Nhà Văn Của Khát Vọng Tình Thương - Tùy bút Nguyễn Anh Tuấn
Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015
Thứ
hai - 13/08/2012 21:07
Nếu
được sống trăm lần Chúng con xin nguyện được chết trăm lần Vì đất Mẹ Đất vô
lượng tình thương Lưu Trọng Lư
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn
Anh Tuấn
Bút
danh khác Nguyễn
Yên Thế
Địa
chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT:
0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
NHÀ VĂN CỦA KHÁT VỌNG TÌNH THƯƠNG
Tùy bút Nguyễn
Anh Tuấn
-
Nhân Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lưu Trọng Lư (19/6/1911 - 19/6/2011)
Nếu được sống trăm lần
Chúng con xin nguyện được chết trăm lần
Vì đất Mẹ
Đất vô lượng tình thương
Lưu Trọng Lư
Nếu được sống trăm lần
Chúng con xin nguyện được chết trăm lần
Vì đất Mẹ
Đất vô lượng tình thương
Lưu Trọng Lư
Cách đây chưa lâu, trong
khi cả nước cồn cào lo toan và đau xót trước cảnh tan hoang bởi lũ lụt ở miền
Trung, trên trang mạng Vanvn xuất hiện một thiên tiểu thuyết của nhà văn Lưu
Trọng Lư: "Cầu sương điếm cỏ" (do nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên
Ân mới tìm thấy) viết về hậu quả cơn lũ lụt khủng khiếp ở Quảng Bình năm 1935;
và câu chuyện thương tâm nhà văn kể lại quanh số phận hai đứa trẻ bị mất mẹ
trong lũ phải lang thang tự kiếm sống, cùng với những cảnh đau lòng hiện tại
dường như cũng góp phần lay động lương tri xã hội- cái lương tri vốn bắt đầu
rệu rạo bởi những tiêu cực tràn lan khó kiểm soát... Lần đầu tiên được đọc
thiên truyện đó, tôi đã không chỉ một lần ứa lệ trước tấm lòng của nhà văn và
bồi hồi nhớ lại cảnh những bàn tay trẻ em dỡ ngói nóc nhà kêu cứu trên nước
trắng... Còn giữa những ngày nóng nực tháng 6 này, giữa cơn "địa
chấn" của lòng người trước chủ quyền Đất Nước bị xâm phạm trắng trợn, tôi
đã bỗng nhớ đến một bài thơ yêu nước Tây Ban Nha do chính nhà văn Lưu Trọng Lư
đọc cho nghe, cách đây hơn hai chục năm, trong căn buồng của nhà văn đối diện
phía sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Có mấy câu in hằn trong tâm trí tôi:
Nếu
tôi đã mở môi để ngợi ca Tổ quốc
Ngợi ca mặt sáng trong và dữ dội của Người
Mở đến nỗi đôi môi tôi xé rách
Thì vẫn còn đây lời nói của tôi …
(Blax Đê Ôterô)
***
Nội dung bài thơ Tây Ban
Nha trên và cái cách thể hiện nó của nhà văn Lưu Trọng Lư đã khiến tôi rung
động sâu sắc. Đôi mắt ông long lanh ngấn lệ, giọng đọc tương phản với mưa thu
buồn bã bên ngoài... Lúc đó, ai dám nghĩ rằng, người say đắm những vần thơ rực
lửa kia lại là người đã từng ngồi trên một gác xép nghe mưa rơi : "Mưa chi
mưa mãi/ Buồn hết nửa đời xuân/ Mộng vàng không kịp hái", và để dành thi
hứng của một thủ lĩnh phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật” cho những cuộc chia
ly, những cuộc tìm kiếm vô vọng: "Tiếng sóng vỗ trong giờ ly biệt/ Nghe
vội vàng bi thiết bao nhiêu". Và cũng chính ông là người đã thâu tóm được
một cách thần tình cái tâm trạng ngẩn ngơ tội nghiệp của cả một thế hệ trong
bài thơ Tiếng Thu bất hủ. Nhiều người đã phân tích rất hay và thấu đáo về bài
thơ đó. Nhưng theo tôi, chưa ai vạch ra được điều này: đằng sau bóng sương mù
thổn thức và người cô phụ héo mòn là nỗi niềm khao khát tình yêu thương đồng
loại của nhà văn, giữa một không gian thiếu vắng tình thương. Và đó cũng chính là
sự "bi thiết" tận đáy lòng của một nhà văn nổi tiếng vì đa cảm và mơ
mộng!
Ngày em ra khỏi nôi
Bập bẹ đôi tiếng làm người
Anh đã sớm hái vần thơ tội lỗi
Quằn quại tuổi hai mươi
Đôi cánh phòng khuya không hé mở
Nằm nghe vọng lại tiếng thương đau:
Nửa đời úp mặt trong đêm tối
Từ trên gác lạnh, viết thơ sầu!
Suốt những chặng đường
sáng tác sau đó của nhà văn, sự khắc khoải đến"bi thiết" của một
người tự nhận "Ta: giang hồ một thi sĩ/ Dừng nghe tiếng gọi từ xoáy hồn
ta" bao giờ cũng là Tình thương:
Đi giữa vườn nhân dạ ngẩn ngơ
Vì thương người lắm mới say thơ...
Cái tình thương trĩu nặng
và xa xót với Đời khiến trái tim nhà văn thường rỏ máu- và đó cũng là lúc Thơ
xưa và Thơ nay hòa nhập trong ông để bật ra những vần thơ trang văn có
"Thần" có thể giúp ông tiếp tục khẳng định vị trí không ai thay thế
nổi của mình trên văn đàn Việt hiện đại:
Ai đưa khúc Bình Minh Anh Vũ
Cho ta, trong chiều xế Đỗ Quyên?
Ai làm hồng máu con chim
Cho tiếng hót trong ngần bên cửa số?
Cuộc sống gian nan đau
khổ, "Quỷ, người lẫn lộn/ Tình nghĩa liêu trai" nhưng cũng chan chứa
ân tình đáng trọng dường như lúc nào tìm thấy ở người thi sĩ vốn nhiều nước mắt
này một sự ký thác sâu nặng:
Trong cuộc hành trình bão táp
Tôi vẫn ngừng chân ngắm hoa dại bên đường
Mở cảng lòng đón những cánh chim cô đơn
Những hồn oan đang vật vờ trốn tuyết
và:
Có hạt máu vùi thân cho đất sạch
Có tia nắng chiều muốn hoá kiếp ban mai...
Khi nhà văn đề xuất một
phương châm sống và tuyệt đối trung thành với nó cho đến giờ phút chót trên cõi
thế: "Ta thà bị lừa còn hơn không tin vào con người", thì ông đã từng
trải qua "Những bão bùng và những hạn hán/ Những trận mưa lay đất, những
cơn khát bỏng trời", đã "Từ đỉnh mộng tôi xuống tận hố đời" để
chứng kiến và miêu tả biết bao câu chuyện thương tâm, những bi kịch đủ loại,
những thất bại của con người nơi thôn dã hay thành thị, đã nhận ra sự mong manh
của phận người; và vô tình ông đứng vào hàng ngũ của những triết gia-nhà tư
tưởng, vượt xa những phạm trù đạo đức luân lý của một thời để có thể khái quát
thân phận cả nhân loại, cùng triết lý ứng xử đầy nhân bản: "Ta thà bị lừa
còn hơn không tin vào con người"! Đó là biểu hiện của một tình yêu thương
rộng lớn chân thành, một nhân cách cao cả, một trí tuệ mẫn tiệp. Và đó cũng là
dấu hiệu đích thực của một nhà văn lớn.
Ngay cả khi "ngơ
ngác" như một chú nai vàng vô tội, nhà văn cũng đã dấn bước vào con đường
của những nhà văn hiện thực. Rồi tới khi trải lòng mình theo những biến cố lịch
sử dân tộc, ông vẫn gắng nhìn thấu cõi đời này để tiếp tục lý giải đến tận cùng
sự thật ở tận "mép bờ hữu hạn" lẫn tâm trạng của người nghệ sĩ ngôn
từ- những gì mà trước kia ông đã từng lý giải trong nỗi thảng thốt "giật
mình ta thấy bồ hôi lạnh" để rồi lại chìm sâu hơn trong chán nản tuyệt
vọng:
Bãi nhân sinh trơ một đá ngồi
Trầm luân – căm giận
Đường xoài – chim động
Một cánh soi
Một tiếng người
Vòng vọng
Thú gào
Bụt ngủ
Em thẫn thờ
Sự tìm tòi hình thức thể
hiện văn chương ở đây cũng chính là kết quả của một quá trình căng thẳng đào
sâu vào nội tâm của người cầm bút, cũng như tới tận cốt lõi hiện thực.
Nhà nghiên cứu văn học Đỗ
Quyên (Canada) ngay sau khi đọc nhanh bản thảo tập thơ "Bài ca tự
tình" mà tôi gửi, đã được biết thêm ba bài nữa: "Từ vách này thời
gian ta gõ", "Cánh vạc", "Bầy nhện và nhà thơ", và anh
đã như reo lên trong một thư điện tử mới nhất:
"Với nhiều sáng tác ở
thể loại thơ có dung lượng lớn như vậy, nhất là về phong cách và ngôn ngữ, tôi
xin được coi Lưu Trọng Lư là Nhà trường ca lãng mạn thượng thặng. Chất LÃNG MẠN
của Thơ Mới thật khủng khiếp! Và tôi đã vừa thắp ngay nén hương để tạ lỗi Cụ:
Như không ít người, kẻ này đã hiểu sai giai đoạn ‘thơ CÁCH MẠNG’ của tiền bối.
Rất lạ. Hiện đại mà tươi tắn, khác cả về thi pháp hình thức với dòng trường ca-
thơ dài đã có; không kể với khuynh hướng sử thi thường thấy thời đó mà ngay cả
với dòng thơ dài đã trở thành biểu tượng của ‘trường ca’ như các bài ‘Những
người trên cửa biển’ (Văn Cao), ‘Em ơi - Hà Nội phố’ (Phan Vũ), v.v. Lạy Chúa!
Chúng con chẳng ‘lãng mạn’ mà cũng chửa ‘hiện thực’ được tới độ siêu đẳng thế
này, Cụ Lưu ơi:
Một ngày thu bừng nắng mới
Da thịt bỗng xôn xao
Em ngơ ngẩn ra vào
Xuống sân em soi mình trên "vũng sáng”
Em mổ mổ từng hạt nắng
Ôi, ngăn sao được lòng em vui?
Nhấc chân em xoay tròn điệu múa
Vướng trên mình còn đôi cánh bay bay.
Ai lượng hết chuyện sớm chiều tráo trở
(….)
Gái mười bẩy
Một dòng sông chảy
Cuộn hút cả trời xanh
Chiếc mũ rơm, hào quang sáng rực
Em phá cửa, em giộng chuông
Đường em bay lạnh giá các thiên đường
Em châm lửa đốt ba tầng địa ngục
Rạng rỡ hành tinh
Ngơ ngẩn nhân tình."
(Trích thư điện tử lúc 7h ngày 11/6/2011)
Với sự ra đời của bộ sách
đồ sộ "Tác phẩm:Truyện ngắn &Tiểu thuyết" (NXB Lao động
&Trung tâm ngôn ngữ Văn hóa Đông Tây, 2011) và tập thơ dày "Bài ca tự
tình" ( NXB Hội nhà văn, 2011) gồm những bài thơ & trường ca hầu như
chưa hề được công bố của nhà văn Lưu Trọng Lư, các nhà nghiên cứu văn học trong
& ngoài nước sẽ đủ tư liệu văn bản để có điều kiện đi sâu vào những vấn đề
thi pháp học như phong cách, phương pháp sáng tác... nhằm đánh giá một cách
toàn diện, chuẩn xác về một nhà văn quá ư phong phú mà dường như bị lãng quên,
bị coi nhẹ về văn xuôi hư cấu-tự sự, và về thơ ở giai đoạn sáng tác từ sau Cách
mạng tới nay. (Trong phạm vi bài báo nhỏ này, với năng lực có hạn, tôi chỉ dám
lạm bàn về một khía cạnh thuộc về nội dung tư tưởng của Thơ Lưu Trọng Lư mà
theo thiển ý riêng tôi là hết sức quan trọng: khát vọng Tình thương)
***
Khi nhà văn Lưu Trọng Lư
đã tìm thấy "Vòng quỹ đạo của thơ tôi"- cũng có nghĩa là tình yêu
thương thường trực tìm được "địa chỉ" để gửi gắm; hàng loạt tập thơ,
tập tuỳ bút, bài báo, vở kịch ra đời dồn dập giống như một thứ "nhật ký
tinh thần" của nhà văn. Trong thơ văn cũng như trong đời sống thường nhật,
điều đáng yêu và đáng quý nhất ở nhà văn này là sự chân thành. Chân thành đến
ngây thơ và cảm động. Ở ông, văn thơ và đời hầu như không có gì tách biệt. Khi
ông nói rằng, ông nguyện làm "cây thông đứng hát/ Dâng trọn niềm vui cho
tuổi trẻ lên đường”, thì chính ông cũng đã từng lăn lộn dưới mưa bom vùng tuyến
lửa Khu 4 cũ, từng có mặt bên các chiến sĩ trận địa chốt biên giới phía Bắc, và
đã từng đặt chân trên đỉnh Trường Sơn hàng tháng ròng để tìm lại vết chân những
người lính giải phóng vượt "trọng điểm”- khi tuổi đã ngoài bảy mươi! Ông
yêu những vần thơ trong trẻo của cô thợ máy Lý Phương Liên đến nỗi, trong lúc
ăn cơm ông cũng dừng đũa ngâm nga: "Buộc cánh anh/ Buộc cánh anh, cũng
chẳng thành tình yêu..." Và khi biết Lý Phương Liên cùng người chồng là
nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy bị hành "lên bờ xuống ruộng" bởi mấy câu
trong bài thơ "Nghĩ về Thúy Kiều", ông đã chảy nước mắt lo lắng xót
xa... Kẻ viết những dòng này còn nhớ rõ cái lần được tháp tùng ông- lúc đó là
Tổng thư ký Hội nghệ sĩ Sân khấu về thăm đoàn kịch nói ở Nam Định; trong bữa ăn
trưa, giữa lúc hăng hái nhận xét về vở diễn mới của đoàn ông cũng kịp nhận thấy
mâm cơm của các nghệ sĩ chỉ có rau, ông liền bưng cái đĩa thịt gà đãi khách duy
nhất sang cho họ, khiến tất cả lặng đi nghẹn ngào...
Và đêm nay, giữa những con người
Tôi vẫn gửi thầm một tiếng thương trong trẻo
Bí quyết lớn nhất tạo cho
nhà văn sức mạnh tinh thần để sống qua mọi nỗi cam go và dũng cảm viết phải
chăng chính là "giữ mãi hồn thương"? Ông thương khóc cho "Bé
Nga" ở Thanh Hóa bị bom Mỹ giết hại. Ông thao thức trằn trọc khi nghĩ tới
những con người vô gia cư mà ông gọi là "Những cánh vạc trong đêm Niu
Đenli"... Cả đời ông khao khát được "đi trong nghĩa tình không biên
giới ". Cả đời ông băn khoăn vì "chữ thương chưa trọn"... Ông
căn dặn các con:
Như con ong phải săn hương sục mật
Con người phải trải đẹp tấm thương
…
Và trên những tờ giấy trắng tinh
Con ghi lại những gì đời lặng thầm bỏ sót
Và những gì con người đã làm được
Cho con người!
Tình thương mà ông có được
và hiểu được sau bao nỗi "cô đơn lạnh người" đã trở thành nguồn thi
hứng lớn nhất cho sáng tạo thơ văn:
Có khúc nhạc nào bằng khúc nhạc ấy
Của lời trao tiếng gửi giữa con người
Cũng bấy nhiêu tiếng khóc tiếng cười
Mà vàng ngọc thế gian không sánh nổi
Tình thương đáng kể nhất
của nhà văn là dành cho người phụ nữ xưa nay- những người vợ, người mẹ, người
chị, người em gái, mà đối với họ "không những tôi có một tình thương mà
còn nhìn thấy một vẻ đẹp mà tôi trân trọng suốt đời" (Mùa thu lớn). Nhà
văn viết nhiều về người mẹ và người chị của mình mà "cả cuộc đời chỉ có
nước mắt ", và sau đó là về những người mẹ Việt Nam mang "tấm lòng đại
nghĩa" tiễn chồng tiễn con đi mỗi khi có tiếng gọi non sông... Ở đoạn đời
nào, nhà văn cũng dành bao xót thương cùng sự bênh vực tha thiết cho Thúy Kiều-
nhân vật "từ bao giờ làm tôi quý thương hơn bội phần", nhân vật xã
hội- thẩm mỹ đặc biệt ám ảnh ông và buộc ông trăn trở đến cháy lòng về sự
nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng con người...
Nhà văn diễn đạt về sứ
mệnh của người nghệ sĩ trước cuộc sống một cách độc đáo, hồn hậu, và sao cũng
trĩu nặng tình thương:
Một câu thơ cũng phải mồ hôi từng giọt đổ
Cũng sẽ làm toát mồ hôi
Những uỷ ban kế hoạch...
Thơ tôi không có buổi có giờ
Giữa cuộc sống thường xuyên có mặt!
Là một nhà văn giàu tình
thương cố gắng nhặt từng hạt ngọc mà "đời lặng thầm bỏ sót", ông cũng
là một cây bút nguyện bằng thơ văn "Đạp đổ những thành trì hờ hững".
Nhà văn nhiều lần khảng khái tuyên bố: "Tôi là kẻ thù của khuôn sáo, của
thờ ơ, của cỗi cằn" và chỉ mặt gọi tên: "Tội nhân cũng là ai đó hững
hờ!" Sự hờ hững mà thi sĩ nói đến hôm nào phải chăng chính là sự vô
cảm hiện đang có sức tàn phá ghê gớm trong tâm hồn không ít những người cộng
sản tha hoá và trong nền tảng đạo đức xã hội đương trên đà xuống dốc! Nặng lòng
yêu thương nhưng minh mẫn, rạch ròi, ông tuyên ngôn mà như
tự nói với chính mình:
Đừng loá mắt trước những hào quang lộng lẫy
Hay đếm từng vết hằn trên lưng sự thật!
…
Và thơ nữa, thơ ơi
Thôi đừng làm duyên làm dáng nữa!
Tình thương lớn đã cho nhà
văn một nỗi xót xa căm giận trước những bất công xã hội, trước "những bữa
ăn láo xược" khi mà đời sống của phần đông người lao động còn vất vưởng...
Càng về sau, thơ văn ông càng chất chứa một sức mạnh tinh thần có khả năng cảnh
tỉnh xã hội:
Cái lương thiện chết mòn
Cái bất nhân lên mặt
Nghênh ngang những hình người
...
Đuổi vô luân
Đuổi dốt nát, thờ ơ vô cảm
Đuổi cái thói coi con người chỉ là cái cán cờ, cán cuốc!
Vào cái thời mà sự nể sợ
quá đáng trước công quyền vẫn còn thống trị, ông đã dám ngang nhiên nói thẳng:
Bạn bè đồng chí đi đâu hết
Sợ chưa, buốt lạnh một cung đàn
Trên tường treo lớn chữ thờ Dân
Giấu khéo trong sương lụa lộng tàn
Chỉ biết một đời lo lót ổ
Quỷ cướp mất hồn, tiếng chẳng oan!
Lòng căm giận tới độ uất
hận của một trí thức chân chính nặng tình yêu dân thương dân được diễn đạt như
nét panh-xô của người họa sĩ xiết mạnh trên mặt vải:
Phải biết bao sông núi
Mới rửa sạch cặn bã tâm hồn
Mới kỳ cọ sạch nham nhở lương tâm
Trong biết bao bộ ngực đẫy đà phồng căng
Không phải những trái tim mà lửng lơ những thớ thịt!
Khi nhà văn "Nghĩ
phận mình", ông khiến không ít kẻ phải giật mình xấu hổ- nếu như họ còn
chút liêm sỉ:
Hết rét lại lụt liên tục
Dân đen tai nạn không hồi phục
Chẳng cách gì làm dân yên
Cũng đường đường kẻ sĩ
Nghĩ mà nhục.
Không phải ngẫu nhiên mà
ông yêu thích Maiakôvski- người đã từng viết những vần thơ bỏng lửa ném thẳng
vào mọi ung nhọt của xã hội Xô-viết và khinh thường lũ "hoạn quan trữ
tình”* cơ hội vốn chỉ quen nhấm nháp thú buồn vui bé nhỏ lạc lõng... Lao động
nghệ thuật không mệt mỏi cũng là một cách để nhà văn tự hoàn thiện mình và vỡ
lẽ ra những quy luật đau đớn của "Đường vào chân lý":
Qua mỗi hoàng hôn, xé xác
Mỗi ban mai con chim nhỏ lại chào nắng hót trên cành
Cả trời đất phải cúi đầu trước uy nghiêm
Định luật.
....
Không trồng hoa giả trên mặt đất
Chẳng bán rao văn giữa chợ trời
....
Từ trong điệu vần khổ đau nhức nhói
Ta đổi mới đời ta
Ta đổi mới thơ ta
Tiến lên và cùng hát
Lương tâm đã chắn hết nẻo lui rồi
Trong những năm cuối đời,
khi "tình yêu không cô quạnh nữa”, và "khi tim anh còn chan
chứa ân tình", mạch thi hứng của nhà văn vẫn giữ được sự hồn nhiên, say
đắm, ngỡ ngàng của thuở hoa niên, đồng thời lại vươn tới sự khái quát sâu sắc
và trầm tĩnh về chính đời mình, về những chặng đường lịch sử của dân tộc, về
những vấn đề lớn lao và gay gắt đang đặt ra trên quy mô cả hành tinh. Với
"trữ lượng tình thương" chưa bao giờ vơi cạn, nhà văn đã nhìn trước
được hàng chục thập kỷ những vấn nạn xã hội trên nhiều lĩnh vực- đặc biệt là
văn hóa, đời sống tinh thần... Không hiếm những lúc "Trong đêm đen tắt
phụt ngọn đèn/ Mặc cho số phận từng cơn lửa chớp", nhưng ông luôn tự trăn
trở vượt qua bao dằn vặt để "Bình minh đến với một tiếng đàn trong trẻo
nhất”. Trên giường bệnh, nhà văn vẫn căm cụi viết không kể ngày đêm - thơ,
kịch, tuỳ bút, hồi ký, thư từ, kiến nghị... ông không mệt mỏi thể hiện sự trân
trọng đối với tài năng của tuổi trẻ, cổ vũ tình yêu thương giữa con người với
con người, đức hy sinh vì nghĩa lớn... Có thể nói, ông là một trong những nhà
văn hiếm hoi đủ sức dựng lên cả một triết lý về tình thương rồi vận nó vào số
phận của một dân tộc, và truyền tới người đọc một cách trực cảm đầy sức lay
động:
Ôi! Bé bỏng một tấm thân người
Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống chết.
Có nỗi thương của Jêsu, có nước mắt của Phật
Và trên tay áo này,
Trên tay áo này
Những giọt đau!
Những giọt đau!
Của mẹ, của em của những bọt bèo số phận
Nằm nghe những tiếng chao chân
Trên một bến bờ vực thẳm.
Đời sao có những say đắm
Trong cõi lạnh hư vô?
Chính vì thế ông có đủ lý
do, đủ tư cách để trân trọng thi hào Tagore và đưa ra tuyên bố đàng hoàng của
một trí thức Việt Nam: "Ca-muýt! dẫu người là ai, ta cũng muốn đuổi người
ra khỏi mảnh đất nầy,Tổ quốc của tình thương”. Trong trường ca Thơ-Văn xuôi
mượn hình thức tình ca "Từ vách này thời gian ta gõ", nhà văn có viết
một đoạn "luận chiến" cũng độc đáo như thời các ông ra Tuyên ngôn Thơ
Mới:
Anh đã hỏi Niết-sơ, cả Sô-pen-hao
Anh giữ lại Ca-muýt để tra hỏi.
Và cái giọng của anh thật
là dứt khoát: "Các người thật là thông minh tài giỏi, nhưng các người đã
làm vẩn đục, làm đen tối cuộc sống. Các người đã phá phách cuộc sống. Đất này
của sự trân trọng, của tình thương. Xin các người đừng cập bến. Ở Paris, ở New
York còn ít nhiều ngõ trống cho các người làm ăn được. Nhưng chúng tôi cảnh cáo
các người: Xin đừng có bén mảng đến cái xứ sở thần thánh của chúng tôi, nơi các
mẹ chúng tôi đang theo từng giấc ngủ các con. Ôi, những người mẹ đau khổ nhất
của chúng tôi trên trái đất này, nhưng không dung thứ sự phá phách của các
người. Qua khe cửa nhìn vào, các người có thấy gì không? Một "đạo sĩ” đầu
bạc, râu bạc. Tagore đấy, Người đã nói: "Trái tim dào dạt niềm vui, hân
hoan sinh thú, ca ngợi mùa xuân, gửi qua trăm năm tiếng nói yêu đời!” Nhà thơ
ấy cũng là bạn của chúng tôi."
Khi cuộc sống của nhà văn
chỉ còn tính bằng những giây phút cuối cùng, một cô y tá đề nghị ông làm thơ,
ông đã thốt lên những lời sau rốt: "Vô ích"- tổng kết toàn bộ
"triết lý tình thương" và khát vọng tình thương mà ông theo đuổi trọn
đời:
Vô ích!
Không ai giữ nổi ta hết!
Ta đi tìm người ta yêu
Cứu nhân của đời ta...
Phải, tất cả là vô ích, là
vô phương cứu chữa nếu như con người sống nguội lạnh tình thương! Cuộc sống sẽ
là vô nghĩa, là bãi sa mạc khủng khiếp khi tình thương trở thành thứ để mua
bán, đổi chác! Thông điệp cuối cùng mà nhà văn gửi lại cho đời tựa một tiếng
sấm âm u khiến ta bất giác lặng người, và chắc có kẻ phải cúi đầu sượng sùng...
***
Ở một bài thơ có tên
"Thơ trong quỹ đạo con người", nhà văn đã viết: "Với dân tộc của
tôi, thơ tôi không chệch ngoài quỹ đạo."
Nhưng Lưu Trọng Lư không
chỉ là nhà văn của tâm hồn tình nghĩa Việt Nam, ông còn là nhà văn của những vẻ
đẹp trong Con Người mà nhân loại đang phải vươn tới:
Ta biết người với người còn dạ sói
Trong đêm đen còn nhe trắng hàm nanh
Những tuổi trẻ của hành tinh
Có những chuyến đi vĩ đại
Đi trong nghĩa tình không biên giới
Cùng Bình Minh bủa bắt Hoàng Hôn
Đạp hờ hững, phá cô đơn!
Có một bài thơ ông viết
vào cuối năm 1975, sau đó được dịch ở Mỹ và đã gây chấn động trong lòng nhiều
người dân nước Mỹ: bài thơ "Lại tiễn con” khóc người con trai thứ năm của
ông đã hy sinh trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại chiến trường miền Tây Nam Bộ,
khi vừa tròn 20 tuổi. Bài thơ khóc con không một chữ nào nói đến nước mắt khiến
hàng triệu người phải rơi lệ ấy có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất
của nền thơ ca Việt Nam đương đại. Đây là đoạn kết:
Vàm cỏ Tây, con sẽ về yên giấc ngủ
Nơi mênh mông có mẹ hiền: ngọn gió
Cuộc sống đâu chỉ một lần
Của cha, da tóc nửa phần
Gửi lại, trên mình con đó
Và của con, tuổi hai mươi dòng máu đỏ
Cha mang theo, nóng hổi trọn đời
Cả Đất Nước mình, giờ về đó, con ơi!...
Chiến tranh ngày một lùi
xa, đời càng ngổn ngang trăm mối, thơ văn ông ngày càng nhức nhối một nỗi đau
và day dứt một niềm thương vô bờ- vẫn bằng cách nói chân thành giản dị đi thẳng
vào lòng người:
Giặc còn đầy ngoài biên ải
Đó đây nổi dậy âm binh
Ôi thần thánh mồ hôi
Máu lệ nghìn năm
Thiêng liêng lời nguyện
Giữa những ngày tháng Biển
Đông trào lên cơn sóng cồn của lòng Tự trọng Dân tộc bị xúc phạm, thơ văn Lưu
Trọng Lư lại đến với cuộc đời mà ông từng yêu thương như một lời tâm sự đớn đau
và chân thành đến ứa lệ; ông đang nói hộ biết bao tâm hồn đang phẫn nộ và quặn
đau lo lắng cho vận mệnh Tổ Quốc:
Phải trả bình minh cho bình minh
Phải trả lại lịch sử cho lịch sử
Ôi Đại Việt một thuở oai hung
Xin tạ lỗi với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
Tạ lỗi Bạch Đằng, tạ lỗi Điện Biên, tạ lỗi Trường Sơn
Và các mẹ, chúng con ngàn lần tạ lỗi các mẹ
Những đứa con của mẹ đã ngã xuống
Nào đâu chỉ đỏ ngực xanh mồ.
... Lòng ơi! Ta muốn trăm lần nghìn bận
Giữa muôn vàn cay đắng
Hôn lên ngọn cờ Tổ Quốc
Hôn lên lời thề non nước
Phải chăng từ mấy chục năm
trước, khi mà "Ai lượng hết chuyện sớm chiều tráo trở", nhà văn đã
dặn dò thế hệ thanh niên hôm nay trong những vần thơ cảnh báo về sự "đểu
cáng" của bọn "ma giáo côn đồ" dám bất chấp tất cả để thỏa mãn
lòng tham vô đáy được nuôi dưỡng từ ngàn xưa; đồng thời khích lệ lòng dũng cảm
và niềm tự tôn Dân tộc:
Em nghĩ gì trong thân hình bé nhỏ
Em dập dưới chân em
Không phải những loài dế, giun
Mà những thiên triều mũ mãng
Những cao sang đểu cáng
Những mưu toan ma giáo côn đồ
Tình em dội sáng cả hư vô.
Nhà văn kể lại chuyện mình
cũng là để mong thức tỉnh bầu máu nóng thường trực sẵn có trong mỗi con người
Việt Nam dù đã và đang chịu không ít nỗi bất hạnh khổ đau; nếu được thế và chắc
chắn là phải thế, nhà văn sống gần trọn thế kỷ XX đầy bão tố có thể ngậm cười
nơi chín suối:
Trong những năm tháng xói mòn
Khi hai tay buông lỏng
Trên da lạnh, chợt nghe làn hơi nóng
... Khắp phố phường một điệu nhạc bay quanh
"Nước đến ngày giải phóng
Tiếc gì thân sống
Thanh niên ơi!"
Hà Nội, 12- 6- 2011
(Đạo diễn Điện ảnh)
-----
* Chữ dùng của Maiakôvski
Những chỗ in nghiêng và trong ngoặc kép là tên tác phẩm và trích đoạn thơ của nhà văn Lưu Trọng Lư, lấy từ các nguồn:
- Tuyển tập Lưu Trọng Lư - NXB Văn học, 1987
- Bài ca tự tình - Thơ- NXB Hội nhà văn, 2011
- Sổ tay riêng của tác giả bài báo
- Di cảo do gia đình nhà thơ lưu giữ.
Tác phẩm của nhà văn Lưu Trọng Lư đã in sách, đã dựng trên sân khấu:
* Chữ dùng của Maiakôvski
Những chỗ in nghiêng và trong ngoặc kép là tên tác phẩm và trích đoạn thơ của nhà văn Lưu Trọng Lư, lấy từ các nguồn:
- Tuyển tập Lưu Trọng Lư - NXB Văn học, 1987
- Bài ca tự tình - Thơ- NXB Hội nhà văn, 2011
- Sổ tay riêng của tác giả bài báo
- Di cảo do gia đình nhà thơ lưu giữ.
Tác phẩm của nhà văn Lưu Trọng Lư đã in sách, đã dựng trên sân khấu:
Thơ: Tiếng Thu, Toả sáng đôi bờ, Người con
gái sông Gianh, Từ đất này, Bài ca tự tình. Văn: Mùa Thu lớn, Nửa đêm sực
tỉnh, Đi giữa vườn Nhân, Tác phẩm Truyện ngắn & Tiểu thuyết (2
tập)... Kịch: Tuổi hai mươi, Kiệu hoa, Hương bưởi, Chuyện Nhụy, Bình minh
Anh vũ, Trăng xoan...
v.v
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2-
ngày 04.8.2015
Cập
nhật lại lần 1- ngày 13/08/2012
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 13/08/2012
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét