Trang tư liệu Văn học & Lịch sử Bùi Ngọc Minh.
Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015
Tụng
Giá Hoàn Kinh Sư Và tầm nhìn văn hóa của Trần Quang Khải.
Thứ
ba - 21/08/2012 14:54
1.Tụng
giá hoàn kinh sư là một trong những bài thơ ít ỏi còn lại của Chiêu Minh Đại
Vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1241 - 1294), cũng là một trong
những thi phẩm mà nói như nhà sử học Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương
loại chí là sâu xa lí thú. Từ những vấn đề của một thời, bài thơ đã nói đến vấn
đề của mọi thời trong việc dựng nước và giữ nước không phải chỉ trên dải đất
hình chữ S này. Phiên âm Hán–Việt như sau: ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Địa
chỉ TP.Ninh Bình
ĐT:
0914928390
Email:
buingocminhnb@gmail.com
_____
TỤNG GIÁ HOÀN KINH VÀ TẦM NHÌN VĂN HÓA
CỦA TRẦN QUANG KHẢI
1.Tụng giá hoàn kinh sư là một trong những bài thơ ít ỏi còn lại của Chiêu Minh Đại Vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1241 - 1294), cũng là một trong những thi phẩm mà nói như nhà sử học Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí là sâu xa lí thú. Từ những vấn đề của một thời, bài thơ đã nói đến vấn đề của mọi thời trong việc dựng nước và giữ nước không phải chỉ trên dải đất hình chữ S này.
Phiên âm Hán–Việt như sau:
Đoạt sóc (sáo) Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan,
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Dịch nghĩa:
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử,
Buổi thái bình nên gắng sức
Muôn đời giang sơn này.
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù,
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, Việt Nam lược sử)
2. Đây là bài thơ có thể nói là ca khúc khải hoàn trước hai vua Trần. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên cho biết như sau: Ngày mùng 6 tháng 6 (1285) hai vua trở về kinh sư, Quang Khải làm bài thơ này. Hai vua nói đây là Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông (1258 – 1278) và Quan Gia Trần Nhân Tông (1279 – 1293). Cũng Đại Việt sử kí toàn thư cho biết về Trần Quang Khải là người có học thức, hiểu được tiếng các phiên(tiếng các dân tộc thiểu số). Như vậy tác giả của bài thơ và độc giả hướng tới đều đã rõ. Đó là những nhân vật chính trị quan trọng bậc nhất của vương triều Trần. Cũng nên hiểu chút ít về những hệ lụy, thậm chí sự an nguy tính mạng cá nhân và gia đình của những bề tôi trung, những kẻ có tài kinh bang tế thế khi giao tiếp với đấng bề trên tối thượng trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam và Trung Hoa xưa để thấy cái minh triết trong ứng xử của Trần Quang Khải. Có thể coi bài thơ như một thông điệp chính trị mừng chiến thắng, cũng là lời bàn về kế sách để vận nước dài lâu ngắn gọn, súc tích. Tư tưởng cực lớn kết tinh trong một hình thức cực nhỏ, (bài ngũ ngôn tứ tuyệt vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ).
3. Hai câu đầu là cảm hứng là niềm vui chiến thắng kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất thời đại. Cảm hứng tự hào, sự ngây ngất trước thắng lợi thể hiện bằng việc nhắc lại hai chiến thắng Chương Dương vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285, địa danh này nay thuộc huyện Thường Tín thành phố Hà Nội) do Trần Quang Khải chỉ huy; và chiến thắng Hàm Tử vào tháng 4 năm Ất Dậu do Trần Nhật Duật chỉ huy (1285, địa danh này là một địa điểm trên sông Hồng, nay thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên), có lẽ đọng lại trong hai chữ đoạt (tước chứ không phải cướp như bản dịch nghĩa và bản dịch thơ đã dẫn) và cầm (bắt sống). Phải có thế và lực hơn hẳn kẻ thù Mông- Nguyên, phải có sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và ý chí Sát Thát cực cao, có trí tuệ cực lớn, sức mạnh cực lớn mới có uy thế tuyệt đối trước quân giặc hùng mạnh, hung hãn kiêu ngạo, mới có thể tước vũ khí và bắt sống được chúng. Niềm vui chiến thắng thật hả hê. Quả là mặn này bõ nhạt ngày xưa. Hãy xem thái độ ngông nghênh, ngạo mạn của sứ giả Sài Xuân của triều Nguyên khi đến kinh thành nước ta thời ấy được ghi lại trong cổ sử:
Vua Trần Nhân Tông sai chú họ là Trần Di Ái (Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên.
Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lưu Hầu. cho Mục làm Hàn Lâm Học Sĩ, Tuân làm Thượng Thư, lại sai Sài Xuân đem 1000 quân hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương đầu. Đến điện Tập Hiền thấy chăng màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng hắn, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông. (1)
Sự kiện này còn được Hưng Đạo Đại Vương ghi lại trong Hịch tướng sĩ văn như sau:
…Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc g. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó (nguyên văn chữ Hán dịch là ngồi xổm như chó ngồi) mà bắt nạt tể phụ. Thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham khôn cùng. Giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn.Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, tránh sao cho khỏi tai họa về sau.(2)
Quả là những bản lĩnh phi thường, vì việc lớn của quốc gia đại sự mà biết nhẫn nhịn, khiến kẻ thù càng kiêu căng tự phụ, chủ quan coi thường Đại Việt, để càng chuốc lấy thất bại nhục nhã sau này. Đó là cách ứng sử mềm dẻo có nguyên tắc, lùi một để tiến mười, không vì tiểu tiết mà làm hỏng đại cục; cách ứng sử của những bậc Thánh Nhân (Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) và những bề tôi đại trí, đại dũng của họ có được. Thật là hồng phúc cho bách tính trăm họ Đại Việt.
4. Tuy nhiên, nếu cứ say sưa với chiến thắng dù rất vĩ đại đi nữa mà ngủ quên trong thắng lợi, thì cực kì nguy hiểm cho đất nước. Cách hành sử này, nếu có ở những người đứng đầu quốc gia, nắm giữ vận mệnh quốc gia thì vô cùng nguy hiểm thậm chí có thể dẫn đến tai họa, hiểm họa. Cổ nhân đã dạy: Thịnh mà cứ nghĩ rằng thịnh mãi thì sẽ suy. Chiêu Minh Đại Vương đã dành hai câu sau để suy tư về điều ấy. Đất nước hết giặc ngoại xâm, nền thái bình của Đại Việt mới bắt đầu, chưa vững chắc. Muốn cho Vạn cổ thử giang san (Muôn đời giang sơn này) thì phải Thái bình tu trí lực (không phải như bản dịch nghĩa và bản dịch thơ đã dẫn là nên gắng hết sức hay nên gắng sức) mà tu trí lực (tôi nhấn mạnh hai chữ trí và lực tức trí tuệ phải anh minh sáng suốt, phải có tài cao đức lớn và cố gắng hết sức lực, biết khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, Trần Hưng Đạo). Ai tu trí lực? Tất cả mọi người từ quý tộc đến thứ dân yêu nước, nhưng trước hết là các vua Trần, những đại thần, những người nắm giữ vận mệnh quốc gia dân tộc lúc ấy.
Mong muốn triều đại Trần bền vững ngàn năm là điều đang trân trọng của Trần Quang Khải. Nhưng đó là mong muốn chủ quan,. Vương triều Trần lập nên năm Bính Tuất (1226), chấm dứt năm Kỉ Mão (1399), vị chi là 174 năm cộng thêm hai đời vua Hậu Trần 7 năm, tất cả là 181 năm. Vương triều Lí trước đó vận số có dài hơn cũng chỉ tồn tại được 216 năm. Xưa nay có triều đại nào tồn tại mãi mãi? Chỉ có giang sơn đầu tiên do các vua Hùng tạo lập với tên gọi Âu Lạc và sau đó với các quốc hiệu Vạn Xuân, Đại Ngu, Đại Cồ Việt, Đại Việt… và ngày nay là Việt Nam mãi mãi vẫn còn. Phải chăng suy tư của Trần Quang Khải đã vượt trước thời đại? Đại Việt thống nhất chứ chưa và không bao giờ đồng nhất với vương triều Trần thân yêu của ông. Sự thống nhất ấy cũng chỉ cao nhất khi và chỉ khi vương triều này đang lên và cực thịnh, khi vương triều này trở thành đại biểu, đại diện cho quyền lợi cơ bản nhất, quan trọng nhất của bách tính trăm họ Đại Việt mà thôi. Trải bao biến thiên, thăng trầm, hưng phế của lịch sử, các triều đại dựng lên rồi suy vong, nhưng giang sơn Đại Việt vẫn tồn tại đến tận hôm nay. Bài học lịch sử về sự suy vong của vương triều Trần, một trong những vương triều với võ công hiển hách nhất, văn trị chói lọi với tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm trong lịch sử dân tộc đáng để cho con dân đất Việt ngày nay phải suy ngẫm.
Phiên âm Hán–Việt như sau:
Đoạt sóc (sáo) Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan,
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
Dịch nghĩa:
Cướp giáo giặc ở bến Chương Dương
Bắt quân Hồ ở cửa Hàm Tử,
Buổi thái bình nên gắng sức
Muôn đời giang sơn này.
Dịch thơ:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù,
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch, Việt Nam lược sử)
2. Đây là bài thơ có thể nói là ca khúc khải hoàn trước hai vua Trần. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên cho biết như sau: Ngày mùng 6 tháng 6 (1285) hai vua trở về kinh sư, Quang Khải làm bài thơ này. Hai vua nói đây là Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông (1258 – 1278) và Quan Gia Trần Nhân Tông (1279 – 1293). Cũng Đại Việt sử kí toàn thư cho biết về Trần Quang Khải là người có học thức, hiểu được tiếng các phiên(tiếng các dân tộc thiểu số). Như vậy tác giả của bài thơ và độc giả hướng tới đều đã rõ. Đó là những nhân vật chính trị quan trọng bậc nhất của vương triều Trần. Cũng nên hiểu chút ít về những hệ lụy, thậm chí sự an nguy tính mạng cá nhân và gia đình của những bề tôi trung, những kẻ có tài kinh bang tế thế khi giao tiếp với đấng bề trên tối thượng trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam và Trung Hoa xưa để thấy cái minh triết trong ứng xử của Trần Quang Khải. Có thể coi bài thơ như một thông điệp chính trị mừng chiến thắng, cũng là lời bàn về kế sách để vận nước dài lâu ngắn gọn, súc tích. Tư tưởng cực lớn kết tinh trong một hình thức cực nhỏ, (bài ngũ ngôn tứ tuyệt vẻn vẹn chỉ có hai mươi chữ).
3. Hai câu đầu là cảm hứng là niềm vui chiến thắng kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất thời đại. Cảm hứng tự hào, sự ngây ngất trước thắng lợi thể hiện bằng việc nhắc lại hai chiến thắng Chương Dương vào tháng 6 năm Ất Dậu (1285, địa danh này nay thuộc huyện Thường Tín thành phố Hà Nội) do Trần Quang Khải chỉ huy; và chiến thắng Hàm Tử vào tháng 4 năm Ất Dậu do Trần Nhật Duật chỉ huy (1285, địa danh này là một địa điểm trên sông Hồng, nay thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên), có lẽ đọng lại trong hai chữ đoạt (tước chứ không phải cướp như bản dịch nghĩa và bản dịch thơ đã dẫn) và cầm (bắt sống). Phải có thế và lực hơn hẳn kẻ thù Mông- Nguyên, phải có sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc và ý chí Sát Thát cực cao, có trí tuệ cực lớn, sức mạnh cực lớn mới có uy thế tuyệt đối trước quân giặc hùng mạnh, hung hãn kiêu ngạo, mới có thể tước vũ khí và bắt sống được chúng. Niềm vui chiến thắng thật hả hê. Quả là mặn này bõ nhạt ngày xưa. Hãy xem thái độ ngông nghênh, ngạo mạn của sứ giả Sài Xuân của triều Nguyên khi đến kinh thành nước ta thời ấy được ghi lại trong cổ sử:
Vua Trần Nhân Tông sai chú họ là Trần Di Ái (Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên.
Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lưu Hầu. cho Mục làm Hàn Lâm Học Sĩ, Tuân làm Thượng Thư, lại sai Sài Xuân đem 1000 quân hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương đầu. Đến điện Tập Hiền thấy chăng màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng hắn, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông. (1)
Sự kiện này còn được Hưng Đạo Đại Vương ghi lại trong Hịch tướng sĩ văn như sau:
…Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc g. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó (nguyên văn chữ Hán dịch là ngồi xổm như chó ngồi) mà bắt nạt tể phụ. Thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham khôn cùng. Giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn.Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, tránh sao cho khỏi tai họa về sau.(2)
Quả là những bản lĩnh phi thường, vì việc lớn của quốc gia đại sự mà biết nhẫn nhịn, khiến kẻ thù càng kiêu căng tự phụ, chủ quan coi thường Đại Việt, để càng chuốc lấy thất bại nhục nhã sau này. Đó là cách ứng sử mềm dẻo có nguyên tắc, lùi một để tiến mười, không vì tiểu tiết mà làm hỏng đại cục; cách ứng sử của những bậc Thánh Nhân (Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) và những bề tôi đại trí, đại dũng của họ có được. Thật là hồng phúc cho bách tính trăm họ Đại Việt.
4. Tuy nhiên, nếu cứ say sưa với chiến thắng dù rất vĩ đại đi nữa mà ngủ quên trong thắng lợi, thì cực kì nguy hiểm cho đất nước. Cách hành sử này, nếu có ở những người đứng đầu quốc gia, nắm giữ vận mệnh quốc gia thì vô cùng nguy hiểm thậm chí có thể dẫn đến tai họa, hiểm họa. Cổ nhân đã dạy: Thịnh mà cứ nghĩ rằng thịnh mãi thì sẽ suy. Chiêu Minh Đại Vương đã dành hai câu sau để suy tư về điều ấy. Đất nước hết giặc ngoại xâm, nền thái bình của Đại Việt mới bắt đầu, chưa vững chắc. Muốn cho Vạn cổ thử giang san (Muôn đời giang sơn này) thì phải Thái bình tu trí lực (không phải như bản dịch nghĩa và bản dịch thơ đã dẫn là nên gắng hết sức hay nên gắng sức) mà tu trí lực (tôi nhấn mạnh hai chữ trí và lực tức trí tuệ phải anh minh sáng suốt, phải có tài cao đức lớn và cố gắng hết sức lực, biết khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, Trần Hưng Đạo). Ai tu trí lực? Tất cả mọi người từ quý tộc đến thứ dân yêu nước, nhưng trước hết là các vua Trần, những đại thần, những người nắm giữ vận mệnh quốc gia dân tộc lúc ấy.
Mong muốn triều đại Trần bền vững ngàn năm là điều đang trân trọng của Trần Quang Khải. Nhưng đó là mong muốn chủ quan,. Vương triều Trần lập nên năm Bính Tuất (1226), chấm dứt năm Kỉ Mão (1399), vị chi là 174 năm cộng thêm hai đời vua Hậu Trần 7 năm, tất cả là 181 năm. Vương triều Lí trước đó vận số có dài hơn cũng chỉ tồn tại được 216 năm. Xưa nay có triều đại nào tồn tại mãi mãi? Chỉ có giang sơn đầu tiên do các vua Hùng tạo lập với tên gọi Âu Lạc và sau đó với các quốc hiệu Vạn Xuân, Đại Ngu, Đại Cồ Việt, Đại Việt… và ngày nay là Việt Nam mãi mãi vẫn còn. Phải chăng suy tư của Trần Quang Khải đã vượt trước thời đại? Đại Việt thống nhất chứ chưa và không bao giờ đồng nhất với vương triều Trần thân yêu của ông. Sự thống nhất ấy cũng chỉ cao nhất khi và chỉ khi vương triều này đang lên và cực thịnh, khi vương triều này trở thành đại biểu, đại diện cho quyền lợi cơ bản nhất, quan trọng nhất của bách tính trăm họ Đại Việt mà thôi. Trải bao biến thiên, thăng trầm, hưng phế của lịch sử, các triều đại dựng lên rồi suy vong, nhưng giang sơn Đại Việt vẫn tồn tại đến tận hôm nay. Bài học lịch sử về sự suy vong của vương triều Trần, một trong những vương triều với võ công hiển hách nhất, văn trị chói lọi với tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm trong lịch sử dân tộc đáng để cho con dân đất Việt ngày nay phải suy ngẫm.
Vân Giang, Nô-en 2010
----
CHÚ THÍCH: (1), (2): ĐVSKTT, NXB KHXH, Hà Nội. 1993, trang 187, 212
----
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 28.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
QUỐC TỘ CỦA ĐỖ PHÁP THUẬN VÀ BÀI HỌC ĐỂ VẬN NƯỚC DÀI LÂU
1.Quốc tộ (Vận nước) của Đỗ Pháp Thuận viết khoảng 981 – 982 vốn không phải là một sáng tác văn chương thuần túy theo quan niệm nghiêm nhặt ngày nay. Nó vốn là một tác phẩm ra đời trên sự giao thoa giữa văn học chức năng nghi lễ tôn giáo của một vị tu hành Phật giáo thuộc dòng Pháp Tì Ni Đa Lưu Chi thế hệ thứ 10 chùa Pháp Vân, (ở làng Cổ Châu, Long Biên nay thuộc đất làng Khương Tự huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) và văn học chức năng hành chính của một đại trí thức, một bậc thầy của vua, có công trong chính sự với nhà Tiền Lê. Thiền Uyển tập anh ngữ lục (chưa rõ tác giả) cho biết về Đỗ Pháp Thuận như sau:
Thiền sư Pháp Thuận (925-990), Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ái. Không biết người đâu. Sư họ Đỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Đang vào lúc nhà Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, Sư tham dự đắc lực. Đến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư.(...) Vua thường đem vận nước dài ngắn ra hỏi, Sư đáp:
Vận nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trong điện các
Xứ xứ tắt đao binh.
Phiên âm Hán – Việt:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lí thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.
2. Bài kệ được đưa vào chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn cấp trung học phổ thông hiện hành. Các tác giả sách giáo khoa và giáo viên ở cả hai bộ sách cơ bản và nâng cao đã chú ý đến những vấn đề ngữ văn của bài kệ, nhưng vẫn chưa chú ý đến vấn đề văn hóa liên văn bản của thời đại văn học văn sử triết bất phân, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sự thật lịch sử, văn hóa lịch sử của thời kì ba triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí khi còn đóng đô ở Hoa Lư. Sách giáo khoa Ngữ văn tập 1 nâng cao trong phần hướng dẫn bài đọc thêm này viết:
1. Anh (chị) hãy cho biết bài thơ Vận nước ra đời trong hoàn cảnh nào?
2. Phân tích ý nghĩa của hình ảnh "dây mây kết nối” trong lời đáp lại câu hỏi của vua Lê Hoàn: "Vận nước ngắn dài thế nào?”
3. Giải thích vì sao nói nhà vua dùng đường lối " vô vi” thì khắp nơi trong nước lại có thể dứt được đao binh ?
Các chú thích để làm rõ:
( *) Tên bài thơ do người đời sau đặt.
Vận nước: dịch chữ quốc tộ; ở đây có nghĩa là vận may của quốc gia.
(trang162)
(1)Dây mây kết nối: dịch chữ đằng lạc (đằng: dây mây; lạc: kết nối). Cả câu ý nói vận may của nước nhà bền chắc. (Trang163)
Mở mang: dịch chữ Lí. Chữ lí trong bài có nghĩa là lo liệu, mở mang.
Cung điện: dịch chữ điện các, chỉ nơi đặt cơ quan đầu não của quốc gia thời quân chủ.(trang 163)
Không có chú thích về hai chữ vô vi, hai chữ vô cùng quan trọng trong lời chỉ giáo của quốc sư Pháp Thuận với vua, khiến người học không thể lĩnh hội được thâm ý của lời khuyên. Sách giáo viên bộ nâng cao giải thích về vô vi như sau:
Vô vi là "không làm”, không làm trái lẽ tự nhiên. Về chính trị, "vô vi” là nên khoan dung, giản dị, không bày đặt ra những chính lệnh hà khắc, những khuôn mẫu đạo đức cứng nhắc bó buộc con người làm theo "vô vi” ( vi vô vi) là làm những điều thuận lẽ tự nhiên để dân được an lạc. (SGV trang 202).
3. Chúng tôi đồng tình với cách chú giải trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 bộ cơ bản (NXG GD, 2006):
(...) Để hiểu bài thơ, cần hiểu khái niệm "vô vi”. vô vi nghĩa đen là " không làm gì”. Khái niệm vô vi được nhiều trường phái triết học, tôn giáo sử dụng. Vô vi là thuật ngữ trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự nhiên. Trong bài thơ này, vô vi còn được hiểu theo nghĩa của Nho giáo. Thiên Vệ Linh công sách Luận ngữ của Khổng Tử có câu: " Vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư?” (Vô vi mà thịnh trị, đó là vua Thuấn chăng?.) Chu Hi chú giải (câu) này như sau: Vô vi mà thịnh trị là vì bậc thánh nhân có đức thịnh nên cảm hóa được nhân dân, không phải làm gì hơn.(trang 138)
Tuy nhiên, cũng cần làm rõ khái niệm đức của bậc đế vương theo quan niệm Nho giáo, ta mới có thể hiểu Pháp Thuận khuyên vua Lê Hoàn điều gì. Người làm vua có thể dùng mưu kể, chước thuật, cũng có thể ngồi trên lưng ngựa để đoạt được thiên hạ, nhưng muốn giữ vững thiên hạ thì phải có nhân nghĩa, có đức độ, yêu thương muôn dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu (Nguyễn Trãi). Nhà vua phải tích tụ đức tốt, đức sáng, không dùng hình chính hà khắc, bạo ngược, tàn độc để cai trị trăm họ mà phải vỗ về phủ dụ bách tính. Đó là dùng đức trị, đức lớn nhất của bậc đế vương là đức hiếu sinh. Theo quan niệm của người xưa, nhà vua vì có đức lớn nên nhận được mệnh trời, thay trời làm công việc chăn dân, không để mất lòng dân ( Thế thiên hành hóa, đại thiên hành hóa). "Làm chính trị nhờ vào đức cũng giống như sao Bắc Đẩu đứng yên một chỗ mà các vì sao khác đều châu tuần về” (Khổng Tử). Đức sáng của nhà vua tỏa phát, lan rộng, thấm nhuần đến mọi thần dân, khắp bờ cõi, thậm chí lan tỏa đến cả các nước lân bang, tất cả đều bị thu hút vào trung tâm là vua. Được mùa là do công sức của thần dân, nhưng cũng còn do đức sáng của nhà vua đã cảm động đến trời đất. Mất mùa, thiên tai địch họa là do đức nhà vua kém (người xưa gọi là hôn ám), nên trời giáng tai họa xuống. Ông vua đầu tiên của nhà Tiền Lê đã có công lao to lớn trong việc bình Chiêm, phạt Tống, giữ vững độc lập tự chủ của quốc gia phong kiến tập quyền Đại Cồ Việt, Lê Hoàn từng chú ý đến việc trọng nông, khuyến nông bằng hành vi tịch điền ở Đọi Sơn (Hà Nam ngày nay) mà sử sách ghi lại, dân gian lưu truyền. Tuy vậy, cái chưa làm được của ông vua này là việc không quan tâm dạy dỗ con cái, đặc biệt là người kế nghiệp, nói như Bác Hồ là việc đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau; tức ông còn khiếm khuyết trong tề gia, để đến nỗi sau khi ông mất, các con ông tranh nhau ngai vàng đến chém giết lẫn nhau như dân gian nói là nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn, thật đáng tiếc thay. Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí toàn thư ghi về Lê Long Đĩnh như sau:
Vua tính hiếu sát, phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh cuốn vào người mà đốt, để cho lửa cháy gần chết, hoặc sai kép hát người tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo từng mảnh, để cho không được chết chóng. Người ấy đau đớn kêu gào thì Thủ Tâm nói đùa rằng: "Nó không quen chịu chết”. Vua cả cười. Đi đánh dẹp bắt được tù thì giải đến bờ sông, khi nước triều rút sai người làm lao dấn nước, dồn cả vào trong ấy, đến khi nước triều lên, ngập nước mà chết., hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, người rơi xuống chết, Vua thân đến xem lấy làm vui. Có lần vua đi đến sông Ninh (Có lẽ ở huyện Chương Mĩ, Hà Nội ngày nay), sông ấy nhiều rắn, vua sai trói người vào mạn thuyền, đi lại giữa dòng muốn cho rắn cắn chết. Phàm bò lợn muốn làm thịt thì tự tay Vua cầm dao chọc tiết trước rồi mới đua vào nhà bếp sau. Có lần Vua róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thủng chảy máu rồi cả cười. Hoặc nhân yến tiệc, giết mèo cho các vương ăn, ăn xong lấy đầu mèo giơ lên cho xem, các Vườn đều sợ, Vua lấy làm thích. Mỗi khi ra chầu tất sai bọn khôi hài hầu hai bên; Vua có nói câu gì thì bọn ấy nhao nhao pha trò cười để cho loạn lời tâu việc của quan chấp chính. Lại lấy thạch sùng làm gỏi, bắt bọn khôi hài tranh nhau ăn.
Mùa đông, Tháng mười, ngày Tân Hợi (1019 ), Vua băng ở Tẩm điện gọi là Ngọa Triều, vì vua mắc bệnh trĩ phải nằm mà coi chầu (Dã sử chép vua say đắm tửu sắc phát ra trĩ).
Ngô Sĩ Liên bàn rằng:
(...) Ngọa Triều không những chỉ thích giết người, lại còn oán vua cha không lập mình làm thái tử (còn giết cả vua anh, giết các hoàng đệ), đánh người Man cho họ kêu gào, nhiều lần phạm húy cha mà lấy làm thích. Mất nước mau chóng, há phải không do đâu mà ra .( ĐVSKTT, trang 77-78)
Kinh đô Hoa Lư là một vùng đất hiểm, nhưng nhà Tiền Lê không giữ được thiên hạ vì như người xưa tổng kết: Tại đức bất tại hiểm (Quá Tần Luận - Bàn về lỗi lầm của nhà Tần, Giả Nghị 200 – 168 TCN đời Tây Hán), hay:
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Tại đâu đất hiểm, cốt mình đức cao
( Trương Hán Siêu, Bạch Đằng giang phú)
Nhiều học giả trong các cuốn sách viết về Quốc tộ, mặc nhiên gọi nó là một bài thơ.. . Cũng có người cho là một bài kệ. Chúng tôi nghiêng về quan niệm cho rằng đây là một bài kệ dạy vua về kế sách giữ cho Vận nướcđược lâu dài. Với người Việt ta yêu nước, giữ gìn từng tấc đất cha ông từ ngàn xưa để lại đã trở thành một truyền thống đạo lí. Yêu nước trở thành chuẩn mực đạo đức cao nhất của con dân đất Việt này. Lịch sử nước nhà cho thấy: người có địa vị cao quí tột bậc nếu vì quyền lợi ích kỉ mà manh tâm bán nước sẽ bị nguyền rủa, lên án, kết tội. (Trần Ích Tắc, Trần Thiêm Bình thời Trần cõng rắn cắn gà nhà. Lê Chiêu Thống thời Lê Mạt "được” Ngô Gia văn phái ghi lại trong Hoàng Lê nhất thống chí như sau: Nước ta từ khi có vua đến giờ chưa có ông vua nào hèn hạ đến như vậy...Còn người hát ả đào ở Ý Yên, Nam Định, tuy địa vị thấp kém, thậm chí là loại người dưới đáy xã hội, nhưng vì có công giết giặc Minh, nên khi bà mất nhân dân đã tôn thờ bà là thành hoàng của làng, ( Truyện người hát ả đào với giặc Minh, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi). Như vậy kệ vấn cũng đã rõ, kệ đáp lại càng rõ. Cả người hỏi và người đáp cho thấy kiến văn quảng bác thâm hậu về vốn văn hóa chính trị có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ xưa của mình. Đó là kiến văn có sự giao thoa tam giáo Nho, Phật, Lão; đồng thời họ cũng là những người mang trong lòng truyền thống đạo lí, đạo đức cao nhất, lớn nhất của người Việt tự ngàn đời: yêu nước thương dân, nhưng thật đáng tiếc thay, Lê Đại Hành đã không thực hiện được đường lối chính trị vô vi nên triều Tiền Lê thật vô cùng ngắn ngủi, chỉ kéo dài được 29 năm (từ năm Tân Tỵ 981 đến năm Kỷ Dậu 1009). Hoàng đế mở đầu nhà Tiền Lê khi băng hà không có tên thụy để thờ. Theo truyền thống xưa kia, ở Trung Quốc và Việt Nam, mỗi khi có vua băng hà, sau khi an táng, triều đình căn cứ vào công tích hành trạng của vị vua băng hà đặt một tên thụy để thờ. Đinh Tiên Hoàng Đế (Đinh Bộ Lĩnh là ông vua họ Đinh xưng đế đầu tiên, Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) là vị vua họ Lê anh minh thánh trí, Lê Ngọa triều (Lê Long Lĩnh) là ông vua nằm mà thiết triều (vì hoang dâm vô độ), Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) là ông vua họ Lê đáng thương hại. Lê văn Hưu, tác giả Đại Việt sử kí đã bình luận về sự kiện này như sau:
Thiên tử và hoàng hậu lúc mới băng, chưa an táng về sơn lăng thì gọi là Đại Hành hoàng đế, Đại Hành hoàng hậu. Khi lăng tẩm đ• an định mới hội họp quần thần nghị bàn về đức hạnh hiền, dữ của thiên tử để đặt thuỵ, gọi là … hoàng đế, … hoàng hậu.
Vua Lê Đại Hành lấy Đại Hành làm tên thuỵ truyền lại cho đến ngày nay là vì sao? Đại khái vì có đứa con bất tiếu Ngoạ Triều, lại không có Nho thần ở bên phụ bật, theo phép nghị bàn đặt tên thuỵ nên mới vậy. (Dẫn lại theo ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên).
Còn chính sử thần Ngô Sĩ Liên thì bàn rằng:
Vua (Lê Đại Hành) đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy. song khi làn nhiếp chính (cho vua thứ hai nhà Đinh là Đinh Toàn) mà tự xưng làm Phó Vương dẫn đến bọn Điền ,Bặc phải khởi binh, lên ngôi vua thì phải nhờ bọn Cự Lạng đem binh đến uy hiếp, làm cung điện thì lấy vàng, bạc mà trang sức. Phamg những việc như thế thì không bằng Lý [Thái] Tổ biết nghĩ xa hơn. Văn Hưu nói lấy đức của nhà Lí mà soi đức của nhà Lê thì [đức của Lí] dày hơn, há chẳng đúng sao! (ĐVSKTT).
4.Như vậy, vận nước dài hay ngắn phụ thuốc rất nhiều vào đường lối cai trị, vào đức của nhà vua sáng hay tối. Lê Đại Hành hỏi về vận nước nhưng không thể làm cho vận nước dài lâu vì không thể thực hiện được đường lối cai trị vô vi. Từ nguyện vọng đến thực tiễn, thực hành quả là có khoảng cách, một khoảng các về văn hóa lịch sử chính trị và những hãn trở của thực tế khó có thể, không thể vượt qua. Ta đánh giá Lê Hoàn ở những việc mà nhân vật lịch sử này đã làm được cho đất nước, nhưng những việc ông chưa làm được và không thể làm được âu cũng là bài học cho hậu thế. Tìm hiểu về lịch sử để không mắc lại những sai lầm của lịch sử. Đó là nỗi lòng của người viết bài này.
Vân Giang, Ninh Bình tháng 5, 2010
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 30.10.2010
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
SUY NGHĨ CUỐI NĂM TÂN MÃO 2011
Bùi Ngọc Minh
1. Những ngày cuối cùng của năm Tân Mão (2011), tự dưng những câu thơ Chế Lan Viên trong thi phẩm nổi tiếng một thời Tổ Quốc có bao giờ đẹp thế này chăng? viết trong những năm tháng cả nước đánh Mĩ cứ ngân nga trong hồn tôi:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha, như vợ như chồng,
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông.
2. Những câu thơ giúp tôi hiểu sâu sắc và thấm thía về một qui luật của lòng yêu nước chân chính, vô tư trong sáng, không vụ lợi của bao thế hệ người Việt ta trong suốt chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước. Người ta chỉ xả thân hi sinh, chỉ chết vì Tổ quốc khi lòng yêu nước đã trở thành máu thịt, khi Tổ quốc với họ là máu mủ ruột rà. Tình yêu lớn mới có sự tuẫn tiết trong sáng vô tư, không vụ lợi.
Ta hiểu vì sao cậu bé làng Gióng ba năm không biết nói biết cười khi giặc Ân xâm phạm bờ cõi chỉ nghe lời hiệu triệu đã cất lên tiếng nói đòi đánh giặc cứu nước và chẳng mấy chốc vươn mình thành Phù Đổng, để rồi giặc tan bỏ lại giáp trụ cỡi ngựa về trời. Ta hiểu vì sao những Quốc Tộ (Đỗ Pháp Thuận), Nam quốc sơn hà (?), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật Hoài (Phạm Ngũ Lão), Cảm Hoài (Đặng Dung), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi viết thay Lê Thái Tổ), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu), Xuất dương lưu biệt (Phan Bội Châu)… đến nay vẫn xúc động tâm hồ tâm linh con dân đất Việt.
Những Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Trần Đức Thảo, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước, Phạm Khắc Hòe… từ bỏ cuộc sống vật chất đầy đủ và tương lai tiền đồ cá nhân xán lạn theo Bác Hồ tham gia kháng chiến, Tuần lễ vàng những ngày chính quyền cách mạng còn non trẻ (1946)… cũng trên tinh thần ấy. Ca từ những bài hát thời chống Pháp Ra đi ra đi bảo toàn sông núi, ra đi ra đi thề chết không lui, tượng đài cạnh Hồ Gươm Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh… là những chứng tích lịch sử, những di sản tinh thần vô giá. Thời chống Mĩ, nhân dân khu bốn sẵn sàng phá nhà lấy vật liệu chống lầy trên những tuyến đường tiếp tế đầy bom đạn cho Miền Nam đánh Mĩ với tinh thần xe chưa qua nhà không tiếc… Lòng yêu nước quả là huyệt đạo thần kinh quan trọng nhất, nhậy cảm nhất của người Việt Nam. Quả là: Đất nghèo nuôi những anh hùng/ Chìm trong khói lửa lại vùng đứng lên/ Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vút bỏ lại hiền như xưa (Bài ca Hắc Hải – Nguyễn Đình Thi). Viết tới đây tôi bỗng nhớ tới những câu thơ của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất Nước:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ , đứa lột da…
……..
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà.
………
Ôm đất nước những người áo vải,
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Lòng yêu nước trở thành một thứ tài sản vô giá, một thứ năng lượng tinh thần cực lớn đã biến thành sức mạnh vật chất khổng lồ giúp chúng ta chiến thắng những kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất không chỉ của thời nay. Làm thế nào để phát huy lòng yêu nước của mỗi con dân đất Việt trong cuộc chiến chống nghèo nàn lạc hậu, bất công phản tiến bộ đưa Tổ Quốc ta trở thành một đất nước công bằng dân chủ và văn minh ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu ?
3. Vậy mà những ngày cuối năm Tân Mão này, ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng thành phố Hải Phòng xảy ra vụ việc cực đau lòng: cưỡng chế thu hồi đất đai với ông Vươn và gia đình ông. Biến một kĩ sư nông nghiệp, một người có công lấn biển thành một tội phạm dùng súng tự chế, mìn tự tạo chống lại Chủ tịch huyện, chủ tịch xã và các lực lượng bộ đội, công an thi hành lệnh cưỡng chế, khiến 06 chiến sĩ của lực lượng vũ trang nhân dân bị thương. Máu của chiến sĩ bộ đội và công an đã đổ, nhà dân bị phá sập. Vì sao một người chỉ biết ruộng trâu ở theo làng bộ, cui cút làm ăn toan lo lấn biển lại trở thành tội phạm? Tôi không ủng hộ việc làm trái pháp lí, đạo lí của một người có hiểu biết như ông Vươn. Ông ta phải chịu trách nhiệm trước hành vi bao lực của mình trước pháp luật, ông ta phải biết hối lỗi về đạo lí vì nhân dân mà lại bắn đạn hoa cải, gài mìn tự chế để sát hại cán bộ chiến sĩ của Quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nhưng nếu đúng như nhận định của Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trả lời báo chí thì nguyên thì cái sai lại thuộc về phía người thi hành công vụ (xin xem vietnamnet (mục chính trị, 16/01/2012, dantri.com.vn…). Vậy khép ông Vươn và những người thân của ông vào tội chống người thi hành công vụ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thỏa đáng không? Hay ông chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng và em ông ta là chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vinh Quang và tập thể những người thi hành lệnh cưỡng chế đã lợi dụng quyền hạn và chức vụ để làm trái pháp luật và đạo lí? Ông Vươn và những người trong gia đình có pham tội chống người thi hành công vụ không? Điều này sẽ được các cơ quan thực thi pháp luật điều tra làm rõ. Tôi muốn dùng những suy tư của nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu, giaỉ thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Chí Minh trong Nhật kí của ông để kết thúc những suy ngẫm của mình:
Hôm nay chúng ta chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người… Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài.
Vân Giang, 26 tháng chạp năm Tân Mão
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 23.01.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài Thơ Dục Thúy Sơn Và Tâm Sự Của Nguyễn Trải.
Bùi Ngọc Minh
1. Đây là bài thơ chữ Hán trong di sản tinh thần của Nguyễn Trãi viết về một danh thắng của Ninh Bình.
Phiên âm Hán Việt:
Hải khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thủy thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian.
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.
Dịch nghĩa:
Nơi cửa biển có ngọn núi tiên,
Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần.
(Núi tựa như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước,
Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần.
Bóng ngọn tháp (trên núi trông giông như) cái trâm bằng ngọc xanh,
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.
Nhớ ông Thiếu Bảo người họ Trương,
Bia khắc (của ông) đã. lốm đốm hoa rêu.
Dịch thơ:
Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen
Cảnh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sông ánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.
(Khương Hữu Dụng dịch, Thơ văn Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục, Hà nội, 1980)
2. Văn thơ đề vịnh về Dục Thúy Sơn thời trung đại đến nay còn lại khá nhiều. Sớm nhất có lẽ là bài văn bia được khắc trên vách đá núi Non Nước nhân khánh thành ngôi tháp Năm Tân Mùi, niên hiệu Quảng Hựu thứ 7 (1092) thời vua Lí Nhân Tông. Hiện còn lưu lại trên vách đá Non Nước 43 văn bản thơ văn của nhiều tác giả: Trương Hán Siêu (? – 1354), Phạm Sư Mạnh (? - ? TKXIV), Trần Minh Tông (1314 -1328), Nguyễn Trãi (1380 -1442), Lê Thánh Tông (1442 -1497), Lê Hiến Tông (1461 -1504), Ninh Tốn (1743 - ?), Lê Quí Đôn (1726 – 1784), Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), Trương Đăng Quế (1790 -1863), Nguyễn Văn Siêu (1795 – 1872), Ngô Thế Vinh (1802 -1856), Phạm Văn Nghị (1805 – 1880), Thiệu Trị (1807 – 1847), Cao Bá Quát (1809 – 1855), Nguyễn Miên Thẩm (1819 – 1870), Nguyễn Văn Thuật (1821 - ?), Nguyễn Tư Giản (1823 -1890), Nguyễn Xuân Ôn (1825 -1889), Bùi Văn Dị (1831 -1895), Phạm Hi Lượng (1834 -1886), Nguyễn Khuyến (1835 -1909)…Trong rất nhiều thi phẩm đề vịnh về Dục Thúy Sơn của đám tác giả như rừng (Cao Bá Quát), thi phẩm của Nguyễn Ức Trai nổi lên như một đóa hoa lạ. Thơ đề vịnh của người xưa thường thể hiện thái độ của thi nhân trước thời cuộc, trước nhân tình thế thái, nhưng tâm sự nỗi niềm của người tự thấy mình có Túi thơ chứa hết mọi giang san vẫn có những nét riêng biệt. Sáu câu đầu vừa thể hiện cái nhìn đắm say trước non nước Ninh Bình, vừa bộc lộ tâm sự trước thời cuộc. Nhưng trước tiên hãy nói qua về ngọn núi ngày nay nằm ở phía đông bắc thành phố Ninh Bình chút đã. Dục Thúy Sơn theo Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú) là ngọn núi ở bờ sông thuộc địa phận xã Đại Đăng huyện Yên Khánh. Nguyên tên núi là Sơn Thủy, (Hoàng Việt thi tuyển (Bùi Huy Bích) chép là Băng Sơn), đến thế kỉ XIV, Trương Hán Siêu, một danh nhân văn hóa người Nunh Bình thời Trần đặt tên là Dục Thúy Sơn (Con chim trả xanh đang tắm), nay gọi là hòn Non Nước. Vào thế kỉ XV, khi thi phẩm này ra đời, nơi đây là cửa biển, nay biển đã lùi xa khỏng 50 km theo đường chim bay. Trong mắt Nguyễn Trãi phong cảnh nơi đây đúng là sơn thủy hữu tình, thực và mộng, mĩ lệ và huyền ảo (Hải khẩu hữu tiên san – Cửa biển có non tiên). Theo quan niệm dân gian, chữ tiên gắn với những gì tuyệt đối, tuyệt vời: đẹp như tiên, sướng như tiên, thanh cao, trong sạch như tiên… núi Dục Thúy quả là có sức hấp dẫn lớn với thi nhân. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ từng nhiều lần đến núi này (Tiền niên lũ vãng hoàn - Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần). Câu thơ khai đề đã mở ra mênh mang tâm trạng. Nói như người xưa, thì đó là câu mở theo lối khai môn kiến sơn. Dục Thúy là tiên san (hòn núi tiên), nhưng không ở không gian tiên, mà lại làTiên cảnh trụy trần gian, cảnh tiên nơi cõi tục. Cảnh tiên trên cõi tiên là sự thường. Cảnh tiên nơi cõi trần mới hiếm, mới quí và cũng oái oăm, nhiễu sự, phiền toái. Không ngẫu nhiên chút nào khi chữ tiên trong nguyên tác được nhắc lại hai lần trong một bài thơ có bốn mươi chữ. (trong nguyên tác chữ tiên có dạng tự bên trái là bộ nhân đứng, bên phải là chữ sơn, với ý nghĩa tiên là người ở trên núi cao, tiếp đó là chữ san (sơn) là núi cũng có nét nghĩa liên quan tới cao). Thấp thoáng sau câu chữ dường như có tâm sự của Ức Trai. Nếu ước đoán bài thơ được viết trong thời gian Nguyễn Trãi còn đang tham chính sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (1428) là đúng thì quả là những câu chữ chĩu nặng tâm tư nỗi niềm. Là một đại nho, nhà tư tưởng nhà văn hóa hàng đầu của thời đại, tự ý thức sâu sắc sứ mệnh của mình với thời cuộc, với quốc gia Đại Việt, Nguyễn Trãi đã cùng Trần Nguyên Hãn (anh em con cô con cậu với ông) vào tận Lam Sơn gặp minh chủ Lê Lợi dâng Bình Ngô sách và thi thố tài năng thực hiện lí tưởng nhân nghĩa và lời dặn của cha khi từ biệt ở ải Nam Quan… Giặc Minh phải cuốn cờ về nước, đất nước sạch bóng xâm lược. Đây chính là cơ hội để Nguyễn Trãi thực thi kế sách nhân nghĩa an dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu, duy tân khắp chốn. Nhưng lí tưởng Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn của ông lại có nguy cơ không thể thực thi. Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn cùng với bách tính trăm họ Đại Việt trước kia là đội quân phụ tử chi binh, cùng nhau nếm mật nằm gai, thì bây giờ trở thành một bộ máy triều đình quan liêu từng bước chuyên chế hóa. Rất nhiều công thần, tướng lĩnh Lam Sơn vốn xuất thân nông dân nay có chức tước bỗng chốc trở thành thế lực đè đầu cỡi cổ muôn dân. Đau đớn thay cái cảnh: vét sản vật bẫy dò chim trả, chốn chốn lưới giăng, nhiễu nhân dân bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt, tàn hại cả giông côn trùng cây cỏ, nheo nhóc thay kẻ góa bụa không cùng… mà Bình Ngô đại cáo đã kết tội giặc Minh khi trước nay lại thấy nhiều quan lại nhà Lê sơ mang ra hành xử với con dân Đại Việt. Một cuộc xung đột văn hóa khốc liệt giữa một bên là Nguyễn Trãi và những người cùng chí hướng với bên kia là đông đảo những người trước đây là đồng chí của ông, nay trở thành những phản bội, chà đạp lên lí tưởng nhân nghĩa mà ông là người khởi xướng và đặt niềm tin tuyệt đối vào nó. Trần Nguyên Hãn cùng nhiều khai quốc công thần đã bị thanh trừng thảm khốc. Chính Nguyễn Trãi cũng bị Lê Thái Tổ nghi ngờ đem hạ ngục.Ông chắc chắn không lạ gì qui luật muôn đời của các ông vua khởi nghiệp trên lưng ngựa mà người xưa tổng kết trong cách ứng xử với các khai quốc công thần khi đế nghiệp đã xong (giảo thỏ tử tẩu cẩu phanh, cao điểu tận lương cung tàng, địch quốc phá mưu thần vong). Bất chấp tất cả, Nguyễn Trãi vẫn kiên trì lí tưởng và ông bị những thế lức chỉ nghĩ đến vinh thân phì gia chiếm số đông và có thế lực trong triều đình Hậu Lê bài xích, chống phá, tìm cách hãm hại. Trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của mình, rất nhiều lần Nguyễn Trãi bộc lộ nỗi niềm đau đớn phẫn uất:
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
(Họa phúc có mầm đâu phải một ngày,
Anh hùng để hận mấy ngàn năm.)
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Bọn chúng phỉ báng lòng cô trung (của ta) khiến (ta) cô độc
Ngoài chưng mọi chốn đều thông tỏ,
Bui một lòng người cực hiểm thay.
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi.
Và ông vẫn tự nhiệm sâu về sứ mệnh của mình
Vườn quỳnh cho dù chim hót,
Cõi trần có trúc đứng ngăn.
Tâm sự của ông có gì đó rất giống với tâm sự Khuất Nguyên trong Li Tao (Chúng ghen ta có mày ngài – Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ, Loài người thật đã thừa khôn khéo – Kéo nhau theo mức vẹo thước cong – Khuôn vuông thước thẳng chẳng dùng – Dốc lòng cầu cạnh, một lòng bon xu). Nhưng Nguyễn Trãi vẫn kiên trì lí tưởng và ý thức sâu sắc về phẩm giá trung trinh, trong sạch của mình (Non cao non thấp mây thuộc- Cây cứng cây mềm gió hay, Ai hay ai chẳng hay thì chớ - Bui một ta khen ta hữu tình). Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn cùng thời với ông nhận xét xác đáng: Gió đông hẩy hẩy gác vàng, người như một ông tiên trong tòa ngọc. Chính Nguyễn Trãi có lúc siêu thoát từng ước lên tiên:
Tạc dạ nguyệt minh thiên tựa thủy,
Mộng kị hạc vàng thượng tiên đàn.
(Đêm qua trăng sáng trời như nước,
Mộng cỡi hạc vàng lên đàn tiên.)
Quả là câu khai đề mở cửa thấy ngay núi cao, mở ra mênh mang tâm trạng. Không chỉ có thế. Câu thơ thứ ba lại thấy Dục Thúy Sơn như một đóa hoa sen nổi trên mặt nước (Liên hoa phù thủy thượng). Dân gian chẳng thường nói: đẹp như hoa, người ta là hoa của đất. Hoa sen là thứ hoa đẹp thanh cao tinh khiết (Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn); Đức Thích Ca Mâu Ni cũng ngự tọa trên đài sen đó. Dục Thúy Sơn đẹp, tinh khiết, thanh khiết đến vô cùng. Đẹp và thanh khiết, tinh khiết của tiên cảnh, của tiên san, của liên hoa. Một thi nhân thời Đường từng Độc tọa Kính Đình Sơn và thấy mình cũng cao chót vót và cô độc như ngọn núi Kính Đình. Nguyễn Trãi cũng tự thấy mình như Dục Thúy Sơn vậy.
Trong cái nhìn phong tình kín đáo của thi nhân, Dục Thúy Sơn còn mang vẻ: đẹp của một giai nhân:
Tháp ảnh thanh trâm ngọc,
Ba quang kính thúy hoàn.
Chưa vội nói đến liên tưởng và so sánh độc đáo, vượt ra ngoài tính qui phạm của văn học trung đại, hãy tìm hiểu bóng tháp soi xuống dòng sông là tháp gì? có từ bao giờ? ai xây cất? Theo bài văn bia Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí của Trương Hán Siêu hiện còn khắc trên vách núi Dục Thúy cho biết: Đó là tháp Linh Tế được xây từ năm Quảng Hựu thứ 7 đời Lí, trải thời gian mưa nắng bị đổ nát nên "vào mùa đông năm thứ hai sau khi đức vua lên ngôi (Trần Dụ Tông, Nhâm Ngọ 1342) thì Vị sơn tăng Trí Nhu tới Thăng Long mời Thăng Phủ viết cho một bài văn bia. Trí Nhu cho biết: Việc xây lại tháp bắt đầu từ năm Đinh Sửu (1337) niên hiệu Khai Hựu (Trần Hiếu Tông (1329 -1341) quá sáu năm trời, đến nay (1342) đã làm xong. Khi mới xem đất để khởi công, sư Đức Vân chiêm bao thấy hơn một ngàn người tụ họp ở đỉnh núi, trong đó có ba vị quí nhân, tướng mạo khác thường bảo với mọi người rằng: "Các ngươi nên biết xây tháp là một việc tốt đẹp, để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi tam đồ ( ). Hôm bắt tay vào việc, sư Đức Môn lại chiêm bao thấy Đức Trúc Lâm Phổ Tuệ (Pháp Loa, vị tổ thứ hai của dòng thiền Trúc Lâm do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập) bắt ấn giữ cho tháp yên vững. Thế rồi khi các sư Đức Tịnh, Đức Minh kẻ trước người sau đang làm việc xây đường đi vào tháp, bỗng đẩy với một tảng đá lớn, người cũng rơi theo, lăn lộc cộc đến mấy nhân (bằng 7 hoặc 8 thước Trung Quốc cũ). Mọi người trông thấy đều kinh hãi chạy tán hết, cho rằng thân thể họ tất phải nát vụn. Thế mà khi rơi tới đất, vực dậy thì không bị tổn thương một chỗ nào. Tháp xây bốn tầng, đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ. (Thơ văn Lí Trần tập II, Nxb KHXH, Hà Nội, 1989, trang 753). Đến nay không biết tháp nằm ở địa điểm cụ thể nào trên núi Thúy. Quả là vật đổi sao rời.
Trở lại với câu thơ đang bàn. Văn thơ trung đại phương Đông thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp mọi vật, mọi sự (Thúy Vân: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở namg – Hoa cười ngọc thốt đoan trang – Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da, Thúy Kiều: Làn thu thủy, nét xuân sơn - Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh, Từ Hải Râu hùm hàm én mày ngài… Truyện Kiều, Nguyễn Du, TK XIX). Nguyễn Trãi (TK XV) đã phá cách táo bạo, thấy cái bóng tháp nhà Phật in xuống nước giống với cái trâm ngọc của mĩ nữ, ánh sáng những con sóng nhỏ trên sông nước giống như tấm gương soi mái tóc giai nhân. Nên nhớ nhà nho xưa từng coi phụ nữ đẹp là vưu vật (thứ gây tai họa). Vậy mà Thái học sinh, Tham nghị đại phu nhập nội hành khiển kiêm thừa chỉ viện cơ mật lại lấy thiếu nữ đẹp làm chuẩn mực cho cái đẹp. Thật là trẻ trung, hiện đại và phong tình. Đây không phải lần duy nhất. Trong bài thơ Quốc âm Cây chuối ông viết:
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem.
Dục Thúy Sơn là non tiên, cảnh tiên đồng thời cũng là giai nhân khiến Nguyễn Trãi đắm say. Ông nhiều lần đến đây vừa để thưởng lãm, hòa nhập với thiên nhiên, để di dưỡng tính tình, để lánh đục về trong.
Phải đứng trên đỉnh cao của văn hóa thời đại mới nhìn Dục Thúy Sơn như vậy được. Đến núi non nước ngày nay, du khách vẫn còn đọc được bài thơ bằng chữ quốc ngữ của Tản Đà nguyễn Khắc Hiếu phê phán nghiêm khắc hành động lố bịch của Tuần phủ Ninh Bình thời thuộc Pháp là Từ Đạm đã cho đục thơ và đục cả hai hàn chân mình vào núi đá:
Năm ngoái ông đã đục mấy vần
Năm nay ông lại đục đôi chân
Khen cho đá cũng già gan nhỉ?
Dám để cho ông đục mấy lần!
Từ Đạm muốn lưu danh mình vào bia đá, ông ta đã bị bêu danh bằng bia miệng. Đến với cái đẹp phải có tài cao có tâm sáng, vô tư không vụ lợi.
3. Trước thiên nhiên mĩ lệ, thanh khiết, thi nhân xưa thường bộc lộc tâm sự về thời cuộc. Nguyễn Trãi cũng không nằm ngoài thông lệ ấy. Có điều tâm sự của ông vẫn có những nét riêng. Dục Thúy Sơn đến thời Nguyễn Trãi đã có nhiều người đề vịnh. Bậc đế vương có, quan lại có, thi nhân có… (hiện có 8 văn bản khắc vào vách đá bằng chữ Hán vào thời Lí Trần, trước Nguyễn Trãi). Đến đây không ngẫu nhiên chút nào, khi thi nhân Hữu hoài Trương Thiếu Bảo - Bi khắc tiển hoa ban. Trương Thăng Phủ, một danh nhân Ninh Bình thời Trần, người khai sinh ra cái tên Dục Thúy Sơn, tuy không đỗ đạị khoa nhưng được các vua Trần tôn kính gọi là thầy, và sau khi mất được tòng tự ở Văn Miếu cùng Khổng Tử và các tiên nho, danh nho. Trương Hán Siêu hiện còn bài văn bia Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí và bài thơ khắc trên núi Non Nước. Bài văn bia đã nhắc đến trên kia. Dưới đây là bài thơ Dục Thúy sơn:
Phiên âm:
Sơn sắc chính y y,
Du nhân hồ bất qui?
Trung lưu quang tháp ảnh,
Thượng giới khải nham phi.
Phù thế như kim biệt,
Nhàn thân ngộ tạc phi.
Ngũ Hồ thiên địa khoat,
Hảo phỏng điếu ngư ki.
Dịch nghĩa:
Sắc núi vẫn xanh nguyên,
Người đi chơi sao không về?
Giữa dòng sóng ngời bóng tháp,
Thượng giới mở cánh cửa hang.
Có cách biệt với cuộc đời trôi nổi,
Mới biết rõ cái danh hờ kia là sai lầm,
Trời đất ở Ngũ Hồ rộng bao la,
Hãy tìm lại tảng đá ngồi câu cá khi trước.
Dich thơ:
Non xanh xanh vẫn như xưa,
Du nhân đi mãi vẫn chưa thấy về?
Sóng in bóng tháp bồ đề,
Mở toang cửa động liền kề chân mây.
Đời lênh đênh trước khác nay,
Thân nhàn mới biết trước ngày nhầm to.
Mênh mang trời đất Ngũ Hồ,
Vòm câu cá, kíp thăm dò nơi đâu.
(Trần Văn Giáp dịch)
Sắc núi còn xanh ngắt,
Lâu rồi, người vẫn đi.
Lòng sông in bóng tháp,
Tầng thẳm cửa thôi che.
Từ cách xa đời tục,
Mới hay điều thị phi.
Năm hồ (Ngũ Hồ - chúng tôi dịch lại hai chữ này) (1) trời đất rộng,
Bến cũ khi nào về?
(Băng Thanh dịch, Thơ văn Lí Trần, Nxb KHXH, Hà Nội. 1989)
Trương Hán Siêu làm quan đầu triều vãn Trần, đời vua Trần Dụ Tông. Lúc này dấu hiệu sụp đổ của vương triều Trần đã lộ rõ (xin xem bài Bạch Đằng Giang phú và tấm lòng của Trương Hán Siêu… của tác giả bài viết này). Từ một nhà nho hành đạo hăng hái tả phù hữu bật đấng quân vương, Trương công đã nhận ra dấu hiệu sụp đổ không thể tránh khỏi của nhà Vãn Trần trong một tương lai gần, vì vậy mà có những vần thơ siêu thoát. Trương Hán Siêu muốn làm một Đào Tiềm không vì ba đấu gạo lương mà khom lưng quì gối, khi nhắc lại bàiQui khứ lai từ của Đào Tiềm (365 – 427, thời Lục Triều bên Trung Hoa) trong hai chữ bất qui; ông muốn làm người câu cá, người ngao du Ngũ Hồ như Phạm Lãi sau khi giúp Câu Tiễn phục thù; ông thấy cái đời làm quan, cái bả vinh hoa, mồi phú quí trước đây quả là sai lầm; ông đề cao hai chữ nhàn thân. Nguyễn Trãi khi nhà Hậu Lê vừa dựng lên đã thấy cái mặt trái của nó, như đẫ trình bày ở trên kia. Nguyễn Trãi chính là một Dục Thúy Sơn giữa cõi trần đầy bon chen, đầy những toan tính bẩn thỉu độc ác của lũ phi nhân phi nghĩa trong triều đình Lê Sơ. Ông quả thật cô độc giữa bầy sói.
4. Còn nhớ, sinh thời vào những tháng ngày căng thẳng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1965) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về Côn Sơn nơi Nguyễn Trãi từng ở ẩn và lần đọc văn bia. Thì ra những thiên tài, những nhân cách vĩ đại dù cách xa nhau về không gian, thời gian nhưng tư tưởng họ vẫn gặp nhau. Sự Hữu hoài Trương Thiếu Bảo của Nguyễn Trãi phải chăng là tìm về với những giá trị văn hóa, nhân văn vĩnh hằng của cha ông đặng giữ vững lí tưởng nhân nghĩa tốt đẹp của mình.. Hoài cổ với Nguyễn Trãi về cơ bản không phải là chạy trốn thực tại mà là tìm thấy sự nối tiếp, thống nhất giữa xưa và nay? Đó chính là thái độ nâng niu trân trọng tinh hoa văn hóa của người xưa. Đó chính là tinh thần ôn cố nhi tri tân.
VânGiang, 4/1994–4/2011
Bùi Ngọc Minh
CHÚ THÍCH:
(1) Băng Thanh dịch là Năm hồ, khiến người đọc dễ nhầm là năm cái hồ, theo chúng tôi Ngũ Hồ là một danh thắng ở Hàng Châu Trung Quốc và trong Bạch Đằng Giang phú Trương Hán Siêu có nhắc đến danh thắng này trong câu: Cửu Giang Ngũ Hồ Tam Ngô Bách Việt- Nhân tích sở chí, mị bất kinh duyệt (Cửu Giang Ngũ Hồ Tam Ngô Bách Việt – Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết)
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 30.4.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bạch Đằng Giang Phú Và Tấm Lòng Của Trương Hán Siêu
Với Vương Triều Trần, Với Giang Sơn Đại Việt
Bùi Ngọc Minh
1.
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một trong những bài phú chữ Hán nổi tiếng bậc nhất từ thời Trần còn lại đến nay. Có nhiều vấn đề cần giải mã tác phẩm xuất sắc này, một trong những vấn đề cốt tử làm nên sức sống lâu dài của nó có lẽ chính là nỗi lòng của Trương Thăng Phủ với những vấn đề liên quan đến vận mệnh của vương triều Trần, sâu xa hơn là vận mệnh của nhân dân, dân tộc, của non sông đất nước Đại Việt muôn quí ngàn yêu. Có thể coi bài phú như một lời cảnh báo, một thông điệp về nguy cơ sụp đổ không thể tránh khỏi của nhà Trần bằng lối phúng dụ quen thuộc, bằng phong cách ôn nhu đôn hậu, thâm trầm kín đáo của một bậc thầy vua đối với Trần Dụ Tông. Bài viết này mong muốn làm sáng tỏ điều đó.
2.
Tác giả bài phú là một bậc túc nho, một trong những nhân vật chính trị, văn hóa lớn đương thời. Trương Hán Siêu (?- 1354), tự Thăng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, nay thuộc phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình. Thời trẻ làm môn khách của Trần Hưng Đạo, lập được nhiều công trạng trong hai lần chống Nguyên-Mông, được Hưng Đạo Vương tiến cử lên triều đình. Năm 1308 thời Trần Anh Tông, được bổ chức Hàn lâm học sĩ, sau được thăng chức Hành khiển. Năm 1339 giữ chức Môn hạ hữu tư lang trung. Năm Thiệu Phong thứ nhất đời Trần Dụ Tông (1341) theo lệnh vua, ông cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn hai bộ Hình thư và Hoàng triều đại điển, xây dựng các căn cứ pháp chế cho việc cai trị. Năm 1342 bị giáng làm Tả tư lang trung kiêm Kinh lược sứ Lạng Giang. Năm 1345 thăng Tả gián nghị đại phu. Năm 1351 thăng Tham tri chính sự (như chức Thượng thư). Năm 1353 được giao cầm quân đánh dẹp phía nam và trấn thủ Hóa Châu (vùng Huế ngày nay). Năm 1354 xin trở về triều, được chuẩn y, chưa về thì mất. Được truy phong Thái Bảo. Tuy không đỗ đạt cao, nhưng ông là một học giả uyên thâm, có tư tưởng tôn Nho bài Phật, đề cao ý thức quốc gia, được các vua Trần tôn quí như bậc thầy. Khi ông mất vua bãi triều 3 ngày để tỏ lòng thương tiếc. Cùng với Chu An, ông được tòng tự tại Văn Miếu cùng các tiên hiền của đạo Nho. Tác phẩm viết bằng chữ Hán còn lại: Bạch Đằng giang phú, Cúc hoa bác vịnh (thơ 7 bài còn 4)Dục Thúy sơn, Hóa Châu tác, Quá Tống đô (thơ), Khai Nghiêm tự bi kí, Dục Thúy Sơn Linh Tế tháp kí (bi minh kí).
3.
Đối tượng hướng tới của bài phú chủ yếu chính là Trần Dụ Tông (1335 – 1363). Vua tên húy là Hạo, con thứ 10 của Thái Thượng hoàng Trần Minh Tông, lên ngôi năm 6 tuổi với niên hiệu Thiệu Phong (1341), ở ngôi 28 năm, hưởng thọ 34 tuổi. Dưới sự cai trị của Dụ Tông bằng niên hiệu Thiệu Phong, chính sự tốt đẹp, từ niên hiệu Đại Trị về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó (Đại Việt sử kí toàn thư).
4.
Là người từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên, từng chứng hiến thời kì cực thịnh, huy hoàng của vương Trần, nhưng đến thời Dụ tông thời thế đã khác. Đến nay ta không có cứ liệu chính xác về thời điểm ra đời của Bạch Đằng giang phú, nhưng có thể suy đoán rằng tác phẩm có lẽ ra đời vào những năm tháng mà cơ nghiệp nhà Trần đã suy vi hoặc chí ít thì những dấu hiệu suy vi đã hiện rõ.Bài phú viết về một địa danh lịch sử nổi tiếng của dân tộc dòng sông Bạch Đằng, niềm tự hào của người Đại Việt trong sự nghiệp bảo vệ độc lập tự chủ trước các thế lực xâm lược từ phương Bắc tới, địa danh mà hàng trăm năm sau, triều đình phong kiến phương Bắc đầy tự mãn nước lớn vẫn còn vô cùng căm tức, nể sợ và kính trọng trong vế đối đầy khẳng khái của Giang Văn Minh khi đi sứ (vế ra của người phương Bắc: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng (Mã Viện chôn để yểm bùa ở nước ta từ thời Hán) đến nay rêu đã xanh; vế đối của Giang kẻ sĩ: Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng tự xưa máu vẫn còn đỏ)). Nhưng đó là câu chuyện sau này. Đề tài của bài phú là vịnh cảnh vịnh sử. Với người xưa đề vịnh thường để bộc lộ tâm sự trước thời cuộc, tức viết về cái xưa cũ mà không làm cho nó chết thêm một lần nữa, mà từ những vấn đề của quá khứ mà thanh nghị những vấn đề của hiện tại. Giả Nghị viết quá Tần luận, Tư Mã Thiên viết Sử kí… cũng trên tinh thần ấy. Đó chính là tinh thần dĩ cổ vi kim, từ những sự kiện, những bài học lịch sử mà bổ khuyết những khiếm khuyết, sai lầm của hiện tại. Có lẽ trên tinh thần ấy mà Trương Thái Phó đã viết bài phú theo lối cổ thể pha Sở từ này. Lòng tự hào trước chiến công lừng lẫy của cha ông, đặc biệt là chiến thắng Mông – Nguyên đời Trần là điều không thể bác bỏ. Tuy nhiên nỗi lòng của tác giả bài phú không chỉ có vậy, cái chính là suy tư trước thời cuộc. Không ngẫu nhiên chút nào khi tác giả viết:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá.
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Dường như có tâm sự, uẩn khúc của thời đại vắng những minh quân thánh đế, vắng vắng anh hùng gửi gắm trong đó... Rồi quan Thái Phó lại viết:
Lâm giang lưu hề vẫn thế,
Hoài cổ nhân hề hậu nhan.
Bản dịch của Bùi Văn Nguyên (có dựa theo bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến và của Nguyễn Đổng Chi): Đến chơi sông chừ ủ mặt – Nhớ người xưa chừ lệ chan, là cách dịch thoát ý. Trong nguyên tác hai chữ vẫn thế có nghĩa là rơi nước mắt, hai chữ hậu nhan có nghĩa là mặt dầy tức xấu hổ (với người xưa). Khách rơi lệ và xấu hổ với cổ nhân tức thẹn hổ với hai vị thánh quân Trần Thánh Tông (Thái Thượng hoàng) và Trần Nhân Tông (Quan gia), hổ thẹn với Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn…, với quân dân làm nên chiến thắng Bạch Đằng. Vì sao hổ thẹn ? Vì thấy nay không bằng xưa, vì con cháu không nối gót, không theo kịp cha ông, vì cha làm thầy con đốt sách. Dường như có gì đó hối tiếc xót xa như nay ta thường nói bao giờ cho đến ngày xưa. Truy tìm nguyên ủy của thắng lợi, tác giả bài phú đưa ra kết luận:
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
(Đúng là trời đã bày đặt cho địa thế hiểm trở,
Mà cũng nhờ người hào hiệt giữu nền hòa bình.)
Nguyễn Sưởng, một nhà thơ đời Trần cũng có hai câu thơ:
Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,
Bán tại quan hà, bán tại nhân
(Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,
Nửa do sông núi, nửa do người)
Đó là vấn đề mà người xưa khái quát thành mệnh đề địa linh nhân kiệt. Giả Nghị (200 – 168 TCN) thời Tây Hán khi luận về lỗi lầm khiến nhà Tần sụp đổ (Quá Tần luận) đưa ra luận điểm: Tại đức bất tại hiểm. Nhà Tần có thành cao hào sâu, có thế đất hiểm, nhưng vì thực hiện đường lối cai trị tàn bạo chôn Nho đốt sách, mất lòng dân nên sự nghiệp tiêu tan. Đức ở đây là nói tới đức của người cầm quyền, của nhà vua kẻ chăn dắt bách tính trăm họ.Đến cuối bài phú, Trương Han Siêu đã nhắc lại lời nhận xét cảnh báo của Giả Nghị với các vua Hán, cũng là lời cảnh báo Dụ Tông bằng câu:
Tín tri: Bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh.
(Mới biết: Chiến thắng không vì sự hiểm yếu của sông núi và cửa ải,
Không gì sánh được với người có đức lớn.)
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Hãy xem Trần Dụ Tông là ông vua thế nào? Trong phần viết về Dụ Tông Đại Việt sử kí toàn thư cho biết:
Bấy giờ Trâu Canh thấy vua (Trần Dụ Tông) bị liệt dương dâng thuốc nói rằng: giết đúa bé con trai, lấy mật hòa với dương khởi thạch mà uống và thông dâm với chị hay em ruột của mình thì sẽ hiệu nghiệm. Vua làm theo, thông dâm với chị ruột là công chúa Thiên Ninh, quả nhiên công hiệu.
Canh từ đấy được yêu quí hơn, được ngày đêm làm ở trong hậu cung hầu hạ thuốc thang.Canh liền thông dâm với cung nữ. Việc phát giác Thượng hoàng (Minh Tông) định bắt Canh chết, nhưng vì có công chữa khỏi bệnh cho vua nên được tha.
Canh là con Trâu Tôn người phương Bắc, khoảng Thiệu Phong (1341 – 1358) (có lẽ chép nhầm vì khi Dụ Tông lên ngôi thì làm gì còn giặc Nguyên, phải là niên hiệuThiệu Bảo (1279 -12850 mới đúng), người Nguyên vào cướp nước, Tôn làm thầy thuốc đi theo quân Nguyên, đến khi quân Nguyên thua, thì bị bắt. Tôn ở nước ta, chữa thuốc cho các vương hầu thời đó, phần nhiều thấy công hiệu. Người trong nước nhiều lần cho Tôn ruộng, nô, thành ra giàu có. Canh nối nghiệp cha, trở thành danh y, nhưng không có hạnh kiểm nên đến nỗi thế. Đến sau lại được phục chức. (ĐVSKTT, trang250)
Trên phương diện đạo đức, nhân tính, việc chữa bệnh của Dụ Tông theo chỉ dẫn của Trâu Canh là một việc làm cực tàn độc, không khác gì cách lấy tim trẻ em làm thang thuốc mà Ngô Thừa Ân ghi lại trong Tây du kí. Lạ thay, một việc tưởng chỉ có trong tiểu thuyết hoang đường bảy phần hư ba phần thực bên nước Tàu cổ xưa, lại là việc có thực được quốc sử ghi lại bằng giấy trắng mực đen ở xứ ta; tệ hai hơn Dụ Tông còn làm cái việc thương luân bại lí (thông dâm với chị ruột mình). Quả là cách hành xử của giống chó lợn đúng như lời luận bàn của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên về cách hành xử trong đời tư của Trần Thủ Độ khi vương triều Trần mới khởi nghiệp. Việc dùng Trâu Canh làm quan ngự y, tha tội chết rồi sau phục chức cho y lại chứng tỏ Dụ Tông vì u mê mà bất chấp pháp luật, điển lệ nhà nước. Những việc làm của ông ta khiến Thái Thượng hoàng Minh Tông hết sức bất bình và dường như có cả sự bất lực của ông mà sử quan kín đáo bộc lộ qua cách chép sử của mình. Ngô Sĩ Liên viết như sau:
Khi se mình, triều đình muốn lập đàn chay cầu đảo, Minh Tông biết chuyện, gọi Hữu tướng quốc phủ vào chỗ nằm để hỏi. Vua (Dụ Tông) sợ lập tức bảo phủ là Phạm Ứng Mộng xuống nghị xin lấy mình chết thay. Phủ đem câu ấy tâu lên, Minh Tông nói:
- Ứng Mộng tự nhận làm địa vị Chu Công thì cứ lấy thân mình mà chết thay cho cha hắn, còn đàn chay thì không được làm.
Bấy giờ Hiến Từ thái hậu phóng sinh các giống súc vật để cầu cho Minh Tông khỏe lại. Minh Tông bảo bà: "Thân ta không lấy con lợn, con dê mà đổi được”
Khi bệnh trầm trọng, cho gọi quan thầy thuốc là bọn Trâu Canh, Vương Định, Phạm Thế Thường vào xem mạch. Canh nói:”Mạch phiền muộn”. Minh Tông ứng khẩu một bài thơ nhỏ đọc cho bọn Canh nghe:
Chẩn mạch hưu luân phiền muộn đa,
Trâu Công lương tễ yếu điều hòa.
Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết,
Chỉ khủng tá phiêu phiền muộn đa.
(Xem mạch khó bàn chuyện muộn phiền,
Ông Trâu thuốc tốt cắt cho yên.
Nếu còn nói mãi phiền cùng muộn,
Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên.)
Vì Trâu Canh ra vào cung cấm, hay dùng những câu kì lạ, những quỉ kế để huyễn hoặc Dụ Hoàng. Minh Tông ghét hắn nên mượn bài thơ để châm biếm. Đến khi dâng thuốc lên thì Ngài nói:
-"Người ta ở đời, bao nhiêu khổ não. Ngày nay thoát được khổ não này, thì ngày khác lại phải chịu khổ não khác”. Rồi không chịu uống thuốc.
Khi bệnh nguy kịch, sai thị thần là Nguyễn Dân Vọng đem bản thảo tập thơ ngự chế đốt đi. Dân Vọng còn do dự, thì Minh Tông nói:
-"Vật đáng tiếc còn không tiếc được, tiếc gì thứ ấy.”
Các hoàng tử đứng hầu bên cạnh, Ngài nhân thể nói với họ:
"Các con cứ xem việc làm của người xưa, việc nào hay thì theo, việc nào dở thì tránh, cần gì phải dạy cha.”
Ngài từng nói:
"Người làm vua dùng người, không phải là có tình riêng với người đó, mà chỉ nghĩ là người đó hiền thôi. Bởi vì người đó theo tấm lòng của ta, giữ chức vụ cho ta, làm việc cho ta, chịu nhọc cho ta, cho nên ta coi họ là hiền mà dùng họ. Nếu ta quả là hiền, thì những người được ta dùng cũng hiền, như Nghiêu Thuấn đối với Tắc Khiết, Quì Long vậy. Nếu ta không hiền, thì những kẻ ta dùng cũng không hiền, như Kiệt, Trụ đối với Phi Liêm, Ác Lại vậy. Đó chính là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng loại thì hợp nhau. Kiệt, Trụ đâu phải có tình riêng gì với bầy tôi của hắn? Bảo hắn ngu dốt thì được, chứ bảo hắn có tình riêng thì không phải”. (ĐVSKTT, trang 254)
Từ khi Dụ Tông lên ngôi, Đại Việt sử kí toàn thư rất nhiều lần ghi những sự kiện như hạn hán, mất mùa, lụt lội. sao chổi xuất hiện, đàn bà biến thành đàn ông, trộm cướp, giặc giã nổi lên… Đặc biệt sau sự kiện chữa bệnh, những điềm gở xuất hiện với tần số càng nhiều. Theo quan niệm văn hóa tâm linh thời trung đại, đây là dấu hiệu chỉ báo về sự nổi giận của Trời đối với Dụ Tông một ông vua hôn ám, không làm tròn bổn phận với Trời, với trăm họ muôn dân. Mác từng nhận định: Lịch sử có những giai đoạn làm nhục những khái niệm do nó đề ra. Dụ Tông phải chăng là sự sỉ nhục quan niệm về một minh quân, thánh đế, là sự sỉ nhục, bôi nhọ thanh danh của những Trần Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông… Cũng Đại Việt sử kí toàn thưcho biết: Khi biết mình không còn sống được bao lâu nữa, Dụ Tông càng lao vào ăn chơi hưởng lạc… Lời nguyền độc của ông vua cuối cùng của nhà Lí dường như đến Dụ Tông đã dần trở thành hiện thực, một hiện thực không mong muốn.Trương Hán Siêu tôn vinh Trùng Hưng nhị thánh, tôn vinh Trần Hưng Đạo (Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng, Bởi đại vương coi thế giặc nhàn) để kín đáo cảnh tỉnh Dụ Tông hãy sửa đức, hãy tu tỉnh quay về với con đường tu trí lực của một đấng minh quân. Đó chính là tấm lòng của một đại thần, trung thần, một kẻ sĩ quân tử hết lòng vì vương triều Trần, cũng chính là vì dân vì nước.Tiếc thay Dụ Tông đã không tỉnh ngộ để đến nỗi yểu thọ, đưa vương Triều Trần dần đến chỗ diệt vong. Thật đáng tiếc thay.Có điều dường như ông ta cũng ít nhiều nhận ra tài năng, tấc lòng của Trương Han Siêu nên đã cho nghỉ chầu ba ngày để tang khi Trương Hán Siêu qua đời; khi ông còn sống tôn trọng gọi là thầy chứ không gọi tên, rồi tin tưởng giao cho tác giả Bạch Đằng giang phú cùng Nguyễn Trung Ngạn biên soạn Hình thư và Hoàng triều đại điển; rồi cho được tòng tự tại Văn Miếu, gia phong thêm tước vị sau khi ông mất. Nhưng giữa tri và hành trong thực tiễn còn những hãn trở khách quan và chủ quan không thể vượt qua. Sử cũ cũng có những đánh gía không công bằng về tư cách Trương Hán Siêu mà tôi cho rằng ngoài nguyên nhân nhân vô thập toàn, còn có cả tâm lí trâu buộc ghét trâu ăn, hơn người khó hợp … Chỉ riêng những điều tâm huyết mà ông gửi gắm trong Bạch Đằng giang phú đã đủ chiêu tuyết cho ông, một tấm lòng trung quân ái quốc hiếm có của một kẻ sĩ cương trực thẳng thắn. Trong thơ chữ Hán của mình ông đã bộc lộ rất rõ tâm sự ưu thời mẫn thế, nỗi buồn của một lương đống triều đình trước chính sự đương thời, và cả sự bất lực tới mức siêu thoát muốn treo ấn từ quan để độc thiện kì thân theo Đào Tiềm thuở xưa (Sơn sắc thanh y y – Du nhân hồ bất qui – Trung lưu quang tháp ảnh – Thượng giới khải nham phi – Phù thế như kim biệt - Nhàn danh ngộ tạc phi – Ngũ Hồ thiên địa khoát – Hảo phóng cựu ngụ ki?. Dịch thơ: Sắc núi còn xanh ngắt – Lâu rồi người vẫn đi – Long sông in bóng tháp – Tầng thẳm cửa thôi che – Từ cách xa đời tục mới hay điều thị phi – Ngũ Hồ trời đất rộng – Bến cũ khi nào về - Dục Thuý Sơn. Trương Hán Siêu, Băng Thanh dịch, Thơ văn Lí Trần, NXB KHXH, Hà Nội, năm 1989)). Không ngẫu nhiên chút nào khi hàng trăm năm sau, Nguyễn Trãi đề vịnh Dục Thúy Sơn còn nhắc đến Trương Thiếu Bảo:Hữu hoài Trương Thiếu Bảo – Bi khắc tiển hoa ban, nghĩa là Nhớ hoài Trương Thiếu Bảo – Bia khắc dấu rêu hoen.(Khương Hữu Dụng dịch, Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1980). Những trí tuệ lớn. những nhân cách lớn thường gặp nhau chính là thế này đây.
5.
Những suy tư về thời cuộc, về chính sự, về sự an nguy của vân mệnh của vương triều Trần, cũng là vận mệnh dân tộc, đất nước, nhân dân, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên có những suy tư của ông trong bài phú này, đến nay cũng cần bàn lại cho thấu đáo. Việc so sánh trận Bạch Đằng với trận Hợp Phì và trận Xích Bích trong lịch sử Trung Hoa cổ đại với đương thời không gì có phải bàn cãi. Có điều, ngày nay phải thấy rằng những trận đánh mà cổ sử nước Tàu hay dẫn như những mẫu mực về mưu lược của cha ông họ thực chất chỉ là những trận huyết chiến đẫm máu của gà cùng một mẹ đá nhau; đó là cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà thôi. Còn trận Bạch Đằng là chiến thắng chống ngoại xâm, bảo về đất nước, khác nhau về bản chất, về thang bậc giá trị so với trận Hợp Phì và Xích Bích. Cũng trên tinh thần ấy, việc so sánh Trần Hưng Đạo với Khương Tử Nha thời Ân và Hàn Tín thời Tây Hán là không cùng hệ giá trị. Hai nhân vật lịch sử nổi tiếng của Trung hoa cổ đại thực chất cũng chỉ là những nhà mưu lược tài ba lỗi lạc của một dòng họ trong cuộc chiến tranh giành quyền lực và quyền lợi của những tập đoàn phong kiến trong nội bộ người Hoa Hạ mà thôi; còn Hưng Đạo Đai Vương là anh hùng giải phóng dân tộc trong chiến thắng thần thánh trước kẻ thù xâm lược Mông – Nguyên hùng mạnh nhất thời đại; đó là Đức Thánh Trần trong tâm thức, tâm linh Việt; đó là một trong những vị thánh bất tử của Tín Ngưỡng, của Tôn Giáo của Đạo có tên là yêu nước thương nòi Việt Nam (Tụng kinh Độcc Lập, xây chùa Tự Do- Thơ văn yêu nước của phong trào Duy Tân). Do tâm nguyện cảnh tỉnh đấng chí tôn đương thời mà cuối bài phú, Trương Hán Siêu viết:
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Phải chăng chỉ những anh hùng mới lưu danh, còn phường bất nhân bất nghĩa tham tàm hại dân, ngu muội tiêu vong không để lại dấu vết? Thực ra cả anh hùng và phường bất nghĩa đều lưu danh, nhưng đó là hai thanh bậc khác nhau của danh, một bên là danh thơm, một bên là danh thối. Nếu chỉ có anh hùng lưu danh thì phường bất nghĩa sẽ tha hồ làm bậy, vì chúng không bị đóng đinh vào lịch sử để đời đời bị nguyền rủa, để con cháu chúng nhục nhã, nói như Trần Quốc Tuấn trong Hịch hướng sĩ là: Xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn. Lịch sử ghi danh Đinh Tiên Hoàng đế, Thái Tổ,Thái Tông, Thánh Tông Nhân Tông của nhà Lí, Nhà Trần , nhà Hậu Lê… nhưng cũng không quên Lê Ngọa Triều, Lê Chiêu Thống… Ở Hà Nội, ngày nay vẫn còn tên phố Cấm Chỉ, và dân gian vẫn truyền câu ví Nợ như Chúa Chổm để nói về tư cách, nhân cách hèn hạ, thấp kém của một hôn quân bạo chúa thời Hậu Lê. Lịch sử, tấm lòng, kí ức nhân dân rất công tâm công bằng và sòng phẳng.
6.
Ngay từ trước công nguyên, Khuất Nguyên từng viết trong Li Tao:
Xưa nay những bậc thánh hiền
Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
Trương Hán Siêu với tầm và bản lĩnh văn hóa của một đại thần, nho thần, đã không sợ cả sự nguy hiểm của những án văn tự đã dũng cảm mà nói lên sự thật, cảnh tỉnh vua Trần Dụ Tông. Thật đáng kính trọng. Tiếc thay tấc lòng của ông rơi vào tình trạng im lặng đáng sợ. Và vương triều Trần đã phải chụi kết cục bi thảm. Nhưng tấc lòng cụ Trương với dân với nước thì vẫn còn mãi mãi.
Vân Giang, mồng Tám tết Năm Con Mèo 2011.
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 11.02.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Ngẫm Về Bài Học Hành Xử Văn Hóa Của Phan Bội Châu
Qua hai câu thơ:
Giang Sơn Tử Hĩ Sinh Đồ Nhuế/ Hiền Thánh Liêu Nhiên Tụng Diệc Si (Xuất Dương Lưu Biệt)
Bài viết của Bùi Ngọc Minh
1.
Xuất Dương Lưu Biệt là bài thơ thất ngôn bát cú chữ Hán của Phan Bội Châu, trong đó có cặp câu luận rất đáng chú ý. Rất tiếc, cho đến nay nó dường như đã chưa được chú ý đúng mức.
Phiên âm Hán Việt:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
Dịch nghĩa: Non sông đã chết, sống thêm nhơ nhuốc, Bậc hiền thánh đã vắng bóng có tụng niệm cũng chỉ đần độn, ngu si đi thôi. (chúng tôi dịch)
Dịch thơ:
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
(Tôn Quang Phiệt dịch)
Bài viết này góp một tiếng nói trong việc giải mã cặp câu luận trên, ngõ hầu tiếp cận chân lí.
2.
Trước tiên, cách dịch câu thơ thử hai của cặp câu luận có những điều khiến người đọc ngày nay vốn khá xa lạ với chữ Hán rất dễ ngộ nhận, khiến người đọc ngày nay không thấy rõ tinh thần phủ định quyết liệt nền cựu học mà hạt nhân cơ bản là Nho giáo của cụ Phan. Đó là chữ tụng trong nguyên tác có nghĩa là chỉ biết cắm đầu nhai lại chữ nghĩa Hiền Thánh (Khổng – Mạnh) mà không suy xét, thì sẽ trở nên si tức kẻ cuồng tín, tin một cách mê muội và ngu xuẩn.(Bản dịch nghĩa dịch là đọc, bản dịch thơ dịch thành học)
3.
Xuất Dương Lưu Biệt được sáng tác khi Phan Sào Nam từ biệt các đồng chí ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Bài thơ được in trên Binh sự tạp chí- Hàng Châu, Trung Quốc, số 34 tháng 12 – 1917. Nguyên nhân của việc xuất dương xét đến cùng là do sự khủng hoảng đường lối cứu nước trong cục diện mưa Âu gió Mĩ. Các thế hệ người Việt Nam thời ấy không thiếu nhiệt huyết và dũng khí xả thân vì nước, nhưng các cuộc khởi nghĩa của ta đều bị thực dân Pháp tắm trong bể máu. Là một nhà nho từng qua trường văn trận bút, từng được tôn vinh là một trong những người hay chữ nhất nước Nam thời ấy với bài phú Bái thạch vi huynh (Lạy đá làm anh), lại có điều kiện được tiếp xúc với Tân thư do Nguyễn Thượng Hiền cung cấp, với khí chất của người con của mảnh đất Hoan- Diễn, Giải nguyên Phan Bội Châu thấy rất rõ những hạn chế, bất cập của học thuyết Khổng Mạnh. Chính vì vậy ông đã tuyên bố đoạn tuyệt hẳn với học thuyết này. Đây là một sự phủ định từ bên trong và cực kì quyết liệt. Trong bối cảnh thời đại ấy có thể giải thích được. Vào đầu năm 1905, các bạn bè, đồng chí của ông (Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng) từng Cáo hủ lậu văn trong hai bài thi không theo đề trường qui ở trường thi Bình Định trong kì tiểu thí – hạch sơ tuyển người vào thi hương với cái tên chung Đào Mộng Giác anh họ Đào tỉnh mộng). Phan Châu Trinh làm bài thơ Chí thành thông thánh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp viết chung bài phú Cầu lương ngọc tất danh sơn đả phá lối học khoa cử đã lỗi thời, nêu bật tình trạng nguy cấp của đất nước, đồng thời kêu gọi giới quan lại và sĩ tử vứt bỏ lối học nhai văn nhá chữ làm mất nước ấy đi để tìm cách cứu nước. Lối học cử tử cốt thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia đã biến học thuyết Khổng Mạnh thành một thứ thiên kinh địa nghĩa, không giúp gì cho sự nghiệp cứu nước. Sự phủ định quyết liệt đến mức tuyệt đối hóa này, là một quá trình nhận thức về những bất cập, ảo tưởng và không tưởng của lí tưởng tu tề trị bình của chính các thế hệ nhà nho nước nhà. Trước đó Nguyễn Khuyến (1835-1909), một vị Tam nguyên nho học từng than thở: Sách vở ích gì cho buổi ấy – Áo xiêm lại nghĩ thẹn thân già, và từng thấy những ông tiến sĩ thời ấy trong đó có cả mình chỉ là thứ đồ bỏ trong bài thơ Ông nghè tháng Tám (Cũng cờ cũng biển cũng cân đai – Cũng gọi ông nghè có kém ai – Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng - nét son điểm rõ mặt văn khôi – Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ - Cái giá khoa danh ấy mới hời – Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe – Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi). Tú Xương (1870- 1907) từng viết: Nào có ra gì cái chữ Nho…truy nguyên từ khởi thủy Nho giáo sẽ thấy được lí do của sự phủ định triệt để, tuyệt đối này. Khổng Tử, ông tổ của học thuyết tư tưởng chính trị đạo đức này, trong Luận ngữ đã 105 lần nhắc tới chữ "nhân”, một trong những tư tưởng cốt tử của mình (nhân giả ái nhân- người có nhân yêu thương con người,nhân giả vô địch- người có nhân không ai địch nổi, kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân- việc gì mình không muốn làm thì đừng bắt người khác phải làm…), nhưng cuối cùng cũng phải ngao ngán mà thốt lên rằng: ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả giã (ta chưa từng thấy ai hiếu đức như hiếu sắc vậy, rồi chữ nhân rất quan trọng, nhưng ta chỉ thấy người dẫm lên lửa mà chết chứ chưa từng thấy ai dẫm lên chữ nhân mà chết). Sự xuống dốc, mất giá và phá sản của hệ tư tưởng nhà nho trên thực tiễn của lịch sử tư tưởng và xã hội Việt Nam trước sự bành trướng, xâm lược và đắc thắng của thực dân Pháp đã biến mẫu hình nhân cách văn hóa nhà nho và hệ tư tưởng quan lại thành một bi hài kịch lớn, mà những người muốn từ bỏ Nho giáo lại chính là những người được đào luyện từ cửa Khổng sân Trình. Thật đúng là trong chăn mới biết chăn có rận. Về cuối đời Ông già bến Ngựcó điều chỉnh quan điểm của mình với Nho giáo và nền cựu học.Trong Đề từ cho cuốn Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, ngày 1 tháng 3 năm 1931, ở Huế với bút danh Hãn Mạn Tử, cụ Phan viết:
Sử nước ta từ thời Bắc thuộc trở về trước, vẫn không văn tự đặc biệt, đến đời Nhậm Diên, Tích Quang và Sĩ Vương mới đem văn tự Trung Quốc truyền vào, trải hơn hai nghìn năm. Hán văn đã thành hẳn một thứ quốc văn. Nhà truyền người đọc, tai thuộc, miệng làu, mà những tiếng khẩu đầu thường dùng như tu thân, tề gia, nhân tình, quốc tục.v...v... tất cả những danh từ thành ngữ mà nhà cựu học cần dùng, rặt là Hán văn.
Từ thế kỉ thứ XIX sắp xuống, Âu học truyền vào, nước ta cũng bắt đầu có chữ quốc ngữ, tuy những tiếng thổ âm tục ngữ phần nhiều không cần dùng Hán văn, nhưng muốn nghiên cứu học mới phiên dịch sách ngoài, thì những danh từ thành ngữ: trừu tượng, cụ thể, mục đích, phương châm... mà nhà tân học cần dùng, hết thảy phải lấy ở Hán văn.
Góp lại hai lẽ như trên kia, thì đâu bảo rằng: Quốc văn với Hán văn, tất phải đun nấu trong một lò, dệt thêu chung một khổ, cũng không phải là quá đáng ! Hiện sách giáo khoa quốc ngữ, với các báo chí tùng thư trên vũ đài Quốc văn ngày nay, hoạ sắt vẽ chì, Hán văn vẫn chiếm một bộ phận lớn, mà tựu trung chủng loại rất phức tạp, ý nghĩa rất hồn hàm, nhất là những danh từ thành ngữ thuộc về các khoa học mới. Chữ xưa mà nghĩa nay, văn thường mà ý lạ, nếu không ai cắt nghĩa cho tinh tường, giải ý cho minh bạch, mà chỉ trông ở mẫu tự, y dạng đặt tên, quen mồn đọc suốt, được lời mất nghĩa, sao tránh khỏi cá tệ nghe chữ "lộng chương” mà bảo "chương” là con chương, đọc chữ "trừu tượng” mà bảo "tượng” là con tượng, cái khốn nạn vì không hiểu Hán văn đó, làm hại cho học giới tương lai chẳng đau đớn lắm sao?
Kìa nước Nhật là một nước văn minh mới ở Đông phương, mà Quốc văn của họ vẫn dùng Hán văn nhiều hơn Hoà văn, trong mười phần thì Hán văn thườmg đến bảy tám. Các nhà học vấn của họ rủ nhau biên tập những bản Từ thư như: Hán văn đại từ điển, Hoà Hán từ nguyên, Hán Hoà văn hợp bích, vv...tập trước bộ sau, chật nhà đầy phố, ấy người Nhật Bản tuy không theo lối "thi vân tử viết”, mà thế lực Hán văn vẫn bành trướng hơn Hoà văn. Vậy mới biết giáo dục cơ quan, và công dụng văn tự, tất phải cập nhau mà cùng lên.
Đau đớn thay! Quốc văn nước ta không thể nào bỏ được Hán văn, mà cớ sao các nhà trứ tác, chưa ai lưu tâm đến những bộ từ điển, từ nguyên, tâm thành ra Hán Việt hợp bích, để khiến người ta nhân Quốc văn mà hiểu thêm Hán văn, hiểu Hán văn mà thêm hay Quốc văn? (1)
Đoạn tuyệt với Nho giáo, đương thời là một việc động trời ở một đất nước có truyền thống Nho học hàng nghìn năm, không khác gì lời tuyên bố Chúa đã chết ở phương Tây. Tuy nhiên, hôm nay với độ lùi của lịch sử cần thiết, cần khách quan, khoa học, công tâm, công bằng trong ứng xử với Nho giáo; cũng có nghĩa phải bàn lại lời khai tử Nho giáo của cụ Phan. Tuy tuyên bố đoạn tuyệt với Nho giáo, với nền cựu học, nhưng cụ Phan vẫn không vất bỏ được nó, chứng cớ là: các trước thuật và sáng tác của cụ chủ yếu được viết bằng chữ Hán, có người đã gọi là Hiện tượng lại giống (chữ dùng của Trần Đình Hượu). Sự nghiệp cách mạng của cụ Phan như chính cụ thừa nhận trong niên biểu của mình: Một trăm lần thất bại, không một lần thành công. Có nhiều nguyên nhân khiến sự nghiệp cứu nước của cụ Phan và các đồng chí của cụ bất thành, nhưng không thể không kể đến nguyên nhân từ lối ứng xử cực đoan đoạn tuyệt hẳn với Nho giáo. Lối ứng xử này xa lạ với căn cốt thâm hậu của văn hoá Việt Nam, một nền văn hoá ưa sự mềm dẻo, hoà đồng, bao dung và khoan thứ, có mới không nới cũ, rất gần nếu không muốn nói chính là lối ứng xử biện chứng, điều mà ngày nay ta cho là hòa nhập mà không hòa tan, không đánh mất bản sắc của chính mình.
Lịch sử chống ngoại xâm của ông cha ta cho thấy: Những thắng lợi vĩ đại nhất đều gắn liền với ứng xử văn hoá thiên về tạng thuỷ (Cao Xuân Huy). Thời Trần, ba lần chiến thắng Nguyên Mông, bởi đó là thời tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật, Lão hoà đồng). Thời hiện đại, chúng ta đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mĩ,cũng có nguyên nhân từ sự bao dung, tích hợp văn hoá. (Nỗi đau này không của riêng ai- Của chung nhân loại chiến công này- Tố Hữu). Bản lĩnh văn hoá một dân tộc, một thời đại thường được kết tinh trong những nhân cách văn hoá tiêu biểu. Thời đại Hồ Chí Minh bản lĩnh văn hoá Việt Nam được kết tinh trong nhân cách văn hoá Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, một nghệ sĩ – nhà báo Xô-viết khi gặp Nguyễn Ái Quốc ở Matcơva đã nhận xét: Ở Nguyễn ái Quốc toả ra một nền văn hóa không phải của phương Đông, cũng không phải của phương Tây. Đó là nền văn hoá của tương lai. Trong bản dịch Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch ra tiếng Trung Quốc xuất bản năm 1949 có đoạn:
Có người hỏi ông Nguyễn: Ông là người thế nào? Theo chủ nghĩa cộng sản hay theo chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả lời: Học thuyết Khổng Tử có cái hay là sự tu dưỡng đạo đức; tôn giáo Giê-xu có cái hay là lòng bác ái.
Chủ nghĩa Mác có cái hay là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có cái hay là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước chúng tôi.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi chính là tôi của ngày trước, một người yêu nước (2).
Giữa nhà nho nổi tiếng hay chữ nhất nước Nam, bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng (Nguyễn ái Quốc – Trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu) và Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới, có một sự khác nhau trong hành xử văn hoá với học thuyết Khổng Tử, dẫn đến những tác động lịch sử hết sức khác nhau trong sự nghiệp cứu nước.
3.
Từ cặp câu luận trong Xuất Dương Lưu Biệt của Phan Bội Châu, có thể rút ra kết luận này chăng: tầm văn hóa, bản lĩnh văn hóa, hành xử văn hoá là một trong những điều kiện tối quan trọng, dẫn đến thất bại hay thành công trong cuộc đời, sự nghiệp của một cá nhân, một dân tộc, một đất nước, một thời đại?
Vân Giang, 13 tháng 5/ 2004-15/01/2011
Bùi Ngọc Minh
Chú thích:
(1) Từ điển Hán Việt- Đào Duy Anh, NXB Văn hoá thông tin, 2003 (đề từ ).
(2) Bản sắc văn hoá Việt Nam- Phan Ngọc, NXB VHTT, Hà Nội, 1998, trang 452-453.
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 28.01.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
SUY NGẪM TỪ SỰ TÍCH HỒ HOÀN KIẾM
Bùi Ngọc Minh
1. Hồ Hoàn Kiếm nay thuộc quận Hoàn Kiếm thủ đô Hà Nội, Wikipedia tiếng Việt viết:
Hồ Hoàn Kiếm còn được gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên của thành phố Hà Nội. Trước kia, hồ còn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh năm), hồ Tả Vọng(…) (trong thời Lê mạt). Tên gọi Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ 15 gắn với truyền thuyết vua Lê Thái Tổ trả gươm báu cho Rùa thần. Tên hồ được lấy để đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và là hồ nước duy nhất của quận này cho đến ngày nay. Hồ Hoàn Kiếm có vị trí kết nối giữa khu phố cổ gồm các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Cầu Gỗ, Lương Văn Can, Lò Sũ... với khu phố Tây do người Pháp quy hoạch cách đây hơn một thế kỷ làBảo Khánh, Nhà Thờ, Tràng Thi, Hàng Bài, Đinh Tiên Hoàng, Tràng Tiền, Hàng Khay, Bà Triệu.
Cách đây khoảng 6 thế kỷ, dựa theo bản đồ thời Hồng Đức thì phần lớn xung quanh kinh thành (Thăng Long – tôi thêm) khi ấy là nước. Hồ Hoàn Kiếm là một phân lưu sông Hồng chảy qua vị trí của các phố ngày nay như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối. Tiếp đó đổ ra nhánh chính của sông Hồng. Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên hồ Hoàn Kiếm hiện nay.
Thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVI), khi chúa Trịnh cho chỉnh trang Hoàng thành Thăng Long để vua Lê ở đã đồng thời xây dựng phủ chúa riêng nằm ngay bên ngoài Hoàng thành và trở thành một cơ quan trung ương thời bấy giờ với những công trình kiến trúc xa hoa như lầu Ngũ Long (dùng để duyệt quân) nằm ở bờ đông hồ Hoàn Kiếm, đình Tả Vọng trên đảo Ngọc Sơn. Năm 1728 Trịnh Giang cho đào hầm ở vị trí phía nam hồ để xây dựng cung điện ngầm gọi là Thưởng Trì cung.
Chúa Trịnh cho ngăn hồ lớn thành hồ Tả Vọng và Hữu Vọng. Hồ Hữu Vọng được dùng làm nơi duyệt quân thuỷ chiến của triều đình. Đến đời Tự Đức (1847-1883), hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thủy Quân, còn hồ Tả Vọng chính là hồ Hoàn Kiếm. Từ năm 1884, nhà nước bảo hộ Pháp cho lấp hồ Thuỷ Quân để xây dựng, mở mang Hà Nội.
Hồ mang tên Hoàn Kiếm vào thế kỷ 15. Gắn liền với truyền thuyết Rùa thần đòi gươm. Ghi lại dấu ấn thắng lợi trong cuộc chiến tranh dân tộc chống quân Minh (1417-1427) do Lê Lợi lãnh đạo.
Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi cho biết về sự tích hồ Hoàn Kiếm như sau:
Khi ấy Nhà vua cùng người ở trại Mục Sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma Viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ), nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi:
- Sắt nào đây?
Thận nói:
- Đêm trước quăng chài bắt được.
Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ "Thuận Thiên", cùng chữ "Lợi". Lại một hôm, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng:
- Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau!
Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, thành ra một chiếc gươm hoàn chỉnh. Tới hôm sau, lúc đêm, trời gió mưa, sớm ngày mai, hoàng hậu ra trông vườn cải, bỗng thấy bốn vết chân của người lớn, rất rộng, rất to. Hoàng hậu cả kinh, vào gọi nhà vua ra vườn, được quả ấn báu, lại có chữ Thuận Thiên (sau lấy chữ này làm niên hiệu) cùng chữ Lợi. Nhà vua thầm biết ấy là của trời cho, lòng lấy làm mừng, giấu giếm không nói ra.Truyền thuyết kể tiếp rằng: sau Lê Lợi dùng thanh gươm báu đó làm gươm chiến đấu, xông pha chém địch nhiều trận, cuối cùng đuổi được quân Minh, lên làm vua. Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền ra hồ Thủy Quân. Ra giữa hồ, có Rùa vàng nổi lên mặt nước, chắn trước thuyền của vua gọi to:
- Xin nhà vua hãy hoàn lại gươm thần cho Long Vương!
Lê Thái Tổ rút gươm trả, rùa vàng ngậm lấy gươm lặn xuống nước đi mất. Từ đó hồ Tả Vọng được đặt tên là hồ Hoàn Kiếm. (1)
2. Như vậy, sự tích Hồ Hoàn Kiếm được ghi trong chính sử thời phong kiến chuyên chế Hậu Lê thực chất đã nhuốm màu huyền thoại. Nó được dân gian hóa và trú ngụ, lưu truyền trong tâm thức Việt qua truyện cổ tíchSự tích Hồ Gươm (xin xem Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi). Các thời sau do quan niệm, kiến văn, góc độ và mục đích riêng mà khai thác huyền thoại này có những dị biệt không chỉ tiểu tiết, mà cả trên đại cục. Sách Tang thương ngẫu lục do Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án soạn từ đời Gia Long (1802-1819), kể chuyện Hồ Hoàn Kiếm như sau:
Hồ Hoàn Kiếm ở bên cạnh phường Báo Thiên, thành Thăng Long, thông với nước ngoài sông, hình thể rất to rộng. Hồ này là nơi đức Thái Tổ Hoàng Đế (triều trước) đánh rơi thanh kiếm.
Hồi Thái Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh gươm cổ. Khi làm vua, ngài thường vẫn đeo thanh gươm đó. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, chợt thấy một con ba-ba rất lớn nổi lên mặt nước, bắn nó không trúng. Ngài bèn lấy thanh gươm mà chỉ. Bất đồ, thanh kiếm rơi xuống nước mất, con ba-ba cũng lặn theo. Ngài giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp cái bờ ngang, tát hết nước để tìm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau nhân cái vết bờ ấy chia hồ ra làm hai: Tả vọng, Hữu vọng. Cuối đời Cảnh Hưng, bỗng có một vệt sáng từ cái đảo trong hồ vọt lên cao, sáng rực tan ra rồi tắt, người ta cho là thanh bảo kiếm bay đi . (2)
Trần Trọng Kim, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận cho rằng:
Trong thành phố Hà Nội có một cái hồ gọi là hồ Hoàn Kiếm. Tục truyền rằng một hôm vua Lê Thái Tổ ngự ra câu cá ở bờ hồ, chỗ gần sở Đốc lý bây giờ, bỗng có một con rùa thật lớn nổi lên trên mặt nước. Vua lấy thanh bảo kiếm ném con rùa, thì nó lặn xuống, rồi nó đem thanh kiếm lên trả vua. Bởi thế mới đặt tên là Hoàn Kiếm…. (3)
Trần Quốc Vượng và Vũ Tuấn Sán viết:
Chuyện "Trả gươm thần", người Hà Nội nghe kể đã nhiều, song ý nghĩa câu chuyện thì chưa mấy ai đào sâu tìm hiểu. Trên đại thể, người ta cho truyền thuyết ấy kể việc Lê Lợi được gươm thần đề chữ "Thuận Thiên" từ nước: ý trời trao sứ mệnh cho người anh hùng đứng lên xướng nghĩa cứu dân, giúp nước, quét giặc ngoại xâm. Mười năm khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, người anh hùng lên làm vua, đi thuyền trên hồ, trời sai Rùa Vàng hiện lên lấy lại thanh gươm. Chủ đề bất tuyệt: "Chiến tranh và Hòa bình"…
Thực ra đấy là vang bóng của một mẫu đề thần thoại và một lễ tiết cổ xưa. Nếu về mặt chính trị xã hội, thanh gươm là biểu tượng của quyền uy thì về mặt thần thoại lễ thức, thanh gươm là biểu tượng của Tia chớp Lửa. (…) Nhúng gươm xuống nước là nghi lễ biểu thị sự hòa hợp Nước Lửa, một nghi lễ phồn thực. Lại vì gươm là tượng trưng của chớp lửa nên nghi lễ nhúng gươm xuống nước cũng là một nghi lễ chống lụt.
Sự tích hồ Gươm-gắn liền với một vị anh hùng lịch sử Lê Lợi là sự diễn tả về mặt thần thoại một lễ nghi cổ xưa chung cho cả vùng Đông Nam Á: nghi lễ chống lụt và cầu mong sự hài hòa của non nước. (4)
Thậm chí, có người còn viết:
Vua Lê Lợi khi mới khởi binh gặp được một ngọn gươm thần. Nhờ đó mà làm nên sự nghiệp. Sau ra chơi tại hồ đó, có con quái đón đầu thuyền. Vua lấy gươm đâm, con quái hả miệng nuốt mất ngọn kiếm. Vua Lê Lợi suy từ đó.(5)
Một ngày năm 1418, một con rùa vàng nổi lên trên mặt hồ và dâng (Lê Lợi) một thanh gươm báu. Ngài biết đây là mệnh trời bèn đứng lên giải phóng non sông. Khởi nghĩa thành công, ngài đến nơi được thần giúp để làm lễ tạ ơn. Đúng lúc cuộc lễ bắt đầu, một tiếng sét nổ vang trời; thanh kiếm của ngài tuột khỏi vỏ, quay vần vũ trên trời rồi rơi vào miệng một con rùa vàng. Rùa lặn sâu xuống đáy hồ. Từ đó hồ được gọi là Hồ Hoàn Kiếm.(6)
Trong một cuốn sách khác có người lại kể rằng:
Tên (hồ Hoàn Kiếm) do truyền thuyết kể rằng Lê Lợi bắt được một thanh kiếm thần tại đây. Với thanh kiếm này Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh và lên làm vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lập ra nhà Hậu Lê (1428-1788). Trong buổi lễ mừng chiến thắng, thanh kiếm thần của vua Lê Thái Tổ bỗng tuột khỏi vỏ, hoá thành con rồng ngọc, rồi lặn biến trong hồ. Cũng có người cho rằng Lê Thái Tổ được một con rùa trao cho và lấy lại thanh kiếm thần.(7)
3. Vấn đề cần đặt ra là phải giải mã thế nào để tìm ra cốt lõi của thông điệp lịch sử mà người xưa kí thác qua sự tích này, để rút ra những bài học bổ ích thiết thực cho cuộc sống đương đại.
Thứ nhất là hai chữ Thuận Thiên (hợp với ý trời, cùng nghĩa với chữ thuận trong thuận buồm xuôi gió, thuận vợ thuân chồng tát biển Đông cũng cạn…) khắc trên thanh kiếm. Thanh kiếm là biểu tượng của quyền lực, thuận thiên khắc trên đó với ý nghĩa quyền lực tối cao trong một quốc gia phải thuộc về người có đức lớn tài cao. Điều này có lẽ bắt nguồn từ quan niệm của Nho giáo về văn hóa chính trị của người cầm quyền. Ông vua chuyên chế phong kiến phương Đông (Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên) được gọi là thiên tử (con trời), thực chất ông ta cũng do một bà mẹ người trần mắt thịt sinh ra, nhưng được Nho giáo thiêng liêng hóa, thần thánh hóa (Phổ chi thiên hạ mạc phi vương thổ, xuất hải chi tân mạc phi vương thần – Đông Sơn, Kinh thi). Đó là cách để Nho giáo xác lập quyền thiêng liêng bất khả tư nghị của người đứng đầu nhà nước phong kiến chuyên chế, một thứ quyền tuyệt đối, khiến thiên tử vừa là hoàng đế lại vừa là giáo hoàng, vừa có quyền thế tục lại vừa có cả quyền với thần linh trên không gian địa lí mà ông ta sở hữu. Cái quyền ấy khiến ông ta luôn luôn đúng (hoàng thượng sáng suốt (!). Nhưng chính Nho giáo từng khẳng định nhân vô thập toàn và lịch sử chế độ chuyên chế phương Đông cho thấy khá hiếm minh quân và rất nhiều hôn quân vô đạo. Để hạn chế bớt những sai lầm, thậm chí cả tội ác của hôn quân bạo chúa, Nho giáo nêu quan niệm đức trị trong đó có mệnh đề ý trời lòng dân, với thâm ý lòng dân chính là ý trời, được lòng dân thì làm vua. Ông vua có đức là ông vua trước hết biết thương yêu bách tính trăm họ, cái đức lớn nhất của vua là đức hiếu sinh (Xưa nay những bậc thánh hiền - Thương dân mới được cầm quyền trị dân – Li Tao, Khuất nguyên). Mất lòng dân thì mất nước. Đó là bài học nhỡn tiền. Còn nhớ Hồ Quí Li có thành cao hào sâu, có nhiều cải cách tiến bộ nhưng vương triều này vận số vô cùng ngắn ngủi chỉ vì không được lòng dân. Câu trả lời của Hồ Nguyên Trừng trước Hồ Quí Li khi giặc Minh với chiêu bài phù Trần diệt Hồ: Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng người không theo, như một bài học đau xót cho mọi vương triều. Trong kinh điển Nho gia, lòng dân là gì? Còn nhớ trong một bộ phim cổ trang Trung Quốc có tên Hỉ Lai Lạc phát trên sóng của Đài truyền hình Việt Nam mấy năm trước đây, có một quán ăn có tên Dĩ thực vi thiên, chính là lấy từ một câu kinh điển của nhà nho Dân dĩ thực vi thiên (dân lấy ăn làm trời). Trong Mạnh Tử thiên Lương Huệ Vương thượng cho biết cụ thể hơn về lòng dân như sau:
Ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ túc dĩ súc thê tử (Trông lên đủ để phụng sự cha mẹ, nhìn xuống đủ để nuôi vợ con).(8)
Vậy, hai chữ Thuận Thiên khắc trong thanh gươm mà Lê Thận dâng cho chủ tướng nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi là cách khẳng định tư cách, chân mệnh đế vương của Lê Lợi, cũng như sự tích Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần là cách tập hợp nhân tâm, tạo dựng lòng tin của người xưa. Thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn do nhiều nguyên nhân, nhưng không thể không kể đến một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là lòng người. Được lòng người, Lê Lợi được thiên hạ và khi lên ngôi hoàng đế, ông lấy niên hiệu là Thuận Thiên như một lời căn dặn con cháu và bề tôi bài học về lòng dân, lòng người.
Thứ hai là chi tiết Rùa Vàng đòi Lê Lợi trả gươm. Rùa Vàng (Thần Kim Qui) đã xuất hiện trong truyền thuyết về An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy dường như cũng là sự huyền thoại hóa, tâm linh hóa về tư cách đế vương của Thục Phán từ thuở Tổ Quốc ta còn mang tên gọi Âu Lạc mà thôi. Rùa Vàng là thần linh giúp An Dương Vương xây được thành Cổ Loa, cho vua vuốt để làm nỏ thần khiến quân xâm lược Triệu Đà khiếp vía; Rùa Vàng cũng chính là vị thần linh cảnh báo nhà vua bằng câu nói: Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó! Khiến An Dương Vương phải rút gươm chém chết con gái Mị Châu. Với người lãnh sứ mạng đứng đầu quốc gia, nguyên nhân làm mất nước khiến thân bại danh liệt nhiều khi lại chính là vợ con thân thích, lại chính là những người thân cận với họ. Phải cảnh giác với kẻ thù, đương nhiên, nhưng cũng cần biết cảnh giác với chính mình với người thân thiết với đồng sự, thuộc cấp trong nghiệp lớn giữ nước. Đó phải chăng cũng là một bài học bổ ích? Đến Sự tích Hồ Hoàn Kiếm, Rùa Vàng lại xuất hiện đòi gươm. Phải chăng trí tuệ mẫn tiệp của lịch sử cha ông lại một lần nữa lên tiếng: Với kẻ thù xâm lược phải dùng gươm, nhưng với bách tính trăm họ, với muôn dân Đại Việt thì nhà vua không được, không thể và không nên dùng gươm, mà phải Chăm lo cho muôn dân để trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu (Nguyễn Trãi), phải làm sao cho mỗi con dân đất Việt Ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ túc dĩ súc thê tử (Trông lên đủ để phụng sự cha mẹ, nhìn xuống đủ để nuôi vợ con). Đó cũng là một bài học hết sức quan trong trong Bài ca giữ nước. Đáng tiếc thay, con cháu của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi về cuối triều đại lãng quên, khiến cơ nghiệp nhà Hậu Lê tan thành mây khói. Sử sách đã ghi lại hành trạng một số hậu duệ của Lê Thái Tổ như sau:
Lê Uy Mục (1488-1509) thích uống rượu, hay giết người, hiếu sắc..., giết hại người trong tôn thất, ngầm giết bà nội..., trăm họ oán giận, người đời gọi là quỉ vương. Lê Tương Dực (1495-1516) giết người tôn thất..., gian dâm với vợ lẽ của cha..., xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt thuế khóa nặng nề Bắc sứ Phạm Hi Tăng gọi y là vua lợn, Lê Chiêu Tông( 1506-1522) bất lực, quyền bính không ở trong tay, nghe lời xiểm nịnh gian trá, ngoài say mê săn bắn chim muông, ngu tối không biết gì, ương ngạnh tự phụ... đến nỗi bị Mạc Đăng Dung giết...(9)
Thứ ba, về tên gọi, trong Lam Sơn Thực lục, một cuốn chính sử do Nguyễn Trãi chấp bút hồ Tả Vọng được gọi là hồ Hoàn Kiếm, nhưng đi vào kí ức cộng đồng lại mang tên là Hồ Gươm, ngày nay dân gian vẫn gọi như vậy thậm chí còn giản lược thành Bờ Hồ (kem Bờ Hồ, tranh Bờ Hồ, ảnh Bờ Hồ..). Có thể do qui luật rút gọn của ngôn ngữ. Trong trường hợp này là sự rút gọn làm mất đi thông điệp lịch sử quan trọng mà người xưa gửi gắm. Thay đổi tên gọi rất nhiều khi là sự thay đổi một quan niệm, một triết lí (con buôn khác sắc thái ý nghĩa với doanh nhân, đàn bà mang sắc thái ý nghĩa khác với phụ nữ, trẻ con khác sắc thái ý nghĩa với nhi đồng...). Rất may là ta vẫn gọi quận nội thành có hồ Trả Gươm là quận Hoàn Kiếm. Nên chăng, từ nay ta nên gọi hồ Gươm là Hồ Hoàm Kiếm để mọi người khắc sâu bài học mà cha ông ta muốn con cháu đời đời ghi nhớ?
Suy tư về lịch sử để không mắc phải những sai lầm đã xảy ra trong lịch sử. Đó chính là điều vô cùng cần thiết.
Vân Giang, 28/05/ 2012
CHÚ THÍCH:
(1), (2): chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếm của Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt), (3): Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng, 1948, trang. 94, chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếm của Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt.
(4) Trần Quốc Vượng Vũ Tuấn Sán, Hà Nội nghìn xưa, Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, 1975, trang.39-40, chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếm của Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt.
(5): Diên Hương, Thành ngữ điển tích, Phương Lai, 1954, chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếm của Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt.
(6): Philippe Papin, Histoire de Hanoi, Fayard, 2001, trang 115, chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếm của Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt.
(7): Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, trang 232, chuyển dẫn theo Hồ Hoàn Kiếmcủa Nguyên Dư trên Wikipedia tiếng Việt.
(8): Mạnh Tử, Lương Huệ Vương thượng. Bản dịch tiếng Việt, Sài Gòn, 1972, trang 54.
(9): Đại Việt sử kí toàn thư, NXB KHXH, Hà Nội, 1993.
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 05.6.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
MỘT CÁCH GIẢI MÃ BÀI THƠ
ĐỘC TIỂU THANH KÍ CỦA NGUYỄN DU
Bùi Ngọc Minh
Quản bao nước thẳm non xa
Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng.
(Li tao – Khuất Nguyên)
1. Sinh thời, Nguyễn Du là một người cực cô độc, cô đơn. Không phải vô cớ trong Truyện Kiều Nguyễn Du từng thốt lên qua lời nhân vật mà ông đặc biệt yêu thương quý trọng và kính trọng là Thúy Kiều rằng: Vui là vui gượng kẻo là – Ai tri âm đó mặn mà với ai? Rồi trong giai thoại trước khi mất, ông khẩu chiếm bằng hai câu thơ kết của bài thơ mà tôi sẽ bàn dưới đây; lại một giai thoại khác: ông ốm nặng, không chịu uống thuốc, khi đã giá đến đầu gối, người nhà hỏi ông có trăng trối gì không, ông chỉ nói: "Được” rồi mất... Giai thoại chỉ là giai thoại, nhưng nó vẫn có hạt nhân hiện thực của nó. Mỗi thiên tài là một đỉnh Êvơret. Vả lại, cái thời điểm tam bách dư niên hậu như nhà thơ ao ước chưa đến, mà tôi thì không thể sống được đến lúc ấy. Thiết nghĩ trong cõi đời, việc hiểu người như hiểu mình là cực khó, chỉ có trong muôn một, hiểu được thiên tài còn khó gấp bội. Phải chăng câu chuyện tri âm dường như chỉ tồn tại trong điển cố? Nó là một khao khát cháy bỏng của con người hơn là một hiện thực? Còn nhớ khi thuyết tương đối rộng được công bố, một học giả gặp Anhxtanh nói rằng:
- Thưa ngài, ngài thật là một người hạnh phúc, bởi có một người đã hiểu được thuyết tương đối của ngài.
Tác giả của thuyết tương đối lịch sự trả lời như sau:
- Thật cảm ơn ngài! Nhưng thưa ngài! Tôi còn đang băn khoăn không biết người đó là ai?
Đó chính là lí do mà tôi không dám nhận mình tri âm với bậc đại thi hào số một của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du. Bài viết này chỉ mong được giãi bày những suy tư của cá nhân về một trong những bài thơ vào loại hay nhất, viết về thể tài thương tiếc những người có tài năng, nhân cách, những giai nhân tuyệt sắc trong thơ Nguyễn Du mà thôi.
2. Nguyên văn chữ Hán:
讀小青記
西湖花苑盡成墟
獨吊窗前一紙書
脂粉有神憐死後
文章無命累焚餘
古今恨事天難問
風韻奇冤我自居
不知三百餘年後
天下何人泣素如
3. Phiên âm Hán – Việt của Độc Tiểu Thanh kí:
Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa:
Cảnh đẹp ở Tây Hồ đã thành gò hoang cả rồi,
Đơn độc viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,
Ta tự coi là kẻ cùng một hội với con người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng.
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
4. Cho đến nay, vấn đề thời điểm ra đời chính xác của thi phẩm này vẫn còn là một tồn nghi trong giới nghiên cứu. Người thì cho rằng bài thơ được Nguyễn Du viết khi chưa đi sứ nên đưa vào Thanh Hiên thi tập; người thì cho rằng Nguyễn Du làm khi đi sứ Trung Quốc, vì vậy đưa vào tập thơ Bắc hành tạp lục; người thì cho rằng nó được làm khi tác giả đã trở về nước, nên đưa vào tập thơ Nam trung tạp ngâm. Mỗi bên đều có những lí lẽ riêng để bảo vệ quan niệm của mình. Đây là tình trạng khá phổ biến của các văn bản ngữ văn thời trung đại ở ta. Vấn đề đặt ra với những người sáng tác và trước thuật hôm nay là trong mỗi sáng tạo của mình nên ghi cụ thể thời điểm, địa điểm ra đời, để độc giả nói chung, giới nghiên cứu nói riêng tiết kiệm được công sức khi tiếp nhận. Nhưng không phải vì vậy mà việc giải mã bài thơ rơi vào tình trạng bất khả tri.
5. Về cách dịch nhan đề bài thơ: Bài thơ vốn có tên: Độc Tiểu Thanh kí (讀小青記), khi dịch ra tiếng Việt, các bản dịch đều dịch là Đọc Tiểu Thanh kí. Như vậy, chỉ dịch độc
(讀) thành đọc, còn những chữ khác vẫn để nguyên. Cách dịch này khiến nhiều người lầm tưởng khi còn sống Tiểu Thanh có viết kí (ghi chép, còn là một thể loại trong văn học cổ trung đại phương Đông). Nguyễn Du đã đọc kí này của Tiểu Thanh và ai điếu người đàn bà sắc tài yểu mệnh có tên trong nhan đề bài thơ). Sự thật Tiểu Thanh chỉ làm thơ mà không hề viết kí; kí (thực ra là truyện) do người đời sau ghi chép lại về hành trạng cuộc đời nàng, mà có lẽ khi đi sứ Nguyễn Du đã đọc trước khi đi sứ hay đã đọc khi đi sứ hay đi sứ về nước rồi mới đọc?... Chúng tôi đề nghị nên chăng dịch là: Đọc kí (ghi chép) về Tiểu Thanh? Tuy không giữ nguyên cấu trúc ngữ pháp của nguyên tác, nhưng lại thể hiện chính xác sự thật về nàng Tiểu Thanh mà thư tịch cổ của nước người ta ghi lại và chuyển đúng thần thái của điều Tố Như muốn nói. Cách dịch nhan đề hiện nay của bài thơ rõ ràng chỉ dịch được phần xác chữ mà bỏ mất phần hồn của nó. Cũng tương tự như cách dịch nhan đề Nam Xương nữ tử trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Đến nay tất cả mọi người đều công nhận cách dịch Người con gái Nam Xương. Tất cả các nhà xuất bản trong nước từ trước tới giờ, khi in và phát hành tác phẩm của Nguyễn Dữ đều nhất trí… trăm phần trăm (!). Nó đúng là sự chuyển ngữ chứ chưa phải là chuyển mã văn hóa. Nữ tử là người con gái, trớ trêu, oái oăm thay, nhân vật Vũ Thị Thiết là gái đã có chồng (Trương Sinh) và có con (bé Đản). Trong tiếng Việt, chỉ những người còn thanh tân, chưa hề lấy chồng mới được gọi là con gái. Vì vậy đề nghị nên dịch là Người thiếu phụ Nam Xương cho đúng.
6. Hai câu mở đầu bài thơ đã cho thấy người viếng và người chết đều cô độc, cô đơn. Ý tứ đọng lại trong hai chữ độc điếu (獨吊 ) mà các bản dịch nghĩa của các dịch giả đều dịch là một mình (Trước song một mình viếng một tập giấy(1), Một mình ngồi trước cửa sổ viết một tờ thư viếng (2), Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ (3)... (Chữ độc ở tên bài thơ có nghĩa là đọc, còn chữ độc này lại có nghĩa là một mình, cô đơn, cô độc, một chữ có tần số xuất hiện khá nhiều trong Đường thi). Nếu dịch độc là một mình e không ổn, vì một mình chưa chắc đã cô đơn, cô độc. Thật là cách mở đề kiểu khai môn kiến sơn. Bài thơ đã mở ra mênh mang tâm trạng.
7. Hai câu luận: (4)
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Đây có lẽ là một trong những câu thơ ám ảnh nhất trong những câu thơ Nguyễn Du. Không ngẫu nhiên chút nào khi các bản dịch Độc Tiểu Thanh kí của các dịch giả khác nhau, tuy có nét tiểu dị nhưng đều gặp gỡ trên đại đồng.
Cụ Bùi Kỉ dịch như sau:
Sự oán hận xưa nay khó mà hỏi trời được
Oan lạ của người phong vận kia tự mình ta buộc lấy mình.
Cụ Đào Duy Anh dịch là:
Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời
Oan lạ của người phong vận ta cũng tự thấy có mình ở trong ấy.
Ông Vũ Tam Tập cũng dịch:
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
Từ cuộc đời đau khổ hồng nhan đa truân, sắc tài mệnh yểu của Tiểu Thanh (1594-1612) sống vào triều đại Minh bên Trung Hoa, Nguyễn Du (1765-1820), với sức đồng cảm lạ thường của người có cặp mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới ngàn đời đã khái quát thành một trong những qui luật của muôn đời.
Hận, oan vốn là những chữ, những khái niệm thường dùng trong văn chương thời cổ trung đại ở phương Đông. Cổ nhân dùng chúng để biểu hiện những cung bậc, những sắc thái khác nhau của nỗi buồn nhân thế, thời thế và thân thế. Đó cũng là những chữ mà người xưa dùng để thể hiện sự tự ý thức về bản ngã. Hận là nỗi đau đớn tột cùng không thể giải tỏa, không thể sẻ chia vì những giá trị, những năng lực, những tài năng, phẩm giá... của con người bị lãng quên, bị phí hoài, bị xỉ nhục và lăng mạ. Oan là sự tự ý thức của cổ nhân về các giá trị người bị chà đạp, bị kết tội một cách thậm vô cớ và vô lí. Trong thơ mình, Nguyễn Du chủ yếu thể hiện nỗi đau đứt ruột, xé lòng trước những đau khổ bất hạnh về tâm và thân của những giai nhân tài tử rơi vào cảnh đời ngang trái, bởi tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê (Mộng Liên Đường chủ nhân), Ai tri âm đó mặn mà với ai- Nỗi mình thêm tức nỗi nhà -Thân sao bướm chán ong chường bấy thân - Biết thân đến bước lạc loài... (Truyện Kiều).
Nỗi đau, nỗi oan của con người, niềm uất hận của những bậc kì tài tuyệt sắc trong thiên hạ xưa đã có, nay cũng có và có lẽ không bao giờ hết được. Nỗi đau ấy, niềm uất hận ấy đến trời cũng không có lời giải đáp. Câu thơ là sự tổng kết, sự nghiệm sinh của thi nhân về chính mình và của biết bao kiếp tài hoa, biết bao kiếp người đau khổ trên cõi nhân gian bé tí này. Nguyễn Du từng điếu Khuất Nguyên (340-278 TCN) bằng Phản chiêu hồn. Thi nhân Việt Nam không muốn tác giả Li tao trở về. Về làm gì hỡi hương hồn Khuất Nguyên! Mặt đất giờ đây, đâu đâu cũng là sông Mịch La, người đời ai ai cũng là Thượng Quan, họ ra vào cười cười nói nói như ông Cao, ông Quì không để lộ nanh vuốt, nhưng nhai xé thịt ngưòi ngọt xớt như đường. Hà cớ gì mà Khuất Bình phải nhảy xuống sông Mịch La tự tử? Bởi cả đời đục riêng một mình ông trong, bởi cả đời say riêng một mìnhông tỉnh. Tố Như cũng từng khóc Thánh thi Đỗ Phủ (712-770), người được ông tôn vinh là Thiên cổ văn chương thiên cổ sư với day dứt không nguôi: Phải chăng vì thơ hay mà đời khổ? - Phải chăng vì đời khổ mà thơ hay? Trở về với đất nước mình, Nguyễn Trãi chỉ vì Một niềm trung mấy hiếu - Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen - Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông, chỉ vì tiên ưu hậu lạc mà bị cái án oan thảm khốc tru di tam tộc, khiến người anh hùng phải di hận kỉ thiên niên. Trong thơ chữ Hán của mình, Nguyễn Du còn thổn thức nỗi niềm đau khổ của Tỉ Can, Nhạc Phi, Dương Quí Phi, của cô Cầm (Long thành cầm giả ca), của mấy mẹ con người đàn bà trong Sở kiến hành... Hai lần trong Truyện Kiều và trong Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du đã cất lên Tiếng kêu đứt ruột mới:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Rồi:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Hỡi ôi! Thân ấy biết là mấy thân (Tố Hữu). Có điều mấy thân cũng chỉ có kiếp đàn bà. Còn trong Độc Tiểu Thanh kí là cổ kim hận sự, là phong vận kì oan của mọi kiếp người. Cổ nhân có câu:
Mĩ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Tạm dịch:
Người đẹp xưa nay như danh tướng
Trời xanh chẳng để sống bạc đầu.
Mệnh đề tài mệnh tương đố không chỉ có ý nghĩa tiên nghiệm, tiền định, ở thời Nguyễn Du, mệnh đề này có một nội dung xã hội khá cụ thể. Đây là thời đại xuất hiện hàng loạt tài năng lớn về nhiều phương diện. Ông vua chuyên chế phong kiến phương Đông luôn cảnh giác trước tài năng, nhất là cái tài kinh bang tế thế. Người có tài có thể làm lu mờ đấng tối cao, thậm chí có thể cướp ngôi. Chế độ xã hội ấy chỉ chấp nhận người cúc cung tận tụy, thậm chí cuồng tín, ngu tín trước ông vua. Không phải ngẫu nhiên mà trong các phim cổ trang nước Tàu, lúc nào kẻ bề tôi cũng luôn luôn lặp lại cái câu cửa miệng "Hoàng thượng sáng suốt (!)”, kể cả khi hoàng thương rơi vào tình thế bi hài nhất, kể cả khi hoàng thượng ngu tối ban cho kẻ tôi trung chén thuốc độc hay giải lụa (Cảm ơn hoàng thượng ban chết (!). Thật là cười ra nước mắt. Cái tài nhiều khi bị đem ra mua vui cho thiên hạ, bị sỉ nhục, bị lăng mạ. Vì vậy, người xưa mới đề cao tấm lòng biệt nhỡn liên tài.. Chắc chắn Nguyễn Du không thể không biết đến số phận bi thảm của Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, Cống Chỉnh, Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường, Lê Văn Duyệt, cha con Nguyễn Văn Thành... rồi gia cảnh nhà ông khi kiêu binh nổi loạn ở kinh thành Thăng Long, ông cũng từng chứng kiến cảnh những người tài sắc bị kẻ có tiền và có quyền khinh bỉ, tài sắc bị biến thành một món hàng, một thứ đồ chơi (Long Thành cầm giả ca); đặc biệt là những nghiệm sinh về thân phận của chính mình trong mười năm cát bụi. Quả là: Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần. Thời ấy kẻ có tài năng thường thị tài, cậy tài, khoe tài mà quên mất câu nhắc nhở của cổ nhân: thông minh thánh trí thì giữ mình bằng ngu độn, muốn giữ được đầy thì đổ bớt đi. Ta hiểu vì sao, tuy là chú vợ vua, ở vào bậc á khanh, hoạn lộ khá hanh thông mà mỗi khi vào chầu, vua hỏi tới việc gì ông cũng chỉ vâng dạ cho phải phép. Đã làm quan thì cái cười cái nói cái đi cái đứng đều phải tính toán mà. Câu tổng kết dân gian: ngu si hưởng thái bình, ngẫm ra thấy quả có lí. Những kẻ chỉ luẩn quẩn trong vòng mũ áo, trong cuộc tỉnh say dẫu có gặp cái cảnh thanh nhàn như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm cũng trơ trơ như cỏ cây, như cá chim, lại thường được sống trọn tuổi trời. Kì lạ thay, bất công, ngang trái và oan trái thay! Nhưng đó lại là một sự thực hiển nhiên.
Thế mới thấy tầm khái quát, thế mới thấy tình thương Nguyễn Du dành cho thân phận con người mênh mông nhường nào. Con người đặc biệt là người tài, người đẹp chính là sự kết tinh những phẩm giá người cao nhất, lại thường đau khổ. Mang cái tài cái đẹp chính là mang cái mầm mống của khổ đau, mang cái bản án của định mệnh phũ phàng nghiệt ngã... Ngay từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du đã chỉ ra sự bất công của Tạo hoá, sự đành hanh của máy trời. Thương người như thể thương thân, thương thân như thương người, phải chăng đó là Nguyễn Du? Ông đã nhìn ra trong nỗi đau của đồng loại nỗi đau của chính mình, và trong nỗi đau của chính mình, ông thấy được nỗi đau của đồng loại. Giọt nước mắt khóc nàng Tiểu Thanh trở thành lời ai điếu cho mọi kiếp tài hoa bạc mệnh, trở thành giọt nước mắt khóc chính mình. Vì sao sắc tài thường khổ? Vì sao thân phận con người lắm những nỗi đau? Câu hỏi ấy vẫn treo lơ lửng giữa trời xanh. Bao giờ và ai là người giải đáp hữu hiệu?
Nguyễn Du đã rất đồng cảm với Nguyễn Gia Thiều (1741-1789) trong Cung oán ngâm khúc, khi ông này viết:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
rồi:
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Với Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm (?) trong Chinh phụ ngâm:
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Câu hỏi ấy Thiên hà ngôn tai (!). Còn nhớ Hêghen, nhà triết học Đức thế kỉ XIX có nhận xét rằng: trong văn học hiện tượng định mệnh là hiện tượng bi kịch của người tốt. Với Nguyễn Du, những bậc kì tài tuyệt sắc luôn luôn phải chịu cái gọi là cổ kim hận sự, phong vận kì oan mà ông không tìm thấy lời giải đáp hữu hiệu trong triết lí thiên mệnh của Nho giáo, duyên nghiệp quả báo của Phật giáo, tướng số của Đạo giáo triết lí ở hiền gặp lành trong dân gian... Dường như, nhà thơ của chúng ta đã linh cảm được giải tần mờ của cuộc đời đầy bí ẩn. Lịch sử có những sự trùng hợp lạ kì. Năm 1965, khi cả thế giới long trọng kỉ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Du, cũng chính là năm nhà toán học người Mĩ Lôtfi Zadeh công bố lí thuyết lôgic mờ trong một bài báo có tên Các tập mờ. Điều kì lạ hơn nữa là mãi đến đầu thế kỉ XX Fran Kapka (1833_1924), một nhà văn gốc Do Thái nói tiếng Đức sống ở Tiệp Khắc cũ dưới ách đô hộ Áo - Hung, được Phương Tây suy tôn là một trong ba ông tổ của văn học hiện đại chủ nghĩa, mới phát hiện ra điều mà Nguyễn Du đã nói trước đó hơn một trăm năm. Trong các tác phẩm của mình F. Kapka đã thể hiện:
Cảm giác về sự không có tự do của con người, về sự lệ thuộc của con người vào những thế lực bất hợp lí nào đó ở ngoài con người và chi phối bắt con người phục tùng (5).
Trong Vụ án, nhà văn này viết câu chuyện về một viên chức ngân hàng, mang cái tên Jô zep K. bỗng dưng bị một toà án vô hình kết tội. K. không biết mình có tội gì. Toà án cũng không biết... Cuối cùng K. bị dẫn đi hành quyết đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của mình. Đao phủ chọc dao vào ngực K.và ngoáy một cái. Kap ka kết thúc thiên truyện của mình băng một kết luận hết sức bi đát: K. chết như một con chó.
Thân phận K. là thân phận con người bị kết án bởi một toà án vô hình, tựa như tội tổ tông trong Thánh kinh đạo Gia tô, tựa như tội mà đạo Phật quan niệm trong câu Đức Thích Ca Mâu Ni trả lời con quạ: Con khổ vì con có cái thân của con, và dường như có cả sự khúc xạ những ám ảnh của Kapka về thân phận con người trong xã hội tư sản hiện đại, khi bóng đen của chủ nghĩa phát xít đang đến gần, trước thảm hoạ do mặt trái của nền văn minh công nghiệp, hậu công nghiệp gây ra.
Sự hội ngộ Nguyễn Du - Kapka phải chăng là sự gặp gỡ Đông – Tây? Điều này còn chứng tỏ chủ nghĩa duy lí phương Tây không phải bao giờ cũng hữu hiệu hơn cảm quan trực giác huyền diệu phương Đông khi khám phá hiện thực đời sống, khi thâm nhập vào những miền thẳm sâu của tâm hồn, tâm linh con người. Sự hội ngộ này khiến những bộ óc sùng ngoại nhất cũng phải bừng tỉnh. Không hiểu vì sao viết đến đây tôi bỗng cảm thấy câu thơ: Phương Đông là phương Đông- Phương Tây là phương Tây của một thi sĩ Anh quốc (Kiplinh) thật vô nghĩa.
8. Về hai câu thơ kết: Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Không biết sau ba trăm năm lẻ nữa – Thiên hạ có một ai đó khóc thầm tố Như): Trước hết nói về hai chữ độc điếu. Nó không chỉ hiển hiện thành câu chữ ở cặp câu đề, nó thấp thoáng ẩn hiện trong cặp câu thực (Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư), nó âm vang trong cặp câu luận và đến đây nó lại thấp thoáng hiện ra trong cặp câu kết ở khát khao, ở băn khoăn day dứt không biết sau ba trăm năm lẻ có một ai đó dưới gầm trời này khóc thầm (khấp (泣) chứ không phải khốc) mình, Tố Như chỉ cần một ai đó (hà nhân (何人) chứ không phải là số đông, rất nhiều người. Hai chữ độc điếu chính là nhãn tự, huyệt đạo của thi phẩm này vậy (6). Phải chăng đó là hai chữ thể hiện được tâm sự về nhân thế, thời thế, thân thế của Tố Như tử? Ta cứ tự cho mình là người hiểu Nguyễn Du, kì thực chưa hẳn thế (Không ngẫu nhiên chút nào khi trong Truyện Kiều lại có những câu: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa, Vui là vui gượng kẻo là – Ai tri âm đó mặn mà với ai? Chọn người tri kỉ một ngày được chăng? Cười rằng: Tri kỉ trước sau mấy người?”. Ta hiểu vì sao người xưa có thể chết vì tri kỉ tri âm).Thứ đến là ý kiến cho rằng đây là câu thơ thất niêm. Quả đúng thế. Người phát hiện ra điều này, rõ ràng rất giỏi về phép tắc làm thơ cách luật. Tuy vậy, lại cũng nên biết rằng: bàiHoàng Hạc Lâu một bài thất ngôn bát cú được coi là một trong 10 bài thơ hay nhất của thơ Đường, (tuy Thôi Hiệu không phải là một trong những gương mặt sáng giá nhất của Đường thi), thì câu thơ thứ tư: Bạch vân thiên tải không du du (Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi)… cũng là câu thơ phạm luật. Điều này cho thấy tài năng, thiên tài có khi tuân thủ qui củ chung, nhưng cũng có khi vượt qua qui củ, họ tạo nên những phép tắc và luật lệ mới. Tiếp theo là thời điểm ba trăm năm lẻ... Một thời gian dài người ta cho rằng đó là khoảng thời gian từ khi Tiểu Thanh mất đến khi Nguyễn Du viết bài thơ này(7). Nhưng căn cứ vào tiểu sử của nàng do một số ghi chép của văn nhân nước Tàu, thì tính cách nào cũng không đủ ba trăm năm lẻ (1820 -1595 = 225 (8) hoặc lên đến 360 năm, thậm chí là 400, hay 407, 408 năm (9), và để tránh sự võ đoán khiên cưỡng trước đây, hiện sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập I cho rằng: Có lẽ là một con số ước lệ chỉ khoảng thời gian dài (10). Có người lại cho 300 năm là thời gian luân hồi ba kiếp của một con người theo quan niệm của Phật giáo (11), nhưng ở đây là tam bách dư niên (ba trăm năm lẻ) khác với tam bách niên. Quả đúng là con số ước lệ, nhưng tại sao lại ước lệ là ba trăm năm lẻ chứ không phải là trăm năm, bốn, hay năm trăm năm, thậm chí ngàn năm? vì chúng là những con số ước lệ thường thấy người xưa dùng trong thơ văn của họ (Ư bách niên trung tu hữu ngã – Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy (Trong khoảng trăm năm này phải có ta – Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có ai? –Xuất dương lưu biệt, Phan Bội Châu). Vậy nên lí giải thế nào? Có lẽ là thế này chăng? Theo quan niệm của người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử, những bậc thánh nhân trong lịch sử phải năm trăm năm mới xuất hiện một lần, khi thánh nhân ra đời có điềm lành chỉ báo, đó là phượng hoàng kì lân hiện ra. Nguyễn Du rất chân thực, trung thực với mình và với tha nhân. Ông tự nhận mình không phải là thánh nhân, cũng không phải thường nhân, ông tự thấy mình thuộc lớp tài tử tri âm với giai nhân Tiểu Thanh. Phải chăng tài tử giai nhân khoảng ba trăm năm lẻ là chu kì để họ hội ngộ, tái xuất? Thời điểm ấy chưa tới, hãy chờ đợi. Lúc ấy, người ta giải mã Nguyễn Du chắc gì giống với chúng ta ngày nay?
Tân Thành, 12-10-2011 - Vân Giang, 16-11-1011
CHÚ THÍCH:
(1): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch, NXB Văn hóa Hà Nội, năm 1959).
(2): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Đào Duy Anh dịch nghĩa, chú thích, NXB Văn học, Hà Nội, năm 1988).
(3), (6): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Lê Thước, Trương Chính sưu tầm, chú thích, biên dịch, NXB Văn học, Hà Nôi, năm 1965.
(4): Phần này đã trích đăng trên newvietart.com với tiêu đề Hội ngộ Nguyễn Du – Kapka, vandanviet.net.
(5): Suxkôp – Truyện ngắn phương Tây thế kỷ XX, tập I – NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, năm 1998.
(7): Xin xem quan niệm huyệt đạo trong một bài thơ trong bài: Suy ngẫm về câu thơ "Ôm đất ngước những người áo vải – Đã đứng lên thành những anh hùng” của Nguyễn Đình Thi, của Bùi Ngọc Minh trên vandanviet.net, newvietart. com, trieuxuaninfo, vannghesongcuulong online, ninhbinh.edu.vn.
(8): Xin xem: Những thế giới nghệ thuật thơ, Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, năm 1995, trang 215 -224
(9), (11); Xin xem Nguyễn Đăng Na, khoa Ngữ văn ĐHSPHN, viethoc.org.
.(10): Ngữ văn 10, tập I (nâng cao), NXB Giáo dục, năm 2006, trang 176.
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 17.11.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
VỀ BÀI THƠ CHÁU BÉ TRONG NGỤC
TÂN DƯƠNG CỦA HỒ CHÍ MINH -
Bùi Ngọc Minh
1. Phiên âm chữ Hán:
Tân Dương ngục trung hài (1)
22 – 11
Oa…! Oa…! Oa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Dịch nghĩa:
Cháu bé trong ngục Tân Dương
22 – 11
Oa…! Oa…Oa…!
Cha sợ vào lính cứu nước nhà;
Cho nên em vừa được nửa tuổi,
Đã phải vào nhà tù cùng mẹ.
Dịch thơ:
Oa…! Oa…! Oa…!
Cha sợ xung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
(Nam Trân dịch)
Chú thích số 40 (Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù) viết: Tân Dương: tên huyện, thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường bộ từ Nam Ninh đi Quế Lâm. Cũng như bài Gia quyến trưng binh, bài này mượn lời một cháu nhỏ để châm biếm lối bắt lính của chính quyền tưởng Giới Thạch. Vì không bắt được chồng vào lính, họ đã bỏ tù người vợ cùng với con nhỏ.(2). Phải chăng ý nghĩa của bài thơ chỉ có thế?
2. Người viết bài này đã thuộc nằm lòng bài thơ qua bản dịch Nhật kí trong tù vào giữa thập kỉ 60 của thế kỉ trước, khi còn là một cậu bé thò lò mũi xanh, chân đất quần nâu giải rút vai mang túi rết tới trường làng, do có ông cậu họ làm ở phòng văn hóa huyện đem cho:
Oa…! Oa…! Oa…!
Cha trốn không đi lính nước nhà;
Nên tội thân em vừa nửa tuổi,
Đã phải theo mẹ đến nhà pha.
Một số câu chữ trong bản dịch thơ mới có thay đổi cho phù hợp hơn với nguyên tác chữ Hán. Chữ trốnđược thay bằng chữ sợ (phạ 怕) cho thấy, chí ít là trên mặt các con chữ tình trạng pháp luật bán khai mông muội của xã hội Trung Quốc thời kì Tưởng Giới Thạch. Đó là quán tính của lối hành xử dã man: một người bị khép vào trọng tội đại hình thì cả gia tộc cùng phải chịu (chu di tam tộc, chu di cửu tộc) từ thời phong kiến chuyên chế ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Nó còn rơi rớt lại trong lối hành xử đầy định kiến vô lí đến tàn nhẫn về thành phần xuất thân, chủ nghĩa lí lịch của một thời chưa xa lắm ở cả nước Tàu và xứ ta. Lối hành xử mà nay chỉ còn thấy phổ biến trong thế giới ngầm, trong xã hội đen, trong lũ maphia. (Thân phụ của người viết khi còn sống có kể lại tâm lí nơm nớp sợ hãi có thể bị bắt bất cứ lúc nào, khi tham gia cải cách ruộng đất ở Hải Dương, vì thân phụ của người là đồ Nho, bá phụ là trương tuần, một thúc phụ là lí mua, một thúc phụ khác vừa là đồ Nho, (thầy dạy chữ Hán cho người), vừa làm chánh xã, anh đông tông người là chánh tổng). Luật pháp văn minh hiện đại chỉ khép tội khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành hành vi phạm tội và hành động phạm tội đã diễn ra; chỉ bỏ tù kẻ phạm tội, chứ vợ con gia đình, thân nhân của người phạm tội thì vô can. Ai phạm tội người ấy phải chịu. Ở đây lại bắt vợ người mới sợ đi lính, tức hành vi phạm tội chưa xảy ra, mới chỉ có trong ý nghĩ, đặc biệt lại bắt một cháu bé 06 tháng tuổi đi tù thay cha. Quả là dã man. Có lẽ đấy là ý nghĩa khách quan mà bài thơ mang lại vì đây là cuốn nhật kí bằng thơ mà Hồ Chí Minh viết cho riêng mình.
Điều cứ ánh ảnh tôi mãi là tại sao trong một bài thơ chữ Hán, câu mở đầu lại không dùng kí tự tượng hình mà lại dùng kí tự phiên âm la tinh: Oa…! Oa…!...Oa…!. Đây là lần duy nhất có hiện tượng này. Trong tập thơ còn đôi lần tác giả tập thơ dùng tiếng Anh song đã phiên âm sang tiếng Hán (Ngục đinh thiết ngã chi sĩ – đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta, sĩ – đích là phiên âm tiếng Anh của chiếc gậy: stick), hay ma – đăng trong câu thơ: Nhà lao xây dựng kiểu tân thời, ma- đăng là phiên âm của từ tiếng Anh modern). Có người cho là thủ pháp giễu nhại: Lối nhại lại khiến bài thơ Cháu bé trong ngục Tân Dương chẳng những mở đầu bằng những âm "Oa…! Oa…! Oa…!” trong bản dịch, mà còn giữ nguyên dạng ở kênh hình (Chữ Latinh ở bản chữ Hán và tất nhiên ở phiên âm Hán - Việt). Quả đó là một hiện tượng đặc biệt nói lên biện pháp nhại lại được ý thức rất rõ (3). Câu mở đầu bài thơ này, rõ ràng không thuộc thủ pháp giễu nhại, bởi thủ pháp giễu nhại thường đem lại cho người đọc tiếng cười với ý nghĩa hài hước, phê phán. Thi phẩm này tuyệt nhiên không có chủ đích gây cười, nếu có chỉ là do bản thân sự thật vốn hài hước mà thôi. Cái tình sâu đậm của bài thơ là đồng cảm, xót thương cho người vợ, đặc biệt là. Sắc điệu thẩm mĩ này khởi lên từ câu thơ mở bài độc đáo: Oa…! Oa…! Oa…!. Ngẫm cho kĩ, chữ Hán thuộc một hệ hình văn hóa khác với hệ hình văn hóa của thứ chữ phiên âm Latinh. Là thứ chữ tượng hình nên khi tiếp nhận một bài thơ chữ Hán người tiếp nhận không chỉ nghe mà phải nhìn mới thấy hết cái hay sự thú vị của thi phẩm, bởi từ khởi thủy mỗi bộ chữ Hán đều mang quan niệm triết học, nhân sinh của những người sáng tạo ra nó. Người đọc chỉ có thể thấy được xác chữ mà không thấy được hồn chữ, không thấy được sự hay chữ của bài thơ nếu không am hiểu chữ Hán, nếu chỉ đọc thơ qua bản dịch. Chiết tự (4) sau đây cũng trong tập Nhật ký trong tù là một ví dụ:
Phiên âm:
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung:
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.
Dịch nghĩa:
Người tù ra khỏi ngục, có khi dựng nên đất nước,
Qua cơn hoạn nạn mới rõ người trung;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở then cửa trúc, rồng thật sẽ bay ra.
Dịch thơ:
Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa ắt rồng bay.
(Nam Trân dịch)
Đây là bài thơ chơi chữ, bẻ chữ nghĩa đen như sau: Câu 1: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc(或) vào thành chữ quốc (國): Câu 2: Chữ hoạn (患) với nghĩa là hoạn nạn trên là chữ xuyến (串) bỏ đi một chữ trung (中) thành chữ trung (忠) với nghĩa là trung trong chữ trung thành; câu 3 thêm bộ nhân đứng (亻) vào chữ ưu (憂) trong chữ ưu sầu thành chữ ưu (優) trong chữ ưu điểm; câu 4: chữ lung (籠) với nghĩa là cái lồng (nhà ngục) bỏ bộ trúc ở đầu (竹) thành chữ long có nghĩa là rồng (龍). Dường như, bài thơ này còn gợi lại ít nhiều truyền thống về thơ khẩu khí của người xưa.
Câu thơ ta đang bàn lại phiên âm tiếng khóc. Nó không hề giữ nguyên dạng kênh hình như ba câu sau của bài thơ, nó chỉ có âm thanh mà thôi. Ba câu thơ cuối của bài thơ thuộc hệ hình văn hóa nghe đọc nhìn. Còn câu đầu chỉ cần nghe đọc, không cần nhìn, người tiếp nhận vẫn có thể hiểu được. Không chỉ người biết chữ Hán mà cả người không biết chữ Hán vẫn hiểu và chỉ có thể hiểu đó là tiếng khóc của trẻ thơ. Tiếng khóc của trẻ thơ ở mọi ngôn ngữ không cần chuyển ngữ, không cần phiên dịch. Trong tập thơ, còn có bài Bán dạ văn khốc phu (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng) (5):
Phiên âm
Ô hô phu quân hề phu quân!
Hà cớ phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tân hợp ý đầu nhân.
Dịch nghĩa:
Than ôi! Hỡi chàng ơi!
Cớ sao chàng vội lìa bỏ cõi đời?
Khiến cho thiếp từ nay biết tìm đâu thấy,
Người bạn đời mười phần tâm đầu ý hợp!
Dịch thơ:
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười mươi.
(Nguyễn Sĩ Lâm dịch.)
Cũng là tiếng khóc đau đớn nhưng khác với tiếng khóc của cháu bé trong ngục Tân Dương, bởi không ghi âm, phục hiện nguyên dạng, nguyên trạng âm thanh tiếng khóc như bài thơ ta đang bàn. Phải chăng còn có một lí do nào khác?.
Còn nhớ, Cung oán ngâm khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều có đoạn viết về tiếng khóc như sau:
Thảo nào khi mới chôn nhau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu
Tử sinh kinh cụ làm nau mấy lần
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc
Lớp cùng thông như đúc buồng gan
Bệnh trần đòi đoạn tâm toan
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ
Ðường thế đồ gót rỗ kỳ khu
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh
Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán
Chết đuối người trên cạn mà chơi
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Từ tiếng khóc chào đời của một hài nhi, thi nhân đã nghe thấy tiếng than, thấy âm thanh ai oán của con người trần thế. Đó là tiếng khóc được nâng lên tầm triết luận về nỗi đau của kiếp làm người, Nguyễn Du trongVăn tế thập loại chúng sinh từng thổn thức trước tiếng khóc của trẻ sơ sinh dưới cõi âm mà cũng là trên dương thế:
Lại những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế vào ra
Hu hơ tiếng khóc, xót xa nỗi lòng.
Trong truyện ngắn Một con người ra đời, nhà văn Nga Xô-viết có mô tả tiếng khóc của một cậu bé vừa chào đời trong sự đói khát thiếu thốn cùng khổ của người mẹ, trước biển cả, sinh linh nhỏ bé đã gào toáng lên i-a… i-a… (Trong tiếng Nga âm thanh mà chú bé vừa chào đời phát ra còn có nghĩa là đại từ số ít chỉ người ở ngôi thứ nhất, tương đương với tôi, ta, tao… của tiếng Việt). Trong tiếng khóc ấy nhà văn của tư tưởng nhân văn cao đẹp: không được sỉ nhục và lăng mạ Con Người, Con Người, hai tiếng ấy vang lên đầy tự hào và kiêu hãnh, nhà văn có bút danh Cay Đắng đã nghe thấy tiếng nói kì diệu của khát vọng tự khẳng định mình của một con người trong hoàn cảnh sống đương thời thù địch với con người.
Với những trẻ nhỏ, khi còn trong vòng bú mướm, miệng ăn thì có miệng nói thì chưa. Thấu hiểu được tiếng khóc của chúng chính là hiểu được cuộc sống của chúng. Hóa ra, mỗi thi nhân, mỗi nhà nhân văn lớn có một cách nghe, một cách suy tư, cách giải mã tiếng khóc của trẻ thơ, nỗi khổ đau của con người, kiếp người.
Tôi đã đọc không ít lắm những cuốn sách kể những mẩu chuyện về cuộc sống cuả chủ tịch Hồ Chí Minh, một trong những ấn tượng sâu sắc nhất là mẩu chuyện sau đây:
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, một đêm đông rét buốt, bỗng có tiếng khóc Oa…! Oa…! Oa…! của một cháu bé, con của một gia đình nào đó trong những đồng chí của Bác Hồ; lúc ấy Bác vẫn đang làm việc, người dừng lại nói với một đồng chí cảnh vệ của mình:
- Chú đi xem cháu bé vì sao lại khóc thế. Ngày còn nhỏ, khi ở Huế, cha và anh bác đi vắng (cụ Nguyễn Sinh Sắc thân phụ Bác đi làm quan giam khảo ở Thanh Hóa, ông Nguyên Sinh Khiêm, anh trai Bác được đi theo), mẹ bác (Cụ Hoàng Thị Loan) sinh em bé (Nguyễn Sinh Xin), không may được ít lâu thì bà cụ qua đời, bác phải một mình nuôi em, lúc nó khát sữa cũng thường khóc như vậy.
Thì ra trong câu thơ kia có cả ám ảnh về tiếng khóc của người em út Bác Hồ không may thiệt phận khi còn tấm bé. Thì ra, nhân loại khác nhau về màu da, về văn hóa tín ngưỡng về ngôn ngữ… nhưng khi chào đời, lúc chưa biết nói thì tiếng khóc đều giống nhau: Oa…! Oa…! Oa…!. Hiểu được tiếng khóc của trẻ thơ khi chưa biết nói chính là tình thương thiết thực cụ thể, chính là lòng tốt bình thường mà trẻ em, mà nhân loại, nhất là đa số nhân loại cần lao rất cần trên thế giới này. Ta cũng hiểu vì sao Bác có những câu thơ:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng…
Và trong Di chúc Người viết: Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên nhi đồng quốc tế. (6).
Tôi bỗng ngộ ra điều hệ trọng này: một người trên đường đi tìm đường để nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, một người từng đi nhiều nơi trên thế giới (Á, Âu, Phi, Mĩ), một người từng sử dụng thông thạo nhiều tiếng nước ngoài (Anh, Nga, Pháp, Trung…), từng dùng tới 105 bí danh, bút danh… mới có được cái nghe, sự thấu hiểu tiếng khóc của trẻ thơ đến vậy. Nhân loại rất cần tình thương thiết thực cụ thể., cần sự thấu hiểu và đồng cảm.
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ tới một kỉ niệm riêng tư. Đó là vào đầu thập kỉ 80 của thế kỉ trước, khi ấy tôi đang dạy học ở trường Cao đẳng sư phạm Tây Bắc (Thuận Châu Sơn La), trong một bữa rượu tại nhà cô bạn gái, mà hiện là người bạn đời của tôi, thân phụ cô cũng tức là nhạc phụ của tôi sau đó vài năm, có khuyên tôi một câu:
- Muốn thành người tử tế, phải hiểu được tiếng thở dài của người già trong những đêm mất ngủ và hiểu được tiếng khóc của trẻ thơ khi nó chưa biết nói.
Đến nay, đã vào cái tuổi tri thiên mệnh, tôi vẫn chưa thể hiểu hết được tiếng thở dài của người già và tiếng khóc Oa…! Oa… Oa…! của trẻ thơ. Ai giúp tôi giải mã được điều giản dị mà vô cùng sâu xa này?
Để hiểu một bài thơ, những kiến thức cổ kim đông tây là rất cần thiết, nhưng nếu thiếu sự nghiệm sinh về đời sống, thiếu một tấm lòng thì mớ kiến thức kia cũng khó có thể giúp người ta cảm nhận được tình đời tình người thẳm sâu và lung linh, huyền diệu ẩn chứa trong đó.
3. Trên thế giới ngày nay, khi một thiểu số rất ít người giả danh những gì là cao cả tốt đẹp phè phỡn hưởng mọi thứ trên sự thống khổ của số đông nhân loại cần lao, khi sự giàu có của một thiểu số rất ít người lại dựa trên sự cùng khổ của số đông người lao động chân chính, khi sự vô cảm và nhẫn tâm với con người đang có xu hướng gia tăng, khi những nhà khoa học kĩ thuật vô lương tâm vẫn miệt mài trí lực nghiên cứu để cải tiến những quả tên lửa đạn đạo, những quả bom hạt nhân có giá hàng triệu đô la, hòng hoàn thiện kĩ nghệ giết người hàng loạt, để tiền bạc chảy ngày càng nhiều hơn vào túi bọn lái súng quốc tế, khi những đồng loại của chúng ta ở vùng sừng châu Phi đang đứng trước thảm họa chết vì đói khát và bệnh dịch, khi những đồng bào, trẻ em của chúng ta ở Tây Nguyên, Ở Quảng Bình vẫn phải leo dây, mình trần bơi qua sông qua đi làm đi học, khi một cô giáo mầm non ở vùng sâu xa thuộc miền núi Thanh Hóa chỉ được trả 430.000 VN đồng một tháng, khi tham nhũng đã trở thành quốc nạn, khi một số ít người ngày ngày vẫn ăn sáng với bát phở 750.000 VN đồng, khi một con mèo được chủ nhân của nó cho ngủ đêm tại một khách sạn ở Hà Nội với giá 500.000 VN đồng…, thì cần lắm, cần lắm sự đồng cảm thấu hiểu, xót thương trước tiếng khóc Oa…! Oa…! Oa…! Hỡi những người còn có lương tri!
Vân Giang, 23h 06, ngày 25 tháng 09 năm 2011
CHÚ THÍCH
(1): Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù, NXB Giáo dục, năm 1993, trang 476.
(2): Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù, NXB Giáo dục, năm 1993, trang 588.
(3): Sức sống của thi từ, Sđd, trang 225-233.
(4): Chiết tự, Sđd trang 455.
(5): Dạ bán văn khốc phu, Sđd trang 431-432.
(6): Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam xuất bản. tháng 9 năm 1989, trang 15.
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 30.9.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bàn Về Câu Thơ Nghênh Diện Thu Phong …
Trong Tảo Giải Của Hồ Chí Minh.
Bùi Ngọc Minh
1. Tảo giải trích trong Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đọc qua người ta thường lầm tưởng là hai bài tứ tuyệt thất ngôn có chung một nhan đề, đọc cho tinh vi kĩ lưỡng lại thấy thi phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật. Ở thủ tứ tuyệt thứ nhất, câu thơ kết cho đến nay vẫn có những cách hiểu khác nhau.
Phiên âm Hán - Việt:
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Dịch nghĩa:
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Dịch thơ:
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
(Nam Trân dịch, Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù, Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1993, trang 387, 388)
Bài viết này chúng tôi muốn trình bày cách hiểu của mình về câu thơ trên ngõ hầu trao đổi cùng bạn đọc để tiếp cận chân lí.
2. Khi còn là học sinh cấp III (nay là THPT) vào giữa thập kỉ 70 của thế kỉ trước, và ngay cả khi đã là giáo viên trung học phổ thông tôi vẫn thấy trong Hướng dẫn giảng dạy (sách dùng cho giáo viên hệ 10 năm) và những đồng nghiệp cao niên (dĩ nhiên) vẫn hiểu câu thơ như sau: Nghênh diên thu phong trận trận hàn là: Ngẩng mặt lên, đón từng trận gió thu lạnh. Hai chữ nghênh diện trong nguyên tác được hiểu như sau: Bác chủ động, hiên ngang đón nhận gió rét, thách thức với khó khăn gian khổ. Đó chính là tinh thần thép, là phong thái ung dung, khí phách hào hùng của người tù- thi sĩ vĩ đại.
Theo chúng tôi, cách hiểu trên đây xa lạ với phong cách, triết lí sống của nhân cách văn hóa lớn Hồ Chí Minh, xa lạ với phong cách nghệ thuật của Nhật ký trong tù, phong cách nghệ thuật của thi sĩ Hồ Chí Minh; nếu không muốn nói là người ta đã làm một việc mà tưởng là đề cao không ngờ lạo là sự hạ thấp, kính chẳng bõ phiền vậy. Thơ Hồ Chí Minh, một bộ phận cấu thành nhân cách văn hóa, triết lí, tư tưởng của Người, không bao giờ phô trương, lên gân mà thường vĩ đại trong những điều giản dị, bình thường, mà thâm thúy sâu xa. Đó là phong cách mong manh áo vải hồn muôn trượng (Tố Hữu). Cách hiểu trên có nghĩa: Hồ Chí Minh thách thức với giá lạnh, bất chấp qui luật thiên nhiên, thi gan với trời… Thiết nghĩ, một người bình thường khi gặp gió rét, theo phản xạ tự nhiên cũng biết cúi xuống tránh rét, huống hồ là Bác, người am hiểu quy luật. làm chủ, hành động theo quy luật. Cổ nhân có câu: Thắng trời là giả dối, thua trời thì tai họa, âu chỉ còn cách hòa hợp với trời, (có lẽ, ngày nay ta nên hiểu trời trong câu nói của cổ nhân chính là quy luật). Một người như Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình mà, ông ngoại là một cụ đồ Nho, ông thân sinh từng đỗ Phó bảng, một người từng tiếp xúc với nhiều nền văn hóa văn minh Đông Tây kim cổ, từng kết bạn với nhiều trí thức lớn ở phương Tây, không lẽ nào lại làm trái quy luật?
Có lẽ để tránh cách hiểu quá khiên cưỡng trên, trong bài viết về Tảo giải trong Một số bài giảng về thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, năm 1984 lí giải về câu thơ này như sau:
Về câu thơ "Nghênh diện thu phong trận trân hàn” cần được hiểu chính xác hai từ "nghênh diện” và cần đặt "trận trận hàn” trong mạch thơ và trong văn cảnh bài thơ. Điều này hoàn toàn không thể bác bỏ trên phương diện lí thuyết tiếp nhận thơ. Nhưng đi vào thẩm bình hai chữ nghênh diện thì lại có một khoảng cách rất lớn, thậm chí đối lập gay gắt với chính những gì vừa trích dẫn, khi tác giả bài viết nhận định rằng:
"Nghênh diện” là hướng mặt về trước, đối mặt. "Nghênh diện” ở đây là một kết cấu trạng từ chỉ phương hướng (thu phong trận trận hàn nghênh diện xuy lai): từng trận gió thu lạnh trước mặt (thổi tới), (Sđd trang162). Tác giả những lời này đã tự mâu thuẫn với chính mình bởi lí do sau đây:
Tác giả bài viết đã tự tách hai chữ nghênh diện và cả câu thơ trên thành một hệ thống cô lập khỏi mạch thơ, khỏi chỉnh thể toàn bài. Nguyên văn Tảo giải (I, II) như sau:
Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Dịch nghĩa:
Gà gáy một lần, đêm chưa tan,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn từng cơn lạnh lẽo.
Dich thơ:
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
Đây chẳng qua là một sự phân tích cú pháp thơ một cách khiên cưỡng. Cú pháp thơ là cú pháp đặc biệt, có khi không tuân theo cú pháp thông thường của ngôn ngữ giao tiếp, bởi nó còn là cú pháp của cảm xúc thơ. Cách lí giải này chỉ thấy ý nghĩa bề mặt của câu chữ mà không thấy được những gì tiềm ẩn đằng sau câu chữ, chỉ thấy được phần nổi của tảng băng trôi. Người xưa từng nhắc nhở, đại ý rằng: thơ nằm giữa sự giải thích được và sự không giải thích được. Thơ mà giải thích được hết thì sẽ rơi vào tình trạng ngô nghê, không giải thích được tí gì thì rơi vào tắc tị bí hiểm hũ nút. Đã đành Hồ Chí Minh viết Nhật ký trong tù bằng một phong cách rất tự do phóng túng, Người dùng cả văn ngôn, văn bạch thoại, thậm chí cả phiên âm la tinh (Oa…! Oa…! Oa…!, Cháu bé trong nhà lao Tân Dương), Người dùng cả các hư từ của văn ngôn lẫn tư từ của văn bạch thoại, nhưng trường hợp nghênh trong câu thơ trên là một thực từ chứ không phải là một hư từ đứng đầu một kết cấu trạng từ. Nếu cứ phân tích cú pháp thơ như vậy thì sẽ phân tích câu thơ Xuân Diệu: Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá trong Thơ duyên thế nào? Chẳng lẽ lại đổi thành Trời xanh đổ ngọc qua muôn lá? Câu thơ sẽ sáng rõ về ngữ nghĩa, ngữ pháp nhưng chất thơ lập tức tan biến. Điều Xuân Diệu muốn diễn tả là trạng thái đắm say, ngây ngất qua cái nhìn chập chờn cơn tỉnh cơn mê của một chàng trai tuổi hoa niên lần đầu rung động nỗi yêu thương trước một cô gái, chứ đâu phải là sự sáng tỏ vô duyên vô nghĩa kia. Đây là một trong những câu thơ mà nói như Hoài Thanh là cảm xúc đã làm lung lay cả cú pháp thơ.Vậy nên hiểu câu thơ đang bàn thế nào? Nam Trân dường như đã chuyển tải được ít nhiều thần thái của câu thơ nguyên tác sang bản dịch: Rát mặt đêm thu trận gió hàn.
3. Ta hãy đặt câu thơ trong chỉnh thể toàn bài và trong phong cách thơ Hồ Chí Minh để hiểu cho đúng cho trúng. Hãy chú ý ba câu thơ đầu của Tảo giải (I). Câu thứ nhất nói đến thời gian bị giải đi sớm, bị giải đi từ rất sớm (gà gáy một, đêm chưa tàn), rất lạ là câu thơ âm vang một điển tích diễn tả sự hoang lạnh trong những cuộc ra đi của người xưa (Kê thanh mao điếm nguyệt – Nhân tích bản kiều sương, Nguyễn Du dịch trongTruyện Kiều khi tả cảnh Thúy Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư: Mịt mù dặm cát đồi cây - Canh gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương), nhưng trong câu thơ của Bác lại không có cái hoang lạnh đến ghê người của thơ xưa, bởi dường như khi người tù thi sĩ lên đường thì trăng sao, đỉnh núi mùa thu cùng khởi hành, cùng làm bạn với người. Tính hiện đại của thi phẩm có lẽ là ở chỗ trong cổ thi con người dường như bị khuất lấp vào thiên nhiên; còn trong thơ Hồ Chí Minh con người thường hiện lên ở trung tâm của bức tranh thơ. Người ta nói thơ Bác cổ điển mà không phải cổ thi, chứ không phải như một học giả Trung Quốc từng cho rằng: có những thi phẩm trong Nhật kí trong tù đặt vào Đường thi, Tống thi thì khó lòng nhận ra. Chớ lầm tưởng rằng họ khen thơ Bác. Câu thơ thứ ba hai chữ chinh nhân xuất hiện (Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng). Đó là hình ảnh người đi xa vì nghĩa lớn trên con đường đại nghĩa còn lắm gian lao. Cấu trúc ngữ nghĩa của ngôn từ thơ phải chăng cho phép ta hiểu hai chữ chinh trong nguyên tác theo tinh thần ấy. Con đường chuyển lao trong gió thu lục địa của vùng núi cao lạnh buốt, con đường gian nan đầy thử thách nên tù nhân – thi nhân phải dùng ý chí nghị lực để tự vượt lên mình, vượt lên gió rét và hạ hai chữ chinh (chinh nhân, chinh đồ) thật đích đáng. Điều quan trong nhất là ở những câu thơ trên thi ảnh và không gian đều ở trên cao vì vậy chinh nhân phải nghênh diệnmới có thể ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, thả hồn mình vào vẻ đẹp của vầng trăng thu, chòm sao và đỉnh núi mùa thu. Như vậy nghênh đích thị là một động từ đứng trước một tân ngữ (nghênh diện) chứ không phải là một hư từ đứng trước một kết cấu trạng từ. Nếu có đáng bàn thì chính là câu thơ dường như là sự cấu trúc lại không gian. Thông thường cao nhất là sao trăng, tiếp đó mới là đỉnh núi mùa thu. Nhưng trong câu thơ đỉnh núi mùa thu mới là cao nhất (Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san – Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn. Rất tiếc bản dịch đã không dịch được chữ thu trong nguyên tác và đặc biệt là chữ ủng (ôm, cầm, giữ), trong câu thơ buộc phải hiểu là ôm ấp nâng đỡ. Trong cái nhìn của thi nhân thiên nhiên thân ái chan hòa trong tình bầu bạn. Sau này Người còn viết: Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân, hay Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân. Cũng có người hiểu ủng là quần chúng công kênh lãnh tụ, hay chòm sao là bọn lính giải người tù còn vầng trăng là người tù vĩ đại (!). Thật là một sự suy diễn thoát li văn bản, tưởng là đề cao lãnh tụ hóa ra ngược lại, lực bất tòng tâm, quả là lòng yêu vô ý gây nên tội.). Nhà thơ không thách thức thiên nhiên khắc nghiệt mà chấp nhận gió rét để được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, thả hồn mình theo chòm sao, vầng trăng, đỉnh núi mùa thu. Người chấp nhận giá rét về thể xác để được làm bạn với thiên nhiên diễm lệ để tâm hồn được sưởi ấm. Bài tứ tuyệt thú nhất kết thúc bằng chữ hàn mà cả bài thơ không lạnh giá, bởi có sự nồng ấm của tình yêu thiên nhiên của thi hứng. Chữ hàn này khác hẳn chữ nồng kết thúc bài thơ. Nó là thi nhãn làn ấm cả thi phẩm bởi có sự nồng ấm của cảm xúc cộng hưởng với sự nồng ấm của đất trời. (Ta hiểu vì sao sang bài tứ tuyệt thứ hai khi không gian và thời gian có sự vận động từ đêm tối ra ánh sáng, từ giá rét sang ấm áp, Bác lại viết Hành nhân thi hứng hốt gia nồng (Người đi thi hừng bỗng thêm nồng). Từ chinh nhân trong câu thơ đang bàn đến hành nhânở cuối bài thơ, con đường chuyển lao đã ngắn lại, bình minh của đất trời đã trở về: Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng, – U ám tàn dư tảo nhất không; – Noãn khí bao la toàn vũ trụ, dịch nghĩa: Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,- Bóng tối còn rơi rớt sớm đã hết sạch; - Hơi ấm bao la khắp vũ trụ, dịch thơ: Phương đông màu trắng chuyển sang hồng, - Bóng tối đêm tàn sớm sạch không; - Hơi ấm bao la toàn vũ trụ,). Đây là cách vượt ngục bằng tinh thần của Bác. Khi bị trói treo ngược lên giàn thuyền như tội hình treo cổ, Người vẫn ngắm cảnh đẹp ven sông:
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh, Nam Trân dịch)
Hay như bài Trên đường (Lộ thượng):
Dẫu trói chân tay đến ngặt nghèo,
Khắp rừng hương ngát với chim kêu;
Tự do thưởng ngoạn, ai ngăn được,
Cô quạnh đường xa, vợi ít nhiều.
(Huệ Chi dịch)
Quả đúng như Hoàng Trung Thông viết khi đọc Nhật kí trong tù:
Ngục tối trái tim càng tỏa sáng
Xích xiềng không khóa nổi lời ca
Trăm sông nghìn núi chân không nghỉ
Yêu nước yêu người yêu cỏ hoa.
3. Tôi muốn mượn lời nhà thơ Liên Xô cũ Ra-un Gam-za-tôp viết trong Đaghextan của tôi để kết thúc bài viết nhỏ này:
Thơ không phải là hoa trong chậu cảnh, Ở đó tất cả đều hiện ra trước mắt anh, anh không cần phải tìm đâu thêm, thơ giống như hoa trên đồng nội, trên rặng núi An-pơ. Nơi mỗi bước đi lại hứa hẹn thêm một bông hoa mới, kì diệu hơn.
Bắc Sơn, 5/1991 – Vân Giang, 7/2011
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 11.7.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Về bài thơ Nguyên Tiêu
Bùi Ngọc Minh
1- Tên bài thơ: Theo Wikipedia tiếng Việt: Tết Nguyên Tiêu hay tết Thượng Nguyên là một tết, lễ hội cổ truyền của Trung Quốc vào ngày 15 (ngày rằm) tháng giêng Âm lịch. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa, vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía của Phật tổVào ngày này, cũng có gia đình Việt Nam tụ tập ở nhà trưởng họ hoặc nhà thờ họ. Theo sách Trung Hoa, lễ Thượng Nguyên không phải là một ngày lễ Phật. Trước đây chính là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua hội họp các ông Trạng để thết tiệc và mời vào vườn Thượng Uyển thăm hoa, ngắm cảnh, làm thơ.
Rằm Tháng Giêng ở Việt Nam xa dần điển tích nguyên thủy của Trung Hoa mà nhập vào Phật giáo. Dù kinh điển nhà Phật không nói đến ngày rằm Tháng Giêng nhưng trong dân chúng thì đây là dịp lên chùa cúng sao giải hạn, ước nguyện điềm lành. Các chùa thường tụng kinh Dược Sư và khuyên các Phật tử cùng tụng niệm và hồi hướng công đức để thế giới được an lành. Ở Trung Quốc và Đài Loan hiện nay, Tết Nguyên Tiêu (rằm tháng giêng, đêm rằm đầu tiên của năm mới) được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới và còn được gọi là "Lễ hội đèn hoa" hoặc "Hội hoa đăng", có thể bắt nguồn từ tục cúng tế thời Hán Vũ Đế, với tập tục trưng đèn trên cây nêu trước cửa nhà, đốt đèn, chơi lồng đèn ngũ sắc, có thể kéo từ 13 đến 17 tháng giêng. Được yêu chuộng là những lồng đèn có hình thù rồng, phượng, mười hai con giáp hoặc những nhân vật cổ trongtruyền thuyết, cổ tích. Ngoài ra còn những tập tục khác như: cúng tế cầu an cầu phước, ăn bánh trôi (gọi là "thang viên" - viên tròn trong nước), thi đoán hình thù trên lồng đèn, ngâm thơ. Người Đài Loan còn ghi những câu ước nguyện của mình vào đèn lồng và thả bay lên trời. Nhiều người còn coi đây là mùa Valentine phương Đông, tương tự như lễ Thất Tịch. Thơ Đường xưa đã viết: Nguyên tiêu chi dạ hoa lộng nguyệt, mùa trăng tròn lung linh sắc màu hoa đăng rực rỡ cũng là dịp Ngưu Lang Chức Nữ hiện đại gặp gỡ se duyên. Ở Philippines, có lễ hội diễu hành truyền thống vào ngày rằm tháng giêng, đánh dấu khởi đầu năm mới. Ở Việt Nam, những nơi có đông cộng đồng người Hoa sinh sống như Chợ Lớn, Hội An cũng có nhiều sinh hoạt đặc biệt.
2. Hoàn cảnh cảnh hứng: Bài thơ được viết vào rằm tháng giêng 1948 sau một cuộc họp của Trung ương Đảng, thi hứng là sự cộng hưởng từ những xúc cảm về mùa xuân và đặc biệt là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp (Việt Bắc thu đông 1947, đèo Bông lau…) Với Bác Hồ tứ thơ đẹp nhất là thắng lợi của cách mạng.
3. Về bản dịch thơ của Xuân Thủy: nguyên tác viết bằng chữ Hán theo thể tứ tuyệt. Thơ tứ tuyệt Đường luật thường mang sắc thái trang trong cổ kính, bản dịch lục bát tuy đã có nhiều thành công nhưng không thể lột tả hết thần thái của nguyên tác. Câu khai đề chỉ là một câu kể giàu sức gợi Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên (Đêm nay, rằm tháng giêng trăng rất tròn), bản dịch thơ lại dịch thành câu tả (Rằm xuân lồng lộng trăng soi). Nguyên tác ẩn chữ xuân trong hai chữ nguyên tiêu, bản dịch thơ làm lộ ra, nhất là nguyên tác không có chữ lồng lộng khiến ý thơ lộ, mạch thơ thẳng, một điều tối kị trong phép làm thơ xưa nay. Câu thừa đề: Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên- nguyên tác có đến ba chữ xuân bản dịch thiếu mất một chữ Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân, đó là chưa kể chữ xuân giang là sông xuân lớn chỉ còn là sông xuân (nếu là sông nói chung người xưa thường dùng chữ hà) Chữ xuân trong tiếng Hán mang quan niệm triết lí nhân sinh của người xưa (sự hòa hợp âm dương). Chữ tiếp cho thấy nhà thơ luôn nhìn thiên nhiên tạo vật trong quan hệ thân tình bầu bạn (Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt – Nguyệt tòng song khích khán thi gia (Vọng nguyệt), Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân (Tân xuất ngục học đăng sơn.. Nhật kí trong tù), Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa (Cảnh khuya), Sao đưa thuyền chạy thuyền chờ trăng lên (Đi thuyền trên sông Đáy…) Câu chuyển: Yên ba thâm sứ đàm quân sự, mấy chữ yên ba là khói sóng vốn vang hưởng câu thơ Lí Bạch trong bài Hoàng hạc lâu tông Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng: Yên ba tam nguyệt há Dương Châu, và dường như còn đồng vọng với những câu thơ trong bài Đêm chơi trăng trên sông xuân của Trương Nhược Hư. Trong thi phẩm bất hủ những thi nhân đời Đường thấp thoáng ẩn hiện hình bóng tao nhân mặc khách với nỗi buồn li biệt ngày xuân, hay thú ngao du phiêu bồng sông xuân trong đêm trăng, còn chủ thể trữ tình trong Nguyên tiêu lại hiện lên trong tư thế kép anh hùng – nghệ sĩ, thi sĩ - chiến sĩ qua ba chữ đàm quân sự (bàn việc quân), bản dịch thơ chỉ dịch thành Giữa dòng bàn bạc việc quân, khiến ý vị cổ điển mà hiện đại của thi phẩm bị hư hao đi rất nhiều. Câu hợp: Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền (nửa đêm trở về trăng đầy thuyền). Câu thơ như vang hưởng chất Đường thi trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều) của Trương Kế:
Nguyệt lạc dạ đề sương mãn thiên
Giang tâm ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Dịch nghĩa:
Trăng tà tiếng quạ kêu, sương đầy trời,
Giữa dòng sông, lửa ông chài gối lên sầu mà ngủ.
Chùa Hàn Sơn ở ngoài thành Cô Tô,
Nửa đêm tiếng chuông đến với thuyền khách.
Dịch thơ:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài đậu bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
(Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu dịch)
Ở bài thơ của Trương Kế hiện lên một chủ thể trữ tình thi nhân ẩn sĩ, lánh đời thoát tục, còn trong Nguyên tiêu lại là hình ảnh thi nhân – chiến sĩ giữa ngày nguyên tiêu đang bàn việc nước việc dân (Lòng riêng riêng những bàn hoàn – Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng – Thuyền về trời đã rạng đông – Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi, Đi thuyền trên sông Đáy).Ta còn có thể nhớ tới những câu thơ Nguyễn Trãi: Thuyền chở yên hà nặng vạy then hay Túi thơ chứa hết mọi giang san… Câu thơ dịch đã chuyển từ câu thông báo trong nguyên tác thành câu miêu tả, thậm chí là đặc tả là điều mà thơ cổ điển không mấy khi dùng, bởi bản dịch thơ thêm vào mấy chữ bát ngát, ngân: Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. Nói dài một chút, không phải để chê người dịch thơ mà để thấy cái khó của người dịch thơ và lưu ý người đọc thơ tốt nhất hãy đọc thơ qua nguyên tác. Bác rất yêu trăng, yêu thiên nhiên tạo vật vì vậy mà thơ Người thấm đẫm ánh trăng. Từ hình ảnh trăng trong những vần thơ của Nhật kí trong tù đến hình ảnh trăng trong các thi phẩm viết ở chiến khu Việt Bắc có thể thấy được ít nhiều dấu ấn của những chặng đường hoạt động cách mạng của lãnh tụ suốt đời và tất cả vì dân vì nước.
4. Cả bài thơ đều thấp thoáng ẩn hiện chữ xuân. Đó là sự cộng hưởng giữa xuân thiên nhiên tạo vật và xuân của lòng người cách mạng khi thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp đang dần đến. Viết tới đây tôi bỗng nhớ tới một diển tích trong văn học văn hóa Trung Hoa cổ: Ngụy chủ Lí Dục thời Nam Bắc triều, khi giặc đánh đến chân thành vẫn ngồi làm thơ, được câu nào cho là đắc ý lại cho cung nữ phổ vào đàn sáo mà ngâm ngợi và lấy làm đắc ý. Vì vậy mà mất thành mất nước, Lí Dục bị kẻ thù bắt sống. Viên tướng công thành khi biết việc này than rằng: Giá như ông ta dùng thời gian làm thơ để nghĩ cách giữ thành thì làm sao ta có thể bắt được ông ta. Còn Bác của chúng ta thì:
Nguyệt thôi song vấn: - Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi.
(Báo tiệp)
Dịch nghĩa:
Trăng đẩy cửa sổ hỏi: - Thơ xong chưa?
- Việc quân đang bận chưa làm thơ.
Bài thơ hay nhất, đẹp nhất, tứ thơ lớn nhất với Bác Hồ là việc cứu dân, cứu nước. Nguyên tiêu là thời khắc thiêng liêng trong văn hóa, trong tâm hồn tâm linh mỗi con dân đất Việt, đó là lúc mọi người thường xum họp gia đình, thắp nén hương cho ông bà tiên tổ trước bàn thờ gia tiên, lúc ấy (1948) Bác Hồ vẫn: Yên Ba thâm xứ đàm quân sự. Đó là sự khác biệt rất lớn giữa chúng ta và anh hùng giải phóng dân tộc kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh và những người cách mạng đích thực. Xúc động trước tấm lòng của Bác với Đất Nước, Cách Mạng, với Nhân Dân bao nhiêu, tôi càng thấy bất bình căm phẫn trước sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự tha hóa suy đồi về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đặc biệt là những người có chức có quyền hiện nay bấy nhiêu. Bởi đó là một trong những nguyên nhân trong những nguyên nhân có thể làm mất chế độ như Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ ra trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa qua.
Bác Hồ luôn đặt việc dân việc nước lên trên thơ ca nghệ thuật. Cái đẹp mà người hằng mong ước suốt đời là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành. Bài học ấy thật thấm thía với tôi, một người chọn văn chương làm cái nghiệp sống.
Vân Giang, Lập Xuân năm Giáp Thìn 2012
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 06.02.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Suy ngẫm về câu thơ Nguyễn Đình Thi:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
(Đất nước)
Bùi Ngọc Minh
1. Mỗi khi nhớ về một nhà thơ, tâm tư ta thường ngân vang những bài thơ hay, những câu thơ hay của nhà thơ ấy. Đó là những vần thơ mà người thì cho là làm họ lạnh xương sống, người thì bảo rằng làm họ chảy nước mắt, thậm chí có người còn cực đoan hơn khi cho rằng đọc được một câu thơ hay có chết cũng sướng… riêng tôi lại thấy khi có may mắn, diễm phúc hội ngộ với những câu thơ như vậy, dường như có một mũi kim, khẽ chạm vào đâu đó trên da thịt và làm lan tỏa khắp con người mình một cảm giác đê mê, tâm trí lâng lâng… để rồi nó ám ảnh làm mình không thể nào quên được. Câu thơ: Ôm đất nước những người áo vải – Đã đứng lên thành những anh hùng của Nguyễn Đình Thi, với tôi là một trong những câu thơ như thế.
2. Đất nước là một bài thơ không dài lắm (49 câu thơ) nhưng lại được viết trong khoảng thời gian khá dài (1948 -1955). Điều này cho thấy nhà thơ trăn trở suy tư, nung nấu, lao tâm khổ tứ về đứa con tinh thần của mình như thế nào. Câu thơ đạt đến sự giản dị trong sáng mà cao sang vô cùng. Nó trong suốt như ánh sáng mặt trời,(nhưng khi phân tích quang phổ lại lấp lánh bảy sắc cầu vồng). Hình ảnh, câu chữ không tân kì hiện đại, ngỡ như đọc lên là hiểu ngay, không ngờ lại sâu sắc, hàm súc tuyệt vời:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Toàn những chữ quen thuộc mà sao ám ảnh ta đến thế? Chữ ôm trong tiếng ta là một động từ, thường dùng chỉ những cử chỉ âu yếm thân thiết trong quan hệ máu mủ ruột rà, thân tình thắm thiết (Tôi dang tay ôm nước vào lòng – Sông mở nước ôm tôi vào dạ, Nhớ con sông quê hương, Tế Hanh); cũng có khi dùng trung tính, hoặc dùng chỉ sự tham lam vô độ nào đó (Này này đế quốc biết hay chăng? (…) Trái đất ngươi ôm, ôm chẳng nổi – Ta với trời kia cả cung trăng, Lê Đức Thọ). Trong câu thơ Nguyễn Đình Thi, chữ ôm thuộc nghĩa đầu tiên.Những người áo vải, ai chẳng hiểu là quảng đại dân chúng là tập đoàn người đông đảo nhất, nó phân biệt, thậm chí đối lập với những người áo gấm. Những người áo vải còn được gọi là bách tính, trăm họ, dân đen con đỏ, dân chúng hay thảo dân (Khi là cây mác cây chông – khi là ngọn cỏ, khi không là gì), chúng sinh, quần chúng và gần đây còn có chữ cửu vạn (vốn là tên một con bài trong cỗ tổ tôm vẽ hình một người đang còng lưng vác một kiện hàng lớn)…những kiếp vô danh, sống lầm lũi, lam lũ thậm chí chịu thiệt thòi nhiều thứ: đói nghèo, tăm tối, tủi nhục…nhưng đông đảo nhất ở mọi không gian kiếp người. Hạt nhân của những người áo vải ở đất nước này, đến nay là lớp người nào? Nếu không phải là người nông dân cổ cày vai bừa, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn ,bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó – Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung – Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu)? Vậy mà, trong câu thơ, những người áo vải bỗng vụt hiện lớn lao kì vĩ, ôm (gữi gìn, bảo vệ và dựng xây) đất nước giang sơn gấm vóc này, trong suốt chiều dài lịch sử nhiều nghìn năm. Không gian giang sơn đất nước rộng lớn, bỗng trở nên nhỏ bé thân thương bởi tấm lòng của những người áo vải. Họ là những người khổng lồ về lòng yêu nước và sức sống mãnh liệt trường tồn. Không hiểu sao cứ đọc câu thơ này, tôi lại liên tưởng đến bức tranh thánh Đức Mẹ đồng trinh bế Chúa hài đồng của Thiên Chúa giáo. Sau này, các nhà thơ thế hệ chống Mĩ đã suy tư về những người áo vải vô cùng thấm thía sâu sắc:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh...
(……)
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
(Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm)
Cha tôi đó dân làng tôi vậy đó
xả hết mình khi đất nước gặp tai ương
rồi thanh thản trở về với ruộng
sống lặng yên như cây cỏ trong vườn
(Cầu Bố, Nguyễn Duy)
Từ khi lập quốc, người áo vải xứ ta luôn thủy chung sống chết với đất nước này. Họ không tiếc công sức, tiền của thậm chí cả sinh mạng của mình vì sự trường tồn của Tổ Quốc trong trường kì lịch sử dựng nước và giữ nước. Trái tim yêu nước của người áo vải cực kì đáng kính trọng Và cho đến thời nay, họ vẫn là những người rất quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất, có công lớn nhất đưa nước Việt ta, từ một nước nông nghiệp lúa nước triền miên thiếu đói về lương thực, trở thành một trong những cường quốc hàng đầu về xuất khẩu lúa gạo, nhưng họ vẫn là tầng lớp xã hội chiếm số đông nhất trong số những người có thu nhập thấp. Họ không như những Trần Ích Tắc, Trần Thiêm Bình, Lê Chiêu Thống… bán nước cầu an, không như Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn tuyên bố tử thủ Sài Gòn, rồi lặng lẽ ôm tài sản quốc gia …đánh bài chuồn…? Người áo vải trở nên khổng lồ, mang tầm kích huyền thoại trong tư thế trữ tình đậm chất sử thi Ôm đất nước… đứng lên thành những anh hùng. Nhạc điệu, nhịp điệu, âm điệu của câu thơ, không phải được tạo nên do âm vận, mà là thứ nhạc của câu thơ tự do rất gần, nếu không muốn nói là áp sát với lời nói thông thường, với khẩu ngữ, nhưng vẫn cứ là thơ đích thực. Đó phải chăng là âm nhạc của tấm lòng nhà thơ với những người áo vải? Ta hiểu vì sao, trước đó Nguyễn Đình Thi chủ trương một lối thơ không vần, nhưng rồi do những lí do chủ quan và khách quan, chủ trương cách tân thơ Việt của ông giữa đường đứt gánh. Thật đáng tiếc thay! Ta cũng hiểu vì sao Đất nước được viết trong thời gian dài như vậy. Đó phải chăng là kết tinh những suy tư mang tầm triết luận về lịch sử, văn hóa, về thân phận người áo vải ở xứ ta của Nguyễn Đình Thi; điều mà thời gian gần đây giới học giả (người đứng đầu: nhà văn vừa quá cố Hoàng Ngọc Hiến) gọi là minh triết? Câu thơ này có thể gọi là minh triết Nguyễn Đình Thi được chăng? Vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt, kiên cường bất khuất của đất nước này đồng nghĩa với sự mất mát hi sinh, giản dị, bình dị, hiền hòa mà vô cùng quật khởi của những người anh hùng áo vải qua tất cả những thăng trầm của lịch sử dân tộc.
3. Mỗi một thi phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật, mà nói như Vưgôtxki (Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật) là mỗi tác phẩm đều có cơ thể học và sinh lí học, tâm lí học của nó. Mỗi bài thơ, nói theo y lí phương Đông hình như cũng có một hệ kinh lạc, một hệ thống những huyệt đạo. (Giáo sư Nguyễn Tài Thu đã từng châm cứu biểu diễn khoa học ở một số nước phương Tây để các nhà phẫu thuật danh tiếng thực hiện những ca đại phẫu mà không cần gây mê). Huyệt đạo quan trọng nhất của thi phẩm Đất nước, chính là câu thơ ta đang bàn. Còn nhớ trong một bài viết về Đất nước, có người cho rằng người ra đi đầu không ngoảnh lại, chính là người chiến sĩ của trung đoàn Thủ Đô, sau những ngày tiêu thổ kháng chiến ở Hà Nội mùa đông năm 1946. Hiểu như vậy cũng chỉ là phỏng đoán, vì văn bản bài thơ không có chi tiết nào nhắc đến biến cố lịch sử ấy. Việc xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ này không đơn giản. Phần mở đầu xưng tôi (Tôi nhớ những mùa thu đã xa), phần tiếp theo lại là chúng ta (Trời xanh đây là của chúng ta…), rồi ta (Lòng dân ta yêu nước thương nhà)… Nhân vật trữ tình chính trong bài này là những người áo vải. Tất cả những cách xưng danh khác đều là những biến thể của người áo vải. Cứ trả lời những câu hỏi sau sẽ rõ: Tôi là ai? Người ra đi là ai? Chúng ta là ai?Những người chưa bao giờ khuất là ai? Ai bị bọn chúa đất, thằng giặc Tây đè cổ lột da? Bát cơm ai chan đầy nước mắt?... Tất cả đều có thể trả lời tường minh và thuyết phục: Những người áo vải. Câu thơ đã làm hiện hình cả thần thái, hồn vía của bài thơ. Nó cho thấy tấm lòng, tài hoa, tinh hoa, tinh huyết của nhà thơ luôn hướng về những người áo vải. Còn nhớ, một thi sĩ Anh quốc thế kỉ XVIII có bài thơ:
Để thấy vũ trụ trong một Hạt cát
Và Bầu trời trong một Đóa Hoa rừng
Hãy giữ vô cùng trong lòng tay bạn
Và Thiên thu trong một khắc đồng hồ.
(William Blake (1757 – 1827), chuyển dẫn theo Cao Chi- Vũ trụ toàn ảnh: một kỉ nguyên khoa học mới?-Tạp chí Tia Sáng, 16/ 04/ 2009, tctiasang@gmail.com)
Từ một hạt cát, một đóa hoa hồng, có thể thấy cả mô hình vũ trụ. Ở một phương diện nào đó, ta có quyền hiểu câu thơ đang bàn trong quan hệ với tổng thể toàn thi phẩm theo tinh thần ấy. Khổ cuối, bài thơ đã phục hiện một tượng đài bất tử về vẻ đẹp bình dị mà vĩ đại của những người áo vải, một biểu tượng hoành tráng, cô đọng của nước Việt Nam thời đại mới:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Chủ thể làm nên tượng đài tráng lệ này là ai? Nếu không phải là những người áo vải.
Câu thơ còn góp phần giúp ta hiểu vì sao Nguyễn Đình Thi viết ca khúc bất hủ Người Hà Nội, tiểu thuyết Vỡ Bờ, vở kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan…
4. Có lẽ vì vậy mà với tôi, cứ nhớ tới người nghệ sĩ đa tài Nguyễn Đình Thi, lập tức câu thơ:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
cứ ngân nga mãi trong hồn…
Vân Giang, ngày 18/3/2011
Bùi Ngọc Minh
Bùi Ngọc Minh
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ TP.Ninh Bình ngày 19.3.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét