đất - mặt biển - mặt người chính là ý niệm của cuộc triển lãm Điêu khắc- Sắp đặt đó...." Hoạ sĩ Đào Minh Tri, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật Tp. HCM đánh giá cao Văn Ngọc bởi sự độc đáo, tính chuyên nghiệp, và đích thân ông đã mời anh mang tác phẩm lên bày triển lãm với mục đích giao lưu, học hỏi giữa các nghệ sĩ trẻ đương đại phía Nam. Hoạ sĩ Phạm Đỗ Đồng, phó chủ tịch Hội Mỹ thuật Tp. HCM đã nói hộ nhiều người cái cảm xúc khi đến với Triển lãm này như sau: "… Anh đã cho những mảnh vụn của cuộc sống nói lên tiếng nói của mình… để nói rằng trách nhiệm của con người- một sinh vật có lý trí- một ngày kia sẽ còn bao trùm cả vũ trụ… Chúng ta đang chuyển động cùng nhau như những khối lập phương đa dạng và xù xì đang trôi, không hơn; vì vậy đừng quá thiên về sự khác nhau, sự vượt trội sinh học để đi đến sự thiếu bình đẳng… Cái lạ ở đây là: bằng cách sử dụng chất liệu uyển chuyển, tế nhị và không khó cảm nhận, tác giả đã làm cho chúng ta nhận thấy những khối lập phương ấy đang vận hành đúng như vậy thật!”
Bộ tác phẩm Vũ Trụ thực ra chỉ là một phần rất nhỏ của khối lượng tác phẩm đồ sộ vẫn còn đang nằm yên lặng trong "kho tàng” của hoạ sĩ Văn Ngọc! Tôi đã từng được chủ nhân cho phép đi một mình trong cái "kho tàng” ấy, giữa một không gian lờ mờ sáng tối lẫn lộn, với một tâm lý vừa tò mò, vừa lo sợ, vừa thích thú; trong lòng chợt nảy ra một ước muốn mạnh mẽ là được "đối thoại” với những sản phẩm nghệ thuật được tạo ra từ gỗ, sắt, sơn dầu và màu tự nhiên mà giờ đây như cũng có một số phận riêng, một nỗi niềm riêng. Chúng dường cũng có khả năng thầm thì, ca hát, nhảy múa, cả kêu gào nữa, một khi được kết hợp với nhau theo một cách nào đó của "cây đũa thần” trong tay "phù thuỷ” Văn Ngọc! Thực ra, "cây đũa thần” của hoạ sĩ Văn Ngọc mà tôi được nhìn thấy chỉ là cây búa, cái cưa, chiếc kìm, sợi dây thừng, đoạn dây thép, chiếc panh-xô… Với anh, chất liệu- vật liệu sáng tác không hề quan trọng, và thị giác chỉ là một cái cớ để từ đó tìm đến những ảo giác về thực tại. Tác phẩm của anh có nhiều chi tiết gần với những biểu tượng tôn giáo cổ xưa, thậm chí gần với những nét chạm khắc của người nguyên thuỷ trong hang đá… Nhiều năm nay, anh tự nguyện giam mình trong "Nhà tù”, đóng đinh và buộc chặt mình trong những chất liệu tầm thường, bằng những dụng cụ tầm thường, nhưng điều đáng nói là: với anh, chúng lại có thể tạo ra được một không gian sáng tạo hết sức đặc biệt. Không gian ấy mang tên Văn Ngọc! Nó kỳ lạ với cách cảm, cách nghĩ thông thường, nhưng sẽ trở nên gần gũi, và cần thiết, khi biến thành một phần hữu cơ của cuộc sống bề bộn ngổn ngang đang muốn tìm một trật tự sâu lắng tận đáy sâu tâm hồn người…
Sau những buổi khai mạc triển lãm của mình hay của anh em bè bạn, bao giờ cũng thế, Văn Ngọc lại vội vã trở về ngôi nhà kỳ lạ của mình ở Vũng Tàu, với những ý tưởng mới chợt xuất hiện; anh lại lang thang trong các xưởng mộc để nhặt nhạnh các mẩu, các thanh gỗ phế thải, để rồi sẽ iếp tục lắp ghép và thổi vào chúng cái hồn của mình, cho chúng một đời sống riêng… Biển khơi rộng lớn với những ốc đảo thần tiên, và cả những cơn bão lớn đang chờ đợi người nghệ sĩ trẻ đã bước vào tuổi ngũ thập này- người chưa một giây phút nào tự bằng lòng với mình, trong cái không gian đã "trót” được mang tên anh …
Nguyễn Anh Tuấn
(Đạo diễn điện ảnh)
----
(Đã in trong tạp chí Trí tuệ 2008)
Ảnh:
1. Họa sĩ Văn Ngọc bên cổng xưởng làm việc của anh
2. Một góc nhà của họa sĩ văn Ngọc
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Người Hiệp Sĩ Nơi "Văn Đàn Bi Tráng"
Nguyễn Anh Tuấn.
Canh giữ bảo tàng và quét bụi
Các tượng đài văn nhân.
... Hàng ngày tôi chiêm ngưỡng
Hymalaya-vĩnh-cửu của tâm hồn…
Nội tâm bị tra tấn
Nhân phẩm bị hành hình
Những khổ nạn đớn đau và hy vọng
Biểu trưng của những văn tài
Họ bùng cháy
Cháy quyết liệt, cháy kiệt cùng tâm huyết
Để chỉ còn đốm lửa nhỏ gửi mai sau.
Niềm say mê văn chương khiến nhà thơ không ít khi rơi vào cảnh ngộ "dở cười dở khóc":
Tôi ngốn hơi bị nhiều tác phẩm đặt hàng gia công
Văn hợp đồng khuyến mãi
Thi phẩm cổ đông
Bình văn cổ phiếu
Thơ mỹ nhân kế suýt chết chìm mấy phen.
Những lời ngợi khen cuồng nhiệt sẽ qua đi như tiếng ồn trong phút giây
Anh sẽ nghe thấy lời phán của kẻ ngu và tiếng cười của đám đông ghẻ lạnh
Nhưng hãy luôn luôn kiên định, bình tĩnh và đăm chiêu...
(Phạm Vĩnh Cư dịch) 2
Hãy lắng nghe lòng mình trong im lặng
Sẽ thấy sấm rền ở phía chân mây!
Không ít cuộc phế hưng
Bắt đầu từ đồng dao con nít
Không ít ngọn núi lửa
Thức đậy từ địa chấn nhân văn.
(Đã in trong tạp chí Trí tuệ 2008)
Ảnh:
1. Họa sĩ Văn Ngọc bên cổng xưởng làm việc của anh
2. Một góc nhà của họa sĩ văn Ngọc
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Người Hiệp Sĩ Nơi "Văn Đàn Bi Tráng"
Nguyễn Anh Tuấn.
Tôi đọc trường ca "Văn đàn bi tráng"(1) của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm nhiều lần, lần nào cũng phải ngỡ ngàng, thậm chí thấy ngợp trước sự phong phú và kỳ lạ của nó- cả nội dung lẫn hình thức thể hiện... Và ngay lần đọc đầu tiên, một ấn tượng đã nảy sinh trong tôi: tác giả VĐBT phải chăng đã vô tình làm một "hiệp sĩ"?...
Hình tượng người "hiệp sĩ" xuất hiện suốt thiên trường ca VĐBT, lúc ẩn lúc hiện, như một nhân vật chính, khiến ta không khỏi liên tưởng tới nhân vật Don Quichotte của văn hào Servantes, người có lúc đánh nhau với cả cối xay gió, anh ta thất bại nhưng người đọc lại rút ra được một cái gì đó cần thiết cho bản thân, anh ta đi tìm- có thể không tìm thấy cái mình tìm nhưng người đọc lại tìm thấy điều có ích... Anh ta chân thật và cả tin tới tới mức dại khờ- (chính tác giả VĐBT cũng cho tôi cái cảm giác ấy khi đọc tác phẩm: "Từng thiện lương để đổi về tai họa/ Từng thủy chung đến độ phải nghi ngờ", hoặc: " Tôi lo ngại cái dại khờ đang vào kì suy thoái/ Để khôn ngoan hãnh tiến bước lên sàn)- sự dại khờ khiến nhiều lúc "hở cả xương sườn" có thể bị đâm đến tử thương; song khán giả của võ đài- độc giả của thiên tiểu thuyết "Chàng kị sĩ tài hoa xứ Mancha" sẽ có thêm dịp để chiêm ngưỡng vẻ đẹp lý tưởng trong tâm hồn người dám xả thân bảo vệ công lý và sự thật!
Ở VĐBT, quả là tác giả đã xuất hiện trong tư cách kép: "hiệp sĩ" và thi sĩ- đúng hơn là thi sĩ trong "hiệp sĩ" và thi sĩ khác áo "hiệp sĩ"! Đã là "hiệp sĩ" như đúng danh từ này, anh ta phải đứng ra bảo vệ một điều gì thật thiêng liêng. Và đối tượng bảo vệ ở đây là văn chương đích thực mà "Dẫu trang bị bằng ngôn từ thiết giáp/ Thì thơ nào phận số cũng mong manh", hơn nữa, nó từng và có thể còn đang bị bủa vây xâm thực bởi chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng, bởi những gì rất xa lạ với văn chương song lại nhân danh những điều giả dối và to tát vì Con người...
Hiệp sĩ của Tây Ban Nha xưa bi hài; hiệp sĩ văn chương Việt Nam nay bi tráng; một nụ cười; một nước mắt!... Vẫn biết sự so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng đây là sự liên tưởng- tuy có phần cảm tính và bồng bột song chân thành của tôi. Chắc còn nhiều điều khiếm khuyết, mong nhận được sự trao đổi thẳng thắn.
Theo thiển ý riêng tôi, phải xuất phát từ điểm này mới có thể thâm nhập vào cốt lõi tác phẩm VĐBT, mới mong khái quát được một tác phẩm có vẻ ngoài rất kỳ lạ và có sự phát triển chủ đề khá phóng túng, với hàng loạt tổ hợp hình ảnh và cấu trúc khá phức tạp mà có thể chính tác giả đôi lúc cũng không kiểm soát nổi!
Khi viết Thương nhớ tài hoa, Người thám hiểm thời gian, Nghìn câu thơ tài hoa, hoặc Đi tìm mật mã của thơ, Nguyễn Vũ Tiềm cũng đã luôn chứng tỏ là một "bà đỡ" tận tình của thơ ca, một "hiệp sĩ" biết nghiêng mình trước hạt bụi vàng của thơ mà "đời lặng thầm bỏ sót" (thơ Lưu Trọng Lư - cũng là một tác giả trong Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm). Trong VĐBT, ông không ít lần nói về niềm mê say của mình trong một công việc khổ sai nhưng lại là một sứ mệnh cao quý:
Thực ra, tôi chỉ là một nô bộc trung thànhCanh giữ bảo tàng và quét bụi
Các tượng đài văn nhân.
... Hàng ngày tôi chiêm ngưỡng
Hymalaya-vĩnh-cửu của tâm hồn…
Nội tâm bị tra tấn
Nhân phẩm bị hành hình
Những khổ nạn đớn đau và hy vọng
Biểu trưng của những văn tài
Họ bùng cháy
Cháy quyết liệt, cháy kiệt cùng tâm huyết
Để chỉ còn đốm lửa nhỏ gửi mai sau.
Niềm say mê văn chương khiến nhà thơ không ít khi rơi vào cảnh ngộ "dở cười dở khóc":
Tôi ngốn hơi bị nhiều tác phẩm đặt hàng gia công
Văn hợp đồng khuyến mãi
Thi phẩm cổ đông
Bình văn cổ phiếu
Thơ mỹ nhân kế suýt chết chìm mấy phen.
Nhưng có vậy nhà thơ mới đủ kinh nghiệm và cả sự hài hước để "Cười câu thơ giả dối / Khóc câu văn lý tài", để cười cợt những "Tháp vinh quang ảo mờ/ Miệng hố rác sôi réo"; để bình thản lắc đầu ngán ngẩm trước "Mối lo bạc tóc/ Sự hoảng hốt hãi hùng của vài mươi tác giả/ Mỗi khi có tiếng xe rác thời gian xịch đến trước hiên nhà" để "ra nghĩa địa…ve chai". Ông giáng đòn không thương tiếc vào thói hư danh trong văn chương: "Nhiều người còn sống khỏe/ Mệt mỏi vì đánh bóng tuổi tên/ Sách đã hòa tan, bốc khói."
Tôi tin chắc rằng, trước khi bắt tay viết VĐBT, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã hùng hồn viết ra những tuyên bố này cho mình- và cho nhiều người cầm bút, là " Xin được chia tay" với "Ngôn từ trang điểm véo von/ Những con chữ quen kí sinh bao cấp/ Chữ nhiễm khuẩn thị trường". Chính những con vi trùng khó thấy đó của văn chương phải chăng đã góp phần tạo ra những bi hài không đáng có, làm cơ sở cho căn bệnh ung thư của sinh hoạt văn nghệ trước thời đổi mới?
Luôn luôn ở thế tranh luận, không ưa thích những câu trả lời hoặc giải thích mòn sáo, những cách lý giải kinh viện - người "hiệp sĩ" đó lại mang tư chất của triết gia muốn đào xới đến tận gốc rễ mọi vấn đề của văn chương - nhưng lại diễn đạt chúng bằng hình tượng sắc nét và thấm đượm xúc cảm. Trước hết, có thể coi đây là một cuốn văn học sử bằng thơ, giúp người đọc và để chính tác giả suy ngẫm về "Đêm trước đổi mới", để góp phần "vuốt mắt quá khứ”- một quá khứ vừa có sự tráng lệ hào hùng, vừa có những bi kịch đau đớn- hơn thế, để suy ngẫm về những điều tạo nên cội nguồn văn chương. Nó bi tráng như bản thân tên gọi, ở cách chọn đề tài, ở thế tranh luận, ở tính triết lý và ở cái "hùng tâm" của tác giả với tư cách là một "hiệp sĩ" muốn bảo vệ những gì cần bảo vệ, trước hiện trạng: "Đểu giả đớn hèn được định vị/ Thiện lương tử tế nhỡ tàu"...
Người hiệp sĩ đó tung hoành trong một "bối cảnh khá rộng, thời gian khá dài”, và xuất hiện trong những cá thể khác nhau- khi là bản thân tác giả: "Vì thơ tôi phải đi vay”; khi là một số người mà tác giả coi là cùng chí hướng: "Ra khỏi chiến tranh/ Nhiều người trong chúng tôi còn lành lặn/ Sao giờ đây thương tích đầy mình”. Đó là nhân vật "em”- đối tượng trữ tình chủ yếu mà nhà thơ suốt đời đi tìm: "Em mảnh mai vai gầy/ Sao đỡ nổi những bão bùng thời đại?”. Đó là nhân vật con đường "được gắn huân chương bằng máu của nhà văn đổ xuống."; đó là Ô sin, người được nhà thơ coi là "đồng bệnh tương liên" với mình, cùng khao khát "Được uống chung nguồn nuớc tinh khiết của lẽ công bằng", thứ mà "Tìm ngoài đời chả bao giờ có được/ May mà còn duy nhất ở trong văn". Đó là gã "Gã hành khất" nhưng "phong cách hào hoa vất vưởng" và đáng trọng bởi gã biết tự dày vò ân hận khi "Mang theo thất bát trăm năm/ Lương tâm mất mùa nhiều vụ/ Bị gậy nợ nần quá khứ…" Nhưng cũng có thể đó là "một người đẹp” ném vào mặt nhà văn: tôi không thể yêu được anh "vì anh quá tốt”; hay một nhà văn nào đó "Mang những mỹ từ trong sạch/ Vấy dơ bẩn vào nhau." Người hiệp sĩ của VĐBT còn đặt mình vào vị trí của một phóng viên. Ông hỏi chuyện Trạng Trình, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Vũ Trọng Phụng… Ông phỏng vấn ở hai kì Đại hội đối với một số nhà văn. Ông phỏng vấn nhà phê bình đao búa, nhà thơ trẻ. Ông còn phỏng vấn cây Thiên tuế, Tượng đá và Sứ giả Thiên hà... Qua những cuộc phỏng vấn này, người đọc cảm nhận được một cách sinh động cái hiện trạng ngổn ngang và bi hài của văn đàn, thấy được những di hại của một thời ấu trĩ, cả những nôn nóng tìm tòi sáng tạo, những thử nghiệm thành công lẫn thất bại... Chính các cuộc phỏng vấn này giúp người đọc hiểu thêm động lực văn hóa của tác giả khi tự nguyện làm "hiệp sĩ" bảo vệ văn chương, hiểu thêm những quy luật nghiệt ngã của sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, và cũng góp phần mở rộng âm hưởng bi tráng của bản trường ca.
Người "hiệp sĩ" đó đã đơn độc lên đường với bao nỗi niềm trăn trở cháy lòng. Hiên ngang đấy, song có mấy ai hiểu anh ta đã xuất phát từ nơi cô quạnh, mang theo "hùng tâm" của không ít kẻ thất bại: "Đây đó, vài góc làng quên lãng/ Thoi thóp bậc chân tài/ Họ thành những ẩn sĩ bất đắc dĩ/ Chỉ còn cái bóng của mình làm bạn tri âm ". Có mấy ai biết anh ta đã từng lặng lẽ lau giọt lệ!..."Tráng sĩ" mà có lúc cũng mắc cái bệnh "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa" như nàng Kiều bất hạnh: "Phải chăng vũ trụ niềm riêng/ Có chi nhắc nhớ trăm miền nợ vay/ Hay người ngoài ấy đứt tay/ Để tôi chảy máu trong này buốt đêm". Với "cây thương" là ngòi bút đơn độc, anh ta có thể chống đỡ cái gì và bênh vực cho điều gì? Thì đây: "Bệnh trơ lì vô cảm, từng gây những vụ sạt lở niềm tin hàng triệu tấn, đè lên cả ánh mặt trời, rêu mốc bao hoài bão, thui chột mầm lương tri!"
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm có một thời gian dài dạy học, rồi làm báo, với bản chất thi sĩ lương thiện, ông đã đúc kết sự từng trải của mình về "Những vết thương nhân tính, nhân văn" trong một nỗi buồn đến ngơ ngác và rớm máu: "Rẻ rúng nhau bằng những lời khen ngợi/ Người nói người nghe đều thấy hài lòng/ Người tự vả vào mình để thành người tin cậy/ Người được tin cậy rồi, bóc lưỡi hót cho hay/ Tự gọt đẽo thành viên bi nhẵn nhụi/ Để lăn tròn trong cái rãnh con con/ Để đạt đến đỉnh cao của sự thấp hèn/ Lấy đó làm kiêu hãnh ".
Vấn đề bi tráng lớn nhất của Văn đàn- cũng là của một thời lịch sử- chính là sự đảo ngược của những giá trị khiến lương tri nhức nhối: "Lấy khen thưởng báo công làm thước đo giá trị/ Lấy bình quân làm cán cân công bằng/ Giá trị ảo được tôn lên làm thật.../ Để nhạt nhẽo đời thường loang lổ cả đời văn"
Có một thời văn chương "nhấc bổng đồng quê lên chín tầng trời lãng mạn” thì cảnh ngộ dân lành chẳng lãng mạn chút nào: "Những đầy tớ của dân nanh vuốt như hùm/ Ông chủ run như cầy sấy... Không ít văn nghệ sĩ cơ hội đã "Biến bè bạn anh em thành đối thủ lợi quyền/ Nửa văn nhân, nửa xênh xang mũ áo/ Nửa sĩ phu, nửa sấp ngửa kim tiền"…
Trước hiện trạng đó, "hiệp sĩ"- thi sĩ Nguyễn Vũ Tiềm đã thẳng thắn phơi bày sự thật đau lòng của đời sống văn nghệ: "Buồn trông cõi thực cõi mơ/ Thơ bay thì ít, thơ bò ngổn ngang!"- "Được chăn dắt quá kĩ càng/ Văn bò sát, thơ bầy đàn phổng phao/ Ra ngõ là gặp đỉnh cao/ Bằng khen giải thưởng ồn ào hàng năm…"
Cái không khí văn đàn ấy, thực đáng buồn, có một thời đã khiến cho sinh hoạt văn chương nghệ thuật vốn là lĩnh vực tinh thần thanh cao thánh thiện thì lại trở thành một thứ chợ trời sặc mùi kim tiền- hơn thế, nó còn bị ngộ độc thê thảm: "làn hương bị đánh bả quay cuồng"- "trong suốt bị hòa tan thuốc chuột "- "nõn nà bị nhiễm thuốc sâu”... Trong bối cảnh ấy, không ít nghệ sĩ chân chính bị "đốn ngã” một cách oan uổng. Éo le thay, người tung ra "những miếng hiểm khôn lường” để đốn ngã bạn lại chính là người đồng chí đã từng "súng bên súng, đầu gối bên đầu, đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”! Phải chăng, chính những điều nhức nhối trên khiến mọi người buộc phải suy ngẫm, nhìn nhận trở lại, rút ra điều gì đó có ích cho hôm nay và mai sau, và những "hiệp sĩ" mới cần phải xuất hiện- trong số đó có thi sĩ Nguyễn Vũ Tiềm?
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã dành một chương riêng viết về nhà văn có cốt cách khảng khái và khí phách ngang tàng là Phùng Quán - bởi qua số phận nhà văn này, có thể hé mở bí mật số phận chung của nhiều tác giả từng bị "tai nạn" văn bút trước đây, cùng nhiều tác giả không chịu thỏa hiệp với những khuôn mẫu và sự an toàn dành cho kẻ "hèn sĩ", họ đã âm thầm tìm lối đi riêng để vượt qua "tù ngục của tư duy”:
"Ta viết chui/ Để đẻ ra những con chữ không biết luồn cúi/ Những con chữ không thể nào chặt cánh/ Biết tìm bầu trời trong sạch bay lên!"
Nhà thơ còn ngợi ca lòng dũng cảm của những người nghệ sĩ dấn thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: "Thơ cảm tử đục tường xây chiến lũy/ Thơ ôm bom ba càng/ Tiếng nổ phá xe tăng thành nhịp vần bất tử"- "Xe không kính vẫn lao vào chiến dịch/ Vầng trăng quầng lửa sáng trời thơ/ Người mang cả mặt trời vào lòng đất/ Mang cả hình tia chớp xẹt trời văn"... Sự thật lớn này cũng là một trong những cái gốc của cảm hứng bi tráng trong tác phẩm mà người đã mang thân phận của một "hiệp sĩ" bảo vệ văn chương phải nghiêng mình nể trọng!
Trường ca VĐBT chứa nhiều chất chính luận phản ánh tâm tư- thái độ của kẻ sĩ có liêm sỉ và có trách nhiệm trước thực trạng Đất nước, ngay ở giữa cái nơi có lúc được mệnh danh là "Khu tự trị dối trá/ Sự thật muốn qua? Không được cấp thông hành".
Nhà thơ vì nặng lòng với Thơ, hiểu rõ sự yếu đuối và mỏng manh hầu như không được "bảo hiểm" của Thơ mà dũng cảm đứng ra bảo vệ nó:
Có nỗi đau mang trang phục niềm vui
Có tai họa được tô màu số phận
Có cái ác gióng hồi chuông từ thiện
Thơ vẫn thiền, hồn vẫn thanh tân!…
Làm người "hiệp sĩ" của thơ ca nên cũng đồng thời là con người vị tha, độ lượng, người hiểu hơn ai hết giá trị của lòng nhân ái- nhất là khi chủ nghĩa ích kỷ và thực dụng cực đoan đang đe dọa nhấn chìm tất cả những gì là thiên lương trong vũng bùn gớm ghiếc của nó:
Tôi rất vui được làm người thua cuộc
Trong những cuộc giao tranh thân ái
Khi tình yêu lấn sân, tôi bỏ ngỏ khung thành!
Với VĐBT, dấu ấn tinh thần của những người cầm bút có thể tìm thấy trong những góc khuất của số phận và trong mỗi bước đi của lịch sử được đề cập trong tác phẩm. Trường ca VĐBT có tên phụ là Đêm trước đổi mới, tưởng đâu chỉ đề cập tới những vấn đề nổi cộm của một thời chưa xa, nhưng thực ra nó chứa đựng chân lý nghệ thuật của mọi thời đại. Nhiều suy tư trăn trở của các nhà văn được Nguyễn Vũ Tiềm khái quát khá sinh động; chính vì có sức khái quát, mà nó vượt ra khỏi giới hạn của một thời.
Và, "người hiệp sĩ" của văn chương đó đã khẳng định: "Mọi cái đích của đời đều gặp đích của văn!" Hơn thế, Văn đó lại cần phải thoát ra "mảnh ao làng" để có thể mang được vóc dáng của thời đại. Khi viết tiểu luận "Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức hậu hiện đại Việt", nhà nghiên cứu Đỗ Quyên đã có nhận xét đáng chú ý mà theo tôi có thể lấy tác phẩm trường ca "Văn đàn bi tráng" làm một minh chứng tiêu biểu: "... Qua thập niên đầu thế kỷ 21, con sông trường ca Việt hiện đại ấy cũng trở mình theo tâm thức chung của văn học Việt Nam và thế giới, từ thể tài, cấu trúc đến giọng điệu, ngôn ngữ. Và, lẽ tự nhiên, đã có không ít biểu hiện của trường ca Việt mang gương mặt Hậu hiện đại." (vandanviet.net)
Đi hết cuộc hành trình khá vất vả cùng VĐBT, tôi chợt có ý nghĩ: phải chăng tác giả đã viết nó với động lực ban đầu theo sự gợi ý của thi hào Pushkin trong bài "Gửi thi sĩ":
Hỡi thi sĩ, đừng quý trọng tình yêu của dân chúngĐi hết cuộc hành trình khá vất vả cùng VĐBT, tôi chợt có ý nghĩ: phải chăng tác giả đã viết nó với động lực ban đầu theo sự gợi ý của thi hào Pushkin trong bài "Gửi thi sĩ":
Những lời ngợi khen cuồng nhiệt sẽ qua đi như tiếng ồn trong phút giây
Anh sẽ nghe thấy lời phán của kẻ ngu và tiếng cười của đám đông ghẻ lạnh
Nhưng hãy luôn luôn kiên định, bình tĩnh và đăm chiêu...
(Phạm Vĩnh Cư dịch) 2
Ở Chương Kết, qua lời "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm", nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm tâm niệm: "Hãy lắng nghe lòng mình trong im lặng", cảnh giác trước những lời tung hô và kèm theo đó là những âm mưu hòng biến văn chương thành loại hàng thứ phẩm. Cùng những người cầm bút có lòng tự trọng "giã từ" thứ "Công nghệ văn chương theo tiếng kẻng/ Quen khai thác lộ thiên/ Vớt váng nổi rong rêu làm bảo vật" , nhà thơ đã tôn vinh sức mạnh của tinh thần nhân văn chứa đựng trong văn chương:
Thôi, đừng nói sấm thiêngHãy lắng nghe lòng mình trong im lặng
Sẽ thấy sấm rền ở phía chân mây!
Không ít cuộc phế hưng
Bắt đầu từ đồng dao con nít
Không ít ngọn núi lửa
Thức đậy từ địa chấn nhân văn.
Tôi chỉ là người "tạt ngang" qua lãnh vực lý luận phê bình văn học, nên mặc dù rất muốn được đi sâu nghiên cứu để có những khám phá khoa học và thuyết phục về thi pháp của VĐBT thì cũng "lực bất tòng tâm", đành chỉ viết đôi dòng ngẫm ngợi đầy cảm tính về tác phẩm vừa kỳ lạ vừa cuốn hút này đối với tôi!... Gấp lại cuốn VĐBT, trong một ngày đông giá lạnh, tôi bỗng thấy trong lòng ấm áp làm sao! Phải chăng 3700 câu thơ trong trường ca đã sưởi ấm cho tôi, một sự cổ vũ tinh thần mới mẻ do người "hiệp sĩ bi tráng” của văn chương đem lại?
Hà Nội, Giáp Tết Tân Mão 2010
Nguyễn Anh Tuấn
(Đạo diễn điện ảnh)
----
(1) "Văn đàn bi tráng” của Nguyễn Vũ Tiềm, Nxb Văn học, HN 2008.
(2) Trích từ "Vladimir Soloviev: Những tác phẩm Triết-Mỹ chọn lọc"- Nxb VHTT&TTVHNN Đông Tây, HN 2005)
(Trong ảnh: Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm ở Tp. HCM.)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 10.02.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Ở ĐÂU MỚI CÓ THỂ NGỬI THẤY "MÙI CỎ CHÁY"?
(Vài cảm nghĩ về phim Mùi Cỏ Cháy)
Nguyễn Anh Tuấn
(1) "Văn đàn bi tráng” của Nguyễn Vũ Tiềm, Nxb Văn học, HN 2008.
(2) Trích từ "Vladimir Soloviev: Những tác phẩm Triết-Mỹ chọn lọc"- Nxb VHTT&TTVHNN Đông Tây, HN 2005)
(Trong ảnh: Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm ở Tp. HCM.)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 10.02.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Ở ĐÂU MỚI CÓ THỂ NGỬI THẤY "MÙI CỎ CHÁY"?
(Vài cảm nghĩ về phim Mùi Cỏ Cháy)
Nguyễn Anh Tuấn
I. Trước khi xem phim "Mùi Cỏ Cháy", tôi có đọc một bài viết, trong đó đạo diễn - NSND Huy Thành phát biểu: "Chỉ riêng phim Mùi Cỏ Cháy đã là thành công của LHP 17 rồi." Tôi đã bật cười, coi đó chỉ là nhận xét cho vui của một bậc trưởng thượng... Nhưng, sau khi xem bộ phim này, càng ngẫm, tôi càng thấy nhận xét trên có lý sâu xa...
Cách đây 6, 7 năm, tôi được nhà biên kịch Hoàng Nhậm Cầm kể ý tưởng rồi đọc cho nghe kịch bản đầu tiên của "Mùi Cỏ Cháy". Khi nghe xong kịch bản qua vài lần rít thuốc lào của Cầm, bằng cái giọng khàn khàn và ánh mắt long lanh rực cháy của anh, tôi đã chợt nghĩ thầm: nếu ý tưởng này, kịch bản này thành phim, thì Cầm mới có thể trả được món nợ canh cánh với đồng đội thân yêu đã hy sinh của anh, mới hoàn toàn thoát hẳn cái thân phận và cái ấn tượng mà người ta vẫn nhớ về Cầm là một "Bác sĩ hoa súng" trong suốt thời gian dài anh phải làm người ta cười trong nước mắt của anh, nước mắt của một kẻ đau nghề, sống chết với nghề, muốn làm một cái gì cho tử tế, cho ra hồn trong nghiệp điện ảnh mà phải giấu khát vọng trong cái hài bất đắc dĩ đối với anh...
Tới lúc được nhìn thấy, nghe thấy những gì máu huyết của Cầm hiện lên trên màn ảnh lớn, thú thực là, tôi đã đôi ba lần không cầm được nước mắt- trong đó chắc hẳn phải có giọt nước mắt đồng cảm với "anh hề" HNC từng phải múa may quay cuồng trước đây vì miếng cơm manh áo... Tôi đã cố cưỡng lại cảm xúc tự nhiên của một người xem phim để cảm thụ dưới góc độ của một người làm nghề. Và tôi đã thất bại. Song, cái được lớn nhất là tôi đã được sống lại trọn vẹn với một thời tuổi trẻ của tôi, của cả một thế hệ... Tôi đã khóc nhớ đến Nông- đứa em trai kết nghĩa, ứa lệ nghĩ tới những người bạn sinh viên văn khoa, những gương mặt măng tơ, những ánh mắt trong trẻo, những tâm hồn thơ mộng đầy hoài bão đẹp - y hệt những em diễn viên đóng vai lính trẻ trong phim- họ đã hồn nhiên ra mặt trận, đã ném tuổi thanh xuân của mình vào những "Đồi thịt băm" (tên một bộ phim làm về chiến tranh VN của đạo diễn Mỹ nổi danh Olive Stone) và vĩnh viễn không bao giờ trở về nữa... Tôi cũng đã ngậm ngùi nghĩ đến cái rủi của mình khi bị loại khỏi hàng ngũ những người ra trận kia chỉ vì cận thị...
Nhưng tôi không nên bàn thêm về những thụ cảm riêng về phim, càng không nên nói về những giọt nước mắt của mình về bộ phim- bởi thực chất chúng sẽ không nói lên được là bao giá trị đích thực của một tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật vốn có tác động trực tiếp tới khán giả. "Mùi Cỏ Cháy" là một phim làm theo kinh phí Nhà nước, và với đề tài này, ai cũng có thể coi đó thuộc về loại "phim Cúng cụ" xưa nay! Song, với kinh phí làm phim chỉ bằng 1/2, 1/3 so với những phim chiến tranh khác, và thấp hơn rất nhiều lần so với những phim giải trí tư nhân trước nay, so với tất cả những phim truyện nhựa trong LHP lần thứ 17 này, những người làm phim "Mùi Cỏ Cháy" phải nói đã lập được một "kỳ tích" đáng nể là đã tự cắt bỏ được cái "bướu" kinh niên mang tên: "Phim Cúng cụ"!
Cả phòng chiếu của Hội Điện ảnh VN (sáng 24-12) đã ngồi lặng đi cho đến dòng chữ phim cuối cùng, đèn bật sáng trên những gương mặt nhòa lệ và lúc đó mới dậy lên tràng pháo tay cổ vũ cảm động... Bộ phim chinh phục hầu hết khán giả trong phòng chiếu không chỉ vì lòng dũng cảm của đạo diễn Nguyễn Hữu Mười và tập thể làm phim đã dám đi vào một đề tài "hóc", có tiếng là không ăn khách, với một kinh phí quá bèo bọt (đã hàng chục đạo diễn từ chối dự án phim này), không chỉ vì trong đó có những gì đã từng gắn với máu thịt của những người xem phim, mà cái chính là những gì thân thiết và đau đớn ấy của cuộc sống đã được tập thể người làm phim thể hiện một cách giản dị, chân cảm, bằng một thứ ngôn ngữ điện ảnh khá cổ điển, và thực chau chuốt trong từng khuôn hình, từng diễn xuất... Trong "Mùi Cỏ Cháy" có khá nhiều trường đoạn phim, tình tiết phim có khả năng tạo "sức nổ" rất mạnh trong lòng người xem. Ví như trường đoạn tả cuộc hủy diệt Thành cổ Quảng Trị của đạn pháo địch: những cột sóng, cột khói lửa, những thân xác người bắn tung trong nước và trên không gian... trên nền nhạc giao hưởng mà không một tiếng động thực nào. Như trường đoạn cuộc tỏ tình dễ thương của chàng lính trẻ bên giếng nước với cô thôn nữ làng với cây ghi-ta, rồi sau đó là cuộc chia tay vội vã giữa hai người trẻ tuổi. Như tình tiết tấm ảnh chụp bộ tứ Hoàng - Thành - Thăng - Long được cài từ đầu phim cho tới đoạn kết phim. Như tình tiết chiếc đàn ghi-ta cháy trong lửa. Như tình tiết những con dế được lính thả lại trước khi vượt sông Thạch Hãn, v.v. Theo cách nói của một nhà văn nước ngoài: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn" mà ta có thể áp dụng vào điện ảnh: "Chi tiết nhỏ làm nên bộ phim lớn", thì "Mùi Cỏ Cháy" có không ít những chi tiết như thế... Cái khó của một phim đề tài chiến tranh là phải tạo ra không khí chiến tranh một cách chân thực, và ở đây, tính chất khốc liệt tàn bạo của một cuộc hủy diệt mà đối phương nhằm vào cái đích là Thành Cổ và ý chí sắt thép quyết giữ bằng được vị trí này của quân giải phóng đã được những người làm phim thể hiện một cách tối đa trong điều kiện tối thiểu của mình!
Toàn cảnh chiến tranh- chết chóc và nguy hiểm rình rập đã hòa nhập một cách tự nhiên với những mảnh đời sống riêng tư của từng nhân vật cũng như của "nhóm" nhân vật (Hoàng- Thành- Thăng -Long) tựa một sinh mệnh hữu cơ, ở đó có tiếng cười vui tếu táo, sự nhớ nhung, giây phút sợ hãi và không thiếu sự tinh nghịch kiểu học trò, sự hóm hỉnh của giới sinh viên... Hãy nhớ lại ánh mắt hồn hậu đến se lòng của cô thôn nữ khi nghe chàng binh nhì Long tâm tình. Hãy nhớ lại vẻ mặt khó đăm đăm song không dấu được khóe mắt rưng rưng bởi tình yêu thương, lòng cảm phục, cả một nỗi xót xa trìu mến của trung đội trưởng Phong khi buộc phải khiển trách một chiến sĩ trẻ của anh...
Một hệ thống nhân vật được dụng tâm miêu tả để đăng đối với những người lính trẻ ra trận là những người mẹ- đều là do những nghệ sĩ điện ảnh có tên tuổi đảm nhiệm- đã tạo nên một bè trầm quan trọng trong dàn tổng phổ, và điều này, trong tất cả tính chất "kinh điển" của nó đã góp phần lớn tạo nên cảm xúc rất mạnh cho toàn bộ phim. (Tình tiết bức ảnh người mẹ trong túi áo người lính ngụy vừa bị bắn chết rơi vào tay một người lính trẻ quân giải phóng là một tình tiết thú vị, tuy nhiên, chưa được các nhà làm phim đào sâu tới độ cần thiết).
Những gương mặt người lính trẻ tựa thiên thần trước đó lại được khắc họa bằng ánh sáng viền không sắc nét mà cũng không nhạt nhòa trong bóng tối, khi cận cảnh, khi trung - toàn cảnh đã được nhà quay phim Phạm Thanh Hà tính toán kỹ lưỡng để tạo hiệu quả ấn tượng rất mạnh: những con người đang sống đây nhưng đã quyết biến mình thành những "âm hồn của địa phủ" sẵn sàng dành cho đối phương những đòn sấm sét... Trong trường đoạn ở bờ bắc sông Thạch Hãn trước khi lính ta vượt sông, Thanh Hà đã có một cảnh quay giả đêm thực kỳ công: vừa quay được đại cảnh bộ đội ào ào sang sông với số lượng đông, vừa tiết kiệm kinh phí và thời gian mà vẫn đạt được hiệu quả nghệ thuật... So với nhiều phim mà Thanh Hà đã quay, tôi nhận rõ một điều: ở phim này, anh đã thăng hoa cảm xúc cùng sự huy động tổng lực những kinh nghiệm, kỹ xảo mà anh đã tích lũy được trong một đời cầm máy của mình!
Trong việc chỉ đạo diễn xuất, có thể thấy rõ một điều là: đạo diễn đã biết phát huy khả năng tiềm tàng của các diễn viên, và đạo diễn cùng biên kịch thực sự đã biết cách truyền tới diễn viên trẻ những cảm xúc, những trải nghiệm của chính mình, cho nên, ngoài sự hồn nhiên sẵn có để vào vai trẻ, họ đã "nhập thần" được vào cái không khí của một thời chiến xa lạ đối với họ, họ đã sống với vai như chúng sinh ra là để dành cho họ vậy!
Nếu có thể có điều hơi đáng tiếc ở bộ phim này, theo tôi chính là: trong nhóm nhân vật đã được xây dựng khá công phu, lẽ ra nên có một nhân vật làm trung tâm, được khai thác kỹ hơn, có chiều dày hơn, có sức lắng hơn, đấy sẽ là nhân vật phát ngôn thay cho cả nhóm (Phải chăng, có thể là nhân vật Thăng - nguyên mẫu của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc ôm mộng văn chương muốn nói lên một tiếng nói gì đó cho thế hệ mình thời chống Mỹ?)
Nhìn tổng thể, "Mùi Cỏ Cháy" đáp ứng được khá nhiều tiêu chí về tư tưởng- nghệ thuật của một bộ phim truyện; và cái đạt lớn nhất là đã tạo nên được một hình tượng khá hoàn chỉnh và "mê hoặc" về một lớp người tuổi trẻ xuất thân từ sinh viên mặc áo lính! Mê hoặc không chỉ bởi những vần thơ từng được chép trong sổ tay của bao thế hệ ra trận giờ được ngân nga trong những thước phim, không chỉ bởi nỗi khát khao tình yêu nam nữ của họ được bộc lộ một cách chân thành đáng yêu, mà bởi một cái gì đó tưởng chừng như vô hình song lúc nào cũng chợt bùng cháy trong tâm hồn họ: đấy là Tình yêu Tổ quốc thiêng liêng... Cũng có những lúc Tình yêu thiêng liêng đó tạm thời bị "hóa thạch", nhưng vào giờ phút Tổ quốc bị lâm nguy, danh dự Dân tộc bị xúc phạm, nó sẽ được giải phóng và hóa thân một cách kỳ diệu! "Mùi Cỏ Cháy" đã hiện thực hóa và nghệ thuật hóa được một trong những "giờ phút" đặc biệt đó của Lịch sử! Và có thể khẳng định, đây là điểm son rạng rỡ nhất cần ghi cho "Mùi Cỏ Cháy" mà nếu nó không được đánh giá một cách đầy đủ, đúng mức, và công bằng thì thực đáng tiếc không phải chỉ đối với riêng phim "Mùi Cỏ Cháy"...
II. Tôi đã dừng bút bài phê bình nhỏ này, nếu như không đọc bài PV ông Đinh Anh Dũng- thành viên BGK phim truyện nhựa tại LHP thứ 17 (Hà Nội mới, trang văn hóa 17/12/2011), và có đôi điều muốn trao đổi cùng ông, với tư cách là một đồng nghiệp.
Không ai có thể tranh cãi với ĐAD khi ông nói: "Ta hoàn toàn có thể làm bật lên một đề tài cũ bằng một cách kể hiện đại. Ví dụ, chúng ta rất yếu về làm phim chiến tranh. Cứ tưởng là vì nhiều nguyên nhân to tát, nhưng ngẫm kỹ ra mới thấy có những điều thuộc về chi tiết, về tư duy." Nhưng khi ông nói tiếp: "Có khi chỉ cần một đoạn ấn tượng chứ không cứ phải nổ đì đùng suốt phim" thì ta buộc phải đặt câu hỏi: Các phim nước ngoài làm về chiến tranh như: Điện Biên Phủ, Giải cứu binh nhì Ryal, Trân Trâu cảng, Pasific, Giải phóng… cũng "nổ súng đì đùng" suốt phim sao ông ĐAD không chê bai, mà lại ám chỉ một bộ phim truyện duy nhất của LHP VN 17 về đề tài chiến tranh mà ai cũng hiểu đó là phim "Mùi Cỏ Cháy"? Tuy rằng phim chiến tranh của ta điều kiện kinh phí kém xa phim nước ngoài, nhưng nếu làm được thì cũng đáng trân trọng, sao lại nỡ xét nét theo lối mà không khéo người ta sẽ nghĩ là hơi tiểu nhân? Theo lời ông ĐAD, phim có khi chỉ cần "một đoạn ấn tượng mà thôi”, nhưng phim Mùi Cỏ Cháy lại có nhiều đoạn rất ấn tượng là có lỗi hay sao? Nếu chỉ là nhận xét của cá nhân ông ĐAD là một nhà quay phim thì chẳng sao, nhưng đó lại là phát ngôn của một thành viên BGK phim truyện nhựa thì thực đáng thất vọng!
Trong bài PV trên, ông ĐAD nói: "Tôi thấy ngôn ngữ điện ảnh của ta đa phần là cũ lắm rồi." Xin thưa ông, ngay cả điện ảnh của thế giới hiện tại vẫn có dòng phim kinh viện, thể hiện ngôn ngữ hình ảnh truyền thống song song với các dòng phim có khuynh hướng cách tân… Nếu xem phim "Kiêu hãnh và định kiến" (Pride and Prejudice), hoặc "Người đọc sách" (The Reader)- ta thấy ngôn ngữ điện ảnh của hai bộ phim có giá trị nghệ thuật cao kể trên sản xuất cách đây vài năm đâu có gì gọi là "mới" trong thể hiện? Phim ta chất lượng nghệ thuật còn kém xa phim thế giới, nhưng cũng không nằm ngoài quy luật: bài bản và phá cách luôn cùng song hành. Nếu nghĩ đổi mới là tất cả đều phải làm ngược lại, chỉ làm khác trước mà phủ nhận hoàn toàn cái có trước là hoàn toàn võ đoán. "Mùi Cỏ Cháy" là một phim chủ yếu làm theo phong cách cổ điển, nếu theo "tiêu chí hiện đại" của ông nhằm mục đích bênh vực những phim khác mà ông đã nhắm trước (hoặc được giao phó sứ mệnh) thì thực oan uổng cho "Mùi Cỏ Cháy", và xem ra cũng oan uổng cho trình độ lý luận của một người đã từng theo học công nghệ điện ảnh Hoa Kỳ như ông chăng?
Xin nói thêm, ngay cả dòng phim kinh dị của nước ngoài hiện nay đang "hot” mà một vài đạo diễn của ta đang tâm đắc cũng bắt đầu từ những tác phẩm của Hittcok những năm 40 của thế kỉ trước. Hay như phim về tình yêu đồng tính của đạo diễn Lý An với Brokeback Mountain (Núi lạnh) đã thành công rồi, bây giờ ở ta mới có một vài phim làm theo, đây là sự bắt chước chứ không phải cách tân!!! Còn phim "Hot Boy nổi loạn …" của Vũ Ngọc Đãng, bên cạnh một nỗ lực đáng ghi nhận, nhưng xét cho cùng là đã cố sức tìm một đề tài mới mà chưa có gì gọi là mới, kể cả trong cách thể hiện. Chưa kể là, nếu đặt ngang bằng sổ thẳng một phim giải trí (mà thị trường phim của ta đã, đang gần như bội thực) bên cạnh một phim như "Mùi Cỏ Cháy" (mà đem ra thị trường để đấu "giải tira" lượng người xem chưa chắc ai hơn ai) thì có vẻ như là một cuộc chơi thiếu sòng phẳng! Nhưng bài viết này không muốn đi lạc sang vấn đề khác nữa.
Còn một điều sau cùng mà tôi không thể không nói... Trong bài PV trên, với tư cách là Giám khảo, khi nói về quay phim, tôi nhận thấy là ông ĐAD có những lời rào đón mà chẳng cần thông minh cho lắm cũng hiểu... Thực ra những ai mà Giám khảo họ Đinh thích đều nằm trong danh sách đề cử, và hai người trong đó đã nhận giải quay phim. Buổi tối mới trao giải mà 7h30 sáng đã thấy bí mật được "bật mí” trên mặt báo thì quý ông đã vi phạm quy chế của LHP rồi! Vả lại, cho dù có quý mến và thiện cảm ai đi nữa thì làm giám khảo phải công tâm, chứ không phải thích ai thì trao giải người đó. Bóng đá nước ngoài đã có ông trọng tài từng phạt thẻ vàng chính ngôi sao thần tượng của mình trên sân cỏ! Giám khảo phải đứng trên bình diện chung mà phán xét khách quan, không nên chỉ tung hô những ai cùng gu với mình. Điều này thì ngược lại với những gì mà ông ĐAD tuyên bố với báo chí: "Quan điểm của tôi khi ngồi ghế giám khảo là phải bảo đảm 3 tiêu chí: khách quan, trung thực, bí mật. Đừng để quan hệ cá nhân xen vào những nhận định chuyên môn."( Bài PV đã nêu)
Thực chẳng hay ho gì đối với tôi khi đang hào hứng với một bộ phim hiếm hoi thành công về chiến tranh của ta mà lại phải sa vào những chuyện "hậu trường" lùm xùm của một LHP Quốc gia! Nhưng biết làm sao được... Máu xương của những người lính trẻ- trong đó có em trai tôi, bạn bè thân thiết của tôi đổ xuống đâu phải là vô ích khi mà những người làm nghề điện ảnh nói riêng, làm công tác văn hóa nghệ thuật nói chung vẫn còn khát khao trân trọng những gì là công bằng, lương thiện...
Hà Nội, Cuối năm 2011
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.12.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Thành công của "Canh Bạc”
và con đường lớn của phim truyện Việt Nam
Nguyễn Anh Tuấn
THÀNH CÔNG CỦA "CANH BẠC”
VÀ CON ĐƯỜNG LỚN CỦA PHIM TRUYỆN VIỆT NAM
Đạo diễn: Lưu Trọng Ninh
Quay phim: Trần Thế Dân
Diễn viên chính: Thu Hà, Đơn Dương
Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất năm 1991
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.12.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Thành công của "Canh Bạc”
và con đường lớn của phim truyện Việt Nam
Nguyễn Anh Tuấn
Nhân dịp Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 sẽ diễn ra tại thành phố Tuy Hòa (từ ngày 14 đến ngày 17 tháng 12), và cũng để tưởng nhớ đến diễn viên tài năng Đơn Dương mới qua đời, xin được giới thiệu với bạn đọc vandanviet.net một bài phê bình của tôi cách đây đã gần 20 năm nhưng xem ra vẫn còn có chút ý nghĩa thời sự đối với nền Điện ảnh Nước nhà.
THÀNH CÔNG CỦA "CANH BẠC”
VÀ CON ĐƯỜNG LỚN CỦA PHIM TRUYỆN VIỆT NAM
Đạo diễn: Lưu Trọng Ninh
Quay phim: Trần Thế Dân
Diễn viên chính: Thu Hà, Đơn Dương
Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất năm 1991
Một cô sinh viên quyết tâm tìm cách làm giàu nhanh chóng bằng cách "dấn thân” vào môi trường của bọn buôn lậu đường rừng, với ảo tưởng ngây thơ và lòng tự tin đáng thương.
Một anh lái xe - "dân làm ăn” được cảm hóa bởi tình yêu đối với cô sinh viên, nhưng sự nửa vời trong "cuộc hóa thân cuối cùng” đã buộc anh phải trả giá đắt và phải ân hận một cách đau đớn…
Đường dây chính của truyện phim chỉ có vậy, xoay quanh vài bối cảnh đơn giản. Nó rất dễ tạo cho các tác giả phim đi tới chỗ minh họa cho một ý đồ tư tưởng áp đặt bằng những triết lý dễ dãi, khô cứng, hoặc đi vào khai thác những yếu tố "câu khách” rẻ tiền vẫn thường thấy.
Đứng trước cái "hố thẳm” của hai lối làm phim quen thuộc này, đạo diễn trẻ Lưu Trọng Ninh đã chứng tỏ được bản lĩnh nghệ thuật vững vàng của mình. Với "Canh bạc”, cá tính sáng tạo của Lưu Trọng Ninh bộc lộ khá rõ nét, người xem có thể thấy rõ: đạo diễn là người nhìn cuộc sống bằng con mắt khá sành sỏi, tinh tường, và anh dám đi sâu vào những sự thật của lòng người. Anh ưa những gì gai góc, quyết liệt, không bằng lòng với hiện thực bề mặt một chiều, giản đơn.
Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công của phim là sự phát triển phức tạp của tính cách nhân vật đã quyết định các bước ngoặt của cốt truyện phim, chứ không phải là một sự gán ghép áp đặt chủ quan của tác giả. Ở đây cốt truyện phim được xây dựng khá công phu, có nhiều nút thắt phụ, cao trào phụ, để tới cao trào cuối cùng là "canh bạc” thực sự, các tâm lý, các số phận, cùng những điều tác giả muốn gửi gắm được chuyển hóa vào hình tượng một cách đích đáng nhất, có khả năng đánh mạnh vào sự thụ cảm của người xem… Những xung đột tâm lý được miêu tả khéo léo, hợp lôgic qua những cảnh phim được dựng theo lối tương phản có tính toán kĩ lưỡng là ưu điểm nổi bật của "Canh bạc”.
Cần phải thừa nhận: các chi tiết đời thường được chọn lựa cắt, đối thoại giàu góc cạnh, chứa sức nổ của tâm lý song vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, tươi mát của cuộc sống là một trong những thế mạnh của đạo diễn trẻ này, và điều đó không phải là đã có nhiều trong các phim của ta.
Một điều cũng khá lý thú ở "Canh bạc” là đạo diễn rất có ý thức đan xen những tình tiết tưởng như bâng quơ song lại giàu sức "cộng hưởng” với các chi tiết, tình tiết chính, tạo ra cảm giác vừa chân thực vừa " lạ hóa”. "Lạ hóa” để tăng thêm sự chân thực và chân thực để vươn tới chiều sâu khái quát: đó chính là con đường lý tưởng để chinh phục nghệ thuật.
Dữ dằn, quyết liệt, song "canh bạc” có không ít những đoạn trữ tình lắng đọng đáng quý. Ở trường đoạn phim trên sông, khi nhân vật Chiến (Đơn Dương) cất tiếng hát, ống kính máy quay lướt qua những gương mặt anh sinh viên, ông cán bộ, chị phụ nữ bế con… rồi lia ra toàn cảnh sông nước bát ngát, và người xem phải lặng đi giây lát, rồi rung động. Chính trong khung cảnh đó, nhân vật Mai (Thu Hà) đã thốt lên từ đáy lòng điều giản dị và tự nhiên: "Em yêu anh.” Trường đoạn mềm mại này thực ra là bước đệm khéo léo dể chuẩn bị dẫn phim tới cao trào đỉnh điểm”. Khi Mai thoát ra khỏi quán cơm một "tổ quỷ”, đạo diễn đã có một xử lý thú vị: có hai cô gái chạy ngược chiều đụng phải Mai- đó là cái đụng chạm hiền lành vô tội và đáng yêu biết bao, và sau đó cô gặp lại sự trong lành vui vẻ của môi trường sinh viên. Trong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa các cô gái sinh viên ống kính máy quay đặt ở góc độ từ trên chúc xuống cũng góp phần gợi ở người xem một sự trìu mến, thương cảm, lo lắng…
"Canh bạc” hầu như đã thoát khỏi cái nạn những lời lồng tiếng chói tai, đơn điệu, nặng về sân khấu hay kịch truyền thanh từng hành hạ người xem phim điện ảnh lâu nay. Trong "Canh bạc”, những lời nói nhiều giọng điệu, nhiều sắc độ khác nhau bên cạnh những tiếng động phim được xử lý thích đáng đã tạo ra sự chân thực và sức cảm nhiễm cần thiết của phim.
Nhưng thành công đáng kể nhất của "Canh bạc” chính là "sức nặng” của các nhân vật cụ thể. Đạo diễn đã không biến nhân vật thành những "cái loa phát ngôn” cho mình. Người xem đã hồi hộp, theo dõi từng bước đi của Mai - Chiến, bày tỏ sự đồng cảm hay phê phán đối với họ. Và họ đáng yêu ngay trong cả những ấu trĩ, lầm lạc của mình. Còn các nhân vật phụ cũng được "vẽ” bằng những nét sắc nhọn, chính xác. Đặc biệt, nhân vật Mộc- một kẻ hung bạo từng phải đi tù hai mươi năm vì tội giết người cũng hàm ẩn một tính người cao cả- đó là một sáng tạo khá độc đáo của "Canh bạc”; và có thể mạnh dạn nói rằng, đó là một nhân vật có xu hướng đạt tới giá trị cổ điển.
Hệ thống tính cách chân thực của "Canh bạc” đã tạo nên động lực diễn tiến câu chuyện phim, quyết định số phận từng nhân vật và cũng quyết định luôn cả cái kết phim nữa! Khi phim tới đoạn: cô sinh viên Mai đứng trước nguy cơ bị lũ côn đồ làm nhục để trả giá cho sự "quỵt nợ” thua bạc của người yêu, Chiến thì đang hộc tốc lái xe dùng tiền đến chuộc Mai, còn lão Mộc thì băng đồi đi cứu Mai với thanh đao quắm trên tay, với tư cách là một người làm phim, tôi đã lo lắng thay không phải cho nhân vật mà cho Lưu Trọng Ninh. Tôi sợ rằng anh sẽ xử lý theo cách "có hậu” thông thường (mà ở dây thì sẽ thành ra tầm thường!) Nhưng kết phim đã xảy ra như nó cần phải xảy ra như thế: những ảo tưởng ngây ngô của Mai đã tan tành, và những giọt nước mắt ân hận muộn màng của Chiến đã có sức cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với những ai đem những giá trị tốt đẹp của con người đặt lên trên chiếu bạc bẩn thỉu và làm vật "đối trọng” với đồng tiền!
Với "Canh bạc”, hai diễn viên chính Thu Hà và Đơn Dương đã có "đất” để diễn, và có thể nói đây là hai vai diễn thành công nhất trong những vai họ đã đóng. Sự tiết chế cảm xúc trong khi diễn là điều khó khăn nhất đối với các diễn viên không chuyên lẫn chuyên nghiệp. Ở "canh bạc”, hai diễn viên chính đã thực hiện được điều này dưới sự chỉ đạo diễn xuất có kinh nghiệm.
Điều đáng tiếc nhất của "Canh bạc” chính là ở chỗ: tác giả đã quá logic, quá tỉnh táo, quá chặt chẽ. Sự dồn nén cảm xúc trong phim và tính toán kỹ lưỡng đã tạo ra nghệ thuật ở nhiều trường đoạn; song đồng thời cũng làm hạn chế sự thụ cảm nghệ thuật ở không ít trường đoạn đáng lẽ người xem phải tiếp nhận bằng cảm xúc chứ không phải bẳng lý trí. Lẽ ra, ở những chỗ nhân vật không nên nói nhiều, hay thậm chí không cần nói, bởi tình huống của phim đã dẫn dắt người xem hiểu được, cảm được thì tác giả lại cho nhân vật nói hơi thừa (ví dụ Mai có hai ba lần nói câu "Tôi muốn sống cho ra con người”). Giá như đạo diễn "gọt” thoại cho đạt hơn nữa, phim sẽ hoàn chỉnh hơn. Những khuôn hình ngọt ngào, chỉn chu của nhà quay phim bậc thẩy Trần Thế Dân không phải lúc nào cũng đạt tới hiệu quả nghệ thuật mong muốn - nhất là khi màn ảnh diễn tả cuộc đời lại cần tới sự thô mộc, phá phách, xộc xệch (mặc dù trong phim này, ông đã tự biến đổi phong cách riêng của mình rất nhiều để phù hợp với tính chất của phim).
Từ "Chim vành khuyên”, "Chị Tư Hậu”, "Cánh đồng hoang”, "Về nơi gió cát” đến "Ngày về”, "Tướng về hưu”... và giờ đây là "Canh bạc”, phim truyện Việt Nam vẫn âm thầm khơi mạch vào cuộc sống thực sự của nhân dân mình. "Canh bạc” không những là một "hợp âm” hòa nhập với bản "tổng phổ” lớn đó, mà còn là một trong những tác phẩm điện ảnh có ý nghĩa mở đầu cho một giai đoạn mới gian nan nhưng cũng đầy hứa hẹn của phim truyện Việt Nam.
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 10.12.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại
_________________________________________________
NGƯỜI LÀM PHIM HÃY NÊN BIẾT "SỢ" ĐIỆN ẢNH
Nhân xem bộ phim "Bi, đừng sợ"
Nguyễn Anh Tuấn
"Điện ảnh là một vũ khí nguy hiểm nhưng cũng tuyệt vời biết bao trong tay của các nhà thơ..." (Jean Cocteau - đạo diễn Pháp)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 10.12.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại
_________________________________________________
NGƯỜI LÀM PHIM HÃY NÊN BIẾT "SỢ" ĐIỆN ẢNH
Nhân xem bộ phim "Bi, đừng sợ"
Nguyễn Anh Tuấn
"Điện ảnh là một vũ khí nguy hiểm nhưng cũng tuyệt vời biết bao trong tay của các nhà thơ..." (Jean Cocteau - đạo diễn Pháp)
Bộ phim "Bi, đừng sợ" đã làm dấy lên những luồng dư luận cực kỳ đa dạng và trái chiều đến đối cực mà chưa từng thấy ở bất kỳ bộ phim Việt nào trước đó.
Thành công về mặt nghề nghiệp của bộ phim này cùng những bất cập của nó về nội dung tư tưởng đã được nhiều cây bút phê bình chuyên và không chuyên, của không ít người trong nghề lẫn đông đảo khán giả vạch ra khá cụ thể. Tôi chỉ xin làm công việc điểm báo, trích lại đôi ba dẫn chứng từ hàng ngàn ý kiến đã được đăng tải trên nhiều báo chí, trang mạng (Để bài viết đỡ lòng thòng, xin phép không ghi tên người viết và xuất xứ đoạn trích).
Khen nhiều:
- "Bi, đừng sợ" có những khuôn hình đẹp và những góc quay tinh tế gây ấn tượng sâu sắc về mặt thị giác. Trạng thái tâm lý tình cảm giữa các nhân vật... cũng được khai thác tới tận cùng bằng những hình ảnh mạnh."
- "Nỗi dày vò, bứt rứt của người cô và sự nhẫn nại, tấm tức bên trong của người mẹ được lột tả qua những suy nghĩ, hành động đầy táo bạo đến rùng mình. "Bi, đừng sợ" ví von những mối quan hệ tình cảm của con người giống như viên nước đá- có thể chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác để rồi sau đó tan chảy và biến mất vào hư không."
- "Những hình ảnh trên phim trong veo, như một dòng chảy chậm, phản ánh cuộc sống như chính nó đang diễn ra. Diễn viên cũng sống thật, thoải mái trong không gian thật của cuộc sống. Phan Đăng Di đã chuyển tải hình ảnh bằng một góc máy dài để người xem có thể tự do đảo mắt nhìn xung quanh, quan sát và cảm nhận cuộc sống của các nhân vật; mọi góc cạnh của cuộc sống khách quan và thật nhẹ nhàng như những gì diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, lặng lẽ như mọi việc, mọi vật vốn vậy”
- "Những con người như thế, vừa an phận, vừa mong manh chờ đợi để duy trì gia đình, duy trì đời sống. Trong quan niệm chung, đời sống cần được tiếp nối, trôi chảy, nhưng với họ, chẳng biết thế nào - có lẽ đó chỉ là nghĩa vụ!"
- "Những hình ảnh còn thể hiện tính bức bối rõ ràng thông qua việc dàn cảnh có phần méo mó và ánh sáng mù mờ, chỉ phản chiếu nhân vật giữa một phông nền đen."
- "Bi đừng sợ" không "truyền thống" kiểu phải có bài học rút ra, tuyên truyền này nọ, nhưng ít nhất xét về tính sáng tạo, tôi thấy ăn đứt nhiều bộ phim khác... so với bộ phim "Đời cát" từng nổi đình nổi đám một thời và cũng đã đoạt giải tại LHP Châu Á Thái Bình Dương thì tôi thấy phim này hay hơn."
- "Phan Đăng Di đã lựa chọn một cách kể chuyện tưởng như đơn giản, nhưng thực chất, đã pha trộn một cách xuất sắc những hình ảnh tương phản, đôi lúc khốc liệt trong bộ phim của mình."
- "Cái tôi quan tâm là bộ phim đã tạo ra cái cảm giác rất chân thực. Nó nhắc lại cho tôi một lần nữa rằng tôi đang sống trong một môi trường như thế, tôi phải sống như thế nào, và, sau này, con cái của tôi nên được nuôi dạy ra sao?!"
- "Bộ phim không đi theo quy chuẩn điện ảnh thông thường, mà hướng vào việc tạo ra cảm giác trong từng cảnh quay."
- " Có thể thấy trong mỗi khuôn hình, sự cầu kỳ, chỉn chu của đạo diễn. " - "Bộ phim được dựng cắt, chuyển cảnh một cách đột ngột, như thể chuyển từ trạng thái cảm xúc này qua trạng thái cảm xúc khác, như thể mô tả bản chất thực sự của cuộc sống, của tình cảm của con người. Đạo diễn cũng cố tình lảng tránh các yếu tố cơ bản để tạo nên kịch tính, không đặt nhân vật trước trước thử thách để họ phải giải quyết, không giải thích những biến chuyển tâm lý của họ…"
- "đi ngược với số đông "bình dân học vụ".
- "Tôi nghĩ phim này là một cái tát vào những lới mòn của tư duy cũ kỹ và đạo đức giả."
- "Bộ phim không đi theo quy chuẩn điện ảnh thông thường, mà hướng vào việc tạo ra cảm giác trong từng cảnh quay."
- "Thế nhưng, cái mà Bi, Đừng Sợ tạo ra chính là những cảm giác rất hiện thực nhưng đồng thời cũng rất khó giải nghĩa trong các mối quan hệ của con người, thông qua việc trộn lẫn nhiều câu chuyện của nhiều nhân vật vào với nhau, gói ghém vào chung một gia đình."
- "dù bộ phim như một sự thách thức với những khán giả chưa có điều kiện tìm hiểu sâu, nhưng hy vọng sau những bộ phim như thế này, văn hóa xem phim của khán giả Việt Nam sẽ được nâng cao hơn nữa."
Và chê cũng lắm:
- "Đa số nhà chuyên môn đều chê "Bi, đừng sợ", thậm chí có người còn cho rằng nó như một "cú tát vào mặt khán giả”
- "Phim phản ánh một đời sống quá đen tối và bức bối của tầng lớp thị dân, xoay tròn trong một gia đình mà tất cả các giá trị truyền thống đang bị phá vỡ. Những con người bình thường tự đi vào ngõ cụt cảm xúc của họ và không có lối ra”.
- "Xem phim chẳng thấy giống con người Việt Nam gì cả. Những con người như thế không tiêu biểu ở miền đất vốn dĩ rất luôn coi trọng nề nếp, nền tảng gia đình như Hà Nội”.
- "Bi, đừng sợ" đã rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, theo góc nhìn phiến diện của đạo diễn về cuộc sống, hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật. Điện ảnh có quyền chọn thể hiện cái cá biệt nhưng nó phải phản ánh được cái chung”.
- "Thật đáng thất vọng... xem phim xong tôi cảm thấy sợ thực sự, sợ cho con cháu mình, cho những thế hệ sau của chúng tôi, nếu như chúng vô tình xem phim này, nếu như chúng sống và lớn lên trong một xã hội mà giá trị đạo đức suy đồi, điên đảo và nhớp nhúa đến vậy…"
- "Bôi nhọ luân thường đạo lý trong quan hệ gia đình, giữa cha – con, vợ - chồng, bố chồng – con dâu, quan hệ giữa chủ và người làm thuê ghê tởm, bôi nhọ hình ảnh cao quý của nghề giáo bằng nhân vật cô giáo Hương, một xã hội tối tăm và nhơ bẩn nhất dưới gầm cầu ... Bằng những hình ảnh trần truồng như nhộng, tục tĩu như phim khiêu dâm…rồi cuối cùng lại chẳng nói lên được điều gì…"
- "Đừng sợ, đừng sợ cái gì, đừng sợ thì cũng thật lạ đối với những tâm hồn trong trẻo, trẻ thơ như Bi, khi những điều đó làm chúng tôi, đã hai phần ba tuổi đời trải nghiệm… quá khiếp sợ!"
- "Xã hội mà chúng ta đang sống có thể có những điều xấu xa đó, nhưng cũng chỉ là một số rất nhỏ hiếm hoi trong những điều tốt đẹp đang diễn ra hàng ngày, thì tại sao những thứ nhỏ mọn xấu xa đó được đưa lên phim như đại diện của những con người đang sống ở Thủ Đô Hà Nội nói riêng, người Việt Nam nói chung…"
- "xin thú thật là tôi chẳng hiểu nội dung phim nói gì ? Diễn biến, cốt truyện của phim rời rạc, những tình huống nhạy cảm trong phim rất "phô" và phải nói là rất dung tục."
- "Thất vọng Bi, đừng sợ! ... Điểm sáng duy nhất cho bộ phim chỉ có thể là nhân vật Bi (diễn viên nhí Phan Thành Minh) với gương mặt thơ ngây, trong trẻo trước tất cả mọi thay đổi của cuộc sống."
- "Bi, đừng sợ" đã bóp méo sự thật, không coi trọng con người. Phản ánh hiện thực cuộc sống phải làm sao để khán giả có thể nhìn thấy họ trong đó nhưng xem phim, khán giả không chia sẻ được với đạo diễn mà chỉ cảm thấy con người đang bị xúc phạm đến tận cùng. Không ai phản ứng chuyện điện ảnh nêu lên những vấn đề về tình yêu, tình dục và phản ánh nó bằng ngôn ngữ điện ảnh mượt mà, bằng những tư tưởng lớn lao, nhưng ở phim này, tôi chẳng thấy được ở chỗ nào cả”.
- "Bức bình phong "giải thưởng quốc tế”... Một bộ phim khi đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế thì nghiễm nhiên chiếm một "vị thế” nhất định, ngay cả khi nó khó hiểu cũng không nhiều người dám "nói thẳng, nói thật”. Tâm lý chung này đã vô tình mặc định cho những bộ phim "xem không hiểu được, không cảm được” trở thành tác phẩm "có tư tưởng lớn”.
- "Nó hoàn toàn chẳng có gì Việt Nam và chỉ xoay quanh mỗi vấn đề tình dục... hiện thực cuộc sống có hàng trăm, ngàn thứ cần quan tâm, không hiểu sao các đạo diễn chỉ bám vào "tình dục thô thiển" chả lẽ chẳng còn gì để phản ánh sao? chả lẽ người dân Việt Nam từ già trẻ bé lớn đàn ông đàn bà chỉ chăm chăm mỗi chuyện đó sao?"
- "Thế nhưng bạn không bao giờ có thể đi dạy cho người xem biết là cái này hay lắm, được nhiều giải lắm để người ta cũng đồng cảm với mình... mà chỉ có thể chứng minh bằng tự tác phẩm đó có thể có. Mọi người không thể bới đống bùn ra mà tìm viên ngọc mà bạn cho là có được."
- "Phim cũng là lĩnh vực kinh doanh, tôi cho những ai làm phim có các cảnh tình dục đều là hành vi lợi dụng tình dục vào mục đích kinh doanh cả thôi. Nó giống với các web xex. "
- "Xem phim chẳng thấy giống con người Việt Nam gì cả. Phim đã bóp méo sự thật, không coi trọng con người. Phim đã rơi vào chủ nghĩa tự nhiên, theo góc nhìn phiến diện của đạo diễn về cuộc sống, hoàn toàn xa lạ với nghệ thuật. Phim gây sốc vì cảnh "nóng…"
- "Nếu coi mỗi cảnh phim là một viên gạch thì Bi, đừng sợ giống như một đống gạch chứ không phải cái người ta mong muốn có thể nương náu, thỏa mãn - một ngôi nhà..."
- "Những nhân vật trong phim với câu chuyện lập lờ thiên về bề mặt của mình, chứ không phải lấp lửng hóa như một thủ pháp, hoàn toàn không có khả năng gợi lên bất cứ sự đồng cảm nào từ người xem."
- "Ở đây, chênh vênh một ranh giới giữa việc thể hiện trẻ con đúng tâm sinh lý, đặc điểm tính cách của chúng và từ đó đạt hiệu quả truyền tải, với sự gượng ép, cố "nặn" ra một đứa trẻ mang những ngôn ngữ, cử chỉ như của "người lớn dạy", để rồi trông thì có vẻ thật mà hoá ra là "trẻ con giả".
***
Có thể nói: hầu hết những ý kiến đánh giá, khen chê tràn ngập công luận kể từ lúc phim ra đời tới nay- thậm chí kể cả những ý kiến có động cơ tô vẽ quảng cáo hoặc có động cơ trù ghét đố kị, xét cho cùng, đều chứa đựng hạt nhân sự thật. Thế nhưng, đâu mới là chân lý cuối cùng? Cần nhận định thế nào cho thật khách quan về tác phẩm này?
Điều trước tiên, tôi muốn khẳng định ngay là: bộ phim "Bi, đừng sợ", đứng về mặt đẳng cấp nghề nghiệp đã vượt trội so với nhiều phim Việt từng giành giải Bông sen vàng Quốc gia hoặc gặt hái những giải thưởng Quốc tế (Tôi không muốn so sánh với những phim đang "hot"và lấy được nhiều nước mắt khán giả gần đây, ví như "Cánh đồng bất tận"- một bộ phim làm theo kiểu mélodram hạng tồi nhất!) Những nhận xét về về thủ pháp điện ảnh chứng tỏ đẳng cấp đó của đạo diễn Phan Đăng Di qua mấy trích dẫn trên theo tôi là đã khá chuẩn xác và đầy đủ, tôi xin miễn phải bàn thêm.
Một người bạn đạo diễn trẻ của tôi từng học qua trường điện ảnh của Pháp (Index) từng kể cho tôi nghe: ở bên đó, những đạo diễn trẻ có dự án hay ý tưởng sáng tác độc đáo đều được nhà nước ủng hộ, họ đều có thể có điều kiện quay lên tất cả những gì họ nghĩ ra. Song, đến khâu hậu kỳ- nghĩa là dính dáng tới guồng máy kinh doanh điện ảnh thì số phim được hình thành chỉ dưới 10%! Như vậy, trường hợp của Phan Đăng Di- một nhà làm phim độc lập nước ta là rất đáng nể, vì chỉ với số tiền thưởng LHP quốc tế Pusan về kịch bản và chạy vạy tìm thêm nguồn kinh phí từ các nhà tài trợ trong - ngoài nước, đạo diễn Phan Đăng Di đã đã thực hiện được một phim hoàn chỉnh, lại được gửi tới tham dự LHP Cannes lần thứ 63 và mang về cho điện ảnh Việt Nam giải thưởng Kịch bản hay nhất tại LHP này.
Nhưng, phim chỉ được giải về kịch bản mà không được giải về phim hoặc về đạo diễn! Đây chính là điều đã không được nói đến - vô tình hay cố tình. Chưa kể, như một nhà phê bình& biên kịch điện ảnh có uy tín là Đoàn Minh Tuấn đã cho biết: "Các phim tố cáo hiện thực nêu lên những mặt trái của xã hội, những nghiệt ngã của con người lại rất thường được phương Tây trao giải. Các phim dạng này cũng không hiếm ở nhiều nước: Nga, Ba Lan, Cộng hòa Czech... Nhưng sẽ khó mà thấy được tương lai của đạo diễn nếu như mải theo đuổi dạng phim kiểu này”. Còn khi đạo diễn kỳ cựu Nguyễn Vinh Sơn nhận xét: "Có thể thấy Phan Đăng Di nhập vào dòng phim hiện thực với những chuẩn mực của nó", thì bất chợt chúng ta phải đặt câu hỏi: đó là dòng phim hiện thực nào? Theo kiểu Tân hiện thực Ý hay Làn sóng mới của Pháp? Hay Hiện thực XHCN mà người ta đã nói tới nhàm và thực ra cũng chẳng còn nội dung nghiêm túc thực sự? Và cái chuẩn mực đó là gì? Lấy gì làm thước đo, làm tiêu chuẩn? Đã trót đả động tới cái gọi là "chuẩn mực" thì cũng nên bàn cho ra nhẽ một chút!
Đạo diễn Michelangelo Antonioni (một trong những nhà cách tân sáng giá của điện ảnh Italia giữa thế kỷ trước, thuộc thế hệ khai phá chủ nghĩa Tân hiện thực) trong bộ phim "Sa mạc đỏ" nổi tiếng (sản xuất năm 1964) đã mổ xẻ một cách thấm thía sự cô đơn trong tâm hồn con người, sự tách rời giữa tâm hồn và trí tuệ, giữa cá nhân con người với quan hệ ruột thịt và cội rễ gia đình- khi các giai tầng xã hội phân chia sâu sắc và nền văn minh kỹ trị bắt đầu thống trị tất cả; cùng hàng loạt các phim của ông đều tỏ rõ thái độ bênh vực những con người nghèo khổ bất hạnh, căm thù tội ác và sự thối nát xã hội. Chính thái độ dứt khoát trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa nhân văn và phi tính người đã khiến sự nghiệp nghệ thuật của ông chói sáng trong nền điện ảnh thế giới.
Cũng thuộc nền điện ảnh Italia, đạo diễn Bernado Bertoluci có lần tranh luận với đồng nghiệp là đạo diễn Pháp Gean-Luc Godard: "Tại sao không có can đảm đứng cách xa với nguyên mẫu của anh, chấm dứt chuyện liên tục lặp lại những nhiễu loạn thần kinh mà hãy đối diện với số đông khán giả của mình?" Trên thực tế, Bertoluci đã đem một thứ điện ảnh giàu tính nhân văn tới đông đảo công chúng toàn thế giới- những tác phẩm mãi mãi làm rung động lòng người, như "Bản tăng-gô cuối cùng ở Paris", "Thân phận con người", "Hoàng đế cuối cùng", "Tiểu Phật"... là những minh chứng rực rỡ của một nghệ thuật độc đáo và luôn quan tâm đến số phận con người ở bất kỳ tầng lớp nào, ở bất kỳ hoàn cảnh sống nào.
Ingmar Bergman, đạo diễn Thụy Điển lại ưa dùng hình thức ngụ ngôn giàu bản sắc vùng Bắc Âu để thể hiện những vấn đề thời đại cấp bách, mà cấp bách nhất đối với người đạo diễn tài ba này chính là phải bảo vệ con người và môi trường sinh thái- văn hóa xung quanh con người, giữa khi tràn ngập chứng ngủ lịm về đạo đức, sự lên ngôi của bản chất giáo điều, thói nhẫn tâm, khi sự dửng dưng nguội lạnh trước thân phận con người được che đậy bằng các thứ mặt nạ. Bergman coi điều nguy hiểm chính của xã hội là những quan điểm chỉ vì cái quyền lợi cục bộ của một nhóm người mà bất chấp mọi sự sống khác của số đông người... Trong bộ phim được trao giải Oscar: "Fanni và Alekxandr", những nhân vật nhỏ tuổi có tâm hồn đẹp đẽ nhiều mơ ước của ông cuối cùng đã buộc phải chấp nhận cuộc đấu tranh không cân sức với những con quỷ tồn tại trong tâm hồn của tên giáo chủ độc ác Vergơrut để bảo vệ lý trí, nghị lực và những tình cảm tốt đẹp của mình...
Cũng nên nhắc tới "người khổng lồ" của điện ảnh Tây Ban Nha: Louis Bunuel- người được phong danh hiệu "Nhà điện ảnh bậc thầy" tại LHPQT Venise 1969, đoạt giải Oscar phim "Ước muốn mơ hồ" năm 1977. Ông là người đạo diễn luôn luôn bị trục xuất khỏi Tổ quốc mình, nhưng trái tim mãi mãi thuộc về Tây Ban Nha bởi trong tất cả các tác phẩm của mình, ông đã kiên trì say mê khám phá nội tâm đích thực của nhân vật, chúng mang tính nhân loại nên cũng liên quan đến Tổ quốc đau thương của ông- những nhân vật mang bản chất khổ đau bởi niềm tin mù quáng, giáo điều, bởi tàn nhẫn và bất công xã hội đã ngăn cản họ làm điều thiện, đã phá hủy nguyên tắc nhân đạo mà họ lựa chọn... Ông từng tâm sự: "Tôi không thích thú làm phim về những vấn đề cá nhân, bản ngã. Tôi quan tâm đến những vấn đề đó chỉ trong trường hợp chúng tác động lên tiến triển của một tính cách chung, có liên quan đến xã hội chúng ta... Tuổi thơ, rồi thời thanh niên của tôi diễn ra dưới ảnh hưởng những chuẩn mực hư hỏng, sa đọa và những nguyên tắc của xã hội đó. Chúng đã di căn trong tôi hậu quả có thật- ấn tượng về một thế giới đầy dục vọng luôn muốn trội hơn, muốn áp đảo kẻ khác... Những luận thuyết và những nguyên tắc không sờ tới được lại có khả năng tiêu diệt rất lớn. Chính vì những nguyên tắc ấy trở thành phương tiện để áp đảo và đè nén, nên tôi cần phải nhẩy vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng vì tự do..."
Qua một vài tên tuổi lớn của điện ảnh của thế giới, chúng ta có thể nhận thấy điểm chung nhất: tài năng bậc thầy được tôn vinh ở họ chính là cái chủ nghĩa nhân văn được nung lên tới độ cháy bỏng và được thể hiện một cách kỳ lạ trong những hình thức có một không hai; và tôi chỉ muốn góp phần khẳng định thêm cái điều hiển nhiên này: người nghệ sĩ cần sự độc đáo, cần vươn tới sự hoàn thiện về nghệ thuật của riêng mình, song tất cả sẽ là vô nghĩa, nếu như chúng không hướng tới một cái đích cao cả là bênh vực, bảo vệ, cổ vũ con người. Người đạo diễn điện ảnh thường được coi là "thầy phù thủy" nắm trong tay biết bao số phận, mảng đời, triết lý, cảm xúc, sắp xếp chúng một cách nghệ thuật nhất, ấn tượng nhất rồi trưng lên màn ảnh khiến người xem trực tiếp khóc, cười, sau đó còn tiếp tục suy ngẫm... Nhưng cũng thực là tai hại nếu người đạo diễn tung ra những "âm binh" làm nhiễu loạn thêm cái cuộc sống vốn đang bị đảo lộn các giá trị, càng nguy hiểm hơn nữa khi người đạo diễn đó có tài! Lịch sử điện ảnh và ngành điện ảnh học thế giới từ trước tới nay không chỉ quan tâm đến diện mạo riêng chung, quy luật phát triển của nghệ thuật thứ bảy, mà còn tìm hiểu sức ảnh hưởng đối với sự hình thành nhân cách con người của một loại hình nghệ thuật mà theo học giả Georger Sadoul "là quan trọng nhất trong các nghệ thuật, đồng thời cũng là phổ cập nhất, tại các nước xã hội chủ nghĩa cũng như tại các nước tư bản chủ nghĩa..." Thực tế đã cho thấy, những tác phẩm điện ảnh có giá trị và có sức sống lâu bền trong lòng người là những tác phẩm mang nặng những suy tư về cuộc sống, về số phận con người, về giá trị và vị trí con người trong đời sống xã hội... Nghệ sĩ điện ảnh chân chính là người thù ghét những gì phản với đạo lý tự nhiên, họ miêu tả những nghịch cảnh, những xung đột tâm lý, thông qua hình tượng chân thực của những con người nhằm chống lại cái xấu, cái ác, sự giả dối và phi lý của xã hội... Cả cuộc đời hoạt động điện ảnh của nghệ sĩ thiên tài Charlie Chaplin chỉ để nhằm chứng tỏ: "Hơn hết thảy mọi điều, đối với tôi, giá trị cao đẹp nhất chính là nhân phẩm con người." Marcel Carné- một chủ soái của trường phái điện ảnh hiện thực lãng mạn Pháp đã tuyên bố hùng hồn: "Bộ phim phải là tấm gương phản ánh thời đại mình." Đạo diễn Palesine Elia Suleiman tâm niệm: "Tôi tin điện ảnh có thể làm cuộc sống của chúng ta ít khó khăn hơn, nếu như mỗi người nghệ sĩ biết tự vấn và biết quan tâm đến số phận con người." Nữ đạo diễn Israel Keren Yedaya tin rằng: "Tôi quan niệm mỗi bộ phim-dù phim truyện hay phim tài liệu cần phải giúp đỡ (con người) để thay đổi điều gì đó trong xã hội". Đạo diễn Tây Ban Nha Pedro Almodovar khẳng định: "Tôi tin rằng nếu chúng ta mang hiện thực đặt vào phim thì cũng có nghĩa là chúng ta đang tham gia cải tạo cuộc sống và giúp chúng trở nên tốt đẹp hơn." Nhà phê bình điện ảnh Pháp Jean-Paul Torok viết về một đạo diễn lớn của Ba Lan: "Chủ nghĩa hình thức trong dàn dựng tác phẩm của Roman Polanski cũng như của các nhà điện ảnh lớn bao giờ cũng phản ánh hay chứa đựng một thái độ đạo đức, một cái nhìn nào đó về thế giới". Bài học thất bại của đạo diễn danh tiếng Pháp René Clair cũng đáng để suy ngẫm: rời xa hiện thực để say mê với những công thức máy móc của tư tưởng thuần túy, ảo tưởng, ông đã dần đánh mất bầu nhiệt huyết của người nghệ sĩ, những phim của ông giai đoạn sau cùng mất hẳn đi sức sống và cuốn hút thời trai trẻ nên bị rơi vào quên lãng...
Xin trở lại với phim "Bi, đừng sợ".
Phải công nhận rằng Phan Đăng Di là một đạo diễn có nhiều công phu suy nghĩ tìm tòi về thủ pháp điện ảnh, và có "gout" thẩm mỹ tốt trong cách lựa chọn khuôn hình, ánh sáng, động tác máy, chi tiết nghệ thuật... Ấn tượng nhất, và có khả năng gợi suy nghĩ nhiều nhất là các chi tiết về chiếc lá phong, quả táo đỏ bị đông cứng trong nước đá. Rồi cảnh người ông nôn ra máu sau khi ngửi một bông hoa đồng nội, cảnh hai đứa trẻ cào bới ruột quả dứa hấu một cách hoang dã sau nhiều ngày chúng nâng niu bảo vệ nó trong bụi kín… Theo thiển ý riêng, tôi cho rằng đó là những cảnh phim, chi tiết phim có thể trở thành kinh điển trong các bài giảng ở trường điện ảnh. Cái thế giới trẻ thơ được đạo diễn khá dày công chăm chút xây dựng, và nếu diễn viên Bi được thay bằng chú bé khác chứ không nhạt nhòa gần như vô cảm trên màn ảnh thì hiệu quả còn mạnh hơn nữa. Song, cái thế giới trẻ thơ đó dường như lạc lõng trong phim, và chúng có mối liên hệ lắp ghép về dựng phim bên ngoài hơn là mối quan hệ nội tại với tổng thể.
Một trong những cây bút ca ngợi phim hết lời đã viết: "Lấy bối cảnh mùa hè HN và hình tượng viên đá xuyên suốt câu chuyện, phim truyện dài đầu tay của đạo diễn Phan Đăng Di dẫn dắt khán giả bước vào cuộc hành trình khám phá những bí mật sâu kín tồn tại trong mỗi con người." Những bí mật nào đây? Trong phim, người xem rồi cuối cùng cũng đã hiểu: những bí mật đó thực ra chỉ là những ẩn ức dục vọng sinh lý bị kìm nén cần được giải tỏa- cái điều mà nhà phân tâm học Sigmund Freud đã lý giải từ lâu và nó đã được khai thác đến nhàm chán, đến "trơ khố tải" trong văn học nghệ thuật phương Tây đến cả một thế kỷ và hẳn chúng chẳng còn khả năng gây bất kỳ xúc động thẩm mỹ nào nữa! Tình tiết người cô của Bi thủ dâm bằng cục nước đá khiến ta liên tưởng đến hình ảnh cô gái thuyền chài móc cả chùm lưỡi câu vào cửa mình trong phim "Hòn đảo" của đạo diễn tài ba Hàn Quốc Kimkiduk. Song, với kiểu phim luận đề quen thuộc được sử dụng một cách cao tay, Kimkiduk đã phanh phui ra mặt trái đáng ghê tởm, phi nhân tính của xã hội thông qua những hình ảnh giàu tính triết lý, và tình tiết trên đã vượt qua được chủ nghĩa tự nhiên để cài cắm vào tâm trí người xem nỗi nhức nhối về những vấn đề toàn xã hội, thậm chí ở tầm vóc nhân loại. Còn tình tiết "mô phỏng" đó của "Bi, đừng sợ", cùng hàng loạt cảnh làm tình thô thiển (và nhơ nhớp) trong phim chỉ khiến rất nhiều khán giả các tầng lớp thấy bức bối phản cảm - và họ có lý!
"Bi, đừng sợ" cũng khiến người xem trăn trở về mối quan hệ từ gia đình tới xã hội đã "đóng băng" một cách thê thảm, và đó cũng có thể là hồi chuông cảnh tỉnh xã hội mà những người làm phim muốn gióng lên. Có điều, hồi chuông cần thiết đó lại được bật ra từ những hình bóng vật vờ như bóng ma, tựa những nét vẽ phúng dụ mà đời sống tinh thần trong đó sao mà méo mó, thảm hại, bé nhỏ, không có chút âm hưởng nào của đời sống thực tại đang cộm lên bao điều gay gắt nóng bỏng! Cuộc đời thực có thể còn tồi tệ ảm đạm hơn thế nhiều, song nếu chỉ làm cái việc mô phỏng nó một cách nghệ thuật, tỉa tót nhấm nháp nó thì cần gì đến sứ mệnh của người nghệ sĩ?! Ngoài một chút ngậm ngùi, có đượm chua xót và mỉa mai của tác giả, người xem thèm biết bao thái độ uất hận đầy dũng khí của người làm phim trước sự tha hóa của tâm hồn - nhân cách mà thực ra phim cũng đã hé lộ ra được phần nào, song tác giả lại không đủ dũng cảm và bản lĩnh nghệ thuật để đi tới tận cùng sự cảnh tỉnh, vì vậy, tác phẩm hóa ra "Chơi vơi"- như tên một bộ phim mà Phan Đăng Di tham gia với tư cách tác giả kịch bản! Người xem đông đảo sẽ thu nhận được điều gì, ngoài sự xuýt xoa về những tiểu xảo, những chi tiết điện ảnh có tính nghệ thuật song xét cho cùng chỉ là những đóa hoa dại mọc trên một bãi cát khô cằn của tư tưởng tình cảm? Đó có phải là hướng đi lâu dài của một đạo diễn trẻ khá tài hoa và chịu khó lao động nghệ thuật? Đó có phải là con đường lớn của điện ảnh Việt Nam? Đó có phải là tác phẩm chứa đựng trong nó những giá trị để xứng đáng gia nhập vào kho tàng điện ảnh nhân loại? Nếu soi vào cái "chuẩn mực" của hiện thực trong nghệ thuật, qua sự nghiệp và tuyên ngôn của một vài nghệ sĩ điện ảnh thế giới đã nêu trên, phần đông người xem phim cũng có thể tự trả lời; và bản thân tôi buộc phải tự nhủ mình: "Người làm phim hãy nên biết "sợ" điện ảnh!"
Nếu cắt "Bi, đừng sợ" ra làm những trích đoạn bài tập về đạo diễn, quay phim, thiết kế mỹ thuật... để sinh viên điện ảnh nghiên cứu, học tập, thì sẽ có khá nhiều bài tập thật xuất sắc; cũng giống như trường hợp của nhiều đạo diễn trẻ ở Pháp đã được thỏa sức thể nghiệm về nghề nghiệp mà tôi kể ở trên... Nhưng, để tạo ra một tác phẩm điện ảnh hoàn chỉnh có tác dụng đích thực đối với xã hội, rõ ràng là Phan Đăng Di- cũng như các nhà điện ảnh nước ta còn phải tự vượt lên trên mình nhiều lắm - không chỉ là vấn đề nghệ thuật thuần túy, kỹ thuật thuần túy mà bất cứ giáo trình điện ảnh nào của Mỹ cũng nhấn mạnh để giúp người làm nghề bước vào một công nghệ càng ngày càng đậm chất thương mại có cơ hội mau chóng chộp được thành công- mà cái chính là thái độ của người nghệ sĩ điện ảnh trước thời cuộc, là một tầm vóc văn hóa- tư tưởng cần thiết. Mà để có được những điều đó, rất cần tới lòng dũng cảm của bản thân cùng sự cổ vũ chân thành của mọi người: "Đừng sợ!"
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
* Tư liệu tham khảo:
- L’ Histoire du Cinéma mondial - G. Sadoul - Paris, 1985
- Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) - I. Teplix - NXB Văn hóa, 1978
- Đạo diễn điện ảnh thế giới - Nhiều tác giả- Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh VN- Hà Nội, 1995
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.9.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
VÌ SAO XEM PHIM "MÊ THẢO” TÔI KHÔNG THẤY XÚC ĐỘNG?
(Phim của Đạo diễn Việt Linh)
Nguyễn Yên Thế
* Tư liệu tham khảo:
- L’ Histoire du Cinéma mondial - G. Sadoul - Paris, 1985
- Lịch sử điện ảnh thế giới (3 tập) - I. Teplix - NXB Văn hóa, 1978
- Đạo diễn điện ảnh thế giới - Nhiều tác giả- Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh VN- Hà Nội, 1995
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.9.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
VÌ SAO XEM PHIM "MÊ THẢO” TÔI KHÔNG THẤY XÚC ĐỘNG?
(Phim của Đạo diễn Việt Linh)
Nguyễn Yên Thế
Một cái tên phim lạ khá hấp dẫn, lại được làm theo truyện của một tác giả văn học đại thụ, được tuyên truyền quảng cáo nhiều từ vài năm nay, lại của một đạo diễn nữ đã từng gặt hái thành công ở một vài liên hoan phim trong nước và quốc tế… Đó là những điều đã dẫn tôi đến rạp mua vé xem bộ phim: " Mê Thảo- Thời vang bóng”.
Trong cái không khí có nhiều phim "cúng cụ” ra đời để phục vụ kịp thời những ngày lễ kỷ niệm rồi sau đó vội vã nhét vào kho và những cuộc cãi lộn trên báo chí nổ ra ( để nhằm khẳng định phim mình hay, và cũng là một cách để quảng cáo cho bộ phim đã bị công luận "khai tử”), phải, trong cái bối cảnh đó tôi đi xem "Mê Thảo” với một tâm lý dễ chịu hẳn. Bộ phim được làm chỉn chu, kỹ lưỡng, không có những hạt sạn đáng tiếc khiến khán giả suýt "gãy răng” như không ít phim ít phim điện ảnh và truyền hình của ta hay mắc phải. Âm thanh nổi, ánh sáng đẹp, khuôn hình gọt tỉa, bối cảnh phục trang hợp lý, âm nhạc sử dụng đắt, diễn viên có nghề, v.v. Có thể nói đây là một bộ phim truyện nhựa xứng với "đồng tiền bát gạo” bỏ ra.
Nhưng, nhiều khán giả (có người đã phát ngôn trên báo chí)- trong đó có tôi, khi xem bộ phim lại không thấy xúc động. Tôi cũng ngạc nhiên và tự hỏi: có phải mình đã chai lỳ cảm xúc? Hay là vì trong khi xem, mình cố tìm xem những chỗ nào trùng khớp hay không trùng khớp với nguyên tác của Nguyễn Tuân? Hay là phim làm theo kiểu hiện đại quá, không phù hợp với khả năng thưởng thức của mình?
Để có thể tự trả lời được một cách thật khách quan những câu hỏi rắc rối tơ vò trên, tôi đã đọc lại toàn bộ tác phẩm "Chùa Đàn”, rồi mua vé xem lại "Mê Thảo” lần nữa, cùng với đôi ba người bạn ưa tranh cãi.
Thế rồi, một câu hỏi mới đã chợt bật ra với tôi: bộ phim được làm ra để làm gì, nhằm tới cái đích gì trong tâm tưởng người xem?
Cơ sở nội dung để các nhà làm phim sử dụng cho "Mê Thảo” là chương II, cốt lõi truyện "Chùa Đàn”: "Tâm sự của nước độc” được viết trong năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân lại viết thêm phần I và phần III cho tác phẩm để lý giải thêm, đúng hơn là "chiêu tuyết” về mặt tư tưởng cho nội dung thiên truyện; và việc làm đó đã được một giáo sư chuyên gia hàng đầu về tác giả Nguyễn Tuân nhận xét: "đó là lời lý thuyết ồn ào” (1) Chính Nguyễn Tuân trong một bài viết nhìn lại sáng tác của mình trước cách mạng đã khẳng khái tự thừa nhận: "Chùa Đàn nguyên là một truyện thần bí quái dị, rút ở tập "Yêu ngôn” phản khoa học, phản tiến bộ. Chuyện ấy là chuyện một địa chủ điên loạn trong hưởng lạc, muốn sống một cách dâm bạo, như cái kiểu của Musset: "máu, khoái cảm, và chết”… Sáng tác vô chính trị "Chùa Đàn” là một tội lớn đối với Cách mạng Tháng Tám” (2). Nếu bác Nguyễn có sống lại, thì bên cạnh dũng khí của nhân cách lớn đó sẽ có thêm sự kính nể, bác sẽ lại vái dài những người làm phim và Hội đồng duyệt phim Quốc gia vì đã dám phạm vào "vùng cấm” mà cho đến ngay lúc này, cái bệnh "cầm đèn chạy trước ô tô”, "bảo hoàng hơn vua”, "cái gì cũng sợ” còn nặng nề lắm trong tâm lý những người "cầm cân nảy mực” ở cái lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm và đặc biệt quần chúng là Điện ảnh! Ô hay, thế ra cái việc duyệt phim ở ta giờ cũng thoáng thật! Nhưng thôi, ta hãy quay về phim, quay trở về với lòng dũng cảm quyết "liều chiến” của nữ đạo diễn Việt Linh. Và ta thử xem chị đã làm thế nào để biến "nước độc” thành "nước lành”, để chị có thể đem phim đi nước này nước nọ trình chiếu như một thứ "căn cước tài năng và lòng yêu dân tộc” của mình.
Tôi nghĩ, việc đầu tiên, tốt hơn cả là hãy bám lấy nhân vật chính- địa chủ ấp Mê Thảo họ Nguyễn. Trong phim, trừ đoạn đầu ở thành phố đi nghe hát và tình cờ chứng kiến một cuộc ngộ sát, ông chủ Nguyễn từ đó cho đến hết phim đã hiện ra như một hình nhân thế mạng cho một ai đó, biểu tượng cho sự khùng điên, man rợ, độc đoán; ở ông ta chất chứa những ẩn ức mà nổi bật là ẩn ức sinh lý không được giải tỏa… Tất cả những điều đó được lý giải bởi một tình huống duy nhất: người vợ yêu sắp cưới bị tai nạn đổ ô tô- bằng chính cái ô tô quà cưới của ông ta dành cho vợ yêu! Từ đó, ông ta căm ghét văn minh cơ khí, nghĩa là tất cả những gì liên quan đến tiện nghi hiện đại. Những hành động của ông ta (buộc mọi người trong ấp phải thiêu hủy đồ dùng sản phẩm công nghiệp, việc đặt lệ: người vào ấp phải bỏ lại tư trang thành thị ngoài trạm gác, v.v.), nếu ở trong truyện, chúng được phủ lên bằng một không khí âm u ma quái đượm màu sắc "Liêu trai- thì ở phim, chúng lại được miêu tả một cách cụ thể đến trần trụi, thậm chí cả việc ông ta "làm tình” thực sự với bức tượng gỗ! (chi tiết này không có trong truyện). Tất cả những cái đó nhằm minh họa cho tính cách (hay tình trạng nhân cách) của ông ta: nửa người nửa ma quái, nửa phần cõi dương nửa phần cõi âm, và chúng hoàn toàn không đủ thuyết phục rằng ông ta có thể lại phục hồi được lương tri nhờ nghe tiếng hát của cô đào Tơ ở cuối phim!
Nếu tỉnh táo đọc lại những trang "Chùa Đàn” hôm nay, với cái nhìn độ lượng của thời gian, chúng ta càng dễ nhận ra: ở đằng sau sự sa đọa, lỗi thời, thần bí, điên loạn của một thời đại mà người nghệ sĩ dù có cá tính sáng tạo mạnh đến mấy cũng khó lòng vượt qua được, vẫn có một cái gì đó le lói mang giá trị nhân bản đích thực. Ngay trong văn bản "Tâm sự của nước độc” mà "Mê Thảo” dựa vào cũng còn có nhiều tình tiết uẩn khúc mà người làm phim bỏ qua hay không tiếp cận nổi! Trong phần III của "Chùa Đàn” là "Mưỡu cuối”, Nguyễn Tuân viết: "Lịnh (trong phim là ông chủ ấp họ Nguyễn– người viết chú thích) chỉ đổi đi cái đối tượng mê mải- người Lịnh lúc nào cũng chứa nỗi say đắm một cái gì- và hướng dục vọng mình vào một phía mới nào nó rộng rãi và đúng nghĩa hơn. Lịnh vẫn là một người say đắm cái đẹp…” (3) Dù phần III này chỉ là một sự "vá víu” khiến GS Nguyễn Đăng Mạnh thốt lên: "Nguyễn Tuân sao mà nông nổi đến vậy!” (4) thì chúng ta vẫn thấy ở đằng sau cái "nông nổi” ấy là một nhân cách nghệ sĩ đáng trọng, không thể và không dám dìm chết nhân vật mình yêu quý trong vũng bùn sa đọa vĩnh viễn!
Còn trong phim thì sao? Tôi đã dần hiểu ra những mắc mớ của mình. Phải, như vậy rõ ràng là người xem phim khao khát muốn được tìm thấy ở đằng sau những vẻ điên dại, hành động ngược đời (và trái với cả nhân tính kia) một cái gì đó thổn thức của lương tri, của một trái tim "say cái Đẹp”, nỗi thèm muốn thoát khỏi sự tù túng chật hẹp và những nỗi bất công chẳng nhỏ chút nào do chính anh ta tạo ra cho đồng loại ấp Mê Thảo khiến anh ta từng phải xót xa ân hận… Nhưng không, khán giả không hề tìm thấy một chút bóng dáng nào của những thứ kể trên khiến nhân vật chính có thể có được một vẻ đáng yêu nhất định, một sự cảm thông đượm thế thái nhân tình nơi người xem. Cảm giác bao trùm đối với nhân vật ấy kể từ cuốn phim thứ hai trở đi cho đến hết tám cuốn sau là một sự ghê rợn, kinh sợ. Người xem buộc phải trở lại câu hỏi day dứt: vậy bộ phim được làm ra để làm gì? Cả một bộ phim tốn kém dài hơn trăm phút không lẽ chỉ nhằm đưa ra một lời khuyến cáo đơn giản sau cùng và cũng đầy khiên cưỡng: "mọi sự mê muội đều phải trả giá”? Phải chăng, ngoài những ấn tượng phản thẩm mỹ và phản đạo lý kia ra, bộ phim chỉ cần đạt được sự giới thiệu dân tộc học về Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX: những phụ nữ mặc váy yếm, những điệu hát ca trù, những chiếc đèn giời, sinh hoạt của giới địa chủ, nghề làm tơ tằm, những cuộc biểu diễn nghệ thuật truyền thống (mà cảnh trò vợ trẻ cõng chồng già sẽ còn gây được hiệu quả hơn nếu như nó không từng bị nhàm chán vì lạm dụng trong phim "Đêm hội Long Trì” cách đây hơn chục năm trước và gần đây vẫn thường được chiếu lại trên ti vi!) Xem xong phim, nhiều người cũng có tâm trạng như tôi, thấy thiêu thiếu một cái gì… Hóa ra, cái thiếu đó chính là ngọn lửa ở bên trong tác phẩm, là cái thái độ ngay thẳng bênh vực con người, là cái thông điệp về nhân sinh ngầm sâu mà những người làm phim cần gửi đến người xem qua hàng loạt những hỉ, nộ, ái, ố, những cảnh sắc, những trang phục và diễn xuất… Vâng, rất buồn mà buộc phải nói rằng, những cái đó ở bộ phim này rất lộn xộn, mờ nhạt nếu như không muốn nói là chúng không có. Tiếng hát của cô Tơ cùng tiếng đàn "chảy máu năm đầu ngón tay” của quản Tam dù có rung động lòng người dẫn đến cái chết cứu mạng ân nhân của Tam cũng không giúp gì nhiều cho phim khi phim đã không có cái cột trụ vững chắc là một tư tưởng nghệ thuật sâu sắc.
Thật công bằng mà xét thì nhân vật cô Câm (tên Cam, với nghĩa cam chịu, nhẫn nhịn) là sáng tạo có ý nghĩa hơn cả của bộ phim. Nếu không có nhân vật này, phim sẽ "nghèo” đi nhiều lắm. Cô Câm giống như một "con mắt thứ hai” của khán giả cảm nhận, quan sát, đánh giá nhân vật chính là ông chủ Nguyễn- người mà cô yêu một cách say đắm, nhẫn nại và nô lệ, kể cả khi ông ta đã trở nên dại cuồng mất hết nhân tính! Hành động đáng kể nhất, mang tính chất nổi loạn và bộc lộ rõ tình yêu mù quáng của cô Câm là hành động kéo lê cái tượng gỗ to bằng người thật quẳng xuống sông (hình như có hàm nghĩa là cô vứt bỏ thần tượng yêu trộm nhớ thầm của mình!) Và cô đã bị trả giá: ông chủ ấp Mê Thảo hạ lệnh bỏ rọ cô trôi sông để thế mạng! Xem ra, cô là nhân vật có nhiều hy vọng mong được gửi gắm những người làm phim. Có người viết phê bình bộ phim đã ví cô Câm này với hình ảnh những cô gái nghèo trong cổ tích yêu hoàng tử, với cô Thoa trong truyện của Thế Lữ, cô Trâm trong truyện của Nhất Linh, cô Xoan trong truyện của Nguyễn Đình Thi… Tác giả đó quả là yêu quý nữ đạo diễn mà quá lời. Xin hãy bình tĩnh để suy xét. Nếu như Nguyễn Tuân mượn tiếng đàn của nhân vật giải tỏa nơi con người "cái tâm tức sinh lý của một sự giao hoan lưng chừng” (5) bằng chữ nghĩa và sự tưởng tượng nơi người đọc thì trong phim, các tác giả đã làm công việc hiện hình cái "tâm tức sinh lý” ấy một cách trần trụi, nó lại được ánh sáng trau chuốt, ống kính cận cảnh vào đặc tả kèm tiếng động chân thực ( thông qua cái nhìn của cô Câm ) làm tôn lên nhiều lần cái cảm giác thú vật từ nhân vật hòng lây lan sang khán giả. Nếu có ai dám nói đó là thành công thì nên hiểu rằng đó là một điển hình thành công của một cuộc "thủ dâm” bằng điện ảnh!
Còn có thể nói thêm nữa về phim qua những nhân vật khác: cô Tơ, anh quản Tam, ông bõ… Nhưng như vậy cũng đủ để cho tôi tự giải đáp cái băn khoăn của mình: vì sao phim không làm tôi xúc động, ngược lại, còn gây phản cảm? Với một tác giả văn xuôi "phức tạp” như Nguyễn Tuân (chữ dùng của GS Nguyễn Đăng Mạnh), mà " Chùa Đàn” lại là truyện được chính tác giả xếp vào cùng với những truyện huyền bí, như " Xác Ngọc Lam”, "Loạn Âm”, "Lửa nến trong tranh”… mà ông đặt tên chung là "Yêu ngôn” phản ánh nỗi hoang mang và kinh loạn của suốt một thời kỳ khủng hoảng; với một tác giả "khó khăn” như vậy, muốn "giải mã” được ông, tinh lọc được những gì là quý giá nhất của tâm hồn, tài hoa của ông để chuyển tải tới đông đảo khán giả bằng phim ảnh thì rõ ràng cần phải có một "thầy ấn” cao tay hơn, có một tầng văn hóa – tư tưởng dày dặn hơn, may ra…
----
(1) Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.40, NXB Văn học Hà Nội 1981.
(2) Nguyễn Tuân toàn tập, tập V, tr. 443-444. NXB Văn học Hà Nội, 2000.
(3) Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.407, NXB Văn học, HN, 1996.
(4) Nguyễn Đăng Mạnh ( đã dẫn ở 1 )
(5) Nguyễn Tuân tuyển tập, tập I, trang 398.
----
Nguyễn Yên Thế
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 26.12.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN- MỘT BỘ PHIM GIẢ TẠO
(Phim của đạo diễn Lê Đức Tiến)
Nguyễn Yên Thế
Nguyễn Yên Thế
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 27.12.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Nhẩn Nha Về Cái "Đuôi Phim".
Nguyễn Anh Tuấn.
(1) Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.40, NXB Văn học Hà Nội 1981.
(2) Nguyễn Tuân toàn tập, tập V, tr. 443-444. NXB Văn học Hà Nội, 2000.
(3) Nguyễn Tuân tuyển tập, I, tr.407, NXB Văn học, HN, 1996.
(4) Nguyễn Đăng Mạnh ( đã dẫn ở 1 )
(5) Nguyễn Tuân tuyển tập, tập I, trang 398.
----
Nguyễn Yên Thế
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 26.12.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN- MỘT BỘ PHIM GIẢ TẠO
(Phim của đạo diễn Lê Đức Tiến)
Nguyễn Yên Thế
Đã từng quen thuộc với tác phẩm văn học "Đất nước đứng lên” của nhà văn Nguyên Ngọc từ những ngày ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, lại vốn rất có cảm tình với nhà văn này, nên hồi phim điện ảnh "Đất nước đứng lên” xuất xưởng, tôi đã háo hức tìm xem ngay. Song, trái ngược với dự đoán và mong đợi, bộ phim đồ sộ, tốn kém này đã gây cho tôi nhiều phản cảm, nhiều nỗi ấm ức muốn được giải tỏa. Rồi khi VTV gần đây phát sóng lại bộ phim này, nhân một dịp lễ lạt kỷ niệm nào đó, tôi đã xem thêm lần nữa và thấy cần phải nói đôi lời.
Tôi chỉ xin tập trung để nói về tính chân thực của bộ phim. Tính chân thực cần có của bộ phim lịch sử hoành tráng này đã bị phá hoại bởi hàng loạt yếu tố tạo thành một bộ phim- từ cấu trúc xung đột, dẫn dắt câu chuyện đến khâu chọn diễn viên, bối cảnh, phục trang, đạo cụ, âm nhạc… Nhiều khán giả cùng tâm trạng với tôi đều tự hỏi: Bộ phim rất tốn kém này được tạo ra để làm gì?
Người xem không thể hình dung nổi anh hùng Núp của một thời kháng Pháp gian khổ ở Tây Nguyên lại được biểu hiện trong một diễn viên béo tốt nần nẫn và đầy vẻ mãn nguyện bị đóng khố một cách miễn cưỡng như vậy ở trong phim. Còn các nhân vật nữ… Người dân Tây Nguyên thời đó vì thiếu thốn gian khổ mọi bề nên đành phải ở trần, kể cả phụ nữ trẻ. Nhưng ở trong bộ phim này, những phụ nữ trẻ để trần lộ cả hai bầu vú đầy đặn lại được mặc những chiếc váy mới có thêu hoa văn rất đẹp đã cho thấy quan điểm thẩm mỹ chủ quan và cả ý đồ câu khách quá ư lộ liễu của những nguời làm phim. Giữa núi rừng Tây Nguyên trùng điệp và âm thanh của cồng chiêng, giai điệu trữ tình mang bóng dáng đồng bằng Bắc Bộ của một bài hát rất hay như "Bộ đội về làng” bỗng trở nên vá víu, lạc lõng đến tội nghiệp! Lạc lõng hơn nữa là những đoạn độc thoại nội tâm của Núp (lời ngoài hình)- hầu hết là những suy nghĩ, những triết lý áp đặt, xa lạ với người dân Tây Nguyên trong những năm tháng đó, xa lạ với chính tác phẩm văn học! Bộ phim đầy ắp những chi tiết phong tục, thừa thãi những cảnh quay về sinh hoạt văn hóa dân gian; song chúng ít được gắn với những tâm trạng, những cảnh huống kịch tính, những số phận cụ thể, và chính vì thế cái ấn tượng ôm đồm, tham lam, phô bày một cách cố tình lại càng nổi cộm trong khán giả (Ví dụ tiêu biểu nhất là đoạn những bức tượng nhà mồ được gom lại và được ống kính máy quay miêu tả như một cuộc triển lãm tượng!) Người xem còn thất vọng trước sự xuất hiện trước ống kính của nhiều diễn viên chính - thứ - phụ mà hình như thiếu sự chỉ đạo diễn xuất, họ không biểu lộ được cảm xúc và tâm trạng như cảnh phim muốn thể hiện. Có cảm tưởng bộ phim chỉ là những đoạn miêu tả cuộc sống một cách gượng gạo, rời rạc, vụng về, được lắp ghép lại còn vụng về hơn! Khi người xem được thông tin rằng (chỉ bằng một lời thoại): địch có âm mưu sẽ lấy hết dụng cụ lao động bằng sắt của nguời Kông Hoa, thì liền sau đó được xem những cảnh chặt cây cổ thụ bằng đá sắc cạnh! Địch có phép thần thông biến hóa hay sao mà người dân Kông Hoa di chuyển lên núi đựợc an toàn kể cả mọi vật dụng gia đình nhưng lại không giữ nổi các đồ dùng lao động bằng sắt- vật dụng có ý nghĩa sống còn đối với người dân miền núi?! Nếu các nhà làm phim có ý định thần thánh hóa kẻ địch thì cũng nên dành vài mét phim để thỏa mãn óc tò mò của khán giả (ví như cho tên quan ba Pháp đọc câu thần chú chẳng hạn!!!) Ngay sau những cảnh quay mô tả kỹ lưỡng việc chặt cây rừng bằng đá với những bàn tay bật máu ra sao, người xem thấy xuất hiện lừng lững một ngôi nhà rông khổng lồ với những tấm ván xẻ cỡ lớn- có quay đặc tả. Điều phi lý như vậy cũng xảy ra khi người làm phim cho các diễn viên đóng lính Tây cứ tập trung vào một chỗ để dân làng Kông Hoa tha hồ bắn, giết cho hả dạ. Đánh Tây, giết Tây ở một vùng Tây Nguyên thời ấy dễ như thế sao? Hay người làm phim cho rằng để xây dựng lên một huyền thoại về những người Tây Nguyên anh hùng thì chẳng cần đếm xỉa đến tính hợp lý, đến sự thật, kể cả sự cảm thụ của người xem bình thường?
Diễn viên đóng suốt phim là một người, còn khi kết thúc thì hóa ra một người khác- anh hùng Núp thật một trăm phần trăm, bên dòng sông cuộn chảy, ông đứng trầm ngâm suy nghĩ… Tôi tạm mượn cảnh kết của phim để kết thúc bài viết nhỏ này: Không hiểu anh hùng Núp thật lúc còn sống đã suy nghĩ gì? Ông chắc đã đau lòng khi biết rằng: như ở hầu hết những phim "cúng cụ" từ trước tới nay, những người làm điện ảnh đã chi tiêu tốn kém tiền của Nhà nước- cũng là mồ hôi nước mắt của nhân dân, trong đó có người dân quê hương ông- để làm ra một bộ phim chỉ là hình bóng nhợt nhạt, giả tạo, thậm chí méo mó về đời ông, về số phận của đồng bào ông trong những năm tháng không thể nào quên ấy…
Nguyễn Yên Thế
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 27.12.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Nhẩn Nha Về Cái "Đuôi Phim".
Nguyễn Anh Tuấn.
Đọc bài: "Từ một hạt sạn trong phim "Bí thư tỉnh uỷ” nghĩ về một căn bệnh" của nhà văn Nguyễn Hiếu (vanvn.net), tôi thấy tác giả phẫn nộ rất chính đáng về sự sao chép (nói thẳng ra là sự ăn cắp) trong nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật thời gian qua, và tôi rất đồng tình. Song khi ông viết rằng: bộ phim BTTU đã "mắc phải hạt cát ngớ ngẩn ... Đáng tiếc hạt cát này cũng là sự tiêu biểu cho sự "sao chép, bắc chứơc nước ngoài một cách nông cạn"; và tác giả đã miêu tả cái đuôi phim "Bí thư tỉnh ủy" như sau: "đáng buồn thay nó lại là bản sao đến 99% đoạn kết trong một bộ phim cổ sử nổi tiếng của Trung Quốc đựơc chiếu trên màn ảnh nhỏ nước ta khoảng hơn một thập kỉ trứơc. Đó là phim "Thuỷ hử”. Trong đoạn kết này người xem có thể thấy rất rõ sự tương đồng, giống nhau như hai giọt nứơc trong từng chi tiết giữa phim "Bí thư tỉnh uỷ” và "Thuỷ hử”. Rồi: "Hạt cát sạn này cho dù chỉ là cảnh trang trí, làm nghề của những ngưòi làm phim nhưng vô tình làm mất đi rất nhiều cảm tình của người xem và hạ thấp uy tín, tay nghề của đạo diễn", thì tôi muốn trao đổi một chút với ông, và nhân thể bàn luôn về "cái đuôi phim".
Xin thưa, ông dùng khái niệm "đoạn kết" ở phim này là không chính xác, phải gọi đúng là: "cái đuôi phim" (mà trong nghề chúng tôi gọi génerique- tức là là màn chữ phim đầu-cuối); và chuyện những người làm phim quay lại cảnh làm phim rồi cho xuống cái "đuôi phim" (Tôi phân biệt rõ ràng với cái "kết phim") thì hầu như nước nào cũng có cả- như Mỹ, (là nơi đầu tiên đưa chuyện làm phim vào trong kết cấu phim), Hàn Quốc, Nhật,... chứ đâu phải là độc quyền của anh Tàu trong phim Thủy Hử! Thậm chí, nhiều hãng phim lớn của Mỹ sau khi (hoặc trong khi) phát hành bộ phim vừa sản xuất còn làm phim tài liệu riêng kể về chuyện hậu trường làm phim ra sao để thu hút sự tò mò của khán giả (để kinh doanh), và rút ra những bài học trong trường quay cho các thành phần làm phim... Nếu thế thì chúng ta phải truy ra: kẻ đầu têu sao chép hình thức đưa chuyện làm phim vào "đuôi phim" này là những anh làm phim Tàu, Hàn Quốc chứ! Phải chăng, hình như cái túi đeo của ông đạo diễn NQT ở trường quay hơi giông giống với ông đạo diễn Tàu nên mới khiến nhiều khán giả tức khí như thế?
Điện ảnh, truyền hình nước ta sinh sau đẻ muộn, nếu chờ đợi cái gì riêng biệt của mình thì mới "múa võ" thì đó là chuyện ảo tưởng! Dĩ nhiên, sự ảnh hưởng, học tập là cần thiết, nhưng nếu theo kiểu sao chép của cái anh chàng đạo diễn có cái tên Việt Kiều rất kêu nọ thì mới thực đáng buồn, đáng xấu hổ (mà chính ông NH cũng đã "phang" rất đích đáng trong bài viết). Còn cái "đuôi phim" có chữ thành phần đoàn làm phim với dài dằng dặc lời cảm ơn (kèm theo nỗi khổ tâm của người làm phim phải cầy cục nhờ vả, xin mượn quá nhiều) trong đó ẩn hiện cảnh bận rộn của trường quay, với ray, cần trục, đèn đóm... (xin nói thêm là trường quay của ta đâu có thể gọi là trường quay đàng hoàng, theo đúng nghĩa, mà chỉ là chụp giật, ăn đong, phương tiện thì kém cỏi đến đáng xấu hổ!), nếu ai không thích thì tắt đi, hay chuyển kênh khác! (Mà có khi họ đã chuyển kênh ngay giữa phim rồi). Nếu khán giả có phẫn nộ thì hãy phẫn nộ thay những người làm phim: "Sao phương tiện cổ lỗ và kém cỏi thế kia mà cũng dám đòi làm phim! Hãy so sánh với trường quay phim Thủy Hử chẳng hạn, hay trường quay phim Hàn Quốc (chưa dám nói tới trường quay phim Holyut), có điều kiện như thế hẵng đòi làm phim!" Còn nhạc phim "oành oành" ở cuối ư? Với kinh phí quá bèo bọt dành cho sáng tác nhạc nên phải dùng toàn âm thanh điện tử của organ mà chơi, cho nó xong phim, thì nếu nó làm ông NH liên tưởng tới nhạc của phim Thủy Hử thì may thay, may thay!...
Là một người đau nghề, sau khi đi tham quan các trường quay Tam Quốc Thành, Hồng Lâu Mộng, v.v (giờ biến thành những nơi bán vé tham quan du lịch thu bộn tiền của TQ) thì tôi tắt ngóm hoàn toàn cái mộng làm phim lịch sử mà tôi ôm ấp từ hai chục năm trước khi "ôm" nàng "Huyền Trân công chúa" lặn lội từ Bắc vào Nam tìm nguồn tài trợ làm phim!!!...Trở lại vấn đề, tôi chợt nghĩ: chúng ta đừng nên so sánh cái trường quay khốn khổ mà đạo diễn Việt Nam liều lĩnh đưa vào "đuôi phim" với cái trường quay hoành tráng của Tàu ở phim Thủy Hử (đã bảo không dám so với Holyut!). Không khéo, chúng ta chỉ làm cái việc "vạch áo cho người xem lưng", khiến những người làm phim ở Trung Nam Hải có thêm dịp đương dương tự phụ: ta mới là nước có thể làm phim hoành tráng, phim lịch sử!
Nhân nói về cái "đuôi phim", tôi chợt nhớ đến một bộ phim Áo đen trắng xem từ mấy chục năm về trước, tại rạp Tháng Tám Hà Nội- phim "Bản giao hưởng dang dở" (nguyên tác: La symphony inachevée) kể về cuộc đời nhạc sĩ thiên tài Áo Franz Schubert. Sau khi cô người yêu buộc phải ngậm ngùi chia tay với Schubert vì gia đình phản đối quyết liệt, cô nói trong nước mắt: "Đừng buồn anh ạ, bởi một người như anh có cái mà những người khác không có, đó là sự bất tử..." Lời động viên đó hẳn không thể làm vợi nỗi buồn của chàng nhạc sĩ nghèo, anh ngơ ngác đi lang thang trên con đường đất chìm ngập trong biển lúa mỳ. Ngay sau đó, chồng hình chuyển cảnh sang người nhạc sĩ bước từng bước lên bậc thang Nhà thờ, và "Bản giao hưởng dang dở" nổi tiếng bắt đầu dâng lên, cùng với những dòng chữ phim cuối xuất hiện cho đến khi hết bản nhạc. Điều đáng buồn đáng trách nhất lúc này là: những người phụ trách rạp đã kéo màn phụ trên màn ảnh khi chữ phim bắt đầu hiện, và người xem lục tục đứng dậy ồn ã ra về! Thực ra, đây là chỗ hay nhất, sâu lắng nhất của phim, khiến người xem sẽ phải lặng đi trong bao cảm xúc buồn thanh cao từ tận đáy tâm hồn người nghệ sĩ vĩ đại, và gợi ra bao liên tưởng phong phú về cuộc đời... Dường như người làm phim đã cố tình "trừng phạt" những khán giả nông nổi, hời hợt, kém cỏi về thị hiếu, thậm chí bất lịch sự nữa! Hầu hết những bộ phim có giá trị của điện ảnh thế giới đều có một cái kết giàu sức gợi mở, trong đó, cái mà tôi tạm gọi thông tục là "đuôi phim" cũng gắn rất chặt chẽ với cái kết của kịch tính và với kết cấu của toàn bộ cuốn phim. "Bản giao hưởng dang dở" là một minh chứng hùng hồn! Nhưng phim thương mại (ở nước ta và ở nước ngoài)- số này áp đảo hơn cả thì chỉ quan tâm đến cái kết "có hậu", "cả làng vui vẻ", kẻ xấu bị trừng trị còn người tốt hưởng hạnh phúc! Dĩ nhiên là loại phim này không cần đầu tư vào cái "đuôi phim" làm gì nữa, và nhà sản xuất cũng biết rõ là, với cái kết khiến người xem khóc cười hể hả sau khi thắt tim lại vì lo sợ cho nhân vật chính thì họ đã đạt tiêu chí thương mại! Còn phim điện ảnh hay phim truyền hình của ta, thì biết rõ khán giả mình cứ có chữ phim xuất hiện là hết chuyện, nên cũng chẳng dại gì làm theo kiểu phim "Bản giao hưởng dang dở". Nghĩa là, khi tác giả NH phê phán cái "đuôi phim" của BTTU là "sao chép của Tàu" thì cũng khí oan, khí đáng thương cho nó và cho cả nền điện ảnh- truyền hình khốn khổ của nước ta!
Vài điều lỗ mỗ, có gì chưa tới hoặc không phải, mong ông NH và bạn đọc rộng lượng đại xá cho!
Nguyễn Anh Tuấn
(Đạo diễn điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20.03.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Làm Phim... Hay Làm Tiền?
Nguyễn Anh Tuấn
I.
II.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20.03.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Làm Phim... Hay Làm Tiền?
Nguyễn Anh Tuấn
I.
Thời gian vừa qua, công luận rộ lên về tình trạng bát nháo của phim Việt (đặc biệt là phim truyền hình chiếu "giờ vàng"), tất cả đều xác đáng- mà một "tít" phụ của báo Tuổi trẻ TPHCM đã thâu tóm được chỉ bằng hai chữ: "nhảm nhí". Nhiều ý kiến đã phanh phui thực trạng cũng như nguyên nhân của tình trạng này. Có điều, một sự thật hiển nhiên mà chắc nhiều người cũng biết song không nỡ nói trắng phớ ra: đấy là, người ta không làm phim, nghĩa là không làm văn hóa, mà là làm tiền một cách trắng trợn! Việc làm tiền, đâu có gì đáng phải nói, nhưng ở đây, vấn đề là người ta đã làm tiền một cách thiếu sòng phẳng, không lương thiện, vô tình hoặc cố tình đánh cắp thời giờ, tiền bạc, lòng tin... của đông đảo khán giả!
Nhưng cái thực trạng đáng xấu hổ này (nhục nhã thì đúng hơn!) đã được ủ mầm bệnh từ hai chục năm trước (và đến bây giờ thì có điều kiện bung ra tất cả sự thối tha của nó)- khi điện ảnh Việt Nam rơi vào cơn khủng hoảng trầm trọng, từng phải lên tiếng cấp cứu thảm thiết, và cũng là lúc xuất hiện hàng loạt "phim mì ăn liền" với những cái tên phim câu khách lộ liễu trắng trợn! Thời kỳ đó, thậm chí một ông buôn bán đồ phòng cháy chữa cháy ở chợ giời Huỳnh Thúc Kháng may mắn chộp được ít tiền là cũng nhảy xô vào sản xuất phim- kể cả viết kịch bản, làm đạo diễn, để mua danh và hốt bạc một cách dễ dàng dựa trên sự dễ tính (và cũng dễ bị lừa) của đông đảo khán giả. Việc làm phim thời đó thật tưng bừng nhộn nhạo, "nhà nhà sản xuất phim, người người làm đạo diễn", phim ảnh trở thành những vụ "áp-phe" béo bở. Nhiều ông "chủ phim" xuất hiện (than ôi, không phải là hình mẫu "Ông chủ Hôlyut" đáng nghiêng mình kính nể của nhà văn Mỹ Phit-giê-rơn!- Cuốn sách này đã có bản dịch tiếng Việt.) Những ông "chủ phim" này rất giỏi đánh hơi phần thị hiếu tầm thường của công chúng và quả đã lập được những kỷ lục khủng khiếp trong việc kiếm tiền chụp giật cũng như tiêu diệt những thị hiếu lành mạnh còn sót lại! Kẻ viết những dòng này cũng từng lang thang phía Nam nhiều năm ròng "tìm đường làm phim", cũng đã từng phải nhún mình trước những ông chủ phim như thế, để có lần, khi một ông "chủ phim" ra điều kiện làm phim là: không được sửa kịch bản, phải lấy vợ ông ta vào sắm vai chính, thì hắn nổi khùng. Và hắn đã bị ông "chủ phim" đó hắt khinh miệt vào mặt: "Anh không làm thì thôi! Loại đạo diễn thất nghiệp như anh từ ngoài Bắc vào nhiều như chó con!"
Làm khổ độc giả bằng câu chuyện cũ rích như vậy là để từ chuyện làm "phim mỳ ăn liền" kia, khi liên hệ với chuyện làm phim nhố nhăng hiện tại (và việc phát hành nó tới đông đảo khán giả), chúng ta dễ dàng nhận diện những ông "chủ phim" kiểu mới (đã biến tướng đi ít nhiều). Họ bây giờ là những ai? Đó là những công ty truyền thông tư nhân, những hãng phim tư nhân mà mục tiêu chủ yếu trong hoạt động là lợi nhận, lợi nhận, và lợi nhuận- còn những thứ khác như: nội dung giáo dục, vì tương lai thế hệ trẻ, vì thuần phong mỹ tục, v.v. chỉ là đồ trang kim dán bên ngoài để dễ dàng trôi qua kiểm duyệt, để nhanh chóng được nghiệm thu sản phẩm (dĩ nhiên là phải kèm thêm khoản "hoa hồng" hoặc phong bì lót tay hậu hĩ!)
Khoảng 6 năm trước, khi được Nhà nước cho phép, các hãng phim tư nhân mọc lên như nấm sau mưa, các công ty cổ phần hay trách nhiệm hữu hạn làm truyền thông quảng cáo cũng mau chóng bổ xung chức năng làm phim. Lúc đó, Trung tâm dịch vụ & quảng cáo truyền hình (TVAD) Đài THVN đã tổ chức một cuộc gặp mặt hoành tráng với các cơ sở sản xuất phim tư nhân toàn quốc, mở đầu cho giai đoạn xã hội hóa phim ảnh! (Thực ra từ trước đó cũng đã có sự xã hội hóa bằng cách Đài "bắn cái" một số chương trình Saw game truyền hình cho tư nhân thực hiện). Rồi tiến tới, "mật ngọt chết ruồi", đến ngay cả Trung tâm sản xuất phim truyền hình (VFC)- một cơ sở làm phim truyện truyền hình lớn nhất nước cũng hầu như "bán cả hồn lẫn xác" việc sản xuất phim cho tư nhân- và thời kỳ "hoàng kim" của VFC đã trở thành niềm tiếc nuối của không ít khán giả truyền hình khi "Văn nghệ chủ nhật" đã nhường chỗ cho một chương trình lạ hoắc và "lông bông" (nhận xét của một người xem truyền hình). Dựa trên một chủ trương đúng đắn (cần phải có 70% phim nội địa), dòng phim "mỳ ăn liền" đùng đùng sống dậy đã tác yêu tác quái các kênh truyền hình cả nước- và chiễm trệ tại "giờ vàng" của VTV Quốc gia!
Bên điện ảnh phim nhựa cũng rơi vào tình trạng bị "mua đứt bán đoạn" tương tự, đến nỗi người xem phim vào rạp có cảm tưởng phải buộc xem những post quảng cáo kéo dài, buộc xem trình diễn thời trang, buộc mở những trang web cá nhân xa lạ xem nam thanh nữ tú "lộ hàng nóng" khiến họ phải đỏ mặt; và diễn ra cái cảnh mà một nhà biên kịch nổi tiếng Mỹ đã hài hước kể lại trong những bài giảng về "Nghệ thuật kịch bản điện ảnh": đó là lúc lượng tiêu thụ nước của thành phố thình lình tăng vọt!
Thực ra, ngay cả những phim TH chưa đủ "tiêu chuẩn" để được gọi là "mỳ ăn liền" cũng đã mang những yếu tố của "mỳ ăn liền" đích thị! Vì không có trường quay, kinh phí quá bèo bọt, nên một số phim TH quay kéo dài hàng tháng trời đã mang tiếng là "lừa đảo" những chủ nhà cho thuê mượn bối cảnh (bởi hứa hẹn là chỉ quay có vài ngày!) Những người tham gia làm phim thì mắt trước mắt sau ngốn cho xong tiến độ để còn "chạy sô" phim khác; bộ phận kỹ thuật thường rất khó chịu khi đạo diễn muốn tìm tòi suy nghĩ cho phim thì có câu nói mỉa mai kinh điển: "định săn bắt cái con gì thế hở?"; còn diễn viên (trừ một số ít người đứng tuổi) thì mắt nhắm mắt mở cầm cuốn kịch bản phân cảnh đọc mà chẳng cần biết đầu cua tai nheo thế nào, nhăn nhó năn nỉ với trợ lý: "Nhắc thoại tý!"- nhưng "một tý "ấy kéo dài hết cảnh này sang cảnh khác, khiến người lồng tiếng hậu kỳ phải chửi rủa ầm ĩ ( còn nếu do chính mình đóng mà nhai lời lại thì đành ngậm bồ hòn làm ngọt), và người xem phim thì có ấn tượng rằng: đấy là những người lớn đang tập nói tiếng Việt!... Thảm cảnh của chuyện làm phim ở Việt Nam cũng có thể coi là một thứ phim truyền hình dài tập không có hồi kết! (Xin đọc để tham khảo:
http://lethieunhon.com/read.php/4794.htm)II.
Có mấy công đoạn liên kết chủ yếu để diễn ra cái tình cảnh phim Việt trở thành nỗi "kinh hoàng", "ghê sợ", làm đau đầu nhiều người hiện nay, tôi xin thử tháo gỡ và phân tích từng công đoạn: 1. Những nhà sản xuất phim & Những nhà tài trợ. 2. Những người làm phim. 3. Bộ phận duyệt phim & cho lưu hành (chiếu rạp hoặc phát sóng)
1. Được các Nhà đài bật đèn xanh, các công ty sản xuất phim tư nhân năng nổ kêu gọi các nhà tài trợ (thường là những cơ sở sản xuất kinh doanh muốn quảng cáo sản phẩm trên TH)- bằng các dự án phim TH dài tập. Nghĩa là, Nhà đài cho phép đổi phim lấy quảng cáo. Còn công ty sản xuất phim bắt đầu đi thuê mướn đội ngũ làm phim, với hình thức "cò kè bớt một thêm hai", và tất nhiên họ sẽ "ngã giá" với những ai có khả năng thực hiện "nhanh nhiều tốt rẻ" và chấp thuận những điều kiện có lợi nhất cho họ. Những người đổ tiền vào để quảng cáo (trong phim và ngoài phim) chỉ chăm chăm xem sản phẩm của mình có làm "mờ mắt thủng tai" người xem hay không. Ngay cái khâu đầu tiên này đã sặc mùi thương mại, chẳng thèm đếm xỉa đến nội dung tư tưởng nghệ thuật gì hết trọi, nếu còn mong phim có giá trị nhân bản sâu sắc hay nghệ thuật cao siêu thì thực là ảo tưởng!
2. Người làm phim (thường do đạo diễn, hoặc đối tác trung gian đứng ra "nhận thầu"), khi cầm đồng tiền tạm ứng làm phim thì phải so đo đong đếm để "gọt giày vừa chân". Chưa kể, người làm phim trong khi lo xoay sở chuẩn bị tiền kỳ, lại phải đối phó với trung gian đương tìm mọi cách bớt xén phần kinh phí vốn đã quá èo uột... Nhưng không chấp nhận thì... đạo diễn thất nghiệp và "chợ người làm phim" chờ việc đang nhan nhản ra kia ở cổng các hãng phim lớn nhỏ! Và không ít người làm phim, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, đã chấp nhận làm phim bằng mọi giá, đồng thời cũng coi lương tâm nghề nghiệp chẳng đáng xu rỉ, đã thực hiện đúng phương châm: "Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi"! Sở dĩ trong dân gian lâu nay vẫn lưu truyền câu nói của bố mẹ với con cái: "Nếu con mà lười học, dốt nát, mai kia sẽ cho làm đạo diễn phim truyền hình!", phải chăng có cơ sở thực tế là những "đạo diễn truyền hình, đạo diễn điện ảnh" kiểu này đang xuất hiện nhan nhản trên thương trường phim ảnh? Chỉ cần có những mối quan hệ hữu hảo, gia đình "mạnh đạn", biết "chi đẹp", là dễ dàng được "cầm cờ" làm đạo diễn, hô diễn hô cắt máy rất oai, để vênh váo với bạn- hơn thế, có thể "hòa vốn" hoặc có lãi to chưa biết chừng trong cuộc mua bán hư danh! (Chỉ đơn cử ví dụ: một người chỉ mới làm vài cái Saw game đơn giản trên truyền hình bỗng dưng nảy nòi trên cương vị đạo diễn điện ảnh rất oách, trong một phim lịch sử cực kỳ đồ sộ và tai tiếng cũng đồ sộ không kém! Thật may cho khán giả là phim chưa kịp ra "lò" đã bị tuýt còi, xếp xó).
Nếu là một người làm nghề có lương tâm thì sẽ không bị đồng tiền chi phối một cách thảm hại, sẽ biết lịch sự hay thẳng thừng từ chối những kịch bản dở, từ chối lối làm phim chụp giật. Nhưng than ôi, người biết từ chối như vậy trong nghề xem ra ngày càng hiếm "như lá mùa thu", và góp phần làm tràn ngập những bộ phim quái thai "khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào"!
3. Nhưng xét cho cùng, nếu những thứ phẩm của điện ảnh- truyền hình (đúng ra phải gọi là Rác văn hóa) bị chặn lại bởi hệ thống duyệt & phát hành đúng nghĩa thì đã không xảy ra chuyện dở cười dở khóc khiến bao người phải phí công sức để than phiền, phẫn nộ! Thực chất thế nào? Nhiều ý kiến đã vạch ra quá chi tiết và xác đáng, tôi chỉ xin nói thêm điều này: tôi thực sự kinh ngạc khi thấy người duyệt phim rất kỹ lưỡng, săm soi từng chi tiết, từng câu thoại mà họ coi là "nhạy cảm", song lại tỏ ra thông thoáng dễ dãi đến đáng ngờ trước những sản phẩm nhạt nhẽo, vô duyên, ngớ ngẩn, và nhảm nhí (tôi rất tâm đắc với định nghĩa sau cùng này). Bản thân tôi và một số đồng nghiệp cũng không chỉ một lần là nạn nhân của cái bệnh "cầm đèn chạy trước ô tô", thói "bảo hoàng hơn vua" này của những người duyệt phim, khi phân cảnh thì được soi rất kỹ từng lời thoại, song khi diễn viên nói ra lại khiến họ sợ dúm, bắt đạo diễn phải cắt, hoặc "hiếp lời" (diễn viên nói một đằng, nhưng lồng tiếng lại một nẻo!) Và có những phim phải bị cắt đến không còn ra hình thù gì cả khi phát sóng khiến đạo diễn không nỡ, không dám xem lại phim của mình nữa!
Hệ lụy của tất cả những điều nói trên không chỉ là làm mất lòng tin của số đông khán giả với truyền hình- điện ảnh nước nhà, làm lãng phí công sức, thời gian tiền bạc của biết bao người, nó còn góp phần đắc lực tạo ra sự lệch lạc méo mó trong thị hiếu thẩm mỹ của thế hệ trẻ, góp vào sự suy đồi của đạo đức xã hội, tạo ra nguy cơ "sự trống rỗng văn hóa" như một số nhà hoạt động văn hóa nước ngoài đã từng cảnh báo!
Tôi đã tẩy chay những "phim mỳ ăn liền" (hoặc phim thương mại lộ liễu- một biến thái tinh vi của loại "phim mỳ ăn liền") khiến tôi bội thực thất vọng, bội thực xót xa bằng cách không bao giờ bước tới rạp xem chúng, hay lập tức chuyển kênh khi màn hình nhỏ xuất hiện bóng dáng của chúng; và tôi cũng mong cả xã hội cũng nên bắt đầu chiến dịch tẩy chay chúng, thay vì cứ kêu ca mà chẳng đi tới đâu- đó là một cách tuy khá tiêu cực trong khi chưa biết làm gì hơn thế, nhưng cũng có thể có một tác dụng trước mắt để nếu những nhà sản xuất, nhà tài trợ, người làm phim và người duyệt phim còn tiếp tục coi thường khán giả như thời gian vừa qua, họ sẽ nhận được hậu quả nhỡn tiền, sẽ bị "gậy ông đập lưng ông"! Bởi mục đích của họ là làm tiền một cách không lương thiện thì khi không đạt được mục đích, họ sẽ buộc phải chùn tay lại- hiệu quả hơn mọi sự phê phán hay cưỡng chế (như việc đình lại bộ phim đang phát sóng dở "Anh chàng vượt thời gian", và một số bộ phim khác đang trong tình thế phải chung số phận đó- mà rõ ràng trước hết đây là thành công đáng kể của dư luận!)
Trong mối quan hệ chằng chịt giữa các công đoạn, các tổ chức để ném ra đời hàng đống phim nhảm nhí kia, là những âm mưu, những tính toán, những mục đích không "nhảm nhí" chút nào, còn người xem vô tội lương thiện thì lãnh đủ; và tôi đồ rằng, dường như có một hình bóng của quy luật "Maphia" đang len lỏi thao túng làm u ám thêm đời sống phim ảnh nước nhà vốn đang ốm yếu què quặt...
Nguyễn Anh Tuấn
(Đạo diễn điện ảnh)
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 17.5.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 17.5.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét