Đời Hắn - Tiểu thuyết của Trọng Bảo (P1-P18)
Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2015
Đời hắn (Phần 1) - Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Thứ
năm - 01/08/2013 01:49
Lời tác
giả:- Chuyện đời hắn dựa trên chuyện của một người mà tôi từng biết. Hắn là một
kẻ bất đắc chí, một tên chuyên làm thuê, làm mướn nhưng luôn hy vọng vươn lên
trong cuộc sống đầy những oan khuất, gian nan. Từ những câu chuyện vụn vặt làm
nên đời sống của một số phận. Số phận ấy không đại diện cho xã hội, nhưng lại
là một phần nhỏ bé của xã hội. Người viết chỉ mong muốn giúp bạn đọc rút ra ý
nghĩa nào đó từ những trang sách của mình. (Trọng Bảo)
Thông
tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác
giả Trọng Bảo
Tên
thật: Hà Trọng Bảo
Sinh
năm: 1956
Quê
quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện
công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân
đội
Địa
chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT:
098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Lời tác giả
Chuyện đời
hắn dựa trên chuyện của một người mà tôi từng biết.
Hắn là một
kẻ bất đắc chí, một tên chuyên làm thuê, làm mướn nhưng luôn hy vọng vươn lên
trong cuộc sống đầy những oan khuất, gian nan. Từ những câu chuyện vụn vặt làm
nên đời sống của một số phận. Số phận ấy không đại diện cho xã hội, nhưng lại
là một phần nhỏ bé của xã hội. Người viết chỉ mong muốn giúp bạn đọc rút ra ý
nghĩa nào đó từ những trang sách của mình.
Phần 1
Hắn mồ côi
bố ngay từ trong trứng.
Người đàn bà
tức mẹ hắn lúc ấy đang trong một cơn cuồng si đầy nhục dục chợt thấy người đàn
ông đang nằm trên bụng mình giật giật mấy cái rồi ưỡn người lên thẳng đơ. Hai
bàn tay đang xoắn chặt lấy bầu ngực nở nang của bà chợt lỏng ra rồi rũ xuống.
Bà hốt hoảng nhận thấy ông ta hình như đã ngừng thở. Bà cuống cuồng đẩy ông ta
lăn xuống rãnh luống ngô. Đoạn, bà vội vã kéo quần lên cho ông và cho mình rồi
chân thấp, chân cao chạy về làng kêu cứu. Cả làng đổ ra. Nhưng mà vô phương cứu
chữa. Cơ thể người đàn ông đang lạnh dần đi. Đôi mắt ông vẫn mở. Nét mặt ông có
vẻ viên mãn. Mọi người xúm xít quanh người đàn ông đã chết ồn ào bàn tán. Họ
suy đoán về nguyên nhân cái chết. Song rất ít người tin người đàn ông kia do bị
cảm gió mà chết. Họ cũng không tin việc người đàn bà bất chợt đi tắt qua đám ruộng
ngô thì bắt gặp ông ta đang nằm ở đây rồi mới chạy về làng kêu cứu. Họ nhìn đám
ngô non bị quần nát, nhìn bộ quần áo nhàu nát của người đàn bà rồi gật gù. Có
ai đó nói bóng gió xa xôi:
- Chết mà
sướng thế này cũng đáng để chết lắm chứ!
- Ông này bị
trúng gió “phạm phòng” ấy mà!
Người đàn bà
cúi gằm mặt. Ngực bà vẫn còn rưng rưng. Tuy hoảng loạn nhưng cái cảm giác tê mê
râm ran lan tỏa trong người bà vẫn còn chưa dứt hẳn. Bà nhìn lướt nhanh xuống
bụng. Bà mơ hồ cảm nhận hình như sự phối hợp đã thành công. Bà thảng thốt thấy
mình chới với như đang sa xuống một cái hố không đáy sâu hun hút mà càng rơi
xuống không khí càng loãng, càng khó thở. Bà như người bị hụt hơi.
Công an tiến hành khám xét hiện trường nơi
người đàn ông chính là bố hắn chết, thẩm vấn người đàn bà sau này là mẹ hắn rất
lâu rồi lập biên bản. Họ xác định đây không phải là một vụ án mạng bởi vì không
có ai là thủ phạm cả. Nhưng tự dưng bà cứ thấy như chính mình là sát thủ. Sự ám
ảnh đó cứ đeo đuổi mãi trong tâm trí của người đàn bà.
Hơn chín
tháng sau hắn ra đời. Mẹ đặt cho hắn cái tên là thằng cu Lỗi. Cũng chả hiểu tại
sao mẹ hắn lại đặt cho hắn cái tên như vậy. Hay là tại hắn được sinh ra từ một
lỗi lầm, hoặc là vì hắn không có bố.
Thế là làng Hạ có một thằng không cha.
Thế là làng Hạ có một thằng không cha.
Mẹ hắn cúi
gằm mặt xuống đất để làm lụng nuôi hắn. Người đàn bà khốn khổ ấy đã sống trong
sự tủi hổ. Bà cố gắng nuôi đứa con mồ côi bố trưởng thành. Làng quê ngày trước
lạc hậu, hủ tục còn nặng nề. Gái không chồng mà chửa là chuyện tày đình. Hợp
tác xã vừa mới thành lập. Khí thế lao động sản xuất tập thể đang ngùn ngụt dâng
cao. Ngày ngày xã viên ra đồng vui như hội, trống giong, cờ mở, mặt mũi ai cũng
phấn khởi, hân hoan. Việc có một xã viên chửa hoang làm cho khí thế thi đua của
đội sản xuất số 1 làng Hạ, hợp tác xã Quang Lâm sụt giảm hẳn. Không thể để
phong trào của đội mình sụt giảm, ông đội trưởng đành bố trí cho bà mẹ hắn làm
các công việc riêng rẽ để khỏi ảnh hưởng đến khí thế chung của toàn đội sản
xuất. Phụ nữ nông thôn ngày ấy đẻ sau mười ngày đã đi làm đồng. Nông dân thì
làm gì có chế độ nghỉ đẻ, cũng nào có tiêu chuẩn bồi dưỡng gì đâu. Chính vì thế
mà mẹ hắn bị hậu sản, kém sữa. Hắn quặt quẹo ốm o, thân hình thì đen chùi chũi.
Mẹ hắn để mặc hắn tha hồ bò lê la ở góc sân nhà kho để rũ rơm, sàng thóc. Nhiều
bữa hắn ngồi gặm củ sắn sẩn đắng nghét, khóc chả ra hơi, mũi dãi dầm dề. Ấy vậy
mà hắn cứ lầm lũi lớn lên chả ốm đau gì. Khi hắn to lớn lộc ngộc thì mẹ hắn đổ
bệnh. Mái tóc của bà tự dưng dần bạc trắng hết. Đôi mắt bà cứ mờ mãi đi nhìn
chả rõ người hay cây cối nữa.
Chưa hết cấp
2 hắn đã bỏ học đi làm thuê nuôi mẹ. Hắn học rất giỏi. Nhưng hắn hiểu, là con
cái của người chửa hoang lại không có bố thì có học giỏi đến mấy cũng chả làm
nên cơm cháo gì. Chẳng ai người ta cho hắn đi học trung cấp, cao đẳng hay đại
học. Bởi vì hắn cái thằng không có tên cha ghi trong lý lịch, không được kết
nạp vào đội thiếu niên tiền phong, cũng không được gia nhập Đoàn thanh niên Lao
động. Hắn cũng muốn đi làm ngoài đồng cùng các xã viên trong đội sản xuất số 1.
Nhưng không ai muốn làm cùng với hắn. Họ ngại làm việc cùng thằng con hoang mất
“danh dự”, mang tiếng, mặc dù hắn là người rất khoẻ và chăm chỉ, chịu khó. Quê
hắn có nhiều chân ruộng lầy thụt không thể cày bừa được phải cuốc bằng tay.
Buổi sáng hắn có thể hùng hục cuốc xong bay cả một sào ruộng. Trong khi đó mấy
chục xã viên dàn hàng ngang vừa cuốc ruộng vừa nói chuyện, nghỉ giải lao hai ba
bận có khi cả ngày cũng chỉ xong được một hai sào ruộng là cùng. Làm ăn tập thể
theo kiểu “đánh trống ghi tên” để lấy công điểm là chính chứ chả ai quan tâm
đến năng xuất, chất lượng, hiệu quả lao động. Phân gánh đổ quanh bờ, lúa cấy
lưa thưa cho xong diện tích. Tài sản, vật tư sản xuất của hợp tác xã tha hồ
phung phí. Đúng là cảnh “cha chung không ai khóc”. Đã thế họ lại rất hay lên
tiếng phê phán thói tư hữu, chủ nghĩa cá nhân, cách làm ăn nhỏ lẻ, cá thể. Họ
nhìn hai mẹ con hắn với con mắt dè bửu, khinh rẻ. Chính vì chán cảnh bị cô lập
ở quê, hắn đành phải bỏ làng ra ga tàu hỏa kiếm việc, làm bốc vác thuê. Hoá ra
có sức khoẻ, lại chịu khó hắn cũng làm được ra tiền. Hắn bốc vác hàng hoá lên
xuống tàu cho những người đi buôn chuyến. Nhiều đơn vị, cơ quan có hàng hoá gửi
theo tàu hoả thiếu nhân công cũng thuê hắn bốc vác lên, xuống tàu.
Những ngày
vạ vật làm thuê ở ga hắn quen được một anh làm nghề sửa chữa xe đạp ở cổng ga.
Anh có khuôn mặt xương xẩu, hình thù hơi kỳ dị. Chân phải anh hơi tập tễnh.
Cánh tay trái anh sù sì những vết bỏng. Và đặc biệt một cái sẹo dài trên má
phải kéo miệng anh méo hẳn đi. Có người lén gọi sau lưng anh ta là “Dị nhân”.
Một lần mải vác bao hàng lậu lội qua con mương phía sau nhà ga để tránh nhân
viên thuế vụ và công an, hắn vấp vào một cái xác ngay trên bờ mương. Hắn giật
mình hoảng hốt định bỏ chạy. Nhưng cố trấn tĩnh, hắn bật lửa lên. Hắn nhận ra
chính là anh thợ sửa chữa xe đạp ở cổng ga. Hắn ném vội bao hàng xuống sờ mặt
anh thợ sửa xe đạp. Mặt và người lạnh ngắt nhưng anh vẫn khẽ thở khò khè. Anh
uống rượu say quá không về được đến hiệu sửa xe đã nằm lăn ra bờ mương vì bị
cảm lạnh. Hắn bỏ bao hàng lại rồi xốc anh thợ sửa xe đạp lên vai cõng chạy qua
vườn chuối vào ga. Mấy bà bán hàng khuya sẵn có dầu gió, cao sao vàng xúm lại
xoa bóp, cạo gió cho anh ta. Anh thợ sửa xe đạp dần dần tỉnh lại.
Sau bận
thoát chết ấy, anh ta càng thân thiện với hắn hơn. Một hôm anh bảo hắn:
- Tao và mày
đều là những thằng tứ cố vô thân, kiếm ăn nơi đất khách, quê người, phải luôn
biết giữ mình…
- Vâng ạ!
- Hôm nọ
nhìn mày bị cái thằng phòng thuế nó bạt tai ngã dúi ngã dụi rồi lôi đi sềnh
sệch mà thấy tội quá!
- Nhưng em
yếu hơn nó!
- Yếu, mạnh
không quan trọng! Quan trọng là phải có “miếng” để phòng thân những lúc hiểm
nguy, hiểu không?
- Miếng gì
ạ?
- Từ mai,
tao sẽ giúp mày…
Hóa ra anh
ta vốn là một người lính đơn vị đặc nhiệm. Quê anh ở Thái Nguyên. Khuôn mặt sứt
sẹo, cánh tay sù sì chính là những vết thương của anh trong những lần giáp
địch, vướng mìn trong hàng rào dây thép gai đồn địch. Anh bị thương từ chiến
trường trở về thì người yêu là công nhân khu gang thép đã bị bom của Mỹ giết
chết khi đang làm việc tại phân xưởng luyện gang. Anh buồn bỏ quê đi làm ăn
giống như hắn. Anh hướng dẫn hắn tập võ. Làm việc quần quật, vất vả nhưng những
lúc rỗi dãi, không có người thuê mướn hắn lại cùng anh thợ sửa xe đạp luyện tập
võ thuật.
Anh vừa dạy
vừa bảo hắn:
- Mày tập võ
không phải để trở thành một người nghĩa hiệp, anh hùng hảo hán gì mà chỉ để hộ
thân khi ra thiên hạ. Do đó cũng không nên ngại khi bất đắc dĩ phải dùng đến cả
“ám khí” để đánh trả lại đối phương. Tao sẽ chỉ dẫn cho mày vài ngón độc…
Hắn chưa
hiểu. Anh giải thích:
- Trên cơ
thể người ta có những điểm yếu chí mạng.Ví dụ như trên mặt là đôi mắt, đôi tai
và yết hầu. Nếu đánh vào những điểm đó, khống chế và hủy diệt được nó sẽ khiến
đối phương vô cùng kinh hoảng…
Anh hướng
dẫn hắn những miếng võ độc tập trung vào việc khống chế huỷ diệt đôi mắt, đôi
tai của kẻ thù. Khi hắn đã thuần thục anh lại dạy hắn cách làm chủ tình thế
những khi bị đối phương áp đảo, dồn đến chân tường. Điểm xuất phát của thế võ
này là từ tư thế thấp, thu mình lại nhưng khi triển khai tấn công thì bung toả,
nhanh, bất ngờ và dũng mãnh như một con báo vồ mồi.
Những thế võ
anh lính đặc nhiệm dạy thật là có ích cho hắn sau này trên chặng đường đời đầy
chông gai.
*
Một lần, máy
bay Mỹ ném bom trúng một toa tàu vận chuyển đạn dược và quân trang của bộ đội
đang đi qua khu vực nhà ga. Hôm ấy, hắn không kiếm được việc gì để làm. Đã đi
một vòng nhà ga mà chẳng có ai gọi hắn thuê làm việc gì. Hắn đang ngồi hút
thuốc lào vặt ở cổng nhà ga thì tiếng kẻng báo động vang lên dồn dập. Máy bay
của bọn giặc Mỹ ầm ầm kéo đến. Những tiếng gào rít ghê rợn trên bầu trời. Tiếng
pháo cao xạ của ta bắn như vãi đạn lên không trung. Tiếng bom đạn nổ đinh tai
nhức óc. Đất dưới chân hắn rung chuyển như đưa võng. Hắn vội lộn người lăn mấy
vòng nhào luôn xuống một cái hầm trú ẩn cá nhân bên hè đường. Mùi bùn lưu cữu
lâu ngày thối inh xộc vào mũi hắn. Mặc kệ. Mạng sống là quan trọng. Cái hố cá
nhân đào nông choèn. Hắn phải cúi gập người xuống để đề phòng mảnh bom phạt
ngang lưng. Tiếng máy bay rít lên như xé mỗi khi bổ nhào xuống ném bom. Khu nhà
ga bị trúng bom mịt mù khói lửa.
Có nhiều
tiếng kêu to: “Cháy toa chở đạn rồi… cháy… toa… chở… đạn… rồi…!”. Tiếng chân
người chạy rầm rập qua chỗ hắn đang ẩn nấp. Bộ đội và dân quân tự vệ nháo nhác
quát tháo, hô hét gọi nhau lao vào đám cháy để cứu đạn dược và quân trang
trên đoàn tàu quân sự. Đang chui dưới hầm hắn cũng vội nhao lên. Hắn cũng theo
họ phóng vào trong nhà ga với ý nghĩ là phải giúp bộ đội cứu toa chở hàng hóa
quân sự. Có mấy người hốt hoảng bỏ chạy ngược ra va cả vào hắn. Hắn ngạc nhiên
thắc mắc vì những người này là các chiến sĩ tự vệ của nhà máy toa xe cơ mà.
Những đêm nằm ở ga hắn vẫn thường gặp họ đeo băng đỏ, khoác súng đi tuần tra,
dọa nạt, nhắc nhở mọi người tắt đèn, không hút thuốc lá để đề phòng máy bay
trinh sát của địch phát hiện. Lúc ấy trông họ sao oai phong, hống hách đến thế.
Vậy sao bây giờ họ không dám xông vào lửa đạn giúp bộ đội mà lại bỏ chạy với vẻ
hoảng sợ đến tột độ như vậy! Thôi mặc kệ họ, hắn lao về hướng toa tàu chở đạn
bị trúng bom đang bốc cháy rần rật.
Hắn nhìn
thấy một xác người bị mảnh bom phạt bay cụt mất đầu nằm gục trên sân ga, máu
chảy lênh láng. Rồi hắn lại thấy một cánh tay người vướng trên thành ghế nhà
chờ tàu. Hắn hơi rùng mình khựng lại. Nhưng nghe tiếng các anh bộ đội hô nhau
tiến lên, hắn cũng xông theo họ, chả biết sợ là gì nữa. Mặc cho máy bay giặc Mỹ
còn gào thét gầm rú điên loạn trên đầu, hắn hối hả giúp các chiến sĩ lôi những
hòm đạn bén lửa khỏi toa tàu bị cháy và vác chạy ra để ở cái mương nước ngoài
cánh đồng. Hắn còn cõng một anh bộ đội bị thương chạy đến trạm cấp cứu.
Sau sự việc
này, đơn vị quân đội đã tìm hiểu và cử người về tận quê hắn để làm việc với
chính quyền xã. Họ đề nghị làm hồ sơ để khen thưởng cho hắn. Họ gặp anh xã đội
trưởng để xác minh về hắn. Ông chủ tịch xã nghe anh xã đội trưởng thông báo
xong đầu đuôi sự việc thì kinh ngạc há hốc mồm ra mãi không ngậm lại được. Tay
ông buông rơi cả cây bút máy Trường Sơn đang viết xuống bàn. Màu mực Cửu Long
đen bắn tung tóe trên trang giấy trắng.
Chủ tịch xã
hỏi lại anh xã đội trưởng, giọng ông thảng thốt:
- Khen thằng
Lỗi á! Nó là một thằng con hoang. Khen thưởng cho nó thì làm mất danh dự cả xã
này à? Nhất định không được!
Khi làm việc
với anh cán bộ đơn vị quân đội, ông chủ tịch xã tỏ ra rất kiên quyết. Ông cứ
khăng khăng nói:
- Đề nghị
chỉ huy đơn vị quân đội cứ tặng giấy khen cho đoàn thanh niên của xã chúng tôi
là đã có thành tích giúp bộ đội trong chiến đấu là được!
Anh cán bộ
quân đội ôn tồn giải thích:
- Nhưng… đây
chỉ là thành tích của một người. Cậu này rất dũng cảm, giữa lúc máy bay địch
đang bắn phá vẫn dám lao vào đám cháy dữ dội giúp bộ đội vác đạn, chuyển thương
ra vị trí an toàn!
Ông chủ tịch
xã nhăn mặt xua xua tay:
- Thôi thì
các đồng chí hãy cứ coi đây là chiến công, là thành tích chung của toàn thể
thanh niên xã chúng tôi. Vì thế việc khen thưởng chung cho tuổi trẻ toàn xã sẽ
càng động viên được tinh thần, khí thế xung phong chiến đấu của đông đảo thanh
niên địa phương...
Anh cán bộ
quân đội cố thuyết phục ông chủ tịch xã là chỉ nên tặng giấy khen cho riêng
hắn. Nhưng mặc anh ta nói khá dài, ông chủ tịch xã vẫn dứt khoát không chấp
nhận việc khen thưởng cho một thằng con hoang. Ông chỉ ký tên, đóng dấu xác
nhận vào bản thành tích chung của thanh niên toàn xã. Đơn vị quân đội đành
quyết định tặng một cái giấy khen về thành tích chiến đấu cho đoàn thanh niên
của xã theo yêu cầu của địa phương. Họ đành xin gửi một tặng phẩm cho hắn. Đó
là một tấm vải dù và một bộ quân phục vải Tô Châu mới cứng. Anh cán bộ đơn vị
quân đội kể lại là hôm ấy khi lao vào đám cháy để dập lửa quần áo của hắn đã bị
cháy và rách te tua.
Ông chủ tịch
xã cho giữ lại và đưa những tặng phẩm ấy vào phòng truyền thống của xã mà không
trao cho hắn. Hắn cũng chả biết có chuyện khen thưởng này. Khi ấy thì hắn còn
đang nằm co quắp ở nhà ga để chờ bốc vác thuê kiếm tiền nuôi mình và gửi cho
người mẹ ốm yếu ở quê.
(Hết phần 1)
Trọng Bảo
Trọng Bảo
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
31.7.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 2
Đang lim dim
nửa ngủ, nửa thức thì hắn nghe tiếng người lay gọi:
- Bê cho chị
mấy bao hàng lên tàu xuôi Hà Nội!
- Vâng…
vâng…
Hắn đáp và
co người bật ngay dậy như một con sâu đo. Dùng chân đá dẹp cái chăn chiên cáu
bẩn vào góc nhà chờ tàu, hắn đi theo người đàn bà vào sân ga. Tàu xuôi chưa đến
nhưng đã có nhiều người đứng lố nhố trên sân chờ đợi. Thực hiện lệnh phòng
không nên nhà ga chỉ có ánh đèn lờ mờ. Đã nửa đêm, trời mùa thu hơi lành lạnh.
Hắn theo người đàn bà băng sang bên kia đường ray. Sân ga khai khăn khẳn mùi
nước đái. Có mấy bóng người đang ngồi xổm ngay giữa đường tàu hỏa. Thấp thoáng
những mảng mông trắng hếu. Tiếng nước xả xè xè xuống đất.
Người đàn bà
đi đến chỗ hai người đang đứng cạnh mấy cái bao tải hỏi nhỏ:
- Bao nhiêu?
- Hai tạ chị
ạ!
- Thế còn
chè?
- Năm cân
rưỡi!
- Sao ít
thế?
- Dạo này
hợp tác xã quản lý chặt lắm chỉ có bấy nhiêu thôi.
- Thôi thế
cũng được! Đây là một nửa tiền, tối mai mang tiếp hàng ra rồi nhận nốt nhé!
- Vâng!
Tiếng đếm
tiền loạt soạt. Tiếng chê bai hàng không tốt. Rồi bóng hai người giao hàng
nhanh chóng lẩn mất hút vào trong màn sương đêm dày đặc. Người đàn bà bảo gã
vác mấy cái bao tải ra gần đường ray số 1, nơi tàu xuôi sẽ vào ga. Gã vừa nhấc
một cái bao tải lên vừa hỏi:
- Hàng gì
thế chị?
- Sắn lát và
chè khô! Cẩn thận đấy, khi thấy bọn thuế vụ hay công an là phải vác hàng tẩu
tán thật nhanh nhé. Chúng nó mà tóm được chỉ có mà lỗ chổng vó hiểu không!
- Vâng…
Hắn lẩm bẩm.
Người đàn bà đe:
- Mà nhớ là
không được đánh nhau với bọn phòng thuế như lần trước đâu nhé. Chúng nó mà nhớ
mặt thì chỉ có nước chết đói, không buôn bán, làm ăn gì được đâu. Hiểu không?
Nghe người
đàn bà dặn, hắn cười khùng khục. Hắn nhớ lại cái cảnh thằng nhân viên thuế vụ
bữa trước cố giằng cái bao tải ngô mà hắn đang vác thuê. Nó bị hắn quay cho một
vòng ngã văng luôn xuống cái hố chứa nước thải hôi thối toàn phân rác ở lối tắt
vào nhà ga. Nó bơi lóp ngóp trong hố nước, toàn thân dính bết đầy cứt đái. Ngày
bao cấp thi hành chính sách ngăn sông, cấm chợ. Các loại nông lâm sản như ngô,
khoai, sắn, chè, thậm chí cả củi khô nữa cũng đều là hàng hoá cấm buôn bán. Lơ
mơ là bị nhân viên thuế vụ, quản lý thị trường tịch thu ngay. Mất hàng, cụt vốn
có khi còn tù tội nữa.
Đoàn tàu
xuôi lừ lừ tiến vào ga rồi nằm im. Hắn chuyển mấy bao tải hàng hóa lên tàu.
Người đàn bà rút từ trong cái gói nhét ở cạp quần ra mấy đồng bạc đưa cho hắn
và dặn:
- Tối mai
nhớ giờ tàu về ra ga đón hàng cho chị nhé!
Hắn gật đầu
rồi nhảy xuống khỏi toa tàu chở hàng. Con tàu lại mệt mỏi hộc lên mấy tiếng
trườn ra khỏi nhà ga rồi chui mất hút vào bóng đêm mù mịt. Hắn nhảy qua bức
tường đổ ra phía ngoài ga. Trở về chỗ vẫn nằm ngủ trong góc nhà chờ tàu hắn
chui luôn vào cái chăn chiên rách làm một giấc cho đến gần sáng. Hắn tỉnh giấc
khi tiếng còi báo động có máy bay địch vang lên rền rĩ. Đã quá quen với tiếng
bom, tiếng đạn pháo cao xạ. Hắn chỉ chịu rời khỏi nhà ga khi công an, kiểm soát
quân sự và đám tự vệ cầm gậy, đeo băng đỏ xua đuổi. Đó là những lúc chuẩn bị có
đoàn tàu quân sự sắp đi qua hay một đơn vị quân đội hành quân tập kết trên sân
ga để chờ lên tàu hành quân vào miền Nam chiến đấu. Hắn rất mong được mặc bộ
quần áo quân phục, đeo ba-lô, vác súng ra trận như những người lính ấy. Nhưng
một thằng con hoang, lý lịch nhọ nhem, không phải là đoàn viên đoàn thanh niên
như hắn thì ai người ta cho vào quân đội chứ. Hắn từng viết đơn xung phong nhập
ngũ song đã bị trả lại.
Tối hôm sau,
hắn vào ga chờ chuyến tàu đêm đón hàng cho người đàn bà buôn chuyến. Chị ta vừa
từ Nam Định lên với gần chục cái bao tải mỳ sợi và bột mỳ. Hàng được bốc lên
một chiếc xe tải nhỏ. Người đàn bà vừa leo lên xe vừa dặn hắn:
- Chốc nữa
qua chỗ chị mà lấy tiền công nhé!
- Vâng…
vâng…
Hắn ậm ừ rồi
bước vội về phía cuối đoàn tàu. Hình như có tiếng ai đang gọi người gánh hàng
thuê. Hắn làm quần quật cho đến gần nửa đêm mới xong hết việc. Tối nay có nhiều
người thuê bốc vác hàng thế. Mệt nhưng mà có việc làm, có người thuê mướn là
tốt, là có tiền. Hắn khoẻ như trâu nên dù có mệt mỏi một tý rồi lại hồi sức
ngay.
Ăn một bát
phở to có “người lái” (tức có thịt) hẳn hoi hắn lần bước về phía nhà trọ của
dân buôn chuyến. Nói là nhà trọ thực ra là một dãy kho cũ giữa khu vườn chuối
um tùm của một cơ quan đi sơ tán được ngăn ra thành từng ô cho khách chờ tàu
thuê ngủ trọ qua đêm. Đám dân buôn chuyến, bọn làm thuê, bốc vác hay kéo xe cải
tiến ngoài ga có tiền cũng thuê chỗ trọ tại đây. Người đàn bà vẫn thuê hắn vác
hàng có tiền nên thuê hẳn một gian rộng gần phía cánh đồng để ngủ và chứa hàng.
Hắn băng qua lối nhỏ giữa vườn chuối đi về phía rìa cánh đồng. Khu vườn trồng
chuối tối thui. Lũ ếch nhái côn trùng kêu rỉ rả. Khi hắn đi qua, nghe tiếng
chân người lũ côn trùng liền im bặt.
Đến gần đầu
khu nhà trọ hắn nhìn thấy ánh đèn le lói và nghe tiếng nước dội ào ào ngoài góc
sân đằng sau nhà. Gạt mấy tàu lá chuối khuất tầm mắt ra hắn giật nảy mình khi
trông thấy người đàn bà cởi trần nồng nỗng đang tắm. Nhà tắm chỉ là mấy tấm
liếp che kín phía sân, phía vườn chuối thì chỉ che lấp lửng ngang bụng. Người
đàn bà đang quay lưng về phía hắn. Chị ta thong thả dội từng gáo nước lên vai
rồi chậm rãi kì cọ. Hắn hoảng hốt đứng im như chết sau khóm chuối tiêu um tùm.
Muỗi đốt nhoi nhói nhưng hắn không dám đập. Lần đầu tiên trong đời hắn nhìn
thấy một người phụ nữ khoả thân mà lại sát gần đến như thế. Có lẽ từ chỗ hắn
đang đứng đến chỗ người đàn bà đang tắm chỉ độ ba bốn mét. Hắn không dám thở
mạnh. Tim hắn đập thình thịch như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực. Đôi mắt hắn nhìn
như hút vào bờ vai trắng mịn màng của người đàn bà tắm đêm. Hắn nín thở mỗi khi
thấp thoáng thấy mảng ngực tròn tròn nây nẩy rung rinh dưới cánh tay của người
đàn bà.
Như vô tình,
người đàn bà vặn to cái đèn bão treo trên vách nhà tắm và quay người lại phía
vườn chuối. Chị ta giơ cao gáo nước lên để dội, miệng tủm tỉm cười. Hắn suýt
nữa khụy xuống khi nhìn thấy cặp vú to căng tròn trắng muốt của người đàn bà.
Người đàn bà dùng hai tay nâng nâng và vuốt ve mãi cặp vú căng tròn của mình.
Đôi mắt chị nhìn bâng quơ ra phía vườn chuối tối om om. Đột nhiên, chị ta đẩy
dịch tấm liếp che chệch đi. Hắn cố nén hơi thở hổn hển khi nhìn thấy cặp đùi
thon thả và một khoảng tối đen huyền ảo giữa hai đùi của chị. Tim hắn đập mạnh.
Hắn đang được chiêm ngưỡng một tác phẩm tuyệt vời của tạo hoá. Hắn mong cho
thời gian ngừng lại mãi.
Chợt có
tiếng ầm ì từ phía biển. Hình như là tiếng tàu bay Mỹ. Có tiếng ai đó quát to:
“Máy bay Mỹ đấy! Tắt hết đèn đi!”. Những ánh đèn le lói trong cách phòng của
khu nhà trọ vụt tắt. Người đàn bà vội vặn nhỏ ngọn rồi tắt chiếc đèn bão. Bóng
chị ta mờ dần đi rồi biến mất hẳn trong bóng tối. Hắn cố nghển đầu lên để nhìn
nhưng chả còn trông thấy gì nữa ngoài màn đêm đen đầy bí ẩn. Nuốt ực một cái,
hắn định quay về phía nhà ga thì có tiếng gọi vọng ra:
- Chú Lỗi
đến rồi hả! Vào mà lấy tiền đi!
Hắn rẽ qua
đám lá chuối khô sột soạt bước vào phía đầu khu nhà trọ. Người đàn bà đang đứng
chờ hắn ngay ngoài hiên nhà. Tiếng ầm ì của máy bay địch đã lắng. Tiếng ếch
nhái lại râm ran. Chị ta đẩy cánh của khép hờ rồi vặn to ngọn đèn dầu trên
chiếc bàn nhỏ. Hắn theo người đàn bà bước vào gian nhà chất đầy những bao hàng.
Lúc này hắn mới dám nhìn kỹ người đàn bà. Hắn chợt run lên. Chị ta mặc một bộ
đồ ngủ mỏng tang. Qua ánh đèn hắn thấy rõ hai bầu vú của chị ta hiện rõ sau làn
vải mỏng. Người đàn bà đưa trả tiền công bốc vác, vận chuyển hàng cho hắn. Hắn
cầm tiền và đứng dậy bước ra cửa. Người đàn bà theo hắn ra ngoài sân. Khu nhà
trọ đèn đã tắt hết, im lìm. Giờ này mọi người chắc đã ngủ cả rồi. Hắn ngạc
nhiên thấy người đàn bà lặng lẽ đi theo hắn vào lối nhỏ qua vườn chuối um tùm.
Hắn quay lại
hỏi:
- Chị cũng
ra ga luôn bây giờ để đón hàng hả?
Người đàn bà
không trả lời hắn mà hỏi lại:
- Lúc nãy
Lỗi thấy nhìn hết rồi à?
Hắn lập bập:
- Thấy…
thấy… cái gì ạ?
- Thấy… cái
này này… của Miến này…
Miến là tên
của người đàn bà.
Chị ta vừa
nói vừa nói vừa túm lấy bàn tay thô kệch của hắn áp vào ngực mình. Các khuy áo
trên ngực của người đàn bà đã mở tự bao giờ. Chị ta cũng không mang đồ lót, cặp
vú căng cứng rưng rưng. Hắn loạng choạng suýt nữa thì ngã. Hắn cảm thấy
sắp ngất đi khi bàn tay của mình chạm vào một nơi mà chưa bao giờ biết đến…
(Hết phần 2)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
02.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 3
Trong cái
đêm ở vườn chuối ấy hắn đã biết “mùi đời”. Mười bảy tuổi tròn hắn trở thành đàn
ông. Người đàn bà đã giúp hắn trở thành một người đàn ông. Chị ta đã cho hắn
được nếm trải đầy đủ “mùi đời” là thế nào. Đêm ấy tại vườn chuối bọn ếch nhái
côn trùng bị một phen vô cùng kinh hãi. Chúng im phăng phắc không dám kêu lên
một tiếng nào khi người đàn bà và hắn quần thảo nhau. Những tiếng rên rỉ, hổn
hển trong vườn khuya rất rõ. Hai người làm đổ cả một cây chuối đang đeo buồng
sắp chín.
Sau cái đêm
ấy hắn đâm ra nghiện. Hắn chợt hiểu hoá ra ở đời còn có một thứ nghiện hơn cả
thuốc lá, thuốc lào và kể cả thuốc phiện nữa. Họ làm việc ấy thường xuyên với
nhau. Người đàn bà có kinh nghiệm còn hắn lại có sức khoẻ nên mọi lần đều mỹ
mãn. Nhưng rồi hắn cũng thấy thấm mệt. Hắn đã phải làm việc quần quật cả ngày
bốc vác hàng hoá lên xuống tàu, đến đêm lại bị người đàn bà khỏe mạnh quần thảo
hút hết cả sức lực. Trong khi đó do ăn uống thiếu thốn nên ngày mỗi ngày hắn
càng hốc hác mãi đi. Nhưng đời là vậy, có những cái chán rồi lại thèm, thèm rồi
lại chán, khó mà dứt bỏ được.
Chiến tranh
ngày càng thêm căng thẳng. Máy bay Mỹ nhiều lần đánh phá ác liệt vào khu nhà
ga. Vì đây là đầu mối trung chuyển quân và các chuyến hàng quân sự vào Nam. Tuy
thế những chuyến tàu đêm vẫn cứ đông. Hành khách đi tàu và dân buôn chuyến vẫn
phải đối mặt với nguy hiểm. Ngày chiến tranh tàu hỏa là phương tiện giao thông
thuận lợi nhất. Người đi tàu thường chỉ đến ga trước lúc tàu dừng vài phút để
rồi lên tàu đi luôn. Ít người dám nấn ná lâu nơi trọng điểm bom của máy bay Mỹ
này. Chỉ có bọn làm thuê như hắn là bất chấp. Máy bay Mỹ lượn lờ trên đầu mà
hắn vẫn nằm thẳng cẳng trong góc nhà ga ngủ ngon lành. Hắn chủ quan nghĩ: “Bom
ném xuống mặt đất như đồng xu chọi lỗ đáo, mấy khi trúng”. Chỉ khi nào bị công
an, tự vệ hò hét xua đuổi hắn mới chịu di chuyển ra dãy phố vắng vẻ phía trước
nhà ga.
Một tối mùa
đông rất lạnh hắn đang trùm cái chăn chiên rách nằm ở góc nhà đợi tàu thì có
một thằng chui vào. Hắn cáu kỉnh:
- Mày là
thằng nào mà chui vào chỗ của tao hả?
Thằng bé nài
nỉ:
- Cho em ngủ
nhờ với! Rét quá! Em cũng là người chuyên làm thuê như anh thôi!
Hắn sẵng
giọng:
- Mày mới
đến à?
- Vâng! Em
làm thuê ở ga Hàng Cỏ. Nhưng mấy hôm nay tình hình dưới đó căng quá, báo động
phòng không liên tục, công an, thuế vụ kiểm tra xua đuổi, chả làm ăn gì được
nên em phải dạt lên đây!
- Hừ… toàn
là dân khố rách áo ôm cả… - Hắn lẩm bẩm và nhích vào sát tường cho thằng này
nằm cùng.
- Mà mày quê
quán ở đâu? - Hắn hỏi tiếp.
- Em ở Hoà
Bình!
- Sao lại
phải đi làm thuê?
Hắn vặn hỏi,
thằng bé uể oải đáp:
- Bố mẹ em
mất cả rồi! Em lang thang ở Hà Nội làm đủ việc, bán báo, đánh giày, bưng phở,
rửa bát, gánh nước, vác hàng thuê kiếm tiền tự nuôi thân!
Nó trả lời
quấy quá rồi ngáy khò khò.
Sáng ra khi
tiếng còi tàu hàng hú lên, hắn bừng tỉnh thì đã không thấy thằng oắt con đâu
nữa. “Chắc nó có mối làm ăn rồi!” - Hắn nghĩ. Nhưng thằng này cứ thoắt ẩn,
thoắt hiện như ma. Có khi nó biến mất mấy ngày liền rồi mới lại thấy lò dò mò về.
Mỗi lần đi lâu trở về nó đều mời hắn đi ăn. Bữa nào cũng kha khá, có thịt cá đủ
gắp và cả chút rượu nhâm nhi nữa. Hắn hỏi thì nó bảo có người thuê vận chuyển
hàng và theo tàu bảo vệ hàng nên cho nhiều tiền. Hắn cũng chả buồn quan tâm đến
nó nữa. Hắn lo cho thân mình còn chả nổi, hơi đâu.
Một bữa
người đàn bà gọi hắn đi ngay từ chập tối. Hắn ngạc nhiên hỏi:
- Đến mười
một giờ đêm tàu Lạng Sơn mới về cơ mà!
- Hôm nay
Miến nghỉ…
Người đàn bà
nói trống không. Hắn hiểu tức là hôm nay hắn sẽ “làm việc” khác thay cho việc
bốc vác hàng hoá lên xuống tàu.
Người đàn bà
dẫn hắn vào một quán ăn sâu trong ngõ phố nhỏ. Nhiều món ăn ngon. Có cả một món
“hoắc dương” gì đó mà ông chủ quán nói là rất bổ, rất hữu ích cho cơ thể đàn
ông. Ăn uống xong hai người leo lên một cái gò hoang giữa cánh đồng. Người đàn
bà rải tấm ni-lông ra bãi cỏ. Chị ta nhanh chóng trút bỏ quần áo. Dưới ánh
trăng trung tuần sáng vằng vặc trông chị ta như một bức tượng làm bằng sáp. Hắn
chợt nhớ đến bữa nhìn trộm hôm chị ta tắm. Đây là lần thứ hai hắn được chiêm
ngưỡng tác phẩm tuyệt vời của tạo hoá một cách gần và rõ đến thế. Những lần hai
người quan hệ với nhau đều lén lút, vội vã, khi thì ở vườn chuối tối om om, khi
thì ở góc nhà trọ không dám thắp đèn sợ có ai biết. Có lần hai người còn mặc
nguyên cả quần áo để làm việc ấy ở trên nóc toa tàu hay góc sân nhà ga tối om
om. Hôm nay trên khu gò hoang này họ thấy thật là tự do. Mặc cho máy bay Mỹ
thỉnh thoảng lại xèn xẹt trên bầu trời như sắp bổ nhào xuống chỗ hai người để
cắt bom. Hắn và người đàn bà vẫn coi như trên thế giới này chỉ còn có hai
người. Có những điều còn mạnh hơn cả nỗi sợ hãi và cái chết. Họ đắm đuối
ngắm nghía, sờ mó, nâng niu, vuốt ve mơn trớn nhau và cuối cùng là quấn thật
chặt vào nhau như hai con rắn đến chu kỳ động dục.
Hắn và người
đàn bà chỉ rời nhau khi đã xâm nhập vào nhau đến tận cùng và bung tỏa đến tận
cùng. Hắn thấy mình lâng lâng lên tận đỉnh núi cao chót vót, bồng bềnh giữa
trời mây, chới với rồi rơi xuống tận vực sâu thăm thẳm.
*
Lảo đảo đi
về phía nhà ga hắn thấy mình như một người đang hấp hối. Hắn cố ngớp ngớp đớp
từng chút không khí để thở. Hình như có bao nhiêu tinh khí, sức lực hắn đã trút
cho người đàn bà tất cả rồi. Chân tay, xương cốt hắn rã rời. Cảm tưởng như bây
giờ ai đó túm lấy hắn mà lắc nhẹ vài cái thì cả người hắn sẽ tan rữa ngay ra
thành cát bụi. Mệt bã người nhưng hắn thấy vô cùng thoả mãn.
Về đến góc
nhà chờ tàu, hắn chui ngay vào đống chăn ngủ lịm đi như chết.
Hắn chỉ giật
mình tỉnh giấc khi có ai đó đá đá vào chân quát:
- Dậy… dậy…
dậy ngay!
Hắn lồm cồm
ngồi dậy. Hai mắt hắn vẫn chưa mở ra được. Hắn càu nhàu bực bội:
- Thằng nào
đạp tao thế! Muốn chết à?
- A… thằng
này láo quá!
Hắn mở mắt
ra nhìn. Xung quanh hắn toàn là công an, tự vệ đeo súng và băng đỏ. Người
nào người ấy mặt mũi nghiêm trọng, súng gậy lăm lăm. Một vị đại uý công an mặt
đen sạm. Miệng đại uý còn đang ngậm một cái tăm, chắc vừa ăn sáng xong. Đại uý
mặt đen nghiêm khắc hất hất cánh tay lên ra lệnh:
- Anh kia
đứng dậy! Bước ra đứng ở chỗ kia!
Hắn líu ríu
đứng dậy bước ra chỗ anh công an vừa chỉ. Hai anh công an trẻ hơn sà ngay xuống
chỗ hắn vừa nằm. Họ nắn nắn cái chăn bông cáu bẩn rất kỹ, xé tung cả cái gối
đầu nhồi bằng vải vụn. Họ đang tìm gì thế!
Chợt một anh
công an reo lên:
- Thấy rồi…
thấy rồi…!
Mọi người
xúm đến. Hắn cũng nhớn mắt lên nhìn.
Anh công an
trẻ moi từ trong cái gối mây cũ kỹ ra một cái gói đen đen, tròn tròn. Cái gối
ấy là của thằng oắt con vẫn ngủ cùng với hắn.
Đại uý mặt
đen đưa mắt nhìn mấy chiến sĩ công an rồi khẽ hất hàm ra hiệu. Lập tức hai anh
công an lao vút đến túm ngay lấy hai tay hắn bẻ quặt ra phía sau lưng. Tiếng
còng số 8 bập “tách” một tiếng nghe khô không khốc. Hắn thấy đau nhói ở hai cổ
tay mà vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau khi đã khống chế được hắn, đại
uý mặt đen mới trừng mắt lên giọng nghiêm khắc:
- Anh Lỗi!
Anh bị bắt vì tội danh tàng trữ, buôn bán hàng quốc cấm!
Hắn sửng
sốt:
- Tôi… tôi…
chỉ là người làm thuê, làm mướn kiếm miếng cơm… chứ có buôn bán, tàng chữ cái
gì đâu ạ?
- Anh còn
chối cãi hả! Đây này…
Đại uý mặt
đen chìa cái gói gí vào tận mặt hắn, gằn giọng:
- Anh kiếm
“cơm đen” loại này hả?
Hắn vẫn
không hiểu. Anh công an trẻ hơn cầm cái gói mở ra. Có một cục đen đen như cục
nhựa đường. Đại uý mặt đen nhón tay véo một mẩu từ cái cục đen đen vê vê lại
bằng hạt đỗ xanh. Đoạn, đại úy lấy que tăm đang ngậm trên miệng xiên vào rồi
bật lửa đốt. Mẩu nhựa đen đen cháy xù ra, phồng to lên, một mùi thơm toả ra rất
lạ. Mọi người đứng xung quanh ồ lên ồn ào bàn tán:
- Đúng là
thuốc phiện rồi!
Hắn nghe vậy
hốt hoảng:
- Cái gối
đầu này không phải của tôi! Đó là của cái thằng vẫn nằm cùng tôi lúc chập tối!
- Đồng bọn
của anh bị bắt quả tang khi đang bán thuốc phiện và đã khai hết ra rồi! Anh
đừng có chối quanh nữa mà tội càng thêm nặng đấy!
Đại uý mặt
đen nghiêm mặt nhắc nhở. Hắn cố thanh minh nhưng tiếng của hắn chìm đi trong
tiếng bàn tán ồn ào của những người đang có mặt trong nhà ga. Một ông lớn
tiếng:
- Ghê thật!
Dám tàng trữ, buôn bán cả thuốc phiện…
- Phen này
án tử hình là cái chắc!
Có ai đó gào
lên rất to, giọng đầy phấn khích:
- Quét quét!
Quét sạch hết những thứ xấu xa, cặn bã này đi! Thanh niên người ta hăng hái
xung phong ra chiến trường gian khổ đánh Mỹ, giải phóng miền Nam, bọn này ở lại
hậu phương sung sướng mà còn làm bậy!
Một ông đeo
cái xà-cột đen, lưng choàng tấm dù ngụy trang, đầu đội mũ cối có vẻ là cán bộ
nhà nước thì kiên quyết đề nghị:
- Bắn ngay!
Cứ đem ra ngoài bãi sông bắn ngay tên này đi các đồng chí công an ạ! Loại người
này còn nguy hiểm hơn cả bọn Việt gian tay sai bán nước ở miền Nam đấy…
- Bắn...
bắn... b... ắ... n...
Nhiều người
căm phẫn hùa theo. Hắn thấy ù cả tai. Đầu óc hắn ong ong choáng váng chả còn
phân biệt được gì nữa. Một anh công an tóm gáy hắn đẩy mạnh ra phía cửa nhà đợi
tàu. Hắn bước dúi dụi ra nơi chiếc xe com-măng-ca chở phạm nhân đang đậu sẵn
ngoài sân ga.
(Hết phần 3)
Trọng Bảo
Trọng Bảo
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 03.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
ĐỜI HẮN
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 03.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 4
Thế là hắn
lâm vào vòng tù tội. Tàng trữ, buôn bán thuốc phiện là một trọng tội. Hắn cố
bào chữa cho mình nhưng lời khai của thằng oắt con đã là một bằng chứng khó mà
chối cãi. Tang chứng, vật chứng, nhân chứng lại rành rành. Thế là đã đủ cho hắn
ngồi tù mọt gông rồi.
Hắn được đưa
về khu cải tạo Trại Chuối dưới chân dãy núi Tam Đảo. Ngồi trên cái xe chở phạm
nhân tăm tối bịt bùng hắn thấy trong lòng đầy sự bất mãn, chán chường. Hoá ra
cuộc đời cũng chẳng ra làm sao. Con người có thể vươn lên đỉnh cao của sự vinh
quang, cũng có thể trôi tuồn tuột xuống vũng sâu bùn đen, phân rác. Ranh giới
giữa cái thiện và cái ác thật là mỏng manh. Ngày và đêm cách nhau chỉ một hoàng
hôn. Hắn vốn là người lương thiện và vẫn cố gắng để giữ mình luôn lương thiện.
Nhưng cuộc đời đã xô đẩy hắn xuống cái hố sâu hoắm của tội lỗi một cách thật
bất ngờ như thế. Hắn đã cố quẫy đạp để ngóc đầu dậy, hòng vượt lên miệng hố
nhưng không thể được. Trong bối cảnh thời chiến, khí thế cả nước tưng bừng ra
trận, khẩu hiệu cách mạng hô vang từng đường làng, ngõ phố thì một người chỉ
cần có một vẩn vết, một sai phạm nhỏ cũng không thể nào chấp nhận. Thế mà nay
hắn lại vướng vào một chuyện tày đình. Cái án mười bảy năm tù, đúng bằng tuổi
đời của hắn. Càng nghĩ hắn càng thấy thật bất công và khủng khiếp. Rõ ràng là
hắn vô tội mà vẫn bị tù tội. Tương lai phía trước của đời hắn là một màu nhem
nhuốc, xám xịt và vô định.
Chiếc ô tô
chở tù lao xuống ổ gà. Một cú xóc mạnh làm đầu hắn đột ngột lao lên đội vào
trần xe khiến hàm răng hắn cắn phập luôn vào lưỡi đau điếng. Hắn nhổ toẹt một
bãi nước bọt lẫn máu tươi xuống sàn xe. “Mẹ kiếp! Đời mình đúng là chó má
thật!”. Hắn làu bàu trong miệng rồi nghĩ: “Cuộc sống đã xô đẩy ông thành một
thằng tù thì ông sẽ làm một thằng tù thật sự xem sao!”.
Đi mãi rồi
chiếc xe chở tù cũng dừng lại tắt máy. Tiếng mở khoá loảng xoảng ở phía sau xe.
Cánh cửa xe bật mở. Tiếng người công an dẫn giải tù nhân quát:
- Xuống xe!
Hắn nhảy
xuống xe. Ánh nắng mặt trời loá chói cả mắt. Hắn giơ bàn tay lên che mặt. Định
thần, hắn thấy mình đang đứng giữa một khu trại giam xung quanh bao bọc bởi
những bức tường xây bằng đá hộc cao đến bốn năm mét. Trên bức tường đá là dây
thép gai chăng dày như mạng nhện. Phía sau những mạng nhện dây thép gai ấy là
bốn bề núi cao sừng sững. Hắn được dẫn vào một khu nhà tù rất kiên cố. Chắc đây
là nơi giam giữ cải tạo những loại tù đặc biệt nguy hiểm.
Lại là tiếng
mở khoá cửa xoang xoảng chói tai. Người quản giáo dẫn tù đẩy hắn vào một gian
phòng rộng, tối lờ mờ giống như trong một cái toa xe chở tù khổng lồ. Đã bao
nhiêu kẻ như hắn đã phung phí những năm tháng của cuộc đời trong cái toa xe chở
tù không lồ này. Tiếng đóng khoá cửa gắt gỏng phía sau lưng. Hắn còn chưa nhận
rõ mặt những người tù ở trong phòng giam thì đã nghe một tiếng giằn giọng:
- Thằng mới
đến kia! Lại đây mà ra mắt trình diện “đại ca” đi! Nhanh lên, còn chần chừ gì
hả?
Hắn nhướng
mắt nhìn. Ngồi chễm chệ trên cái bệ bằng xi-măng làm giường ngủ là một thằng
mặc độc cái quần đùi, đầu trọc lốc, mắt trắng dã đang gườm gườm nhìn hắn. Bảy
tám thằng khác khoanh tay đứng dưới đất phía trước thành hai hàng hai bên nhác trông
như các quan đang đứng chầu vị vua của mình trong buổi thiết triều.
Chợt nhớ đến
những chuyện khủng khiếp trong tù vẫn nghe người ta kể, hắn nhẫn nhịn tiến đến
trước mặt cái thằng mắt trắng dã đang ngồi lù lù trên bệ xi-măng cúi đầu:
- Tôi mới
đến nhập trại! Xin kính chào “đại ca” ạ!
- Hừm…
Thằng tù mặt
bé choắt như mặt con chuột đứng bên phải trừng mắt:
- Quỳ xuống
rồi dâng trình lễ vật ra mắt lên!
Hắn thấy
nóng mặt nhưng vẫn cố nén. Hắn ngước nhìn thằng “đại ca” và chợt giật mình thấy
nó có vẻ quen quen. Hình như hắn đã gặp thằng này ở đâu rồi thì phải. Hắn cố
nhớ nhưng vẫn chưa thể nhớ ra nó là thằng nào.
- Quỳ xuống!
Thằng có
khuôn mặt chuột đứng bên phải lại quát. Gã nghiến răng nói:
- Không quỳ!
Mà tôi cũng chả có lễ vật, lễ viếc gì sất…
Thằng mặt
chuột trợn mắt. Nó tiến lại gần hắn giơ cánh tay lên định đánh. Thằng đại ca
giờ mới lên tiếng:
- Chúng mày
hãy dạy bảo cho nó biết “nghi lễ” ở trong này là phải thế nào đi chứ! Thằng này
chắc chưa thuộc “luật” lắm đâu!
- A… a…! -
Hắn đã nhớ ra rồi! Thằng đại ca này chính là cái tên nhân viên quản lý thị
trường vẫn hay rình rập những người buôn bán ở nhà ga dạo nào. Chính thằng này
đã từng túm cổ hắn để tịch thu hàng hoá và cũng chính là thằng bị hắn quẳng
xuống vũng phân. Nhưng sao nó lại ở đây, lại phải đi tù nhỉ. Ngày còn ở ga nó
khét tiếng là mặt sắt, nghiêm khắc, lạnh lùng. Nó kiểm soát rất kỹ mọi hành
khách, tịch thu từng cân gạo, bao sắn, lần cạp quần chị em, bòn rút từng đồng
tiền thuế của dân buôn bán. Có lần một bà cụ được cô con gái làm công nhân ở
nhà máy toa xe cho mấy cân bột mỳ đem về quê ăn đói. Lúc lên tàu bà cụ cứ ôm
khư khư bao bột mỳ. Nó liền kiểm tra và đòi tịch thu. Bà cụ nài nỉ van xin rồi
khóc lóc, cố giằng giữ bao bột mỳ. Nó kiên quyết giằng lấy bao bột mỳ của bà
cụ. Bà cụ chưởi rủa. Nó tức giận liền dốc ngược cái bao đổ luôn bột mỳ xuống
đường tàu rồi bỏ đi mặc cho bà cụ nằm lăn ra sàn tàu gào khóc vì tiếc của. Nghe
nói nó được đề bạt lên chức đội trưởng rồi cơ mà sao lại vào đây làm đại ca?
Nhận ra
“người quen” hắn cảm thấy bình tĩnh hơn. Hắn gườm gườm nhìn bọn cựu tù không tỏ
vẻ gì là sợ sệt. Hai thằng tù cũ tiến đến phía hắn. Hắn lùi lại một bước và
nói:
- Cùng là
kiếp ăn cơm tù với nhau cả, chúng mày đừng có mà giở thói “ma cũ bắt nạt…”.
Hắn chưa nói
hết câu thì hai thằng cựu tù đã lao vào hắn tung chưởng. Chúng ra đòn rất
nhanh. Nhưng hắn cũng né tránh đòn rất nhanh và phản đòn ngay tức thì. Hai
thằng tù không đánh nổi hắn. Lập tức có thêm hai thằng nữa xông đến. Hắn phải
vất vả chống chọi với bọn cựu tù đang hung hăng. Hắn bị trúng một thụi vào mặt.
Nóng tiết hắn điên cuồng lăn xả lao vào đánh lại bọn cựu tù. Tiếp tục bị dính
đòn, hắn càng nổi máu điên lên. Hắn tựa như một con sư tử bị trúng thương càng
thêm lồng lộn, cay cú. Tuy điên cuồng phản đòn nhưng trong đầu hắn vẫn loé lên
một ý nghĩ táo bạo: “Phải tiêu diệt ngay thằng đại ca thì mới dẹp được yên bọn
này”. Hắn lựa thế vừa chống đỡ vừa xoay đổi vị trí để tiến lại gần chỗ thằng
đại ca đang ngồi.
Khi đã tạo
được thế, đang xoay xở chống đỡ đột nhiên hắn hét một tiếng thật to và nhảy vọt
lên trên bệ xi-măng. Nhanh như một con báo chộp mồi, hắn quăng người chồm lên
tay kẹp chặt luôn lấy cổ thằng đại ca. Hắn đè thằng đại ca xuống và nghiến răng
bảo:
- Chúng mày
mà không lui ra xa thì tao sẽ lập tức vặn gãy cổ thằng này ngay!
Mấy thằng
cựu tù vội lùi lại. Hắn gằn giọng nói tiếp:
- Tao… tao
đã từng ném thằng đại ca này của chúng mày xuống hố phân ở ga Yên Viên đấy. Hôm
nay, tao sẽ bẻ gãy một cánh tay của thằng này để chúng mày biết thế nào là lễ
độ…
Thằng đại ca
rối rít van xin hắn tha mạng. Mấy thằng tù đàn em nhớn nhác. Bọn chúng cũng
không ngờ cái thằng tù mới đến này lại khoẻ, quyết liệt và hung hãn đến thế.
Trông hắn chả khác nào một con thú dữ bị trọng thương đang say máu trả thù. Một
tên đành xuống giọng lên tiếng xin hắn tha cho “đại ca”. Mấy thằng còn lại mất
hết cả nhuệ khí khi thấy thằng đại ca cầm đầu đã bị khống chế. Nghe bọn chúng
van vỉ, hắn nới lỏng tay rồi lộn người đạp mạnh vào người thằng đại ca một
phát. Thằng đại ca kêu “hự” một tiếng rồi ngã lăn nhào xuống đất. Nó lồm cồm
ngồi dậy mặt mũi còn méo xệch đi vì đau. Ngón tay chỏ của nó đã bị vặn trật
khớp lủng liểng.
Hắn đứng thủ
thế trên bệ xi-măng hất hàm bảo:
- Một chọi
một… Mà thôi, cho bọn chúng mày hai chọi một! Hôm nay, tao - cái thằng tù suýt
nữa thì lĩnh án tử hình này - sẽ sống mái với bọn chúng mày một trận. Thằng nào
chết bỏ…
Cả bọn nhớn
nhác nhìn nhau. Không thằng nào còn dám liều lĩnh lao vào đánh nhau với hắn
nữa. Thằng đại ca vẻ mặt thì vẫn còn rất đau đớn vì ngón tay chỏ bị vặn lệch
khớp. Thằng tù mặt chuột vội thì thào gì đó với mấy thằng khác. Bọn chúng gật
gật đầu có vẻ đồng ý.
Thằng này
liền tiến lại trước mặt hắn khoanh tay:
- Chúng em
biết tài nghệ của ông anh rồi! Từ hôm nay, chúng em xin suy tôn anh là “đại ca”
mới của phòng giam này ạ!
Hắn lỏng hai
nắm tay, ánh mắt vẫn cảnh giác nhìn bọn cựu tù:
- Tao không
cần làm đại ca, đại kiếc gì hết. Tao chỉ cần chúng mày hiểu rằng đã vào đến đây
là đời đã cùng quẫn khốn nạn, mạt vận, chó má lắm rồi, đừng có mà lên mặt với
nhau làm gì nữa…
Nói xong,
hắn nhảy xuống đất đỡ thằng đại ca ngồi lên bệ xi-măng. Hắn lựa chiều nắn lại
khớp ngón tay chỏ cho nó rồi bảo:
- Ông này
vẫn là “đại ca” của chúng ta hiểu không?
- Hiểu…
hiểu… - Bọn cựu tù đồng thanh đáp và lau nhau nói tiếp:
- Vậy thì
anh là “nhị ca” của tụi em nhé!
- Hừ… hừ…
Hắn ậm ừ
trong miệng không ra đồng ý hay từ chối. Hắn mở cái túi vẫn đeo bên người rút
ra hai bao thuốc lá Tam Đảo đưa cho bọn tù. Mắt mấy thằng tù cũ sáng lên. Bọn
chúng vồ ngay lấy hai bao thuốc lá cảm ơn hắn rối rít…
(Hết phần 4)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
03.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 5
Hắn nằm yên,
nhịp thở đều đều như có vẻ đã ngủ ngon.
Đêm đầu tiên
ở trại tù yên tĩnh hơn ở các nhà tạm giam mà hắn đã từng trải qua. Ở các nhà
tạm giam thường là có rất nhiều loại nghi can, nghi phạm chưa thành án, chưa rõ
tội danh, đang ở giai đoạn điều tra. Loại có tội, loại vô tội bị bắt oan đều
được tống vào trong nhà tạm giam một thời gian theo luật để phục vụ cho việc
lấy khẩu cung định tội hay sẽ giải oan vô tội. Vì thế nên có rất nhiều chuyện
xảy ra bất ngờ. Hắn còn nhớ hôm ở nhà tạm giam của công an thị xã có một thằng
nghiện nửa đêm lên cơn thèm thuốc lao đầu thẳng vào tường giãy chết đành đạch
làm cả bọn bị một phen khiếp đảm. Lại có lần một thằng lưu manh chuyên móc túi
bị dân bắt được quả tang tẩn cho tơi tả, công an lại trần thêm cho một chập rồi
tống vào nhà tạm giam. Nó nằm gục cạnh một anh giáo viên bị bắt do “quan hệ bất
chính” với vợ người khác. Bị đánh đau, trúng chỗ hiểm đến đêm thì thằng kẻ cắp
nghẻo luôn, sáng hôm sau mới biết. Khốn nạn anh giáo viên nằm bên cạnh bị công
an đổ riệt cho là đã bóp cổ giết chết thằng lưu manh này. Thế là anh ta tội
chồng thêm tội.
Bây giờ
thành án vào nhà tù hẳn hoi không phải ở nhà tạm giam nữa hắn có vẻ yên tâm hơn
nên có vẻ ngủ ngáy rất ngon lành.
Đêm đã
khuya. Tắc kè kêu thong thả từng tiếng một như cố xua tan cái tĩnh mịch của một
miền rừng sâu, núi thẳm âm u. Thằng đại ca “quản lý thị trường” giở mình ậm è
ho khan. Hắn chưa ngủ. Thằng tù mặt chuột nằm ở góc nhà nhẹ nhàng nhỏm dậy. Nó
lần tay vào một khe nứt nhỏ trên tường rút ra một mảnh thủy tinh dài độ hơn một
ngón tay. Mảnh thủy tinh được quấn chặt bằng miếng giẻ chừa ra một đầu nhọn
hoắt. Thằng tù mặt chuột nhẹ nhàng lần tới chỗ hắn đang nằm. Ánh đèn điện ngoài
sân chui qua chấn song sắt trên cái lỗ nhỏ chỉ đủ cho gian nhà tù sáng nhờ nhờ.
Thằng đại ca cũng ngồi dậy lần đến để hỗ trợ thằng mặt choắt. Đôi mắt ti hí của
nó chớp chớp. Thằng tù mặt chuột gật gật đầu, tay giơ mảnh kính vỡ lên làm
hiệu. Đoạn, nhanh như cắt nó toài người chồm lên chỗ hắn đang nằm. Mảnh kính
sắc cạnh, nhọn hoắt trên tay nó nhằm thẳng vào cổ họng hắn xỉa xuống.
Nhưng mảnh
kính trên tay thằng tù mặt chuột chưa chạm được đến ngực của hắn thì cả người
nó đã bị đạp bắn ngược trở lại. Hắn vùng dậy nhanh như một con báo đang nằm
phục con mồi. Một cú đấm như trời giáng khiến thằng tù mặt chuột lăn ra phía
cửa. Tất cả bọn tù đang ngủ đều giật mình lồm cồm ngồi hết dậy. Thằng đại ca
“quản lý thì trường” vội nhảy trở về chỗ nằm của mình. Thằng tù mặt chuột sợ co
rúm người lắp bắp:
- Tha… tha…
cho em… không phải em…
- Mày định
giết tao thì tao sẽ cho mày chết luôn!
Hắn gầm lên
và lao đến chỗ thằng tù mặt chuột. Thằng này quỳ sụp van lạy như tế sao:
- Không
phải… tha… tha… cho em… là lệnh… lệnh của đại… đại ca…
Giật phắt
mảnh kính trên tay thằng tù mặt chuột, hắn đưa lên ngang tầm mắt xem xét. Ánh
điện lọt qua khe của phòng giam khiến cho mảnh kính vỡ càng thêm sắc lạnh. Đột
nhiên hắn gầm lên một tiếng tựa như tiếng con thú dữ lên cơn cuồng loạn khi bị
săn đuổi đến đường cùng. Bọn tù giật mình chưa kịp hiểu vì sao hắn lại gầm lên
một cách dữ tợn thế thì hắn đã bật người lao đến chỗ thằng đại ca “quản lý thị
trường”. Và cũng chưa thằng tù nào kịp phản ứng gì thì đã thấy hắn một tay cầm
mảnh kính vỡ, một tay cầm cái tai ròng máu đi ra giữa phòng giam. Trong khi ấy
thì thằng đại ca “quản lý thị trường” ôm cái đầu bê bết máu lăn lộn trên bệ
xi-măng. Nó đau đớn gào rống lên thảm thiết. Ngoài cửa có tiếng chân người chạy
rầm rập.
Quản giáo,
giám thị lao đến rất đông. Đèn điện bật lên sáng trưng. Tiếng mở khoá xoang
xoảng. Hắn vẫn đứng sừng sững giữa phòng giam. Tay hắn cầm cái tai đang rỏ máu.
Bọn tù trong phòng run cầm cập, mặt mũi xám ngoét. Ngay lập tức hắn bị còng tay
dẫn đi. Thằng đại ca “quản lý thị trường” được băng bó cấp cứu. Quản giáo thu
hồi ngay mảnh kính và cái tai vừa bị cắt đứt. Nhưng họ cũng chỉ băng bó, cầm
máu cho thằng đại ca thôi chứ cũng không đưa đi bệnh viện để phẫu thuật ghép
lại cái tai đứt cho nó.
Sau khi lập
biên bản, hắn bị tống luôn vào phòng biệt giam. Hắn phải nhận thêm thời hạn tù
vì tội hành hung, cố ý gây thương tích cho người khác. Hắn không ân hận. Hắn
chỉ nghĩ nếu mình không cảnh giác thì đêm ấy đã mất mạng rồi. Cuộc đời khốn nạn
đã cho hắn bài học của sự tỉnh táo và cảnh giác để không lâm nạn trong những
tình huống bất ngờ. Hắn chỉ tiếc là chưa gặp lại cái thằng oắt con buôn bán
thuốc phiện ở nhà ga. Nếu gặp nhất định hắn sẽ cắt phéng luôn cả hai cái tai
của nó ném cho chó ăn. Sau này mỗi lần đi lao động chung với cả đám tù nhân cải
tạo ở Trại Chuối hắn đều để ý tìm kiếm thằng oắt con ấy. Song hắn đã không tìm
thấy nó. Hắn không biết rằng trong một trận bọn Mỹ dội bom vào khu trại giam
thằng oắt ấy bị thương rất nặng. Nó được các cán bộ, quản giáo, bác sĩ trong
trại giam tận tình cứu chữa. Có một anh công an còn tiếp cả máu cho nó nữa. Có
thể vì lý do đó mà nó cảm động, suy nghĩ về những tội lỗi của mình. Nó đã xin
được khai báo lại chuyện buôn bán thuốc phiện. Nhất là việc nó đã đổ oan cho
một người thanh niên làm thuê bốc vác tên là Lỗi ở nhà ga. Do thằng oắt con
buôn thuốc phiện khai lại nên hắn được thay đổi tội danh và mức án. Hắn chỉ còn
phải tù việc hành hung gây thương tích trong trại giam. Nhưng hắn cũng đã ở
trong tù đến gần bảy năm rồi còn gì.
Hắn ra tù
thì đất nước cũng đã hết chiến tranh từ lâu. Hắn về quê rồi lại lần ra ga tàu.
Mẹ hắn đã mất khi hắn đi tù được ba năm. Ở quê hắn chả còn ai thân thích. Hắn
ra mộ mẹ thắp mấy nén hương rồi lại đi. Mấy ngày vạ vật ở chỗ nhà ga cũ hắn để
ý tìm nhưng cũng không gặp lại người đàn bà tên là Miến ngày nào. Bom đạn của
bọn Mỹ đã đánh phá tan tành khu nhà ga. Ở trên nền khu ga cũ người ta xây dựng
lại một nhà ga mới to đẹp hơn rất nhiều.
Hắn lại tiếp
tục nghề bốc vác, vận chuyển thuê kiếm tiền nuôi thân. Hắn vốn là người lương
thiện nhưng thời thế đã biến hắn thành một người bất thiện. Năm tháng trong tù
hắn đã thay đổi khá nhiều. Tuy vậy bây giờ hắn không muốn mình mãi là kẻ ác.
Hắn chỉ muốn kiếm tiền nuôi thân trong những ngày tháng khốn khó sau chiến tranh
này thôi.
*
Đang đếm nắm
tiền lẻ vừa được trả công bốc vác mấy bao hàng lên tàu thì có ai đó đá vào lưng
hắn. Cú đá khá mạnh khiến hắn thấy đau nhói ở mạng sườn. Hắn quay phắt lại. Có
ba thằng thanh niên đứng sừng sững ngay sau lưng hắn. Thằng có cái đầu bù xù
hất hàm:
- Thằng này
ở đâu đến mà dám làm ăn ở địa bàn của chúng tao hả?
Gã đứng bật
dậy:
- Thế chúng
mày là bọn nào! Địa bàn nào là địa bàn của chúng mày?
- Khu vực
nhà ga này chứ còn chỗ nào nữa hả! Chúng tao quản lý toàn bộ khu này. Ai muốn
đến làm ăn, hoạt động ở đây phải được phép của bọn tao…
- Phải xin
phép bọn chúng mày á?
- Đúng thế!
Muốn làm thuê ở đây phải được phép của chúng tao và phải “nộp thuế” hàng ngày
đầy đủ cho chúng tao.
- Nhưng tao
đéo nộp thì sao?
Gã bắt đầu
thấy nóng mặt. Thằng đầu bù trợn mắt:
- Thế thì
nhanh chóng biến khỏi chỗ này ngay!
- Tao không
biến thì sao! Mà tao khuyên bọn chúng mày nên biến khỏi chỗ này thì hơn!
Nói xong,
hắn cố nén giận ngồi xuống.
Hắn không
muốn gây gổ nữa đánh nhau nữa. Nhưng ba thằng thanh niên không để hắn yên. Một
thằng tung trưởng phóng một cú đá thẳng vào mặt hắn. Nhanh như cắt, hắn né
người vung tay chém chéo vào đùi nó một nhát thật mạnh. Thằng này ngã lăn ra đất
kêu la ầm ĩ. Hai thằng còn lại tiếp tục lao vào. Thằng có mái tóc bù xù vung
con dao chọc tiết lợn lên. Hắn né người tránh lưỡi dao và cũng rất nhanh tóm
luôn được cổ tay cầm dao của nó vặn mạnh. Có tiếng xương gióng bị gãy “khậc”
rất rõ. Nó kêu rống lên vì đau đớn.
Thằng đầu
tóc bù xù bị hắn giật tay mất đà ngã sấp đập mặt xuống đất. Hắn tước được con
dao và đè nghiến nó xuống nền nhà ga. Tỳ lưỡi dao sắc lẻm vào bàn tay của nó,
hắn gằn giọng:
- Mày có
biết tao là ai không! Trong tù tao đã cho một thằng cụt tai, một thằng mất hai
ngón chân đấy. Hôm nay tao cũng sẽ cho mày không còn một ngón tay nào để cầm
đũa và cơm nữa…
Thằng đầu
tóc bù xù sợ quá van xin rối rít. Trong đám người đang đứng chứng kiến cảnh
đánh nhau có ai đó nói to: “Mấy thằng lưu manh côn đồ này chuyên trấn lột bà
con buôn bán, làm thuê ở khu vực nhà ga này đấy! Cứ đánh chết mẹ hết lũ chúng
nó đi!”.
(Hết phần 5)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
06.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI
HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần
6
Thằng đầu tóc bù xù gần
như ngất đi vì đau và sợ. Cánh tay phải bị gãy của nó rũ xuống. Còn hắn thì một
chân quỳ, một chân đạp lên chẹt cứng cổ thằng đầu bù, lưỡi dao sắc lẻm vẫn tì
trên mu bàn tay của nó. Hai thằng lưu manh kia nhân cơ hội nhốn nháo đã chuồn
mất. Hắn phanh ngực áo. Mọi người đang xúm xít xung quanh vội hoảng sợ lùi cả
lại. Trên cái ngực trần to bè của hắn xăm hình một cái mặt hổ trông gớm ghếc.
Lúc này mọi người ở ga mới biết hắn là một thằng tù vừa mới ra trại. Có ai đó
hốt hoảng kêu to:
- Ôi giời! Bọn lưu manh
côn đồ chúng thanh toán lẫn nhau đấy! Bà con hãy mau mau tránh ra ngay!
Mọi người hốt hoảng chạy túa rạt ra xa. Không ai dại gì mà giây với hủi, chẳng phải đầu thì phải tai. Nhưng lại có tiếng người nói gấp gáp ngay sau lưng hắn:
Mọi người hốt hoảng chạy túa rạt ra xa. Không ai dại gì mà giây với hủi, chẳng phải đầu thì phải tai. Nhưng lại có tiếng người nói gấp gáp ngay sau lưng hắn:
- Công an đang đến đấy!
Chú hãy mau chạy ngay đi!
Hắn ngoái lại và nhận ra
bà cụ bán nước chè tươi rong ở ga mà mình vẫn uống chịu. Hắn vội buông thằng
đầu tóc bù xù bật dậy. Phía ngoài cổng nhà ga có tiếng còi ủ của xe công an.
Tay vẫn cầm con dao chọc tiết lợn nhọn hoắt hắn lao vào phía bên trong sân ga.
Hai cô nhân viên soát vé hốt hoảng rạt ra nép vào hai bên cánh cửa tránh đường
cho hắn. Một chuyến tàu hàng đang hồng hộc chạy qua ga. Hắn ném con dao xuống
rãnh nước rồi đuổi theo bám đu người nhảy lên một toa tàu chở hàng. Có mấy bóng
áo vàng lao nhanh vào trong sân ga rồi tản ra lùng sục, tìm kiếm. Con tàu hú
lên rồi tăng tốc lùi lũi chạy ra khỏi nhà ga ngược lên hướng Đồng Đăng. Hắn
thoát. Công an chỉ tóm được mỗi thằng bảo kê đầu tóc bù xù bị gãy tay đang nằm
rên rỉ trên sàn nhà ga.
Ngả người giữa những bao
xi-măng và đống đá dăm lổn nhổn trên toa hàng hắn ngẫm nghĩ về cuộc đời của
mình. Thế là hắn lại rơi vào một hoàn cảnh, một tình huống mới không định
trước. Thời thế luôn xô đẩy số phận con người. Hắn thở dài chán nản. Hắn không
không biết rồi đời mình sẽ đi đến đâu.
Đêm dài. Bầu trời tối đen.
Mưa phùn bay lất phất.
Con
tàu chở hàng vẫn lùi lũi lao đi trong đêm mưa. Tiếng bánh xe xiết vào đường ray
ken két nghe ghê cả răng. Thỉnh thoảng tiếng còi tàu lại hú lên giữa chốn đồng
không mông quạnh hay giữa vùng núi rừng hoang vắng. Nằm ở toa hàng không mui
khổ nhưng không bị nhà tàu kiểm tra tống xuống. Hắn chợt thấy bụng đói cồn cào.
Tối nay hắn chưa kịp ăn chút gì thì xảy ra chuyện xô xát với ba thằng lưu manh
chuyên trấn lột, bảo kê ở khu vực nhà ga. Hắn ngồi dậy ngó ra hai bên đường.
Cây cối và những ngôi nhà nhòe nhoẹt loang loáng trôi nhanh về phía sau. Hắn
tính đến ga nào tàu dừng sẽ xuống mua lấy một ổ bánh mì hay cái bánh chưng ăn
tạm, sáng mai tới Lạng Sơn sẽ hay.
Tới ga Đồng Bành thì con
tàu hàng dừng lại lấy nước và chờ tránh tàu khách xuôi Hà Nội. Hắn đu thành toa
tàu nhảy xuống. Không có cuống vé để ra phía ngoài nhà ga nên hắn lảng vảng ở
bên trong sân chờ tàu. Hắn mua hai cái bánh mỳ nhai ngấu nghiến. Uống một chén
nước chè tươi xong hắn lại leo lên cái toa chở hàng lúc nãy. Đến ga Lạng Sơn
thì trời đã tang tảng sáng. Không có vé để ra cửa nên hắn đi dọc theo đường tàu
tìm chỗ leo ra ngoài tránh phải qua cửa kiểm soát. Có mấy người cũng đang tìm
cách chui rào như hắn. Thấy hắn đang nhớn nhác tìm lối ra một người hỏi:
- Cũng dân đi tàu trốn vé
hả? Cứ đi theo bọn này!
Một người đàn ông mặc bộ
quân phục bạc màu vai vác một cái bao tải nhìn hắn chằm chằm rồi reo lên:
- Ơ… có phải là anh Lỗi
đấy không?
Hắn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao ông lại biết tên
tôi?
- Em là thằng Đang, người
cùng làng với anh đây mà!
- Thằng Đang… đúng là mày
rồi! Nhưng mày đi bộ đội, vào miền Nam chiến đấu cơ mà! Sao bây giờ mày lại lôi
thôi lếch thếch ở đây thế này?
- Em bị thương, về phục
viên từ cuối năm 1976 rồi!
- Thế mày lên trên này để
làm gì?
- Em lên đây làm thuê, vào
rừng chặt củi đem bán lấy tiền nuôi vợ con chứ còn đi đâu nữa. Quê mình ruộng
đất xấu, năng xuất lao động thấp, công điểm ít, mỗi ngày công hợp tác chia cho
vài lạng thóc sống thế quái nào được chứ. Anh lạ gì nữa lại còn hỏi?
- Mẹ kiếp! Nhưng mày là bộ
đội, là một thương binh có công lao với nước cơ mà?
- Thương binh mỗi tháng
vài đồng phụ cấp, vặt mũi chả đủ đút miệng ăn thua gì? Anh cứ như người ở trên
trời rơi xuống ấy!
Hắn bực, suýt nữa thì buột
miệng nói: “Thì tao ngồi tù cũng đến ngót chục năm rồi còn gì!”. Chợt thằng
Đang cũng ngớ ra hỏi:
- Thế còn anh, lên biên
giới này làm gì?
- Thì cũng đi kiếm việc
làm thuê như bọn chúng mày thôi!
- Vậy thì theo bọn em đi!
Em vừa nhận thuê đào hai cái giếng, san một cái nền nhà, đang thiếu nhân công.
- Ừ! Thế thì tốt quá, tao
cũng đang chưa biết làm việc gì kiếm miếng ăn để đút vào miệng đây!
- Vậy thì đi thôi!
Thằng Đang nói và kéo hắn
đi theo bọn thanh niên chui qua một cái lỗ hổng ở tường rào nhà ga ra bên
ngoài.
*
Bất ngờ gặp lại người làng
sao khiến hắn chợt thấy nhớ quê đến thế.
Nhà hắn ở giữa xóm. Mẹ hắn
ngày ấy được đội sản xuất giao cho chăm nuôi một con bò đực to khoẻ và rất hung
dữ. Ngoài hắn chả ai dám đến gần. Khi đội sản xuất điều hoà sức kéo cũng chẳng
ai muốn nhận con bò nhà hắn. Bởi nó hung hăng không khéo hỏng cày, gẫy bừa mà
lại có thể xảy tai nạn nếu lỡ bị nó húc phải. Con bò đực chỉ phục tùng mỗi mình
hắn. Hắn chế tạo ra một bộ yên cương buộc vào lưng con bò cưỡi như cưỡi ngựa.
Cuối chiều, khi đám trẻ lùa trâu bò về chuồng thì hắn cưỡi con bò mộng nhong
nhong làm một vòng ra thị trấn rồi mới quay về làng. Hắn ngồi trên lưng bò,
lưng đeo dao, tay cầm cái kiếm gỗ trông rất oách.
Đám trẻ choai choai như
bọn thằng Đang rất thích hắn. Bởi lẽ hắn có biệt tài kể chuyện. Những cuốn sách
dài dằng dặc như “Tam quốc diễn nghĩa”, “Tây du ký”, “Thuỷ hử”, “Hồng lâu
mộng”, “Chinh đông chinh tây”… hắn đều thuộc làu làu. Chiều nào đi chăn thả
trâu bò trong thung lũng đám thằng Đang cũng hong hóng chờ được nghe hắn đọc
chuyện. Để được nghe chuyện, mỗi đứa phải nộp một bó cỏ thật non để con bò mộng
của hắn ăn. Khi con bò mộng của hắn đã đứng ngập giữa đống cỏ non, hắn mới bắt
đầu kể chuyện. Giọng hắn lúc trầm, lúc bổng, lúc ngân nga, diễn đạt các tình
huống trong chuyện. Hắn đọc làu làu từng chương, hồi trong Tam quốc diễn nghĩa
mà chẳng cần mở sách. Hôm nào cũng vậy, hắn chỉ đọc đúng ba chương, không hơn.
Đám trẻ chăn trâu đứa nào cũng xuýt xoa, tiếc rẻ, mỗi khi hắn kết thúc buổi đọc
truyện bằng câu: "Muốn biết chuyện ra sao, chờ hồi sau sẽ rõ!".
Công điểm ít, thu nhập
thấp nên mẹ con hắn thường xuyên bị thiếu ăn. Hắn ăn rất khoẻ, mỗi bữa phải năm
sáu bát cơm đầy mới tạm no. Ngày ấy ăn uống thiếu thốn, chỉ có rau muối nên
phải tăng chất gạo, chất xơ như khoai sắn chêm vào dạ dày mới đỡ được những cơn
đói cồn cào. Túng thì làm liều, đói đầu gối phải bò. Cũng như tất cả mọi người,
hắn nghĩ ra mọi cách để ăn cắp của hợp tác xã. Đến đêm, chờ khi đám thanh niên
trục lúa xong, vun thóc thành đống giữa sân kho rồi về nhà ngủ thì hắn mới ra
tay. Hắn bò vào sân kho của hợp tác xã với một chiếc bao tải to. Hắn dùng tay
vun thóc nhồi đầy bao tải rồi kéo lê chui qua bờ rào để vác về nhà. Mấy lần đều
trót lọt. Nhưng rồi đi đêm lắm ắt có ngày gặp ma. Một đêm, hắn vừa lôi cái bao
tải thóc ướt còn lẫn cả rơm qua cái lỗ thủng hàng rào nhà kho thì bị bắt. Hai
cái gậy tre đực cắm phập xuống đất ép lại kẹp chặt lấy cổ hắn. Hai ông bảo vệ
đứng sừng sững hai bên. Một ông quát:
- Quân chuyên ăn cắp tài
sản xã hội chủ nghĩa. Lần này thì đừng hòng mà chạy thoát nhé!
- Gô cổ nó lại dẫn lên
công an xã! Đúng là quân phản động!
Hai ông bảo vệ buông gậy
để đè trói hắn. Khi hai cây gậy vừa nới lỏng ra thì hắn cong người bật phắt
dậy. Chỉ bằng một động tác quét chân, một ông bảo vệ đã lộn nhào luôn xuống
mương nước. Ông kia vừa sáp đến thì trúng luôn một đạp vào bụng. Hắn phá chạy.
Tiếng kêu cứu thất thanh. Dân làng đổ ra. Đèn đuốc sáng rực. Mọi người nhanh
chóng lôi cái ông đang lóp ngóp dưới mương lên. Tang vật là cái bao tải đay lèn
đầy thóc được đưa vào sân kho. Mọi người nhận ra ngay chủ nhân của chiếc bao
tải đay ấy. Tên mẹ hắn viết bằng sơn đen to tướng trên bao tải. Thời bao cấp
chiếc bao tải đay cũng là một loại tài sản quý của nông dân. Nó cũng như những
cái cày, cuốc, thúng, mủng, nong, nia. Nhà nào cũng ghi tên, đánh dấu để khỏi
lẫn, khỏi mất.
Thế là chả khó khăn gì,
công an xã cũng tóm cổ được kẻ ăn trộm thóc. Hắn bị bắt khi đang bới sắn trên
nương. May bận ấy xã chỉ cảnh cáo hắn, phạt nhà hắn mấy chục công vì tài sản là
bao thóc ướt đã được thu hồi được bao thóc tang vật trả lại kho của hợp tác xã.
Bản tính con người hắn là
một người hay nghịch ngợm, quậy phá. Một lần có đoàn văn công tỉnh về biểu diễn
ở xã. Trước giờ mở màn, ông trưởng công an xã lên loa phóng thanh gần cổ thuyết
trình một thôi một hồi rất dài về công tác giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ tài
sản xã hội chủ nghĩa, xây dựng hậu phương lớn vững mạnh chi viện cho tiền tuyến
lớn đánh giặc.
Lúc vở diễn bắt đầu thì có
người thoáng thấy hắn lảng vảng hai bên cánh gà sân khấu.
Khi vở chèo cổ đang cao
trào thì đột nhiên sâu khấu ngả nghiêng, phông màn từ từ đổ ụp xuống. Dây điện
đứt gây chập điện, lửa tóe lên xèn xẹt bén vào phông màn cháy lem lém. Trên sân
khấu, đám vua quan đang thiết triều bàn chính sự hết thảy đều hoảng hốt bỏ cả
ngai vàng, vứt cả vương miện, mũ mão, thẻ ngà, ấn kiếm hô nhau bỏ chạy tán
loạn. Vua chẳng kịp chờ quần thần hộ giá vội nhảy vọt ra khỏi sân khấu thoát
thân. Phía trước, sát ngay gần sân khấu là chỗ ngồi của đại biểu lãnh đạo, cán
bộ các ban ngành trong xã cũng nhốn nháo, mạnh ai, nấy chạy.
Sau khi phông màn trên sân
khấu ụp đổ hoàn toàn, công an, bảo vệ mới tìm ra nguyên nhân là các dây chằng
đều bị cắt đứt. Ông chủ tịch xã lúc này mới hoàn hồn lên giọng ra lệnh:
- Tìm... đi tìm tóm cổ ngay
thằng Lỗi. Nhất định chỉ có thằng con hoang mất dạy ấy gây ra chuyện này!
- Rõ… rõ…!
- Rõ… rõ…!
Đám công an, bảo vệ đồng
thanh đáp và bủa đi tìm hắn. Nhưng hắn đã mất hút. Đến khi người ta dựng lại
được rạp, căng lại phông màn để tiếp tục biểu diễn thì tìm mãi không thấy vương
miện và bảo kiếm của nhà vua đâu. Thì ra nhân lúc nhốn nháo, hắn lao đã ngay
lên sâu khấu chộp luôn lấy chiếc vương miện và thanh bảo kiếm rồi chuồn mất.
Hôm sau, hắn bị bắt khi
đang cưỡi bò, đầu đội chiếc vương miện lóng lánh toàn là vàng, ngọc giả, tay
múa bảo kiếm trên đồi cây lúp súp cho đám trẻ chăn trâu xem. Người ta thu hồi
vương miện và thanh kiếm trả lại cho đoàn văn công. Lần này, hắn được giao cho
công an huyện xử lý. Hắn bị phạt lao động công ích một tháng rồi được tha về.
Nhớ lại những chuyện vui
buồn ấy khiến hắn cứ nao nao nghĩ về làng mình, về người mẹ thân yêu suốt đời
tần tảo…
Hà Nội, tháng 2-2011
(Hết phần 6)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 09.8.2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 7
Hắn và tốp thanh niên đi
làm thuê vừa chui qua cái lỗ hổng trên tường rào ra bên ngoài ga thì có tiếng
quát:
- Tất cả đứng im!
Hắn và bọn thanh niên định
bỏ chạy thì thằng Đang ngăn lại:
- Bình tĩnh! Đó là các anh
bộ đội đấy!
Lúc này hắn mới định thần
nhìn kỹ ba người súng AK lăm lăm trong tay chặn đường bọn hắn lại. Ba người
lính tay đeo băng đỏ “Kiểm soát quân sự”. Một người hỏi:
- Tại sao các anh lại chui
qua lối này mà không qua cửa soát vé?
- Ch… ú… n… g… t… ô… i…
Thằng Đang ấp úng. Lúc này
mấy chiến sĩ kiểm soát quân sự mới chợt nhận ra thằng Đang mặc bộ quân phục cũ,
lưng đeo ba-lô, cái mũ cối bộ đội vẫn còn một ngôi sao vặn ngược vào bên trong.
Trông nó chẳng khác gì một người lính vừa từ trên điểm chốt xuống. Người tổ
trưởng tổ kiểm soát quân sự nghiêm mặt hỏi thằng Đang:
- Đồng chí ở đơn vị nào!
Yêu cầu xuất trình giấy tờ?
Thằng Đang đặt cái bao tải
đựng mấy lưỡi cuốc, cái xẻng xuống đất. Đoạn, nó bĩnh tĩnh trả lời:
- Tôi không ở bất cứ đơn
vị nào cả! Tôi đã về phục viên, là cựu chiến binh được mấy năm nay rồi!
- Vậy giấy tờ của anh đâu?
Yêu cầu xuất trình để chúng tôi kiểm tra!
- Không có giấy tờ! Đi làm
thuê thì còn có giấy tờ gì đâu?
- Anh cũng phải có chứng
minh thư nhân dân chứ!
- Cũng không! Phục viên về
là lo làm ăn, cũng chưa kịp làm chứng minh nhân dân!
- Thế anh không có giấy tờ
gì khác hay sao?
- Không…
- Thế thì yêu cầu anh về
trạm kiểm soát quân sự để chúng tôi tiến hành xác minh!
- Xác minh cái cóc khô gì
chứ?- Hắn làu bàu trong miệng.
Thằng Đang cũng hơi khó
chịu. Người tổ trưởng kiểm soát quân sự nghiêm giọng:
- Chúng tôi nghi ngờ anh
là một quân nhân đào bỏ ngũ nên phải đưa về trạm kiểm soát quân sự khu vực thị
xã để xác minh!
Đến lúc này không nhịn
được nữa, hắn lại nói chen vào:
- Đào ngũ cái con cặc! Một
thương binh, một dũng sĩ đánh Mỹ đấy, hiểu không?
Người tổ trưởng kiểm soát
quân sự nghiêm khắc cảnh cáo hắn:
- Anh kia! Không được nói
bậy! Nếu còn nói nữa chúng tôi sẽ bắt luôn cả anh giao cho công an thị xã xử lý
đấy!
- Có mà bắt cái đầu b…-
Hắn lại định văng tục. Thằng Đang vội ngăn hắn lại và dặn:
- Anh cùng mấy anh em cứ
vào trong nhà ga ngồi chờ em. Em vào làm việc với các anh ấy một lát rồi ra
ngay. Chắc là chả có vấn đề gì đâu, chỉ tại cái ba-lô rách và bộ quần áo bộ đội
cũ em đang mặc này thôi, chứ các anh ấy không bắt giữ mình vì cái tội trốn vé
khi đi tàu đâu mà sợ.
Hắn đành hậm hực đi theo
mấy thằng thanh niên vào trong nhà ga. Thằng Đang thì bị ba chiến sĩ kiểm soát
quân sự dẫn ra phía ngoài đường.
Sau chiến tranh, biên giới
phía Bắc tràn ngập màu áo lính. Trong nhà ga cũng ngổn ngang toàn là cánh lính
tráng đứng ngồi lố nhố, súng đạn, ba-lô lỉnh kỉnh. Thời hậu chiến nhìn những
người lính, người dân hết thảy đều khắc khổ, nhếch nhác. Cái đói, cái thiếu
thốn hành hạ con người không loại trừ một ai. Những năm đánh Mỹ có hậu phương
vững mạnh, lại có cả phe xã hội chủ nghĩa hùng hậu chi viện, trang bị đầy đủ
nên những người lính quần áo luôn mới, lương khô súng đạn đầy đủ. Chiến tranh
biên giới Việt - Trung nổ ra. Hai nước nghèo đánh nhau, cả hai cùng khổ. Dân đã
khổ, lính tráng lại càng khốn khổ hơn. Chiến tranh bầm dập tất cả. Sự tàn phá
thật khủng khiếp. Nhưng sự hồi sinh sau cuộc chiến cũng thật kỳ diệu. Thị xã
Lạng Sơn đang được xây dựng lại, chỗ nào cũng ngổn ngang, bừa bộn. Hắn nhìn
quanh trong nhà ga, có mấy toán người chắc cũng dân miền xuôi lên biên giới làm
thuê nên lỉnh kỉnh những cưa đục, bao tải vẻ nhếch nhác. Chỗ góc sân nhà ga là
mấy anh bộ đội đang ngồi đứng ngổn ngang chắc là đợi tàu để chuyển quân. Nghe
nói vẫn đang còn đánh nhau ở hướng bình độ 400, Cao Lộc và hướng Bản Chắt, Đình
Lập. Có mấy anh thương binh băng kín cánh tay đang chia nhau chút thuốc lá sợi
gói trong mảnh giấy báo. Tình hình biên giới vẫn đang căng thẳng nhưng dòng
người từ miền xuôi vẫn cứ đổ lên biên giới. Chiến tranh vẫn chưa qua, hòa bình
thì chưa tới, song con người thì vẫn cứ phải sống. Dưới mặt đất còn dày những
vật liệu nổ nhưng người địa phương đã lục tục kéo về dựng lại nhà, cày lại
ruộng. Mìn gỡ đến đâu, dân cấy lúa đến đó. Sự sinh tồn bao giờ cũng mạnh hơn
cái chết. Thị xã Lạng Sơn bị chiến tranh tàn phá nặng nề tan hoang. Bọn địch đã
triệt hạ phá hủy từng căn nhà, cầu cống, các công trình dân sinh, ép thuốc nổ
hạ gục từng cái cột điện. Cảnh hoang tàn của thị xã Lạng Sơn sau chiến tranh
biên giới 1979 có lẽ hơn cả thời đánh Pháp dân ta tiêu thổ kháng chiến. Bây giờ
thị xã gần như phải xây dựng lại tất cả nên mới cần rất nhiều nhân công. Bọn
chuyên đi bán sức lao động từ dưới miền xuôi lên nhờ vậy mới có việc làm, kiếm
tiền.
Thằng Đang bị dẫn giải vào
trạm kiểm soát quân sự ngay cạnh nhà ga. Không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nó
chẳng có một loại giấy tờ gì tuỳ thân không khéo lại lằng nhằng. Mà ngay như
hắn trong người cũng chỉ có một cái giấy tha tù nhỡ bị công an kiểm tra thì
cũng sẽ rất phức tạp vì hắn còn chưa hết thời gian phải chịu sự quản chế tại
địa phương, muốn đi đâu phải được chính quyền cho phép.
- Anh Đang ra rồi kìa!
Một thằng trong bọn chợt
kêu lên. Hắn ngoảnh cổ lại nhìn. Thằng Đang tay xách ba-lô đi cùng một anh sĩ
quan đeo quân hàm thiếu uý. “Chết bỏ mẹ! Không khéo có việc gì phức tạp xảy ra
rồi!” - Hắn nghĩ. Lập tức hắn thủ thế, sẵn sàng vọt chạy ngay khi cần. Hắn đã
quen với việc chạy trốn lắm rồi. Nhưng nhìn thấy vẻ bình thản của thằng Đang,
hắn hơi yên tâm. Thằng Đang dẫn anh thiếu uý đến trước mặt mọi người. Nó giới
thiệu:
- Đây là anh Tuyến, cùng
đơn vị với mình hồi còn ở miền Nam thời chống Mỹ!
- Thế hả!- Hắn thở phào.
Anh thiếu uý quân đội bắt
tay mọi người rồi khẽ lắc đầu:
- Thật không ngờ mày lại
thành kẻ làm thuê khốn khổ thế này?
Thằng Đang ngắt lời anh
ta:
- Thôi… mày đừng suy nghĩ
nhiều quá thế! Thời hậu chiến mà lại…
- Lên đây làm nếu có việc
gì cần thì gọi tao nhé! - Anh thiếu uý dặn.
- Không cần đâu! Bọn mày
còn bao nhiêu nhiệm vụ quân sự quan trọng, bọn tao là dân đi làm thuê kiếm ăn
thì có việc gì ghê gớm đâu nên không dám quấy quả. Chỉ mong nếu lần sau có bị
anh em kiểm soát quân sự nghi là lính đào ngũ thì mày giải thích giúp một câu…
hì…
(Thằng Đang không thể biết
rằng chỉ một thời gian ngắn sau thôi nó đã phải nhờ đến anh thiếu uý này để trở
về quê hương trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Nhưng đó là câu chuyện của phần
tiếp theo).
- Nhưng lên trên này phải
thật cẩn thận đấy! Khi có tình huống gì thì nhanh chóng rút ngay về phía sau
nhé!
Thằng Đang bật cười:
- Yên tâm! Bọn tao bây giờ
là thường dân rồi, chả có trách nhiệm, nghĩa vụ gì ở đây. Thấy tình hình căng
thẳng nguy hiểm là chúng tao sẽ lập tức chuồn luôn…
Anh thiếu uý chào tạm biệt
mọi người. Thằng Đang giờ mới nói:
- Nó chính là trưởng trạm
kiểm soát quân sự ở khu vực nhà ga. Nó nhận ra em ngay. Cũng may gặp nó nên đỡ
phải giải thích lằng nhằng, mất thời gian. Bây giờ chúng ta đi thôi!
Nó nói và xách ba-lô đứng
dậy. Hắn và mọi người cũng đứng lên. Sau này hắn mới biết thằng Đang và anh
thiếu uý nọ cùng tiểu đội công binh với nhau thời mở đường “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”. Chính thằng Đang đã cứu sống anh thiếu uý trong một trận chạm
trán bất ngờ với bọn thám báo. Thằng Đang đã bình tĩnh nổ súng để anh thiếu uý
rút lui an toàn. Vết thương của thằng Đang khiến nó phải về phục viên chính là
bị trong trận đánh ấy. Cả hai không ngờ gặp lại nhau ở nơi biên giới này trong
tình huống một thằng là thương binh đi làm thuê kiếm tiền nuôi thân, một thằng
là sĩ quan và vẫn còn phải tiếp tục chiến đấu chặn giặc bảo vệ đất nước. Anh
thiếu uý thấy ái ngại cho thằng Đang. Nó là một thương binh mất sức đến hơn 40%
mà vẫn phải bôn ba tha hương, kiếm sống, vợ ốm con đau, đói khát, nheo nhóc.
Thằng Đang thì lại băn khoăn khi biết chuyện anh thiếu uý ngày trở về thì người
con gái mình vẫn thương yêu, nhớ nhung, người từng thêu tặng anh tấm khăn tay
có hai con bồ câu ngậm mỏ vào nhau và dòng chữ “mãi mãi yêu anh” đã đi lấy
chồng mất rồi. Đến bây giờ vẫn là một anh “lính phòng không”. Nhưng hoàn cảnh
đất nước thời chiến là như vậy. Chiến tranh thật có ý nghĩa lớn lao nhưng cũng
thật là khắc nghiệt trong mỗi số phận con người tham gia của cuộc chiến ấy.
Thằng Đang dẫn hắn và mấy
người vượt qua sông Kỳ Cùng. Họ bắt đầu cuộc mưu sinh bằng việc san nền nhà,
đào giếng thuê và vào rừng chặt củi khô gánh ra chợ bán. Họ cóp nhặt gom góp
từng đồng, từng hào kiếm được đợi ngày về quê.
(Hết phần 7)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 07.8.2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Đời hắn Phần 8
Đời hắn Phần 8
Thứ
tư - 14/08/2013 06:26
Ban
ngày hắn theo bọn thằng Đang đi đào giếng, san đắp nền nhà, vận chuyển gỗ thuê.
Buổi tối sau khi ăn cơm xong cả bọn kéo nhau ra chợ Kỳ Lừa tìm chỗ nào kín gió
trong các quán chợ rồi lăn ra ngủ. Hôm nào trời ấm, không mưa thì cả bọn rải lá
cây rơm rạ nằm ngủ luôn tại chỗ làm đỡ phải đi lại. Đào xong hai cái giếng và
san xong cái nền nhà, năm thằng chia nhau mỗi thằng được hơn hai trăm đồng. Gia
chủ cho thêm mỗi thằng vài cân ngô hạt làm lương ăn. Cả bọn chia nhau đi tìm
việc tiếp tục làm thuê. Thằng Đang là người linh hoạt, nó kiếm được việc là làm
một cái chuồng trâu cho ông người dân tộc ở trong bản. ...
Thông
tin liên hệ:
Tác giả Trọng Bảo
Tên thật: Hà Trọng Bảo
Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
Tác giả Trọng Bảo
Tên thật: Hà Trọng Bảo
Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
ĐỜI
HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 8
Ban ngày hắn
theo bọn thằng Đang đi đào giếng, san đắp nền nhà, vận chuyển gỗ thuê. Buổi tối
sau khi ăn cơm xong cả bọn kéo nhau ra chợ Kỳ Lừa tìm chỗ nào kín gió trong các
quán chợ rồi lăn ra ngủ. Hôm nào trời ấm, không mưa thì cả bọn rải lá cây rơm rạ
nằm ngủ luôn tại chỗ làm đỡ phải đi lại.
Đào xong hai
cái giếng và san xong cái nền nhà, năm thằng chia nhau mỗi thằng được hơn hai
trăm đồng. Gia chủ cho thêm mỗi thằng vài cân ngô hạt làm lương ăn. Cả bọn chia
nhau đi tìm việc tiếp tục làm thuê. Thằng Đang là người linh hoạt, nó kiếm được
việc là làm một cái chuồng trâu cho ông người dân tộc ở trong bản. Xong cái
chuồng trâu cả bọn quyết định trong khi tiếp tục tìm việc làm thuê thì cứ tạm
lên rừng chặt củi khô đem ra đường quốc lộ bán cho cánh xe tải chở về xuôi.
Kiếm được gánh củi từ trong rừng ra cũng khá gian khổ, vất vả. Trong khi đó thì
người mua cứ chê ỏng chê eo là củi còn tươi, không cháy nỏ, chỉ trả giá rẻ mạt.
Vừa chặt cành củi khô hắn bực tức nghĩ: “Mẹ kiếp! Kiếm được đồng tiền nuôi mỗi
miệng mình đã thật khốn khổ, khốn nạn. Thế mà bọn thằng Đang còn phải kiếm tiền
để chữa bệnh cho vợ, đóng học phí cho con nữa thì biết đến bao giờ mới đủ!”.
Buổi sáng
sớm, rừng núi âm u.
Tiếng suối
chảy rỉ rả buồn như chấu cắn. Thỉnh thoảng hắn lại hú lên một tiếng, đó là tín
hiệu để thông tin cho bọn thằng Đang. Cả bọn đang chặt củi trong một cánh rừng
biên giới. Những tiếng hú vọng vào vách đá âm vang không dứt nghe như thời tiền
sử mông muội con người gọi nhau đi săn bắt, hái lượm vậy. Mà cuộc đời hắn thì
cũng chả khác gì đang sống ở thời tiền sử. Hắn nhớ ngày còn trong trại tù cũng
vào rừng chặt củi như thế này, có mấy thằng lợi dụng sơ hở của quản giáo rủ
nhau bỏ trốn. Bọn chúng chạy mãi vào rừng sâu để tránh sự truy lùng. Nhưng rồi
bọn chúng không tìm thấy đường đi, cứ loanh quanh, lẩn trốn mãi trong hang đá.
Đói quá, chúng đành quay trở về trại giam xin được ra đầu thú. Thằng nào thằng
ấy trông chẳng khác gì lũ đười ươi, người rừng. Mặt mũi chúng hốc hác, râu tóc
dài rũ rượi. Mấy tháng sống tự do ngoài nhà tù chúng cũng chả được làm người.
Đói khát, bọn chúng đã phải ăn cả thằn lằn sống, cá sống trong khi trốn chạy.
Thì ra tự do mà đói khát thì cũng chả để làm gì, thà rằng cứ ở trong tù có khi
còn hơn, còn có cơm ăn nước uống, có những cái bệ xi-măng để ngả lưng. Vậy nên,
cái giá của tự do đối với một thằng tù luôn là rất đắt.
Chợt có một
tiếng chim hót véo von vang lên xua tan cái tĩnh mịch, âm u của khu rừng. Hắn
hứng khởi chúm miệng huýt sáo bắt chước tiếng chim hót. Từ phía ven rừng có
tiếng thằng Đang gọi to:
- Chuẩn… bị…
về… thôi…
- Hú… hú…
hú…
Mọi người
đáp lại và nhanh chóng gom số củi đã chặt được bó lại thành gánh. Thằng Đang
chia cho mỗi người mấy quả vả chín vặt được ở ven suối. Đoạn nó cất gánh củi
nặng lặc lè lên vai. Nó đi trước theo lối mòn cắt ra phía đường quốc lộ. Giờ
này các xe vận tải chở vật liệu xây dựng lên biên giới đã trả hàng xong. Khi
quay về cánh lái xe thường mua củi của họ chở về xuôi vừa đỡ chạy xe không vừa
bán kiếm chút chênh lệch giá. Thời buổi khó khăn ai cũng phải nghĩ cách kiếm
tiền. Người có vốn làm ăn lớn, kẻ không có tiền như bọn hắn thì kiếm sống theo
kiểu cò con, bán sức lao động để mưu sinh.
Hắn chợt
thấy vui vui. Gần một tháng làm thuê, chặt củi hắn cũng kiến được vài ngàn đồng
rồi. Ăn uống mỗi ngày mất vài chục đồng, cố đến giữa năm hắn cũng sẽ mua được
cái khung xe đạp. Góp dần từng loại phụ tùng thì đến cuối năm hắn sẽ lắp được
hoàn chỉnh cái xe đạp để đi. Có cái xe đạp hắn sẽ chở củi, thồ hàng thuê đỡ
phải gánh gồng vất vả.
Hắn đang
phấn khởi với những dự tính của mình thì giật nảy người bởi một tiếng nổ “oành”
rất đanh ở phía trước. Đất dưới chân hắn rung lên. Cát bụi văng rào rào, lá cây
rụng lả tả. Theo phản xạ tự nhiến, hắn vội ném gánh củi rồi nằm úp mặt xuống
đất. Khói bụi chưa tan hết hắn đã gào lên:
- Đang ơi!
Có chuyện gì thế?
- Mìn… có lẽ
thằng Đang đạp phải mìn rồi!
Thằng Tuân
đang nằm rạp ở ngay trước mặt hắn lập bập lên tiếng. Giọng nó lạc đi vì hoảng
loạn. Hắn lồm cồm bò lên phía trước xem xét. Khói bụi đã dần tan bớt. Hắn nhìn
thấy thằng Đang nằm gục ngay ở bên lối mòn. Gánh củi bị hất văng ra đứt tuột
dây tung toé xung quanh. Cái mũ cối bộ đội lăn lông lốc giữa lối mòn.
Hắn hoảng
hốt gọi to:
- Đang ơi!
Mày có sao không?
Thằng Đang
cố gắng nhỏm dậy, giọng nó yếu ớt:
- Anh cẩn
thận đấy! Lỡ còn một quả mìn khác…
- Mặc mẹ nó!
Tao hỏi mày có việc gì không?
- Em bị
thương rồi…
- Để tao lên
băng bó cho mày…
- Anh… phải…
cẩn… thận… đấy…
Hắn bảo
thằng Tuân và cả bọn cứ nằm yên tại chỗ. Rồi hắn lò dò đi đến chỗ thằng Đang
đang nằm. Thằng Đang gánh củi đi trước không may đạp trúng một quả mìn bộ binh
còn sót lại sau chiến tranh biên giới năm 1979. Đây là loại mìn do Trung Quốc
chế tạo có sức sát thương mạnh. Bàn chân phải của thằng Đang bị quả mìn xé
tướp, thịt da nát bét, đẫm máu. Loại mìn này rất nguy hiểm vì trong thuốc nổ
của nó có một loại hoá chất gì đó gây hoại tử vết thương rất nhanh. Khi đạp
phải loại mìn này người bị thương rất khó cầm máu vì nó xé nát bươm xương thịt,
làm vỡ hết động mạch, tĩnh mạch. Thường là phải cấp cứu, xử lý rất nhanh mới
cứu được thương binh. Cách tốt nhất là phải lập tức tháo ngay khớp gối để ngăn
chặn sự hoại tử lan từ dưới phía bàn chân lên trên đùi. Có trường hợp cấp cứu
chậm khi đưa đến trạm phẫu các bác sĩ phải cưa đến tận sát háng để cứu lấy mạng
sống cho thương binh. Nhiều người bị trúng loại mìn này vẫn tỉnh táo như không
vậy mà bác sĩ chưa kịp xử lý đã bỏ mạng. Là một chiến sĩ công binh từng lăn lộn
ở Trường Sơn bao nhiêu năm rồi lại chiến đấu ở biên giới Tây Nam nên có lẽ
thằng Đang hiểu rõ về tính năng sát thương nguy hiểm của loại mìn này.
Hắn thì chả
hiểu gì về vũ khí, bom mìn cả. Nhưng khi nhìn thấy bàn chân bị mìn xé nát của
thằng Đang hắn cũng rất hoảng sợ. Hắn vội xé cái áo đang mặc băng bó cho thằng
Đang. Nhưng máu ở bàn chân nó vẫn ứa chảy ra ướt sũng.
Thằng Đang
cố bình tĩnh bảo:
- Anh tìm
đoạn lấy dây rừng buộc chặt phía trên vết thương sát gối để cầm máu cho em.
Hắn nhớn
nhác ngó xung quanh tìm kiếm. Lúc này thì thằng Tuân, thằng Công và thằng Hạ
cũng líu ríu chạy lên. Thằng Hạ rút ngay cái thắt lưng ra đưa cho hắn. Hắn làm
theo sự chỉ dẫn của thằng Đang.
Băng bó tạm thời cầm máu cho thằng Đang xong hắn bảo cả bọn:
Băng bó tạm thời cầm máu cho thằng Đang xong hắn bảo cả bọn:
- Tao sẽ
cõng thằng Đang! Một thằng trong bọn chúng mày chạy ra đường trước xem có cái
xe ô tô nào đi qua không. Nếu có chặn lại, nói với họ là có người bị nạn xin họ
cho đi nhờ về thị xã để đưa vào bệnh viện cấp cứu! Nhanh lên nhé! Đi chính giữa
lối mòn, thằng đi sau đặt đúng dấu chân thằng trước. Cẩn thận, kẻo lại vấp phải
quả mìn khác thì nguy đấy!
- Vâng!
Thằng Hạ
liền nhao lên phía trước. Nó co vai rụt cổ, còng người xuống vì gánh củi khá
nặng. Hắn cáu tiết quát:
- Vứt mẹ nó
hết củi với kiếc đi. Cứu lấy mạng người cái đã. Người còn chả tiếc, tiếc đéo gì
mấy que củi!
- Vâng…
vâng…
Theo lệnh
của hắn, cả bọn ném những gánh củi xuống giữa lối đi. Khốn nạn những thằng nhà
nghèo đi làm thuê đến lúc chết vẫn cứ tiếc công, tiếc của, dù đó chỉ là một
gánh củi giá bán rẻ mạt. Thằng Công mặt cắt không còn giọt máu, nó run lập cập,
chân bước không nổi nữa. Lần đầu chứng kiến người bị thương, nhìn thấy máu chảy
nó sợ quá bật khóc. Nó mới mười sáu tuổi, nhà nghèo, phải bỏ học, bỏ quê đi
theo bọn đàn anh lên biên giới làm thuê kiếm tiền giúp đỡ bố mẹ. Hắn lại phải
quát lên:
- Mày có câm
ngay đi không! Khóc gì mà khóc hả! Làm tao rối hết cả lên!
Thằng Công
im bặt nhưng nước mắt nó vẫn trào ra chảy dài trên má. Mấy thằng tiều phu xúm
vào đỡ thằng Đang lên vai hắn. Hắn cõng thằng Đang lập cập chạy ra phía con
đường quốc lộ. Thằng Đang khe khẽ rên vì đau. Vốn là một thằng lính chiến từng
bao lần lâm trận nên nó hiểu rất rõ hoàn cảnh của mình lúc này.
Hắn cố gắng
cõng thằng Đang đi thật nhanh. Máu từ bàn chân của thằng Đang vẫn rớt tong tỏng
xuống lối đi. Cả bọn đã ra tới ngoài bìa rừng. Vượt qua một mỏm đồi thấp nữa là
sẽ đến con đường quốc lộ chạy từ cửa khẩu về thị xã Lạng Sơn. Hắn thở hồng hộc
vì mệt, trong lòng đầy lo lắng. Thằng Đang khẽ lúc lắc cái đầu rồi bảo:
- Anh đặt em
xuống nghỉ một lúc đã. Cũng chưa có xe xuôi đâu anh ạ!
Hắn cố nhẹ
nhàng đặt thằng Đang ngồi xuống cạnh một mô đá mồ côi bên đường. Hắn đỡ nó dựa
lưng vào mô đá rồi kiểm tra lại vết thương. Thằng Đang bị mất quá nhiều máu.
Mặt nó nhợt nhạt, trắng bệch. Thằng Đang vẫn cố làm ra vẻ không sao, nó nói với
hắn:
- Anh cố đưa
em về quê nhé!
- Nhất định
rồi! Mày yên tâm, tao sẽ đưa mày về tận nhà!
Giọng thằng
Đang vẫn đều đều:
- Anh nói
với các anh chị và vợ em là chôn em cạnh mộ mẹ em nhé! Mẹ em thương em nhất.
Thế mà em chưa giúp được mẹ việc gì. Lúc nhỏ đi học, lớn lên em đi bộ đội biền
biệt chiến đấu ở miền Nam. Hoà bình em trở về thì mẹ đã đi xa mất rồi. Bây giờ
em chỉ muốn được chôn cạnh mộ mẹ để có gặp lại thì giã cho mẹ miếng trầu…
Nghe thằng
Đang dặn như vậy, hắn phát hoảng:
- Mày nói
cái gì mà linh tinh vớ vẩn, lạ thế hả? Mày không được chết. Chúng tao sẽ đưa
mày đi bệnh viện! Mày không việc gì đâu…
Tiếng thằng
Đang vẫn tỏ ra hết sức bình thản, giọng nó có vẻ yếu nhưng rất rành rõ:
- Em làm
thuê trên này giành dụm được mấy nghìn đồng đang để ở trong túi áo ngực. Nhờ
anh cầm về đưa cho vợ em, bảo cô ấy mua ngay cho con gái cái áo hoa và cái váy
xòe để nó được vào đội múa của lớp. Hôm trước nó đi học về mặt mũi cứ buồn
thiu. Hỏi thì nó nói không vì có váy áo đẹp nên cô giáo không cho vào đội múa
của lớp…
Hắn gắt:
- Thôi! Mày
không được nói gở nữa. Vết thương của mày rồi sẽ khỏi thôi. Mà mày phải cố gắng
lên nhé. Chúng tao sẽ đưa mày đi bệnh viện cấp cứu!
Thằng Đang
im lặng không nói nữa. Nó nhắm mắt lại, hơi thở có vẻ mệt nhọc, khó khăn. Hắn
lại xốc thằng Đang lên vai cố bước đi thật nhanh. Phía đường quốc lộ có tiếng ô
tô. Mấy thằng trong bọn liền chạy lên chặn giữa đường xin đi nhờ xe. Chiếc xe
vận tải đã dừng lại. Đó là một chiếc xe mang biển số quân sự.
Nghe mấy thằng làm thuê trình bày, ba bốn
anh bộ đội đang ngồi trên thùng xe vội nhảy xuống chạy về phía hắn. Một người
trong số họ đeo túi cứu thương. “Tốt rồi! - Hắn nghĩ: - Họ sẽ băng bó, tiêm
thuốc cho thằng Đang. Xe chạy về đến thị xã chỉ nửa tiếng, chỉ cần nó cố chịu
đựng được là ổn”.
(hết phần 8)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 08.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 08.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 9
Các anh bộ
đội giúp đưa thằng Đang lên thùng của chiếc xe vận tải quân sự. Chiến sĩ y tá
đã băng bó lại vết thương và tiêm cho nó một mũi kháng sinh. Hắn ôm thằng Đang
ngồi dựa vào thành xe. Chiếc xe ô tô chuyển bánh. Người lái xe cố tránh những ổ
gà trên đường để xe đỡ xóc.
Thằng Đang
lả dần đi. Mắt nó vẫn nhắm nghiền, hơi thở mệt nhọc, khó khăn. Tay nó bấu chặt
tay hắn. Chắc nó đau lắm. Gần đến bệnh viện thị xã thì bàn tay thằng Đang chợt
lỏng buông khỏi tay hắn. Hắn gào lên lạc cả giọng:
- Đang ơi!
Mày làm sao thế này?
Người chiến
sĩ y tá vội nhoài người sang nắm lấy cổ tay thằng Đang tìm mạch. Một lúc sau
chiến sĩ y tá khẽ nói:
- Anh ấy đi
rồi!
Mấy anh bộ
đội liền xúm đến. Người động viên, người hỏi han rồi góp ý cách xử trí cho mấy
anh em đi làm thuê gặp nạn. Mặc dù xe không chạy qua thị xã nhưng một anh có lẽ
là chỉ huy quyết định đưa bọn làm thuê đến tận cửa nhà ga tàu hỏa để tìm cách
đem thằng Đang về xuôi.
Hắn lo cuống
lên vì thằng Đang chết rồi sẽ rất khó mang xác nó lên tàu mà thuê xe về tận quê
thì cả bọn góp lại cũng không đủ tiền. Cả bọn lúng túng, lo sợ. Nhưng khi quẫn
bách ắt sinh mưu kế. Hắn đã nghĩ ra một cách. Đó là phải làm như thằng Đang
chưa chết, như là nó chỉ đang ốm nặng. Hắn cõng cái xác thằng Đang ra ga tàu.
Cả bọn coi như không có việc gì xảy ra. Hắn để thằng Đang ngồi dựa vào bờ tường
mé ngoài góc sân nhà ga, trùm cái chăn chiên lên như một người đang nằm ngủ.
Hắn chụp thêm cái mũ cối bộ đội che mặt cho thằng Đang. Xong xuôi hắn bảo:
- Bọn mày để
đồ đạc cạnh chỗ thằng Đang, sau đó thằng Công ở lại trông coi, thằng Hạ vào ga
xếp hàng mua vé, thằng Tuân đi hỏi dò xem sắp có chuyến tàu hàng nào xuôi chưa!
Tao thử vào trạm kiểm soát quân sự tìm gặp cái tay thiếu uý bạn chiến trường
của thằng Đang xem nó có cách gì giúp đỡ chúng ta không.
Hắn chưa nói
hết lời thằng Công mặt mũi đã tái xanh, tái xám. Nó giãy nảy lên mếu máo nói:
- Em không ở
đây đâu, để em đi xếp hàng mua vé cho…
Nhìn thằng
nhóc run cầm cập vì sợ hãi, hắn mủi lòng nhân nhượng:
- Thôi được!
Thằng Hạ sẽ ở lại đây, mày vào trong ga xếp hàng mua vé!
- Vâng…
vâng…
Nó lập cập
đáp rồi vội vã đi ngay. Thằng Hạ cũng không dám ngồi xuống bên cạnh cái xác
thằng Đang. Nó cứ nhớn nhác đứng lảng vảng ở góc sân nhà ga.
Trước khi
đi, hắn gọi thằng Hạ căn dặn thêm:
- Khi có
công an, phòng thuế đến kiểm tra mày phải bảo với họ có anh bạn bị ốm nặng, mắc
bệnh lây nhiễm để họ khỏi soi mói, hiểu không?
- Em hiểu
rồi! Anh cứ… cứ đi đi…
Hắn ra đi
ngoài cổng nhà ga nhưng trong lòng vẫn chưa yên tâm. Hắn tính toán mọi việc
phải giải quyết thật nhanh. Trời đã bắt đầu oi nóng, nếu không đưa được thằng
Đang lên tàu về xuôi ngay trong đêm nay thì đến ngày mai sẽ rất nguy. Cái xác
thằng Đang nhất là bàn chân nát bét của nó sẽ phân huỷ rất nhanh, mùi hôi thối
sẽ toả ra. Đưa nó lên tàu sẽ bị phát hiện và tống cổ xuống ngay.
Đến ngôi nhà
cấp bốn có tấm biển “Trạm kiểm soát quân sự” thì hắn lại ngập ngừng không muốn
bước vào. Hắn nghĩ tay thiếu uý này cũng chưa chắc giúp được gì và sợ nhất là
khi rõ mọi chuyện anh ta sẽ ngại mà từ chối và nói không quen biết thì càng
thêm bực mình và tủi cho thằng Đang. Ở đời thiếu gì chuyện khi vui thì vỗ tay
vào, lúc buồn thì lảng ra ngay, làm gì có chuyện bạn bè, chiến hữu sống chết có
nhau như người ta vẫn thường ca tụng. Đời hắn chỉ thấy toàn là những chuyện bạn
bè phản nhau, cấp trên cấp dưới hãm hại lẫn nhau, bố con bất hiếu, anh em tranh
giành nhau… Thôi chả vào là hơn.
Hắn vừa quay
ngoắt lại thì chạm ngay một anh bộ đội đang đi về. Đó là người chiến sĩ trong
tổ kiểm soát quân sự từng chặn bọn hắn bữa trốn vé chui qua rào hôm mới lên.
Anh chiến sĩ chắc vừa đi tắm về, tay còn bưng một chậu quần áo vừa giặt. Nhận
ra hắn, anh ta hỏi:
- Anh có
việc gì mà vào trạm kiểm soát quân sự hả?
- Tôi… tôi
cần gặp thiếu uý trạm trưởng!
- Thiếu uý
Tuyến, trạm trưởng đi họp vắng rồi!
- Thế khi
nào thì thiếu uý về?
- Theo kế
hoạch thì phải đến chiều mai mới về! Anh có nhắn gì không?
Hắn lúng
búng:
- Không…
không… không nhắn gì đâu! Người bạn cùng đơn vị cũ của anh ấy bị ốm rất nặng,
đang ở ngoài nhà ga. Tưởng là anh ấy có ở nhà nên tôi tìm vào để báo tin… Thôi,
nếu anh ấy không ở nhà thì tôi đi đây! - Hắn đáp vẻ ấp úng.
Nói xong hắn
quay gót đi luôn. Qua cửa hàng tạp hoá hắn hỏi mua mấy cái túi ni-lông to đựng
hàng. Hắn nghĩ đến chuyện phải dùng ni-lông quấn bọc thật kín cái chân nát bét
của thằng Đang để khỏi bốc mùi và nếu cần phải bó gọn thi thể nó lại cho vào bao
tải như một cái bao hàng hoá để đưa lên tàu. Dọc đường còn phải tìm cách trốn
tránh qua mặt công an, phòng thuế, quản lý thị trường rồi cả kiểm soát quân sự
nữa. Họ mà kiểm tra thì biết làm thế nào! Khốn nạn, cuộc đời có lúc lại cùng
quẫn thế này, chết cũng chả được yên thân. Mang thi hài một thằng chết, một
thương binh chống Mỹ hẳn hoi về quê mà phải lén lút không khác gì đem theo một
bao hàng buôn lậu, hàng quốc cấm. Mà cũng thật là khốn khổ cho thằng Đang - một
người lính công binh dạn dày kinh nghiệm, bao năm lăn lộn trên dãy Trường Sơn,
ở biên giới Tây Nam. Nó đã từng tìm kiếm, tháo gỡ bao nhiêu quả bom nổ chậm, vô
hiệu hoá bao nhiêu quả mìn để thông đường cho quân qua, xe qua mà vẫn bình yên
vô sự, nay lại ngã xuống vì một quả mìn bé nhỏ trong cuộc mưu sinh. Đúng là đời
con người ta chẳng biết sẽ thế nào. Số phận hẩm hưu của thằng Đang khiến hắn cứ
nghĩ mãi đến sự vô nghĩa của cuộc đời như một cái vòng luẩn quẩn khắc nghiệt mà
bao nhiêu con người bị cuốn vào rồi bật ra tã tượi, rách nát.
Về đến sân
nhà ga trời đã sắp tối. Hắn bảo thằng Hạ canh chừng để mình buộc túm,
quấn túi ni-lông vào bên cái chân bị quả mìn làm nát bét của thằng Đang. Giữa
lúc đang lúi húi bên cái xác thì có bóng một anh công an đi tới, hắn vội vàng
trùm lại cái chăn cho thằng Đang. Đoạn, hắn ngồi sát bên thằng Đang kéo đầu nó
tựa vào vai mình. Thằng Đang như đang dựa vào hắn để ngủ. Anh công an đi qua,
hắn lại tiếp tục xử lý cái xác. Thằng Công vẫn còn xếp hàng chầu trực trong nhà
ga vì chưa mua được vé tàu xuôi. Thằng Tuân đi nghe ngóng tình hình về thông
báo khoảng nửa đêm có chuyến tàu hàng chở than từ Na Dương về Yên Viên. Hắn
quyết định:
- Nếu không
mua được vé tàu thì chúng ta sẽ tìm cách chui vào trong nhà ga chờ chuyến tàu
hàng dừng lại đưa thằng Đang lên toa chở than vừa đỡ tốn tiền vé, vừa yên tâm
không bị phát hiện, đuổi xuống. Phải chuẩn bị thật cẩn thận. Bây giờ thằng Hạ
với thằng Tuân ngồi đây trông chừng, tao vào xem thằng Công xếp hàng mua vé thế
nào rồi đi tìm chỗ có thể chui vào trong nhà ga không khi đến đêm lại lúng
túng.
- Vâng, anh
cứ đi đi…
Hắn vừa đứng
dậy thì phía cổng ga xuất hiện hai anh bộ đội đeo băng đỏ. Hắn hơi lo lo, họ mà
kiểm tra như hôm trước thì phiền phức. Nhưng khi hai người lính đi đến gần thì
hắn yên tâm vì nhận ra người mang quân hàm thiếu uý chính là bạn của thằng
Đang. Anh thiếu uý cùng người chiến sĩ đang đi đến gần chỗ bọn làm thuê.
Hắn liền
tiến ra phía cổng nhà ga. Anh thiếu uý cũng nhận ngay ra hắn. Anh ta hỏi luôn:
- Thằng Đang
bị ốm thế nào hả anh?
Hắn ngần ngừ
rồi đáp:
- Nó… nó đạp
trúng một quả mìn… Nó chết rồi!
Anh thiếu uý
giật mình sững sờ. Mặt anh tái đi, miệng há ra mà không nói được thêm câu nào.
Từ hai khoé mắt anh những giọt nước mắt ứa ra chảy xuống má. Hồi lâu anh ta mới
hỏi giọng vẫn còn lạc đi:
- Thế… thế…
nó… nó đang ở đâu?
Hắn không
trả lời mà túm tay kéo anh thiếu uý lại chỗ góc sân nhà ga. Thiếu uý Tuyến quỳ
xuống mở cái chăn chiên đang đắp trên người thằng Đang, lật cái mũ cối ra nhìn
mặt bạn. Một lát sau anh ta chùi mắt đứng lên và hỏi:
- Bây giờ
các anh tính thế nào?
Hắn trình
bày tóm tắt kế hoạch đưa xác thằng Đang lên tàu xuôi về quê. Thiếu uý Tuyến
lặng người trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi bảo:
- Các anh cứ
chuẩn bị đi! Bây giờ em quay về trạm trao đổi thêm với anh em. Hôm nay có một
đoàn xe vận tải của Tổng cục Hậu cần chở vật liệu xây dựng lên các điểm chốt.
Một số xe đã trả hàng xong đã quay về xuôi rồi, những xe đi hướng Lộc Bình thì
chưa thấy quay về qua trạm. Em sẽ cho kiểm soát quân sự dừng các xe này lại,
nhờ họ đưa thằng Đang và bọn anh về xuôi. Nếu không được thì các anh hẵng đi
tàu.
- Nếu được
thế thì may! Cảm ơn anh quá!
- Cảm ơn cái
gì! Thằng Đang nó chết rồi… Thương nó quá, vợ con nó thì ốm yếu, nheo
nhóc… Cũng may mà hôm nay họp xong em về ngay không ở lại ăn liên hoan và xem
văn công nên mới nhìn được mặt thằng bạn than thiết lần cuối… Thôi em về trạm
xem có xe nào về qua không. Em sẽ để một chiến sĩ ở lại đây giúp đỡ các anh.
Hắn nhìn
theo anh thiếu uý vừa chùi mắt vừa hớt hải đi ra phía cổng nhà ga.
Nhờ có anh
thiếu uý nên người chỉ huy đoàn xe vận tải quân sự, cũng là một sĩ quan từng là
lái xe trên đường Trường Sơn những năm đánh Mỹ đồng ý cho bọn hắn đưa thằng
Đang và đi nhờ về xuôi. Anh sĩ quan hậu cần còn hứa là sẽ đưa xác thằng Đang về
tận quê. Bởi vì dù sao thằng Đang cũng là một người đồng đội, một cựu chiến
binh, một thương binh cơ mà. Thiếu uý Tuyến đem ra một tấm vải liệm. Những
người lính biên giới và cánh lái xe quân đội tiến hành gói buộc thi hài thằng
Đang cẩn thận rồi đưa lên trên thùng một chiếc xe vận tải biển đỏ.
Lúc xe chuẩn
bị chuyển bánh, thiếu uý Tuyến rút trong túi ra mấy tờ giấy bạc đưa cho hắn:
- Lương
tháng này em vừa mới lĩnh! Anh cầm về đưa cho vợ Đang giúp em. Nhất định khi
nào có dịp về tranh thủ hoặc đi phép em sẽ đến thăm nhà nó…
Hắn cầm số
tiền của anh thiếu uý đưa rồi gộp vào số tiền công làm thuê của thằng Đang để
lại. Hắn cũng lần túi áo tìm số tiền công mấy ngày làm thuê, chặt củi bán của
mình gộp thêm vào chỗ tiền mà thằng Đang nhờ cầm về đưa cho vợ nó.
Chiếc xe
quân sự từ từ chuyển bánh chạy ra khỏi thị xã Lạng Sơn.
Cả bọn lặng
lẽ ngồi xung quanh xác thằng Đang. Trời sụp tối rất nhanh. Chiếc xe lặn vào
bóng đêm và bụi đất mịt mù từ con đường lở loét do những chiếc xe chạy phía
trước cuốn lên. Ánh đèn pha của của chiếc xe vẽ thành hai vệt sáng chòng chọc
giống như hai con mắt cú. Những hạt mưa lất phất quất ngang mặt hắn bỏng rát.
Bầu trời đêm đen thui. Hắn thầm nhủ: “Nếu xe chạy suốt đêm thì chỉ đến sáng sớm
ngày mai sẽ về đến quê. Đang ơi chúng tao sẽ đưa mày về tận nhà để mày được nằm
gần với mẹ!”.
(hết phần 9)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 16.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 16.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 10
Mờ sáng hôm
sau thì chiếc xe vận tải quân sự về đến làng hắn.
Nhà thằng
Đang ở tận cuối làng, sát cánh đồng đang đổ ải, bừa cấy. Vợ con thằng Đang ngất
xỉu ngay đi vì tai họa ập đến quá bất ngờ. Mọi người phải hô nhau gọi y sĩ tiêm
thuốc trợ tim cho hai mẹ con. Cả làng nhốn nháo như đột nhiên xảy ra loạn lạc,
đạo tặc hay hỏa hoạn. Nhưng rồi kẻ khóc cứ gào khóc, người chuẩn bị tang lễ cứ
chuẩn bị. Ông trưởng thôn vốn là người có kinh nghiệm xử lý những chuyện tang
ma, tai nạn bất trắc lập tức cắt đặt công việc cho mọi người. Ở làng xã Việt
Nam bao đời nay rồi vẫn thế. Khi có tai họa xảy ra thì ngay sau những giây phút
bàng hoàng, hoảng loạn, nháo nhác những người nông dân đã biết làm việc gì để
giúp đỡ, chia sẻ, cưu mang nhau trong cơn bĩ cực.
Ngõ nhà
thằng Đang kẻ vào, người ra, ồn ào nhốn nháo. Mọi người hớt hải lo chuẩn bị cho
đám tang. Mới đầu mùa hè mà trời đã nóng như nung. Do thằng Đang bị chết
từ hôm trước lại từ nơi khác đem về nên phải đưa nó ra đồng ngay trong ngày
theo đúng phong tục của làng. Dưới sự chỉ huy của ông trưởng thôn, đám thanh
niên một bọn thì đi đào huyệt, mấy thằng thì hối hả chặt tre dựng rạp che nắng
khoảnh sân nhỏ lấy chỗ cho dân làng đến chia buồn, phúng viếng, dự lễ truy
điệu. Hai ông thợ mộc xoèn xoẹt cưa cắt ván ghép quan tài ở góc vườn. Trong căn
nhà gỗ cũ kỹ là tiếng gào khóc ầm ĩ của vợ con thằng Đang khi họ vừa tỉnh
lại.
Từ lúc về
đến làng hắn chả biết làm gì nữa. Dân làng nhìn thấy hắn có người thì chào hỏi
cảm thông, có kẻ thì trợn mắt nhìn tỏ vẻ khinh bỉ. Ông công an xóm - người từng
bị hắn đá ngã lộn xuống mương sặc uống nó nước dạo trước - thì lập tức quay mặt
đi nhổ toẹt một bãi nước bọt rõ to xuống đất. Hắn cũng chả buồn quan tâm.
Vợ con thằng
Đang đầu tóc rũ rượi vật vã lăn lóc giữa nhà. Hắn chờ mãi vợ thằng Đang mới hơi
trấn tĩnh lại. Hắn chuyển số tiền và nói lại những lời thằng Đang khi sắp chết
đã dặn vợ con nó. Xong xuôi, hắn chen vào chỗ người ta đang lau chùi cát bụi,
tắm rửa cho người chết. Thằng Đang được đặt nằm ngay ngắn trên giường. Người ta
mặc cho nó một bộ quân phục còn mới nhất, có đủ cả cầu vai, quân hàm hẳn hoi.
Trên ngực áo thằng Đang lủng củng toàn những huân, huy chương, huy hiệu, kỷ
niệm chương các loại trông lổn nhổn như những cái nắp chai bia. Nhìn thằng Đang
ai cũng ngỡ như nó vừa tham gia một cuộc diễu binh, diễu hành về đang nằm nghỉ
ngơi chứ không phải là vừa mới đi làm thuê đào giếng, san nền, đốn củi kiếm ăn
lam lũ ở nơi rừng sâu biên giới.
Hắn cứ đứng
lặng nhìn thằng Đang mãi. Nét mặt thằng Đang đã trở lại vô ưu. Có lẽ chỉ có cái
chết mới khiến người ta thôi khỏi phải suy tư, trăn trở. Hai bàn tay thằng Đang
đặt yên trên bụng. Đôi bàn tay ấy đã cầm súng đi mấy chiến trường, từng đào
đất, làm đường, xây hầm hào, công sự, từng vặn kíp mìn, tháo ngòi nổ đạn bom
nơi mặt trận và mới vừa đây thôi còn cầm xẻng, cầm cuốc, cầm dao đi làm thuê,
chặt củi. Đôi bàn tay ấy bây giờ đã buông xuôi.
Đám tang
thằng Đang khá đông.
Trời sang
chiều không khí càng ong ong bức bối. Cái nắng đầu mùa hạ khiến con người ta
cảm thấy bứt dứt, khó chịu.
Thời tiết
nóng như vậy mà các cựu chiến binh trong làng, trong xã vẫn mặc lễ phục chỉnh
tề để tiễn đưa người đồng đội của mình về nơi cực lạc.
Vợ con thằng
Đang khóc hờ không còn rõ tiếng nữa. Dân làng ai cũng tỏ lòng tiếc thương một
con người chịu khó, thật thà, tốt bụng. Ông phó chủ tịch xã đọc một bài điếu
văn ngắn ca ngợi chiến tích vẻ vang của người chiến sĩ công binh Trường Sơn năm
xưa đã làm rạng danh cho quê hương, làng xóm. Giọng ông ta ngắc ngứ, vấp mấy
lần vì không kịp tập đọc trước lời điếu do anh chủ tịch hội cựu chiến binh xã
suốt buổi trưa vò đầu bứt tai soạn thảo. Chiếc quan tài được hạ xuống hố huyệt
sâu. Hắn cố chen vào chỗ đám người gào khóc nhốn nháo để thả một hòn đất xuống
huyệt mộ của người đã khuất. Đám thanh niên bắt đầu hối hả xúc đất hất ào ào
xuống hố. Tiếng đất cát rơi lục cục trên ván thiên. Vợ con thằng Đang lăn lộn
gào khóc thảm thiết giãy giụa lăn cả xuống huyệt mộ khiến đám thanh niên chốc
chốc lại phải dừng tay xúc đất nhảy xuống lôi lên. Trông hai mẹ con họ chả khác
gì hai nhúm rẻ rách bẩn thỉu.
Mây mù chợt
kéo đến. Bầu trời tối sấp lại, u ám. Giông gió thông thốc thổi trên cánh đồng
trống trải. Dưới vùng trời u ám ấy là những người đi đưa ma. Bóng họ chập chờn
như đang ở cõi âm tào địa phủ. Những mảnh khăn tang trắng bay phần phật trên
đầu người như tựa những dải lân tinh.
Một tiếng
sét nổ vang trên cánh đồng.
Cơn mưa rào
sầm sập đổ xuống.
Mưa to quá.
Những hạt mưa ném sàn sạt trắng đồng. Nước mưa trắng cả cánh đồng. Đất ruộng
trồng khoai lang bở tơi ra rồi nhão nhoẹt. Đám thanh niên chẳng quản mưa gió
gào thét, quát tháo nhau xúc đất đắp cho cao cái nấm. Nhưng nấm mộ thằng Đang
vun mãi cũng chẳng tròn. Mấy bà, mấy chị dùng nón che mưa đốt một nắm nhang để
cắm lên mộ. Những nén nhang vừa cắm lên nấm đất đã xèo xèo tắt ngấm vì nước
mưa. Ông anh cả thằng Đang nói vài câu cảm tạ dân làng. Tiếng ông ta khản đặc
lẫn chìm trong tiếng mưa, tiếng gió ầm ào.
Những người
đi đưa ma đội mưa trở về làng. Quần áo họ ướt sũng dính chặt lấy người. Trông
họ giống như những đám hình nhân biết cử động. Có nhiều người bảo: “Thôi thế
cũng là xong một kiếp người, thằng Đang ra đi vậy là mát mẻ, thanh thản!”.
Nhưng riêng hắn thì lại cứ vẩn vơ với một suy nghĩ khác.
Ngay sau khi
đám tang thằng Đang vừa tan ông phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã, người vừa
đọc điếu văn đã gặp cảnh cáo hắn:
- Anh đi làm
ăn ở đâu thì hàng tháng cũng đều phải về gặp chính quyền xã để trình diện hiểu
không!
Hắn gườm
gườm nhìn ông phó chủ tịch xã không thèm đáp lại. Ông ta tiếp tục răn đe thêm:
- Mà hình
như vừa mới ra tù mà anh đã lại có một vụ đánh nhau, gây thương tích ở ngoài
nhà ga phải không? Công an họ đang điều tra chuyện ấy đấy. Cứ liệu hồn, với anh
nhà tù vẫn luôn rộng cửa đấy!
Mắt hắn trợn
lên. Hắn chỉ muốn tống ngay một quả trời giáng vào cái mõm của ông phó chủ tịch
xã. Nhưng hắn đành cố nín nhịn. Hắn nuốt ực một cái rồi quay đít đi. Mưa to vậy
mà sao hắn thấy bức bối quá. Hắn cởi phăng cái áo ướt sũng đang mặc ra vắt bớt
nước mưa. Nhìn thấy cái mặt hổ gớm ghiếc xăm trên ngực, cái đầu lâu xương ống
bắt chéo trên lưng hắn, mấy người đi đưa đám vội rạt ra tránh đường cho hắn.
Nhưng vẫn có một người đàn bà tả tơi hớt hải cố đuổi theo hắn. Đó là vợ thằng
Đang. Chị ta mếu máo nói với hắn, giọng khản đặc:
- Em xin…
xin… đa tạ bác! Mời bác quay về nhà em ăn bát cơm đã rồi hẵng đi!
- Thôi, tôi
không ăn đâu! Tôi đi cho kịp chuyến xe khách lên tỉnh. Cô phải ghi nhớ lời chú
ấy đã dặn lại. Cố mà lo cho con bé học hành đến nơi, đến chốn, hiểu không! -
Hắn căn dặn người đàn bà.
- Vâng…
vâng… em đội ơn bác...
Hắn vừa bước
đi vừa lầm rầm trong miệng: “Mẹ kiếp! Cuộc đời sao khốn nạn đến thế, mang về
cho vợ con nó một xác chết mà lại còn được cảm ơn!”. Người đàn bà đứng rúm ró
ven đường kéo vạt áo xô chùi nước mắt. Hắn nhảng qua con mương nhỏ để sang con
đường liên xã. Dáng hắn đi đầu chúi về phía trước.
Mưa ngớt.
Gió cũng lặng dần. Hắn ngoảnh cổ lại nhìn nấm mộ mới ướt sũng giữa đồng trắng
nước.
Chợt có ai đó cất tiếng hỏi:
Chợt có ai đó cất tiếng hỏi:
- Chú Lỗi
lâu lâu quá rồi mới về làng đấy nhẻ?
- Ờ… ờ…
Đúng là cũng
phải đến ngót chục năm rồi mình mới mới về làng! - Hắn nghĩ. Trước khi tiếp tục
kiếp sống tha hương, tự dưng hắn lại muốn nhìn ngắm làng mình một chút. Hắn có
linh cảm lần này ra đi sẽ lâu lắm nữa mới lại trở về làng. Hắn liền mặc cái áo
ướt lên người để mọi người đỡ ngại và đi vào làng. Hắn bỏ con đường liên xã rẽ
vào con đường nội thôn để đi tắt qua làng mình ra phía thị trấn, nơi những
chiếc xe ca vẫn dừng lại đón khách.
Làng hắn
trải dài ngay dưới chân một dãy núi đất thấp.
Hồi còn nhỏ
đi thả bò trên đồi hắn thường nghe ông từ già trông coi đền Thượng nói thì đó
đó chính là một trong bốn con rồng đang vờn ngọc. Viên ngọc chính là cái hồ
nước trong xanh ở giữa cánh đồng. Dãy núi đất phía sau nhà hắn kéo dài uốn lượn
trông thật giống một con rồng đất với những cái chân xoãi ra hai bên. Cái mào
của con rồng ấy chính là ngôi đền thờ cổ ngay sau nhà hắn. Ngôi đền này là nơi
thờ một vị nữ tướng của Hai Bà Trưng. Truyền thuyết còn lưu lại rằng sau khi
cuộc khởi nghĩa của hai bà thất bại, vị nữ tướng này lui về vùng quê hắn tiếp
tục cầm cự, chiến đấu thêm một thời gian nữa. Khi bị bọn giặc phương Bắc truy
đuổi đến đây, các tướng sĩ quanh mình đều đã tử trận hết, chỉ còn lại một mình,
vị nữ tướng ấy đã bắn những mũi tên cuối cùng về phía giặc rồi nhảy xuống dòng
sông Đáy con tuẫn tiết. Trên cành cây gạo già phía Bắc, hướng ngọn tháp cổ Bình
Sơn vẫn còn lại ba mũi tên đồng ấy. Những buổi chiều đông trời u ám, nhìn cây
gạo già nghêng nghiêng, trên cành cây có ba mũi tên đồng giống như một cánh tay
bị thương của người chiến binh sắp ngã xuống. Người ta lập đền thờ bà. Ngôi đền
thờ nhỏ lợp ngói đỏ ở trên mỏm núi ngẫu nhiên tạo nên chiếc mào của con rồng.
Con rồng
làng hắn có hai mắt là hai cái giếng cổ không biết được đào tự bao giờ. Con mắt
dương là cái giếng Núi. Giếng đào trên một mỏm đá cao hơn ngọn tre làng mà mùa
nào cũng có nước. Con mắt âm là cái giếng Chằm. Giếng khơi giữa bãi bùn lầy,
váng phèn chua vàng như nghệ mà nước cứ trong leo lẻo, ngọt mát, chẳng bao giờ
cạn. Ngày xưa, cả làng lấy nước ăn từ hai cái giếng ấy. Từ khi phong trào
"Ba công trình vệ sinh nông thôn" ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa ra đời,
nhà nào cũng đào giếng, xây nhà tắm, làm hố xí hai ngăn thì hai cái giếng này
bị bỏ quên, không người thau rửa. Trẻ con nghịch ném gạch đá, cây cối, vỏ dứa,
vỏ thị, phóng uế cả xuống giếng. Vì thế nên giếng Núi cạn dần, giếng Chằm đục
dần. Năm tháng qua đi, người ta dỡ gạch, phá hỏng mất hai cái giếng cổ ấy. Trên
dãy núi lưng con rồng thì cây cối bị chặt phá loang lổ, trông tựa như những
chiếc vảy rồng bị bong tróc.
Không biết
có phải do bị chọc mù hai con mắt, bị bong tróc hết vảy mà con rồng của làng
hắn không bay lên được nữa. Nên làng hắn nghèo. Người làng hắn không có ai làm
quan to. Bao kẻ thì lận đận, tù tội như hắn. Thanh niên trai tráng của làng ra
trận chiến đấu dũng cảm, xông pha đánh nam, dẹp bắc như bọn thằng Đang rút cục
vẫn chỉ là những tên "lính quèn", trở về sống trong cảnh nghèo khó,
gian nan, hoạn nạn...
(hết phần 10)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
17.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 11
Lên được xe
khách hắn cũng chưa biết mình sẽ đi đâu. Hắn tính toán có lẽ lại phải ra thành
phố kiếm việc làm thuê như trước vậy. Nhưng hắn chợt giật mình nhớ lại những
lời ông phó chủ tịch xã cảnh cáo là công an đang điều tra vụ hắn đánh nhau ở ga
đã vặn gãy tay cái thằng lưu manh bữa trước. Có lẽ không làm ăn gì ở đây được
rồi, hắn phải đi thật xa mới ổn.
Đến bến xe
thị xã, hắn kéo cái cổ áo dựng lên che bớt cái mặt đi để không ai nhận diện
được rồi bước ra phía ngoài đường phố. Trời đã tối. Thị xã nhỏ lập loè ánh điện
từ trong các cửa hiệu nhà hàng hắt ra. Phố núi về đêm thưa thớt vắng người qua
lại. Chỉ có những nơi như bến xe, ga tàu là luôn luôn ồn ào, nhốn nháo đến
khuya. Hắn đi lang thang qua những con đường của thị xã. Đèn đường chỉ sáng
trên các phố chính. Đến một con đường nhỏ tối tăm có nhiều cây to gần khu công
viên hắn chợt giật nảy mình khi có tiếng người nói sát ngay bên tai:
- Anh trai
ơi có đi không?
Một cô gái
ăn mặc hở hang đứng nép ở cái gốc cây sát đường chìa bộ ngực nở nang ra sát
ngay tầm tay hắn. Hắn nhác nhìn thấy mấy gốc cây bên cạnh cũng có các cô gái
đang đứng nép người chờ sẵn. Mùi nước hoa rẻ tiền phảng phất làm hắn suýt hắt
hơi. Hắn lủng bủng trong miệng:
- Thì cũng
đang đi đây!
- Đi chơi
với em cơ mà… Giá rẻ thôi, hôm nay em sẽ… khuyến mại cho…
À, thì ra là
bọn gái đứng đường đón khách. Hắn bực bội nghĩ thầm: “Mẹ kiếp! Đang chả có đồng
cắc mẹ nào dính túi lấy đâu mà đi chơi gái…”.
Cô gái điếm
đang ế khách vẫn cố nài nỉ chèo kéo:
- Giá cả
giảm đặc biệt anh ơi!
- Đặc biệt
cái con khỉ! Đi mà bán cho các ông chủ ở trong những ngôi nhà cao cửa rộng lấp
lánh ánh đèn kia kìa!
- Anh trai
làm cái gì mà… kiêu thế?
- Kiêu cái
con khẹc! Đang thất nghiệp đây! Mà mả mẹ nó chứ sao mà cuộc đời toàn là chuyện
sui xẻo đen thui như con chó mực!
Cô gái điếm
động viên:
- Thế thì
càng phải đi với em để xả sui anh ạ!
- Có mà sui
thêm thì có!
Hắn vừa nhấm
nhẳng trả lời vừa rảo bước tránh xa những cái gốc cây biết nói ấy. Hụt con mồi,
cô gái điếm lại thụt vào ẩn mất sau gốc cây như tan biến vào trong bóng đêm mờ
ảo.
Đi chán rồi
hắn lại quành về chỗ cổng nhà ga, nơi đám người chuyên làm thuê, bốc vác ngồi
nằm ngổn ngang chờ việc. Chợt hắn thấy bụng đói cồn cào. Từ trưa đến giờ hắn
chưa ăn gì. Lục tìm, bòn kiếm trong các túi áo, túi quần hắn cũng gom được mấy
chục đồng tiền lẻ. Toàn bộ số tiền tích cóp được khi làm thuê ở Lạng Sơn hắn đã
gộp chung vào với số tiền của thằng Đang và đưa cho vợ con nó rồi. Hắn mua một
cái bánh mỳ vừa đi vừa ăn.
Chệu chạo
nhai mẩu bánh mỳ khô không khốc hắn vừa dỏng tai nghe bọn làm thuê buôn chuyện.
Chúng đang kháo nhau chuyện có những thằng làm thuê vừa mới gặp vận may, giàu
sụ lên bất ngờ.
Một người
kể:
- Một thằng
ở làng tao đi làm vàng trên Bắc Cạn. Đãi cả tháng cũng chỉ được vài phân, nó đã
tính chuyện bỏ về quê. Hôm đó nó ngồi bên bờ suối chờ nước rút để lội sang bên
kia theo con đường mòn ra đường quốc lộ về xuôi. Ngồi buồn nó nhặt những hòn đá
ném cá dưới suối. Vô tình nó cầm một hòn đá sần sùi lên để ném. Thấy nằng nặng
đằm tay, nó giơ lên xem xét. Đoạn nó liền chà sát hòn đá ấy xuống cát, có ánh
vàng lóe lên lấp lánh. Hoá ra đó chính là một cục vàng sa khoáng nặng đến hơn
một cân ki-lô-gam. Biết là gặp vận may, nó liền giấu ngay cục vàng vào cái bao
tải rách lần ra cửa rừng bắt xe về quê. Nó phải ỉa một bãi bôi vào bên ngoài để
cái bao tải thối hoắc che mắt bọn cướp chặn đường lục soát. Cục vàng ấy nó chặt
ra thành từng mẩu đem bán dần lấy tiền. Bây giờ nó làm một cái nhà to nhất
làng, lại mua cả một khu trang trại trồng cây cảnh, bon-sai, lấy một con vợ trẻ
đẹp nhất xã đấy.
Một thằng khác thì bảo:
Một thằng khác thì bảo:
- Ăn thua
gì! Cái thằng ở làng bên nhà mẹ vợ tao đi làm thuê ở mỏ đá quý trên Yên Bái còn
gặp may hơn. Thằng này tính vốn lười biếng, làm thì ít, ăn chơi thì nhiều bị
bọn chủ thầu đuổi việc. Thiếu tiền trả nợ nó bị bọn “cai” ở mỏ tẩn cho một trận
lên bờ, xuống ruộng đạp ngã lăn xuống đống bùn đất bẩn thỉu. Nó bị ngất đi. Lúc
tỉnh lại nó thấy quai hàm đau ê ẩm, mồm thì ngậm đầy đất cát và máu. Nó liền
nhổ ra tay xem có cái răng nào bị đánh gãy không. Bất ngờ ở trong lòng bàn tay
nó lại là một viên hồng ngọc sáng long lanh vào loại vô cùng quý hiếm. Thì ra
khi bị bọn chủ nợ gí mặt xuống đất mồm nó ngoạm trúng viên hồng ngọc nằm lẫn
trong đống bùn bẩn. Nó vội nuốt luôn viên hồng ngọc vào bụng và tìm đường trốn
về quê ngay. Viên hồng ngọc ấy đúng là loại vô cùng quý hiếm thuộc hàng “bảo
vật quốc gia”. Nó đem bán viên ngọc được những mấy tỷ đồng, tậu trang trại, làm
nhà, mua được cả ô-tô du lịch xịn, cưới vợ. Bây giờ nó là người giàu có nhất
huyện đấy.
Nghe bọn làm
thuê nói chuyện với nhau thực hư chả biết thế nào nhưng hắn thấy hấp dẫn quá.
Hắn mong sao cho đời mình cũng có một lần gặp vận may như thế. Hắn lân la bắt
chuyện làm quen. Bọn này khi biết hắn cũng là một kẻ không nghề nghiệp đang đi
tìm việc liền rủ cùng ngược lên Lai Châu đào đãi vàng. Hắn đồng ý và đi theo
bọn chúng luôn. Hắn là kẻ vô gia cư nên chả phải đắn đo nhiều lắm trước những
chuyến đi.
Thằng trẻ
nhất bọn có vẻ nhanh nhảu giới thiệu:
- Em là Bất,
kia là chú Cẩn còn anh này tên là Lân, lính chiến ở chiến trường Campuchia yếu
sức khoẻ vừa mới về phục viên ra đi kiếm tiền để về giúp vợ. Bọn em đều là dân
“cầu tõm” Hà Nam cả. Còn anh tên gì ạ?
- Tôi tên là
Lỗi, quê Vĩnh Phú!
- Dân “Vĩnh
toét” à! Sao lại tên là Lỗi, lạ nhỉ?
- Chả biết!
Mẹ tôi đặt thế thì tên nó thế!
- Thôi! Tên
tuổi không quan trọng… - Thằng lính chiến từ Campuchia về bảo: - Bọn mình đều
là bọn dân nghèo đói chuyên làm thuê đi ra thiên hạ kiếm cơm quan trọng nhất là
phải luôn đùm bọc, coi nhau như anh em hiểu không?
- Vâng… đúng
thế!
Thằng Lân
lại nói:
- Trong “bè
lũ bốn tên” chúng mình xem chừng có lẽ anh Lỗi là nhiều tuổi nhất, anh ấy sẽ là
anh cả, là đại ca. Bọn chúng ta khi có việc gì đều phải nghe lời anh ấy hiểu
không?
Hắn nhăn mặt
bảo:
- Đại ca làm
quái gì! Có phải băng đảng gì đâu, cốt anh em ta có gì thì giúp đỡ nhau, lúc
khó khăn, khi hoạn nạn đừng bỏ mặc nhau là được.
- Đúng thế!
Gọi “đại ca” cho vui thôi… hì…
Thằng Lân
rút trong bao ra một cái gói. Nó bẻ đưa cho hắn một miếng xôi:
- Anh ăn đi,
nhai bánh mỳ suông xót ruột lắm…
Hắn cầm
miếng xôi ngô thằng Lân chia cho. Cả bọn vừa nhồm nhoàm ăn vừa nháo nhác đứng
dậy vơ đồ đạc lao vào ga. Có tiếng loa rè rè thông báo tàu ngược Lào Cai đang
chuẩn bị đón khách.
Leo lên được
nóc toa tàu rồi “bè lũ bốn tên” cũng ăn xong bữa tối. Hắn thấy khát khô
cả họng. Thằng Lân lại lục mở cái túi. Nó lôi ra một cái bi-đông quân dụng méo
mó. Mỗi thằng làm một ngụm nước rồi cùng đám hành khách chuyên đi tàu trốn vé
nằm ngồi ngổn ngang trên nóc các toa. Con tàu giật mạnh một cái rồi từ từ
chuyển bánh.
Hắn dặn cả
bọn:
- Nằm cho
cẩn thận kẻo ngủ quên tàu xóc lăn xuống đường ray là mất mạng đấy!
Thằng Lân
thì nói:
- Lẽ ra có
tiền chúng mình đi xe ca lên Điện Biên Phủ rồi sang Lại Châu cho nhanh. Nhưng
thôi ta đi tàu lên Lào Cai rồi đi nhờ xe tải chở gỗ sang Phong Thổ rồi tìm đến
bãi vàng cũng được.
- Mỏ vàng ở
chỗ nào?
- Hết đường
xe lâm nghiệp chúng ta còn phải đi bộ độ một ngày đường nữa thì sẽ tới nơi đào
đãi vàng.
Hắn nghĩ:
“Cái thằng lính xuất ngũ từ Campuchia về này có vẻ thông thạo đường đất vùng
Tây Bắc này gớm nhỉ!”. Hắn không biết là khi còn ở nhà thằng Lân đã theo ông bố
nó đi buôn trâu khắp vùng Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu rồi.
Vòng hai tay
lên đầu làm gối, hắn nằm ngước nhìn lên bầu trời đầy sao. Vũ trụ là vô hạn
nhưng sự hiểu biết và khả năng của con người là hữu hạn. Hắn nghĩ, nếu mỗi vì
sao trên trời ứng với một con người dưới đất thì quả là bất công. Vì có những
ngôi sao thì chói sáng, có những ngôi sao thì lại quá lu mờ. Có lẽ hắn chỉ là
một ngôi sao rất mờ. Nhưng được là một ngôi sao mờ còn may hơn là một ngôi sao
băng. Ai mà số phận giống một ngôi sao băng thì lóe lên rồi tắt ngấm. Có lẽ
thằng Đang chính là một ngôi sao băng.
Thế là hắn
lại bắt đầu một chuyến đi mới. Hắn đã mấy lần bỏ quê quán ra đi như thế này. Để
kiếm ăn, để tồn tại và cả vì sự nghiệp nữa con người ta cũng phải có những
chuyến ra đi như thế này. Những chuyến đi của hắn là vô định. Lần trước lên Lạng
Sơn gặp bọn thằng Đang làm tiều phu kiếm củi kết cục thật là đen đủi, lần này
thì theo bọn thằng Lân đi đào vàng chẳng biết có khá hơn không, có đổi đời
không hay lại bị rơi xuống tận đáy như những lần trước. Cuộc đời đúng là một
vòng xoáy vô định. Con người bị cuốn vào cái vòng xoáy ấy rủi may thật khó mà
lường trước được.
(hết phần 11)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
17.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 12
Đi bộ hơn một ngày đường mệt bở hơi tai, mỏi rã rời cả chân cẳng bọn chúng mới
đến được địa điểm đào đãi vàng tít tận trong rừng sâu. Trước khi vào bãi, bốn
tên dừng lại ngồi nghỉ ở bên bờ con suối đỏ ngầu vì hoạt động đào đãi, sàng lọc
vàng ở phía thượng nguồn. Những con suối chảy ra sông làm dòng nước đục ngầu đỏ
trông như dòng máu đang chảy từ rừng xanh ra. Thằng Lân vừa gỡ một con vắt bám
trên bắp chân vừa căn dặn cả bọn. Nó có vẻ khá thông thạo mọi chuyện về đào đãi
vàng:
- Những bãi khai thác vàng vùng này đều do bọn đầu gấu bảo kê, bọn chủ bưởng
cai quản. Chúng gọi khu bãi vàng mình bảo kê quản lý là các “doanh trại”. Muốn
đào đãi vàng ở đây đều phải tuân thủ quy định của các “chỉ huy” trong từng
“doanh trại”. Phải được bọn này cho phép thì dân “phu vàng” mới có thể đến làm
thuê cho các chủ hầm vàng hoặc đào đãi tự do, mót vảy vàng, cám vàng sa khoáng
ở ngoài sông suối.
- Thế bọn mình cũng phải xin phép chúng nó hả?
Hắn bực bội hỏi. Thằng Lân gật đầu:
- Bây giờ chúng mình sẽ phải đi tìm bọn “lính gác”. Chúng là những thằng tay
chân thân cận của các tên “chỉ huy” mỏ vàng. Bọn “lính gác” sẽ dẫn đi gặp các
“sĩ quan”, đó là những thằng cai hầm vàng. Bọn “sĩ quan” sẽ tuyển chọn hoặc
không chọn nhân công làm vàng tại hầm mỏ.
- Mẹ kiếp! Thế nếu chúng nó không nhận thì cánh ta mất toi công trèo đèo lội
suối mò đến tận cái xứ khỉ ho cò gáy này à?
- Anh đừng có lo! Dân làm phu vàng ở đây thiếu lắm. Chỉ lo thiếu người chứ
không lo thiếu việc. Nếu không được bọn “chỉ huy”, bọn chủ các hầm vàng thuê
làm phu thì chúng ta cứ tạm đãi vàng tự do ngoài sông suối vậy.
- Thế thì cứ đi đãi vàng tự do cho sướng, đếch phải phụ thuộc vào bố con thằng
nào!
- Cũng không hẳn thế! Đào đãi tự do phải tự mua sắm lấy dụng cụ lao động, thu
nhập lại rất thấp và cũng vẫn phải “nộp thuế” đầy đủ mới được phép làm vàng ở
đây!
- Ở giữa rừng sâu núi thẳm thế này còn phải nộp thuế cho ai?
- Thì nộp cho bọn “chỉ huy”, bọn bảo kê các bãi vàng chứ còn ai nữa?
- Tại sao lại phải nộp cho bọn chúng nó! Mỏ vàng sa khoáng là của tự nhiên, nhà
nước không quản lý, không thu thuế thì thôi, ai đãi được thì lấy chứ của riêng
bố con nhà chúng nó đâu mà đòi “thu thuế” hả?
- Chúng nó đều là bọn du côn, bọn tội phạm xưng hùng, xưng bá ở bãi vàng này. Chúng nó tự cho mình là chủ, có quyền cai quản, cho ai khai thác mới được khai thác. Không nộp thuế, nộp lệ phí chúng nó không cho làm. Lôi thôi chúng nó gây sự, đánh chém, trấn lội. Mình không những bị cướp sạch hết tiền vàng kiếm được lại còn bị thương tích, mất mạng đấy.
- Chúng nó đều là bọn du côn, bọn tội phạm xưng hùng, xưng bá ở bãi vàng này. Chúng nó tự cho mình là chủ, có quyền cai quản, cho ai khai thác mới được khai thác. Không nộp thuế, nộp lệ phí chúng nó không cho làm. Lôi thôi chúng nó gây sự, đánh chém, trấn lội. Mình không những bị cướp sạch hết tiền vàng kiếm được lại còn bị thương tích, mất mạng đấy.
- Mẹ kiếp cái bọn khốn ăn chặn này tao thì…
Hắn bắt đầu thấy nóng mặt. Thằng Lân nói tiếp:
- Đành phải thế thôi anh ạ! Bọn chủ bãi, bọn “chỉ huy” bãi vàng này toàn là
quân đầu trộm đuôi cướp, lưu manh, bọn trốn tù, tiền án, tiền sự đầy người đấy
nên anh em chúng ta phải hết sức cẩn thận, nhẫn nhịn. Tuyệt đối không được có ý
định chống đối lại chúng nó sẽ chẳng thể làm ăn gì được mà còn rất nguy hiểm
đến tính mạng.
Càng nghe thằng Lân nói, hắn lại càng thấy vô cùng bực bội, tức anh ách trong
bụng. Nhưng thôi, cố nén nhịn xem sao đã. Hắn nhủ thầm.
Chặn bọn hắn lại ở cửa rừng là hai thằng trông đúng là những con nghiện có thâm
niên. Đây chính là những tên “lính gác” đầu bãi, tay chân của bọn ông trùm “chỉ
huy” bảo kê bãi vàng này. Thằng Lân rút từ trong túi ra hai bao thuốc lá đưa
cho bọn chúng. Thì ra nó đã chuẩn bị từ bao giờ rồi. Hai thằng “lính gác” vồ
ngay lấy mấy bao thuốc lá. Chúng vừa châm lửa hút thuốc vừa bảo:
- Chưa có hầm nào cần tuyển phu đâu! Bọn chúng mày hẵng cứ tạm đi đãi vàng tự
do đã. Khi nào có chỗ cần phu chúng tao sẽ gọi. “Thuế” phải nộp mỗi tuần là hai
phân hiểu không!
- Sao thu cao thế?
Thằng Lân hỏi lại. Một thằng “lính gác” nhăn nhở:
- Mỗi người mỗi ngày kiếm được những mấy chỉ, nộp có hai phân bọ thì thấm tháp
vào đâu mà cao với thấp!
- Ở đây kiếm được khá thế cơ à?
Thằng lính gác cười hềnh hệch:
- Chúng mày cứ làm đi rồi sẽ biết! Ở đây vàng nhiều hơn cát ấy chứ! Hôm qua có
một thằng vừa nhặt được cục vàng sa khoáng to gần bằng củ khoai lang đấy!
Hắn làu bàu trong miệng: “Mẹ kiếp! Thế sao bọn chúng mày không đi bốc lấy vàng
mà nhét đầy mồm việc gì phải thu thuế của chúng ông! Ông mà nổi điên lên thì…”.
Thằng Lân khoát tay:
- Bây giờ bọn ta tìm nơi hạ trại làm lán lấy chỗ nghỉ hàng đêm cái đã. Một
người cùng tôi đi tìm mua máng gỗ để sáng mai ra sông đãi vàng.
Bốn thằng tạt vào một gờ núi đá vôi chìa ra như mái hiên ven suối để đồ đạc
xuống. Hắn quan sát, xung quanh thấy có rất nhiều lán trại của dân “phu vàng”.
Những mái lều căng bằng ni-lông, lợp cỏ gianh, che lá cọ lụp xụp, nhếch nhác,
bẩn thỉu. Mọi người chắc đang đi làm trong hầm vàng hay đãi tự do ngoài
suối nên khu lán trại im ắng, vắng vẻ.
Thằng Lân phân công:
- Anh Lỗi và thằng Bất ở lại căng ni-lông làm lán, em và chú Cần đi tìm mua
xẻng cuốc và máng gỗ để đãi vàng!
Hắn băn khoăn hỏi lại:
- Giữa chốn rừng sâu núi thẳm âm u thế này thì mua cuốc xẻng và máng đãi ở đâu
được?
- Anh yên trí! Ở đâu có “cầu” tất là sẽ có “cung”, cứ ra ngoài bãi vàng là có
hết! Rồi anh sẽ thấy, ở bãi vàng nơi “thâm sơn tùng cốc” này cái gì cũng có,
đem đến tận miệng, phục vụ tận nơi, chẳng khác gì như đang ở giữa thành phố ấy
chứ! Hi hi…
Thằng Lân nháy mắt cười cười vẻ rất thông thạo. Khi nó và chú Cần đi rồi, hắn
với thằng Bất bắt đầu chặt cây để làm lán trú chân. Hắn chọn một bãi đất khá
bằng phẳng đủ chỗ cho bốn thằng nằm ngủ để định trại. Vừa làm hắn vừa nghĩ:
“Phen này may mắn ông mà vớ được một cục vàng bằng nắm tay thôi thì hơn đứt cả
trăm, cả ngàn gánh củi ở Lạng Sơn”. Hắn bỗng thấy trong lòng vui vui, háo hức.
Hắn huýt sáo theo nhịp điệu một bài hát chèo. Thằng Bất cười hiền lành hỏi:
- Anh có chuyện gì vui thế? Chắc lại nhớ bà xã ở nhà hả?
- Tao tứ cố vô thân, làm quái gì có gia đình vợ con mà nhớ với chả nhung!
Thằng Bất cười nhe cả hàm răng vẩu ra:
- Thế chắc là nhớ người yêu! Thôi anh đào hố chôn cột dựng lán, em xuống suối
múc ít nước về đun để uống và pha mỳ tôm nhé!
Hắn gật gù:
- Ừ! Mày cứ đi đi…
Thằng Bất vớ cái can nhựa rồi tụt xuống dốc. Hắn ôm mấy đoạn cây vừa chặt lên
vị trí đã chọn làm nền lán rồi dùng con dao tông đào lỗ chôn cột. Cúi gập người
xuống moi đất trong cái lỗ đang đào lúc ngẩng đầu lên hắn giật mình sửng sốt
khi thấy một cặp giò con gái trắng nhởn sừng sững đứng ngay trước mặt. Hắn ngạc
nhiên ngước lên nhìn. Một đứa con gái mặc cái quần soóc màu trắng ngà, áo ba
lỗ, má bự phấn đang cười cười nhìn hắn. Hắn thấy hơi lạnh sống lưng, tưởng có
một con ma rừng bất ngờ xuất hiện. Hắn vội đứng bật dậy, tay nắm chặt con dao.
Cô gái nhìn hắn chăm chăm mấy giây rồi hỏi:
- Anh là bọn mới từ dưới xuôi lên hả?
- Cô… cô là ai? - Hắn không trả lời mà hỏi lại.
Cô gái hơi nhếc mép:
- Đúng là anh mới lên nên chưa biết rồi! Em là nhân viên chuyên… “phục vụ” dân
phu vàng ở đây đấy mà!
- Phục vụ cái gì?
Hắn hỏi vẻ rất ngu ngơ. Đúng là hắn vốn từng trải trong cuộc đời nhưng nhiều
lúc còn rất ngu ngơ trước thực tại. Cô gái phì cười:
- Thì phục vụ cánh “phu vàng”! Em sẽ giúp các anh mỗi khi thấy nhớ vợ ấy mà!
Hắn chợt vỡ lẽ. Thì ra lại gặp lũ con gái chuyên bán chôn nuôi miệng. Nhưng sao
giữa chốn sơn cùng thuỷ tận này mà cũng có bọn “bươm bướm” trông vẻ ngầu thế
nhỉ. Hắn chợt nhớ tới lời thằng Lân nói lúc nãy, ở bãi vàng cái gì khi đã có
“cầu” thì ắt sẽ có “cung” đáp ứng. Và hình như bất cứ ở đâu mà có vàng thì ở đó
sẽ có gái.
Cô gái điếm khoanh tay ôm lấy ngực cố ý ẩy chồi cặp vú to tròn trật gần hết ra
khỏi cái cổ áo ba lỗ khoét rộng rồi bảo:
- Bây giờ anh đi với em chứ! Về lán của em hay vào ngay chỗ bụi cây bên kia
đồi, ở đó có một phiến đá phẳng phiu lắm. Làm nhanh cũng được, chơi chậm cũng
OK. Phu mới đến mỏ muốn kiếm được thật nhiều vàng thì nhất định phải làm một
cái để lấy vận hên anh ạ!
Hắn liếc nhìn trộm bộ ngực căng phồng của cô gái nuốt ực một cái. Nhưng chợt
nhớ đến lời căn dặn của thằng Lân, hắn liền xua xua tay:
- Vừa mới lên làm đếch gì có tiền... chứ?
- Yên tâm đi! Anh mới lên, lại là lần đầu nên em sẽ cho chịu… ghi sổ. Khi nào
có tiền hoặc khi đãi được vàng sa khoáng thanh toán trả nợ sau cho em cũng OK
luôn.
Hắn khéo léo nhưng cũng kiên quyết từ chối:
- Thôi để hôm khác em ạ! Bọn này còn ở đây lâu lâu đấy!
Chợt có tiếng thằng Bất húng hắng ho phía dưới chân dốc. Hắn vội bảo cô gái:
- Thôi cô đi đi để tôi còn dựng lán. Các anh em của tôi sắp về rồi!
Biết không thể dụ được hắn đi theo, cô gái dấn đến ấn cặp vú tròn căng nây nẩy
chà sát day day vào cánh tay trần của hắn. Bàn tay phải của cô ta hạ xuống rất
nhanh tóm mạnh vào chỗ kín của hắn một cái. Hắn giật nảy mình co rúm người lại
ngồi thụp xuống. Giọng cô gái vẫn lả lơi:
- Nhớ là khi nào cần thì cứ đến tìm em nhé! Bất cứ lúc nào cũng được. Lán của
em ở bên kia suối, chỗ gốc cây sung già sù sì rất nhiều quả ấy!
Cô gái bán hoa vừa đi khuất khỏi sau gộp đá thì thằng Bất xách can nước leo
lên. Nó vừa lau mồ hôi vừa thở hổn hển hỏi:
- Em vừa thấy có bóng con gái ở đây phải không anh?
- Gái điếm đến tận nơi phục vụ đấy! Mày có dám chơi một cái cho biết thế nào là
L… sơn nữ không?
- Em sợ lắm! Bọn gái này toàn là bệnh tật, si-đa đầy mình đấy anh ạ!
- Ừ…
- Anh cẩn thận đấy! Bọn này ghê lắm, không khéo làm được đồng nào cống nạp cho
nó hết!
- Ừ…
Nóng quá. Hắn cởi cái áo đang mặc ném lên một bụi cây lúp xúp. Thằng Bất trố mắt hoảng sợ khi nhìn thấy cái mặt hổ xăm gớm ghiếc trên ngực và cái đầu lâu xương chéo xanh lè trên lưng hắn. Nó sợ hãi lùi lại, mặt cắt không còn giọt máu, hai chân run lẩy bẩy. Giữa lúc ấy chú Cần và thằng Lân đi mua sắm dụng cụ đãi vàng cũng vừa về đến nơi. Cả ba đứng rúm ró túm lại bên nhau và cùng sững sờ nhìn hắn, không ai thốt lên được lời nào.
Nóng quá. Hắn cởi cái áo đang mặc ném lên một bụi cây lúp xúp. Thằng Bất trố mắt hoảng sợ khi nhìn thấy cái mặt hổ xăm gớm ghiếc trên ngực và cái đầu lâu xương chéo xanh lè trên lưng hắn. Nó sợ hãi lùi lại, mặt cắt không còn giọt máu, hai chân run lẩy bẩy. Giữa lúc ấy chú Cần và thằng Lân đi mua sắm dụng cụ đãi vàng cũng vừa về đến nơi. Cả ba đứng rúm ró túm lại bên nhau và cùng sững sờ nhìn hắn, không ai thốt lên được lời nào.
Nhìn bọn họ hắn chợt hiểu. Hắn khoát tay bảo:
- Chúng mày đừng sợ! Tao chỉ vì cuộc đời xô đẩy nên đã từng là một thằng tù,
từng đánh nhau, đâm chém, trộm cắp. Nhưng tao chỉ đánh những thằng đáng đánh,
chém những thằng đáng chém và lấy trộm của những thằng đáng bị ăn trộm. Tao
cũng chỉ là một thằng khố rách áo ôm phiêu bạt giang hồ, chuyên làm thuê, làm
mướn kiếm ăn như chúng mày thôi. Tao sẽ kể cho chúng mày hết mọi chuyện.
Thằng Lân lấy lại bình tĩnh:
Thằng Lân lấy lại bình tĩnh:
- Qua mấy ngày đi cùng nhau, bọn em tin anh! - Nó nhặt cái áo đưa cho hắn rồi
nói tiếp: - Nhưng ở chốn này anh phải hết sức cẩn thận. Anh mặc ngay áo vào đi,
đừng để ai nhìn thấy…
Nghe lời thằng
Lân, hắn khoác cái áo lên người.
(hết phần
12)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.
Hà Nội ngày 18.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần 13
Sáng hôm
sau, thằng Lân đưa cho mỗi người một cái máng gỗ, một cái cào. Cái cào có muôi
rộng cỡ bàn tay để cào múc cát dưới lòng sông và một cái lọ pênêxlin buộc sẵn
một vòng dây. Đó là những thứ mà hôm qua nó và chú Cần đi tìm mua khi hắn với
thằng Bất ở lại làm lán. Hắn ngạc nhiên cầm cái lọ thủy tinh nhỏ xíu giơ lên
hỏi:
- Cái này
dùng để làm gì vậy?
- Hì…hì… đây
là cái lọ để đựng vàng sa khoáng đãi được chứ còn để làm gì nữa!
- Đựng vàng
vào cái lọ bé tý này á! Thế thì được mấy nả?
- Chỉ cần
mỗi ngày mỗi người kiếm được đầy một lọ này vàng cám thôi thì chả mấy chốc bọn
ta đã trở thành người giàu sụ đấy anh ạ!
- Tao tưởng
mỗi ngày phải đãi được một vốc to vàng chứ nếu chỉ đựng đầy cái lọ con con này
thì ăn thua mẹ gì!
- Vàng mà
anh cứ làm như là cát không bằng ấy!- Thằng Lân lại cười hì hì rồi căn dặn:-
Mọi người nhớ là đeo vòng dây này vào cổ, nhét cái lọ vào trong ngực áo. Khi
đãi được vàng cám, nhặt được các vảy vàng, các hạt vàng sa khoáng, vàng cốm thì
bỏ luôn vào lọ, nút thật chặt rồi giấu ngay vào trong áo, đừng để ai nhìn thấy!
Hiểu không?
Hắn chưa
biết đào đãi vàng là thế nào nên cảm thấy rất háo hức. Hắn hình dung sau mỗi
ngày sẽ kiếm được đầy một lọ pênêxilin vàng. Ồ! Thằng Lân nói đúng, chỉ cần đầy
cái lọ này cám vàng thì cũng phải đến gần hai chỉ chứ chẳng phải là ít ỏi. Mẹ
hắn lúc còn sống cũng chỉ tích cóp được có hai chỉ vàng để phòng thân. Khi hắn
còn đang ở trong tù thì mẹ chết. Lúc ra tù về viếng mộ mẹ hắn nghe người làng
kể lại là nhờ có hai chỉ vàng ấy mà đám ma của mẹ hắn đỡ phần lạnh lẽo khói
nhang.
Cả bọn ra
đến bãi sông thì đã thấy đông đặc người đang đãi cát ồn ào. Trông đám người bì
bõm trên bãi sông đục ngầu giống hệt cảnh xã viên đi hôi, mót cá tại ao của hợp
tác xã mà khi còn ở nhà hắn đã từng chứng kiến. Giữa chốn rừng già heo hút mà
sao lại có lắm người mò đến thế! Sức hút của vàng quả là mạnh hơn lực hút của
nam châm rất nhiều. Nam châm hút sắt, còn vàng thì hút người.
Thằng Lân
bày cho ba người biết cách thức đãi vàng. Dạo trước, khi đơn vị thằng Đang
chuyển từ biên giới Tây Nam ra biên giới phía Bắc đánh nhau với bọn Tàu hồi đầu
năm 1979, đóng quân ở một vùng rừng núi nó đã từng đi xem dân họ đào đãi vàng
rồi. Thằng Lân dùng xẻng ấn sâu xuống đáy sông xúc cát đổ vào cái máng gỗ. Chao
đi, chao lại một lúc trong nước cho đến khi đất cát trong máng trôi đi hết nó
mới giơ cái máng gỗ lên nhìn. Nó chỉ vào máng rồi bảo cả bọn:
- Có một ít
vàng trong máng đây này!
Mấy thằng xô
lại nhìn. Hắn ngạc nhiên. Cái máng gỗ trên tay thằng Lân sạch bong, thấy cái
quái gì đâu mà nó bảo là có vàng. Thằng Lân hơi nghiêng cái máng gỗ về hướng
mặt trời. Có loáng thoáng những đốm sáng li ti phản quang ánh sáng lấp lánh màu
vàng ở trong lòng máng. Đó là những phân tử vàng nhỏ bé. Thằng Lân khéo léo
dùng đầu ngón tay miết vào chỗ những hạt li ti lấp lánh ấy gạn lấy những phân
tử vàng cho vào lọ. Hắn trố mắt. Vàng mà thế á! Đãi vàng như thế này thì biết
đến đời mục thất nào mới có được một chỉ. Hắn liền quẳng máng nhảy ùm xuống
sông. Dìm người xuống dòng nước hắn dùng hai tay quờ quạng dưới lòng sông đục
ngầu vớ lấy những cục đá, những hòn sỏi to giơ lên xem xét. Đoạn hắn chà sát,
đập mạnh chúng vào nhau để xem có cục nào là vàng không. Chỉ toàn đá là đá. Hắn
liền vứt đi rồi lại mò tiếp.
Thằng Bất
thấy thế hỏi:
- Anh đang
làm cái gì thế?
- Tao xem có
vớ được cục vàng nào không chứ gạn đãi, nhặt nhạnh từng hạt nhỏ hơn cả hạt bụi thế
này thì biết bao giờ mới được vài phân?
Thằng Lân
phì cười bảo:
- Anh đừng
mò vàng như thế mà mất công! Hãy kiên trì mà đãi cát đi biết đâu vận may rồi
cũng sẽ đến… hì…
Hắn đành
nghe lời thằng Lân cầm cái cào khoét xúc cát dưới đáy sông đổ vào máng gỗ.
Vừa đãi cát tìm vàng hắn vừa nghe đám “phu vàng” trên sông nói về chuyện đào đãi vàng về những vận may bất ngờ của những người làm vàng. Hắn cũng biết tại bãi vàng này có các hầm đào dọc theo hai bên bờ con sông nhỏ và trên sườn núi. Những cái hầm ấy tựa như những cái hang chuột khoét dần, chui sâu mãi vào lòng đất lần theo các vỉa vàng sa khoáng. Những hầm vàng sâu hun hút, tối tăm và vô cùng nguy hiểm vì đất đá có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Từ trong những đường hầm ấy đất đá được moi chuyển ra ngoài để xử lý. Trước hết, những mảnh quặng đá có chứa vàng được cho vào máy nghiền nhỏ như cám. Sau đó được đưa qua hệ thống máng sàng lọc loại bỏ đất cát, vàng có trọng lượng nặng hơn sẽ ở lại. Vàng sa khoáng được tách ra nhờ có hệ thống máng thủy ngân. Từ bột vàng sa khoáng người ta sẽ tiến hành phân kim, tiếp tục loại bỏ các tạp chất rồi mới cô đúc thành những thỏi vàng ba, bốn số chín thực sự. Phu vàng làm việc ở các mỏ thường có thu nhập cao và ổn định hơn hẳn bọn đi đào đãi tự do trên sông suối. Lượng vàng thu được trong đất đá lấy từ lòng núi ra cao gấp hàng trăm lần vàng lẫn trong cát sỏi ngoài sông suối. Người làm cho các hầm vàng được trả công cao. Nhưng làm việc dưới hầm khai thác quặng vàng là đánh đu với thần chết. Bởi vì hầm đào sâu vào lòng đất mà chẳng có cây que chằng chống gì, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Trong hầm sâu tối tăm thiếu cả không khí để thở nữa. Chỉ mới tuần trước thôi ở khu khai thác này đã có hai “phu vàng” do đất lở sập hầm bị vùi lấp. Đến bây giờ cũng chỉ mới đào bới tìm thấy một người, còn một vẫn chưa tìm thấy xác. Có lẽ anh ta sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới lòng đất đen cùng với những vỉa quặng vàng. Giữa chốn rừng sâu núi thẳm này còn bao nhiêu là những chuyện rủi ro, tai nạn, bệnh tật, trộm cắp, ăn chặn cướp bóc luôn luôn rình rập, chờ đón bọn người đang dấn thân đi tìm kiếm vận may để mong có sự đổi đời như hắn.
Vừa đãi cát tìm vàng hắn vừa nghe đám “phu vàng” trên sông nói về chuyện đào đãi vàng về những vận may bất ngờ của những người làm vàng. Hắn cũng biết tại bãi vàng này có các hầm đào dọc theo hai bên bờ con sông nhỏ và trên sườn núi. Những cái hầm ấy tựa như những cái hang chuột khoét dần, chui sâu mãi vào lòng đất lần theo các vỉa vàng sa khoáng. Những hầm vàng sâu hun hút, tối tăm và vô cùng nguy hiểm vì đất đá có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Từ trong những đường hầm ấy đất đá được moi chuyển ra ngoài để xử lý. Trước hết, những mảnh quặng đá có chứa vàng được cho vào máy nghiền nhỏ như cám. Sau đó được đưa qua hệ thống máng sàng lọc loại bỏ đất cát, vàng có trọng lượng nặng hơn sẽ ở lại. Vàng sa khoáng được tách ra nhờ có hệ thống máng thủy ngân. Từ bột vàng sa khoáng người ta sẽ tiến hành phân kim, tiếp tục loại bỏ các tạp chất rồi mới cô đúc thành những thỏi vàng ba, bốn số chín thực sự. Phu vàng làm việc ở các mỏ thường có thu nhập cao và ổn định hơn hẳn bọn đi đào đãi tự do trên sông suối. Lượng vàng thu được trong đất đá lấy từ lòng núi ra cao gấp hàng trăm lần vàng lẫn trong cát sỏi ngoài sông suối. Người làm cho các hầm vàng được trả công cao. Nhưng làm việc dưới hầm khai thác quặng vàng là đánh đu với thần chết. Bởi vì hầm đào sâu vào lòng đất mà chẳng có cây que chằng chống gì, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Trong hầm sâu tối tăm thiếu cả không khí để thở nữa. Chỉ mới tuần trước thôi ở khu khai thác này đã có hai “phu vàng” do đất lở sập hầm bị vùi lấp. Đến bây giờ cũng chỉ mới đào bới tìm thấy một người, còn một vẫn chưa tìm thấy xác. Có lẽ anh ta sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới lòng đất đen cùng với những vỉa quặng vàng. Giữa chốn rừng sâu núi thẳm này còn bao nhiêu là những chuyện rủi ro, tai nạn, bệnh tật, trộm cắp, ăn chặn cướp bóc luôn luôn rình rập, chờ đón bọn người đang dấn thân đi tìm kiếm vận may để mong có sự đổi đời như hắn.
Nhìn kỹ
trong cái máng gỗ của mình sau mấy lần đãi lọc đất cát, hắn cũng thấy có những
hạt vàng li ti bé nhỏ bám vào thớ gỗ. Phải rất khó khăn và kiên trì hắn mới
gạn, nhặt được những hạt cám vàng sa khoáng ấy cho vào cái lọ thủy tinh nhỏ xíu
đeo trên cổ. Thằng Bất đang bì bõm bên cạnh chợt khẽ reo lên vui mừng. Hắn vội
ghé mắt sang nhìn. Trong cái máng của nó có một vài hạt vàng to gần bằng nửa
hạt vừng. Có lẽ nó là thằng may mắn nhất trong “bè lũ bốn tên” ngày đầu tiên đi
đãi vàng.
Bãi sông cạn
mỗi lúc một đông.
Đám người
đãi vàng tự do ngụp lặn sùng sục trong dòng nước, sàng đãi ồn ào, quát tháo gọi
nhau ầm ĩ. Ai cũng cầu mong sẽ gặp một vận may đến bất ngờ vớ được một cục vàng
sa khoáng to bằng củ khoai như đồn đại. Nhưng rồi thì họ vẫn cặm cụi kiên nhẫn
kiếm tìm, gạn nhặt từng hạt vàng, vảy vàng bé nhỏ li ti, nhỏ đến mức không thể
nhỏ hơn. Nước dòng sông ngầu đục. Mùi hôi hám của hóa chất do dây truyền sàng
lọc bằng máy bốc lên khiến nhiều người hắt hơi, xổ mũi. Hắn thấy da thịt ngứa
ngáy, bức bối rất khó chịu.
Chợt có
tiếng mấy người ngồi bên cạnh hắn khẽ bảo nhau:
- Bọn “thu
thuế” đến đấy!
- Mẹ cha
chúng nó, đã bòn mót được tý cám vàng bọ nào đâu mà đòi thu!
Hắn ngước
nhìn lên phía bờ sông. Mấy thằng đầu tóc bù xù, tay cầm gậy, tay xách mã tấu
đang nghênh ngang đi xuống bãi đãi vàng. Đó chính là bọn “lính gác” và bọn “sĩ
quan” đi đôn đốc thuế, thu lệ phí của đám phu vàng. Đến chỗ những toán người
đang cặm cụi đãi vàng bọn chúng quát tháo, nhắc nhở việc nộp thuế, lệ phí bảo
kê, bảo vệ.
Thằng Lân
bình tĩnh bảo mọi người:
- Cứ mặc kệ
bọn chúng! Cánh ta vừa mới đến, chưa kiếm được chút gì chúng nó chưa đòi “thu
thuế” ngay đâu!
Hắn có vẻ
bực bội:
- Có mà thu
cái con… củ cặc tao ấy!
Thằng Lân
lại phải gàn hắn:
- Anh nhớ là
không nên gây gổ với bọn chúng nó!
- Hừ...
Hắn im lặng
không nói thêm nữa. Hắn thấy vui vui khi vớ được một hạt vàng sa khoáng to bằng
hạt kê. Hắn cẩn thận bỏ hạt vàng nhỏ xíu ấy vào cái lọ thuỷ tinh đang đeo lủng
lẳng ở cổ.
Bỗng lại có
tiếng kêu khóc nhốn nháo phía trên bãi đãi vàng. Mọi người đứng cả dậy nghển cổ
lên nhìn. Có ai đó nói to:
- Bọn chúng
nó đánh cảnh cáo cái thằng nợ “thuế” và còn thiếu tiền thuốc trích hút đấy!
- Kệ chúng
nó! Cứ tiếp tục làm việc đi!
Mọi người
bảo nhau. Phần lớn là nín nhịn, câm lặng, không ai muốn giây vào lũ lưu manh
côn đồ. Ai cũng muốn sẽ kiếm được thật nhiều vàng để dù có bị ăn chặn, bị “thu
thuế” thì vẫn còn dư chút ít đem về nhà.
Sau một hồi
đe nẹt, đấm đá, bọn “thu thuế” bỏ đi.
Bãi sông lại
râm ran tiếng cười nói của đám phu vàng.
Một chốc lại
có tiếng người kêu lên thảng thốt:
- Bọn “thu
nợ” đến rồi!
- Lại là bọn
nào nữa thế?
Hắn quay
sang hỏi mấy người xung quanh. Không ai trả lời hắn. Mọi người còn đang mải
làm. Tuy thế, hắn thấy có mấy anh chàng và cả một ông đầu tóc đã nhuốm bạc vội
vàng vứt cả máng đãi hớt hải chạy vọt về phía dưới hạ lưu. Họ chui lủi ngay vào
nơi có những bụi cây rậm rạp nhanh như những con chó bị săn đuổi. Hắn ngạc
nhiên không hiểu tại làm sao họ lại sợ hãi bọn này đến thế! Hắn đứng hẳn dậy để
nhìn cho rõ toán người đang đi đến. Hắn nhận ngay ra cô gái điếm chiều hôm qua
đã lảng vảng ở chỗ bọn hắn làm lán trại. Vẫn bộ ngực căng phồng nây nẩy như chỉ
muốn trồi ra khỏi cái cổ áo khoét quá rộng ấy. Đi cạnh cô gái điếm là hai thằng
đầu gấu với vẻ mặt dữ tợn. Hai thằng này hùng hổ tay dao, tay côn lăm lăm. Hắn
chợt hiểu. Cô gái điếm này đang đi chỉ điểm những kẻ đã “vui vẻ” xong ghi sổ nợ
quá hạn lâu rồi mà không chịu đến thanh toán. Bọn đầu gấu được cô gái điếm thuê
để xử lý những con nợ hay dây dưa không chịu trả ấy.
Đám “thu nợ”
tìm kiếm, lùng sục làm huyên náo cả bãi sông. Hai thằng đầu gấu lôi một thanh
niên từ dưới lòng sông lên. Chắc anh này “chơi chịu” nhiều quá mà không thanh
toán đầy đủ, sòng phẳng nên bị bọn chúng tẩn cho một trận lên bờ xuống ruộng,
mẻ trán, dập môi, máu me toé ra đỏ nhòe cả mặt mũi. Bọn chúng lột ngay cái áo
còn mới anh ta đang mặc trên người, thu luôn cả bộ đồ dùng đào đãi vàng đem đi.
Một bác già phải vội vàng rút tiền ra trả ngay cho cô gái để tránh trận đòn
nhắc nhở của bọn đòi nợ. Một người đàn bà gào khóc lăn lộn trên bãi cát khi
biết ông chồng mình cũng đã ghi nợ đến tiền triệu trong cuốn sổ của cô gái bán
hoa.
Cuộc thanh
toán nợ của cô gái điếm và hai thằng đầu gấu cũng ồn ào, nhốn nháo cả bãi vàng
giống như bọn thu thuế lúc nãy. Đúng là có vàng thì sẽ có mọi thứ như thế này
đây.
Tiếng kêu
khóc. Màu máu đỏ. Màu vàng non lấp lánh. Những khuôn mặt người nhàu nhĩ, lầm
than nhưng tràn đầy hy vọng vào sự đổi đời. Đó là sự cảm nhận của hắn trong
ngày đầu tiên ở bãi vàng này.
Và, cũng ngay ngày đầu tiên tại vương quốc của vàng ấy giúp hắn rút ra được một điều là để có được vàng quả thật vô cùng khó khăn, nguy hiểm, là nước mắt, mồ hôi và máu. Vàng là một thứ bao giờ cũng đồng hành cùng với máu và nước mắt...
Và, cũng ngay ngày đầu tiên tại vương quốc của vàng ấy giúp hắn rút ra được một điều là để có được vàng quả thật vô cùng khó khăn, nguy hiểm, là nước mắt, mồ hôi và máu. Vàng là một thứ bao giờ cũng đồng hành cùng với máu và nước mắt...
(hết phần 13)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
20.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 14
Cuộc sống
giữa bãi vàng nơi núi rừng với hắn rồi cũng quen dần.
“Bè lũ bốn
tên” cũng đã kiếm được chút ít sau một thời gian đãi vàng tự do trên sông. Bây
giờ thì cả bốn thằng đều đã được tuyển dụng làm “phu vàng” tại các hầm vàng
khác nhau của bọn chủ bưởng. Thu nhập có khá hơn nhưng lao động cũng vất vả cực
nhọc hơn. Thằng Lân và hắn làm phu ở mỏ vàng cạnh bờ sông. Chú Cần và thằng Bất
đầu quân ở một hầm vàng tít trong rừng sâu. Họ chỉ gặp nhau vào buổi tối ở lán
khi đã mệt mỏi bơ phờ từ các mỏ vàng trở về. Nhiều bữa chẳng kịp trò chuyện hỏi
han nhau cả bốn thằng đã lăn ra ngủ luôn. Cũng có hôm bọn chúng không về mà ở
lại giúp chủ mỏ canh gác cửa hầm và bảo vệ máy móc làm vàng.
Không bao
giờ hắn quên được lần đầu tiên vào đường hầm khai thác quặng vàng. Cái cảm giác
như đang chui dần xuống âm ty địa ngục luôn ám ảnh trong đầu hắn. Cái hầm khai
thác vàng mà hắn chui vào ở ngay sát bờ suối. Cửa hầm khum khum hình bán nguyệt
trông từa tựa giống miệng con sư tử đói đang há ngoác rộng ra chờ đón đám phu
vàng chui vào. Hầm được khoét sâu mãi vào trong lòng núi. Đường hầm chỉ cao độ
mét rưỡi, rộng chỉ độ một mét, người đi phải khòng lưng xuống, nhiều đoạn phải
bò như rắn mà chui qua. Hai bên thành hầm được đóng cọc, phía trên nóc lát ván
gỗ để tránh đất đá sụt lún xuống bít kín đường hầm. Hắn thấy hơi lạnh người khi
chui sâu phía trong đường hầm. Vào sâu khoảng ba mươi mét là các ngách, nhánh
hầm nhỏ hơn được đào khoét tuỳ tiện vươn dài ra các phía bám đuổi theo vỉa vàng
sa khoáng. Các hầm nhánh nhỏ, thấp hơn hầm trục chính và len lỏi lần theo dấu
vết của vàng. Trong hầm ánh đèn điện chỉ sáng lờ nhờ càng tạo cho con người ta
một cảm giác u tối, bức bối. Có những đoạn đường hầm do bắn phá bằng mìn với
lượng nổ lớn nên rộng phình ra lại khiến hắn lại có ý nghĩ giống như cái bụng
con trăn nuốt con mồi phình lên mà bọn phu vàng chính là những con mồi còn sống
ấy. Dọc đường hầm có nhiều tảng đá còn mắc lại treo lơ lửng trên đầu luôn sẵn
sàng rơi xuống đầu bọn phu vàng như những chiếc máy dập.
Công việc ở
hầm vàng được vận hành theo quy trình liên hoàn như một cỗ máy. Hắn và bọn phu
vàng tiến hành khoan đục đá, nhồi thuốc nổ, đánh mìn. Đá cục, đất đá vụn chứa
vàng được đưa đá ra khỏi hầm bằng những chiếc xe đẩy giống loại xe cút kít thời
hợp tác xã hắn từng biết. Những mảnh đá trong lòng núi sâu này có hàm lượng
vàng rất cao. Ngoài của hầm là khu “sản xuất” đãi lọc vàng. Đá chứa vàng được
đập nhỏ rồi đưa vào máy xay, nghiền thành bột và cuối cùng là đưa vào máng đãi.
Phu vàng phải làm tất cả các khâu trừ việc đãi vàng là khâu nhẹ nhàng nhất
thường là do chủ mỏ trực tiếp làm hoặc giám sát bọn lính làm rất chặt chẽ để
thu hồi tối đa sản lượng vàng, tránh sự thất thoát. Bọn phu vàng thường kể cho
nhau nghe về một tên chủ cai hầm vàng tại Khe Giát này là một lão khét tiếng là
tàn ác. Lão từng bắt một thằng “lính” vì tội dám giấu trộm vàng phải tự mài
dao, đặt ngón tay của mình lên khúc gỗ rồi tự chặt đứt ngón tay ấy. Nó đã bất
ngờ vớ được một mảnh vàng sa khoáng đã giấu đi không nộp lại cho chủ hầm. Sau bận
ấy, đám phu vàng ở hầm này đều khiếp vía răm rắp, chỉ biết làm chứ không dám
tắt mắt, bớt xén.
Nghe bọn phu
cũ kể lại, hắn chép miệng:
- Mình làm
thuê cho nó, lại bớt xén, giấu giếm của nó làm gì mà nó chả tức giận chứ!
- Kiếp phu
biết đến bao giờ mới khá lên được! Nhìn thấy vàng lòng ai chả tham. Mà vàng là
của thiên nhiên, đâu phải là của riêng ai… - Một người phu tên là Đính góp lời
rồi giục: - Nhưng thôi, kiếp làm phu là thế! Làm tiếp đi, lão chủ và bọn cai
sắp đến đấy!
Bọn phu vàng
lại hì hục đập đá khuân chở ra khỏi hầm. Hắn bỗng hắt hơi mấy cái, nước mắt ứa
ra, đầu thấy choáng váng, buồn nôn. Phu Đính vỗ vai hắn bảo: “Khí độc do nổ mìn
từ tối hôm qua chưa tan hết đấy. Cố mà chịu. Ngày nào chả phải ngửi. Ngửi mãi
rồi cũng sẽ quen thôi. Bữa nay còn đỡ đấy, có hôm ống thông hơi bị tắc, quạt
gió hỏng vừa chui vào hầm đã thấy người nôn nao, hụt hơi. Có đứa vừa làm được
một lúc đã ngất xỉu đi luôn”. Phu Đính đưa hắn một chai nước. Hắn ghé miệng làm
một hớp. Nước uống cũng ươn ươn nặng mùi khen khét của lưu huỳnh.
Những ngày
sau hắn có vẻ quen hơn cái không khí ngột ngạt thiếu ô xy và sự âm u trong hầm
khai thác vàng. Nhờ có sức khỏe nên hắn làm việc cũng đỡ vất vả hơn thằng Lân.
Dưới những hầm sâu hàng chục mét lúc nào cũng có mấy chục phu vàng làm việc
suốt ngày đêm. Để duy trì kỷ luật, các chủ hầm thường có một số “phu ruột” để
bảo vệ vàng. Bọn này được ưu ái hơn nên giúp chủ thường xuyên giám sát gắt gao
làm thuê trong hầm và cả khi đã về lán trại. Chúng giúp chủ hầm phát hiện những
thằng lười biếng, hay lẩn việc và trộm cắp vàng để kịp thời xử lý.
Lão chủ của
hầm vàng nơi hắn và thằng Lân làm phu có cái đầu trọc lóc, da đen, vẻ mặt lầm
lì trợn trạo. Lão này ít nói, chỉ quen hành động. Thằng phu nào lười biếng là
ra tay ngay. Lão hay bợp tai, đá đít mầy thằng thanh niên hay trốn việc hoặc
mệt quá ngồi ngủ trong khi đập đá, vận chuyển quặng ra ngoài.
Một bữa, hắn và bọn làm ca sáng chuẩn bị
vào hầm đục đá thì lão chủ xuất hiện. Lão đưa mắt nhìn bọn phu rồi đi đến chỗ
hắn. Lão bảo:
- Hôm nay
ông đến giúp tôi ở chỗ cuối máng đãi nhé!
- Tại sao
tôi lại đến làm ở đấy?
Hắn hỏi lại.
Lão chủ bảo:
- Tôi để ý
bấy lâu nay, ông là người làm ăn đứng đắn nhất! Không trốn việc, không trộm cắp
như những thằng khác. Tôi muốn ông làm ở chỗ thu hồi sản phẩm cuối cùng!
Hắn ngạc
nhiên rồi chợt hiểu. Lão này muốn biến hắn thành một “phu ruột” đây. Lão chủ
tưởng hắn sẽ nhảy cẫng lên nhận ngay lấy công việc đỡ vất vả hơn việc chui vào
hầm mỏ ngột ngạt, nguy hiểm. Nhưng hắn lắc đầu từ chối và cảm ơn lão chủ một
câu cho lấy lệ. Tính hắn khẳng khái. Hắn không bao giờ muốn làm tay chân cho kẻ
khác hại mọi người dù việc ấy có lợi cho mình. Hắn không thèm bớt xén thời gian
lao động và sản phẩm của chủ. Nhưng bọn chủ cũng đừng hòng bớt xén tiền công
của hắn. Lão chủ rất nể hắn ở chỗ đó. Hắn làm ra làm nhưng đã không muốn làm
thì không thể ép. Nhất là việc định biến hắn thành tay chân, bồ ruột cho mình.
*
Một buổi
chiều hắn và thằng Lân được lão chủ cho nghỉ làm vì bọn ca trước đánh mìn làm
sập mất đường hầm chính chưa khai thông được. Việc chui vào các hầm nhánh lấy
quặng đá bị gián đoạn. Hai anh em đang hì hụi vặt rau nấu cơm tối thì chú Cần
tập tễnh trở về hớt hải bảo:
- Thằng Bất
hỏng thật rồi chúng mày ạ!
- Nó bị làm
sao! Bị sập hầm à?
Thằng Lân
buông nắm rau rừng đứng phắt dậy vẻ mặt nhớn nhác. Chú Cần lắc đầu:
- Không...
mà hỏng là... là... vì nó đã dính vào gái gủng đam mê cái món đĩ điếm quá mất
rồi!
Hắn phì cười
bảo:
- Mặc xác
nó! Nó đã lớn rồi, năm nay cũng đã hai mươi, hai mốt tuổi đầu còn gì. Cũng phải
để cho nó biết tý chút “mùi đời” là như thế nào! Hi hi...
Hắn nói và
chợt nghĩ đến chuyện của mình. Khi chỉ mới tròn mười bảy tuổi hắn đã được nếm
hương vị ngọt ngào của đàn bà rồi. Chú Cần nghe hắn nói vậy liền xua xua tay:
- Nhưng mà
dính vào chuyện gái ở chốn này thì làm ra được đồng nào dâng nộp cho chúng nó
hết nhẵn đồng ấy, có khi còn dính vào bệnh tật thân tàn ma dại không về được
quê nữa đâu! Mọi người phải nhanh chóng khuyên ngăn, tìm cách cứu nó ngay đi.
Chứ nó đi với gái suốt đêm sáng ra mới thấy vật vờ mò về thế này tôi thấy lo
lắm!
- Hay là nó
vẫn ngủ lại hầm mỏ trông coi máy móc cho chủ?
- Coi gì mà
coi! Nó đi coi phim con heo rồi coi gái thì có!
Nghe chú Cần
nói vậy, hắn làu bàu trong miệng:
- Thôi để
mai tao đi tìm rồi tẩn cho nó một trận để nó sáng mắt ra.
Nghe hắn
nhấm nhẳng lên tiếng. Thằng Lân vội ngăn:
- Anh đừng
đánh nó! Để em gặp nó khuyên nhủ xem sao!
Chú Cần vẫn
lắc đầu:
- Chắc là nó
không nghe đâu! Tao nói mãi rồi mà nó cứ như thằng câm điếc. Nó làm vàng không
biết kiếm được bao nhiêu mà thấy đến lán của con bé ở chỗ gốc sung đều đều. Tao
còn nghe có đứa nói nó đang tính bỏ nghề phu vàng để làm tay chân bảo vệ cho
“Ông Cụt” đấy!
- Ông Cụt...
Ông Cụt là thằng quái nào thế?- Hắn tò mò hỏi.
- Đó là một
ông trùm cai quản bảo kê tất cả các hầm vàng trong khu vực rừng núi này đấy!
Chỉ nghe đến tên ông ta thôi là dân “phu vàng” đã khiếp đảm. Không riêng gì dân
phu mà cả bọn chủ bưởng, cai thầu, bọn “sĩ quan”, bọn “lính gác” ở các mỏ vàng
đều phải dè chừng, quy phục và ngoan ngoãn cống nạp cho Ông Cụt. Ai chống lại
chỉ có nước chết hoặc bán xới khỏi chỗ này ngay. Nghe nói khi nó mới đến có ông
chủ mỏ vàng không chịu nộp thuế bị ông ta cho tay chân lôi xuống bỏ dưới hầm
sâu rồi dùng thuốc nổ đánh sập cửa chết mất xác đấy!
Nghe thằng
Lân nói như vậy, hắn ngạc nhiên:
- Cái thằng
cụt chết tiệt này ở đâu mò đến đây thế?
- Không rõ
nó từ đâu đến. Chỉ nghe nói ông ta là một tên khát máu. Nó có một bọn chân tay
đông đảo, toàn là đám côn đồ, tội phạm, trốn tù. Bọn này chuyên đâm chém, giết
người không ghê tay. Chúng nó sẵn sàng đánh đập, phá phách các mỏ vàng, hầm
vàng nếu một chủ hầm nào không chịu cống nạp cho bọn chúng.
Hắn nhổ toẹt
xuống đất:
- Nó ghê gớm
thế cơ à?
- Ông ta vẫn
hoành hành, làm mưa làm gió ở khu vực Lào Cai, mới vươn sang đến vùng này! Nghe
đồn ông ta từng nổi tiếng tung hoành, từng trải trên giang hồ, có nhiều chiến
tích khiến bọn đàn em nể phục. Nghe đồn có lần một mình ông đấu với bảy thằng
côn đồ khác đã đánh cho bọn kia tơi tả. Tuy vậy do bị phục kích bất ngờ thân
cô, thế cô ông ta bị dính một nhát kiếm của đối thủ bay mất một mảng da, tóc
trên đầu, cụt một tai nhưng vẫn triệt hạ được tất cả mấy thằng kia đấy! Đám dân
giang hồ vẫn gọi là “Ông Cụt” vì thế. Bọn chúng suy tôn vinh ông ta là một
người “bất tử” trong đám đầu gấu vùng biên chuyên cướp bóc ở các bãi vàng hoặc
bảo kê đường dây buôn lậu hàng quốc cấm, kể cả việc vận chuyển ma tuý, thuốc
phiện qua biên giới. Các bọn khác chỉ cần nghe đến cái tên “Ông Cụt” là đã sợ
vãi đái ra quần rồi.
- Thế hả!
Vậy thì nhất định tao càng phải gặp bằng được cái thằng “Ông Cụt” này một lần
để xem mặt mũi của nó ra sao!
Chú Cần vội
can ngăn hắn:
- Anh phải
hết sức cẩn thận đấy! Giây vào loại người này là không hay ho gì đâu anh ạ.
Hắn hừ hữ
trong cổ họng chẳng rõ ý tứ ra sao. Chú Cần lại hỏi :
- Vậy còn
chuyện của thằng Bất anh em ta tính thế nào bây giờ! Nó mà có bị làm sao thì
chắc mẹ nó ở nhà không sống được. Hôm nó theo chúng mình đi làm ăn xa, mẹ nó cứ
sụt sịt dặn dò mãi là phải luôn chú ý giúp đỡ, kèm cặp, bảo ban nó.
Thằng Lân
nhíu mày suy nghĩ. Đoạn nó nói, giọng có vẻ buồn bã và lo lắng:
- Thôi được!
Ăn cơm xong tôi sẽ đi tìm nó để nói chuyện. Hy vọng là nó chưa đến nỗi quá sa
đà, đam mê dấn sâu vào chuyện gái gủng rất hao tiền, tốn sức này!
Hắn chợt
thấy bực bội trong lòng khi nhớ lại chuyện hôm làm lán thằng Bất còn rất sợ sệt
khi nói đến chuyện chơi gái. Thế mà bây giờ nó lại máu mê đến thế. Thì ra ở
vương quốc của vàng này mọi chuyện đều có thể xảy ra và sự thay đổi không thể
lường trước được. Nhưng rồi chuyện chơi gái của thằng Bất chỉ thoáng qua trong
đầu hắn. Hắn chỉ nghĩ đến việc phải đi tìm gặp bằng được cái thằng “Ông Cụt” vớ
vẩn nào đó xem mặt mũi, đầu cua tai nheo của nó ra sao mà khiến cho đám dân
“phu vàng” khiếp đảm đến thế.
Hà Nội, tháng 2-2011
(hết phần 14)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
21.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 15
Đại bản
doanh của tên đầu trùm thống lĩnh các bãi vàng có biệt danh là “Ông Cụt” nằm
trên một quả đồi ngay cạnh bờ suối.
Nơi đây cách
các hầm khai thác và bãi đãi vàng không xa. Đó là một căn nhà sàn làm bằng gỗ
khá chắc chắn. Xung quanh ngôi nhà lúc nào cũng có các “sĩ quan” cùng bọn “lính
gác” tuần tra bảo vệ. Trong căn nhà sàn ấy luôn có các cô gái phục vụ, hầu hạ
“Ông Cụt”. Bọn gái làm tiền muốn được hành nghề hoạt động ở khu vực bãi vàng
này dứt khoát phải đến trình diện, phục vụ miễn phí cho “Ông Cụt” và đám tay
chân. Lũ điếm này còn phải nộp khoản “thuế thân”- theo cách gọi của bọn chúng,
tức là phải nộp Ông Cụt một phần thu nhập từ việc “bán thân” cho cánh phu vàng.
Chiều nay,
Ông Cụt ở nhà.
Ông đang nửa
ngồi, nửa nằm giữa hai nữ nhân viên phục vụ xinh đẹp ăn mặc hở hang. Với những
bộ đồ mỏng tang cánh chuồn, họ gần như khỏa thân. Một cô bé ngồi trong lòng
ông. Bàn tay đầy sẹo do bao lần đâm chém, đánh nhau của Ông Cụt đang luồn vào
trong áo vuốt ve bầu vú nhòn nhọn như một búp măng mới nhú của con bé có lẽ chỉ
bằng tuổi con mình. Cô gái lớn tuổi hơn thì đấm bóp vai cho ông. Cặp vú nở nang
của cô này phè ra làm thành cái bệ êm ái cho ông tựa đầu. Hai mắt Ông Cụt lim
dim. Ông đang tận hưởng lộc của trời hay đang suy nghĩ về sự đời. Có lẽ là cả
hai. Ông ta đang nhớ lại chặng đường mà mình đã trải qua để đến được sự giàu
có, sự hưởng thụ sung sướng đến ngập mặt như hôm nay. Ông đã phải chiến đấu với
bao nhiêu băng đảng khác giành giật các mỏ vàng trong khu vực, để có thể “thu
thuế” của bọn phu vàng, của bọn chủ hầm và của cả đám con gái bán thân vì vàng
như hai cô bé này. Cuộc sống giúp ông rút ra một điều căn cốt là: “Lý tưởng
chẳng là cái cóc khô gì nếu mà cái lý tưởng ấy không làm ra vàng”. Có vàng là
có tất cả. Lý tưởng cao quý mà không có vàng thì chỉ là hoang tưởng. Ông nhớ
lại ngày còn đi học phổ thông ra sức phấn đấu theo lý tưởng của thanh niên thời
đại. Nhưng mãi mà ông vẫn không được kết nạp vào tổ chức của đoàn. Bởi có là
đoàn viên mới được tiếp tục học lên trung cấp, cao đẳng, đại học và phát triển
được. Nhưng kết quả học tập trung bình, hạnh kiểm trung bình như ông thật là
khó. Ngày ấy những cái gì mà cứ trung bình là vứt đi. Cứ phải giỏi, phải tiên
tiến, xuất sắc, tiền phong gương mẫu, là những “cánh chim đầu đàn”, “ngọn cờ
đầu” thì mới nên sự nghiệp lớn được. Học hết cấp ba ông đành tạm về làng làm
ruộng. Ông đã phải cố gắng phấn đấu lắm mới được kết nạp vào đoàn. Trong khi
hầu như tất cả thanh niên trong làng, ngoài xã đều hăng hái ghi tên xung phong
đi bộ đội vào Nam chiến đấu, có người còn viết đơn bằng máu thì ông được ông
chú là cán bộ trên tỉnh hứa sẽ xin cho vào học tại một trường trung cấp. Bây
giờ mỗi khi nghĩ lại chuyện cũ ông lại nhổ toẹt một bãi nước bọt thật to xuống
đất rồi dùng chân di di nhoe nhoét. Ông tự thấy xấu hổ cho mình khi nghĩ đến
chuyện từng phải ra sức đi cắt thật nhiều lá cây về làm phân xanh cho hợp tác
xã bón ruộng để lập thành tích khi cầm bút viết vào đơn xin ra nhập đoàn thanh
niên lao động. Rồi ông thức cả đêm để học bằng thuộc điều lệ của đoàn. Mỗi khi
nghĩ đến cảnh giơ tay xin thề suốt đời phấn đấu vì lý tưởng của đoàn thanh niên
ông lại tự cười mình sao hồi ấy sao mà ấu trĩ, ngu si đến thế! Cái lý tưởng ấy
nếu mà suốt đời đi theo thì bây giờ ông cũng chỉ là một tên dở hơi nghèo kiết
xác, làm gì có vàng, đô-la và gái đẹp như thế này. Ông chợt nhớ đến con mẹ bí
thư chi đoàn ngày ấy, người thì xấu mà lúc nào cũng ra vẻ ta đây. Hôm nào sinh
hoạt cũng cao giọng ra rả nói về lý tưởng của thanh niên thời đại, về con đường
phấn đấu vươn lên của tuổi trẻ, phê phán nghiêm khắc chủ nghĩa trung bình, luôn
mồm kêu gọi ra sức thi đua, "thanh niên ba sẵn sàng", "phụ nữ
ba đảm đang", hăng hái lên đường nhập ngũ giết giặc lập công, “cuộc
đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, “đâu có giặc là ta cứ đi”… Ông
cũng vẫn nhớ như in cái lần có một anh xàm sỡ “lỡ tay” quều quào chạm vào bộ
ngực lép kẹp mang cái cooc-xê dày và cứng như cái nắp ấm nhôm của con mẹ này, chắc
là cũng chả cảm nhận được quái gì. Thế mà bị mụ ta đưa ra trước chi đoàn kiểm
điểm lên, kiểm điểm xuống vì đã có hành vi dâm ô, đồi trụy. Thật là khốn khổ,
khốn nạn. Mẹ kiếp! Cái đồ gái già, trông chả khác gì con cá rô đực, ngực phẳng
hơn lưng như thế có mời chào ông cũng chả thèm. Bây giờ thì ông thiếu gì con
gái đẹp như tiên. Như cái con bé đang ngồi trong lòng ông đây vừa mới đến bãi
vàng, là gái trinh hẳn hoi nhé, vú nó vẫn còn rắn tưng. Tối nay ông sẽ phá
trinh nó. Đã có bao nhiêu đứa con gái như thế này qua tay ông rồi. Ông lại chợt
thấy đỏ mặt vì ngượng khi nhớ lại đã có những năm tháng từng kiên trì làm một
người cán bộ tốt. Nhưng rồi vì nghèo mà ông tham ô công quỹ phải vào tù, mất
việc. Hoá ra thế lại hay. Nhờ vậy mà ông mới có cuộc sống phè phỡn như hôm nay.
Ông nghĩ, đời ông chơi bời đã sướng, hưởng thụ lại càng sướng. Mọi thứ của
ngon, vật lạ, bổ dưỡng, tăng cường sinh lực, bổ sung tinh lực ông đều đã từng
nếm trải. Có những món ăn lạ và ngon mà người đời chả mấy ai biết đến nhưng ông
cũng đã được ăn. Nhiều món ăn ông cũng chả nhớ nổi tên gọi là gì. Song có lẽ ấn
tượng nhất đối với ông chính là món “óc khỉ” tươi. Một món ăn cực bổ mà ông rất
thích kể ngay từ lần đầu được thưởng thức. Ông nhớ mãi những lần ăn món “óc
khỉ”. Nó tạo cho ông một điều gì đó hào hứng, như tăng thêm khí phách của người
anh hùng hảo hán đang tung hoành trên giang hồ. Bữa ăn “óc khỉ” trong ánh lửa
nhà sàn bập bùng thật đầy sự hứng thú, hưng phấn đến tột cùng.
Một con khỉ
non còn sống được buộc dây vào cổ lôi đến. Con khỉ hình như cũng hiểu sắp bị
giết, nước mắt nó chảy ra ròng ròng. Nó chắp hai tay lạy con người và kêu lên
những tiếng thống thiết, vô vọng. Con khỉ bị trói đứng giữa nhà, cổ kẹp chặt
bằng các gióng tre tươi để nó không thể vẫy vùng được. Chanh tươi được cắt sẵn
thành miếng để vào đĩa. Ông là người sắp ăn món “óc khỉ” cầm sẵn một cái thìa
làm bằng thứ gỗ quý. Tên đầu bếp chuyên lo chuyện ẩm thực cho ông cầm một con
dao rất mỏng và sắc lẹm. Lưỡi dao từ tay trên đầu bếp hớt nhẹ một nhát trên đầu
con khỉ nhanh như ánh chớp. Mảng xương da trên chỏm đầu của con khỉ bị hớt văng
đi rất ngọt. Máu chưa kịp chảy. Bộ óc trắng tinh của con khỉ lộ hẳn ra. Tên đầu
bếp vội buông dao để vắt chanh, rắc muối tiêu vào óc của con khỉ. Ông dùng thìa
gỗ xúc lấy óc con khỉ để ăn. Cứ sau vài thìa óc khỉ, ông lại chiêu một hớp
rượu. Nhưng món “óc khỉ” này ăn là chính. Món óc khỉ chỉ bổ khi ăn sống và tươi
như thế. Có lần ông ăn xong cái óc mà con khỉ vẫn còn sống nguyên. Nước mắt nó
vẫn còn chảy ra ròng ròng hoà cùng máu đỏ…
Đang mơ màng
nhớ lại chuyện của một thời trai trẻ và suy nghĩ về thực tại thì nghe có tiếng
hô hoán ồn ào phía dưới chân đồi, Ông Cụt vội rời tay khỏi ngực cô gái quát
hỏi:
- Có chuyện
gì thế?
Một thằng
thò cổ vào nhà nói:
- Thưa ông!
Có một thằng “phu vàng” cứ lảng vảng rình mò gần “doanh trại”. Bị anh em bảo vệ
phát hiện nên nó liền tháo chạy. Mấy người đang truy đuổi theo nó đấy ạ!
Ông Cụt
quát:
- Chúng mày
cẩn thận đấy! Không khéo lại là bọn công an cải trang mò đến trinh sát để tập kích
vào bãi như lần trước thì toi cả lũ!
- Không phải
công an! Thằng này có vẻ chỉ là dân phu vàng thôi ạ!
- Phu vàng
mà dám mò lên tận đây để rình mò cái gì hả! Láo nhỉ! Chúng mày xỉa luôn cho nó
một nhát rồi quăng xuống vực, hiểu không!
- Vâng ạ!
Tên tay chân
đáp và lui ra. Ông Cụt đứng dậy. Ông chỉ cô gái mình vừa ôm ấp lúc nãy bảo:
- Con này ở
lại, còn con kia về lán. Mai lại lên!
- Vâng ạ!
Cô gái nhiều
tuổi hơn cài khuy áo ngực rồi bước ra ngoài. Cô bé phải ở lại mặt mũi tái nhợt.
Khi đến bãi vàng này nó đã nghe kể về Ông Cụt với những thú vui chơi gái theo
kiểu quái đản khủng khiếp nhất. Ông ta là một kẻ bạo dâm.
Ông Cụt để
cô gái ở lại rồi bước ra ngoài sàn. Ông vốn là một người luôn cảnh giác. Thực
tế đã dạy cho ông là sự cảnh giác không bao giờ thừa. Việc có một thằng phu
vàng lảng vảng quanh đại bản doanh khiến ông thấy khó hiểu. Ông muốn biết nó là
thằng nào mà bạo gan thế.
Nhưng ông ta
không biết rằng cái tên phu vàng đã cả gan ấy chính là hắn. Hắn chưa kịp tiếp
cận ngôi nhà sàn của Ông Cụt thì bị bọn tay chân phát hiện truy đuổi ráo riết.
Hắn đã phải chạy thục mạng từ trên đồi xuống thung lũng, nơi có những bụi cây
rậm rạp để lẩn trốn…
(hết phần 15)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
21.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 16
Bọn tay chân
hung hãn của Ông Cụt truy sát, đuổi theo hắn xuống tận thung lũng bãi vàng. Hắn
nhanh nhẹn như một con vượn nhưng bọn lính của Ông Cụt cũng nhanh không kém.
Chúng bám rất sát hắn. Qua chỗ ngoặt hẻm núi, hắn liền đổ người nằm ép xuống vệ
đường. Nhanh như một con rắn hắn chui ngay vào trong một bụi cây rậm rạp và đầy
gai góc. Bọn côn đồ hò hét nhau bám thật sát để khỏi mất dấu hắn. Có tiếng súng
lên đạn lách cách. Chúng thọc gậy, xỉa mã tấu vào từng bụi cây, đám cỏ. Hắn lại
phải lăn ra nằm bẹp gí dưới cái rãnh nước thải bẩn thỉu. Hắn vơ vội đám lau sậy
cỏ rác phủ lên người để ngụy trang, trốn tránh sự truy lùng của bọn tay chân
của Ông Cụt.
Lùng sục
chán, không tìm thấy hắn, bọn tay chân của Ông Cụt tức tối gọi nhau trở về
doanh trại. Dọc đường chúng ngứa tay, ngứa chân đấm đá lung tung làm đám “phu
vàng” kêu khóc ỏm tỏi dọc bờ suối.
Chờ bọn
chúng đi xa hắn mới lóp ngóp gạt lớp cỏ lau phủ trên người ngoi lên. Toàn thân
hắn ngứa ngáy, bốc mùi thối hoắc mùi bùn bẩn do có các hoá chất thải ra trong
quy trình sàng lọc vàng. Hắn làu bàu chửi đổng:
- Đ… mẹ cái
thằng Ông Cụt! Có giỏi thì mày hãy đến gặp tao đấu tay bo một trận xem thằng
nào thắng thua mới đáng mặt anh hùng hảo hán. Cái loại chuyên núp bóng côn đồ
như mày tao coi khinh hàng vạn dặm.
Hắn nhảy ùm
xuống đoạn suối nước còn sạch để tắm. Dìm người ngập sâu xuống nước hắn vừa kỳ
cọ, vừa tụt quần, cởi áo ra giặt. Nhớ lời thằng Lân căn dặn, hắn liền mặc ngay
bộ quần áo ướt lên người để che đi cái mặt hổ nhe nanh và cái đầu lâu xương
chéo xăm trên ngực, trên lưng. Đoạn, hắn lần theo bờ suối đi về lán. Vừa đi hắn
vừa huýt sáo. Có một con chim đột nhiên cất tiếng hót líu lo trên cành cây cao
như hoà theo. Nghển cổ lên nhìn, hắn chợt sững sờ khi trông thấy trên một chạc
cây có một bụi phong lan với những chùm hoa đang chớm nở rủ xuống rất đẹp. Hắn
che mắt quan sát, đúng là loài thuỷ tiên kiều tím rồi. Hắn liền bám vào gốc cây
thoăn thoắt leo lên. Khi vừa gỡ được bụi phong lan đang định tụt xuống thì hắn
nghe có tiếng chân người và tiếng húng hắng ho phía dưới gốc cây. Cúi xuống
nhìn, hắn nhận ngay ra đó là thằng Bất. Nó đi đâu vào giờ này nhỉ? Chờ thằng
Bất đi qua chỗ gốc cây, hắn liền tụt nhanh xuống đất. Giấu vội giò phong lan
vào lùm cây bên lối đi, hắn lập tức bám theo chân thằng Bất.
Thằng Bất
lùi lũi đi về phía bên kia bờ con suối. Trông nó có vẻ tiều tụy. Hắn chợt hiểu,
nó đang đi về chỗ gốc cây sung già, nơi có lán trại của mấy đứa con gái bán
hàng tạp phẩm và bán dâm. Trời đã sâm sẩm tối. Ở rừng khi mặt trời khuất núi,
ánh nắng vừa tắt thì bóng tối cũng ập đến rất nhanh. Thung lũng bãi vàng giữa
chốn rừng sâu mà khi đêm đến cũng nên thơ ra phết. Các máy phát điện mi-ni bắt
đầu khởi động. Ánh điện lung linh dọc bờ suối. Những khu lán của phu vàng không
có điện chỉ có ánh sáng đốt bằng vỏ cây rừng có nhựa trông mờ ảo trên sườn núi
như những đốm lửa của ma chơi.
Hắn không
lội theo sang bên kia suối sợ thằng Bất nhận ra mình. Hắn đi vòng lên phía trên
một đoạn rồi mới vượt sang.
Đến gần chỗ
lán của đám con gái làm nghề bán thân, hắn nghe thấy tiếng rúc rích ngay chỗ
lùm cây ven bờ suối.
Tiếng con
gái lả lơi:
- Anh trai
hôm nay chơi số mấy! Số một, số hai, hay là số ba?
Tiếng thằng
Bất hỏi:
- Thế nghĩa
là thế nào?
- Là làm
chuyện ấy bằng tay, bằng miệng hay bằng… bướm! Từ bây giờ bọn em gọi các cấp độ
phục vụ theo số thế cho nó lịch sự, có văn hóa… he… he… he…
Hắn suýt nữa
thì bật lên tiếng cười sằng sặc. Mẹ kiếp, cái đồ gái điếm chuyên bán chôn nuôi
miệng mà cũng ra vẻ lịch sự, văn hóa gớm nhỉ. Hắn định lao ra túm cổ thằng Bất
nện cho nó mấy cái bạt tai thì lại nghe thấy tiếng nó thì thào:
- Cứ phải là
loại số cao nhất!
Tiếng con
gái hỏi:
- Liệu anh
có còn tiền và vàng để thanh toán không?
- Bao nhiêu?
- Số một hai
phân, số hai ba phân, số ba bốn phân!
Tiếng thằng
Bất càu nhàu:
- Sao lại
cao thế?
- Giá cả
tăng lên rồi mà…
- Giá cả
tăng nhưng vàng kiếm được ngày càng ít hơn. Có hôm đãi mỏi rã cả cánh tay suốt
ngày chả nổi một phân bọ đấy.
- Vậy thì
hôm nay thôi nhé! Mà anh vẫn còn ghi trong sổ nợ chưa thanh toán hơn bảy chỉ
đấy!
- Rồi sẽ
thanh toán đầy đủ, sòng phẳng cho bọn em hết, còn bo thêm nữa! Ông Cụt đã đồng
ý cho anh đi theo làm tuỳ tùng bảo vệ rồi. Lúc đó thì tiền vàng sẽ không thiếu.
Nhưng thôi, hôm nay làm việc ở mức “số một” cũng được! Nhớ là anh vẫn ghi sổ nợ
nhé!
Những tiếng
thì thào im hẳn, chỉ còn nghe tiếng lọc xọc, hổn hển.
Hắn lặng lẽ
lùi lại quay gót. Về đến lán gặp thằng Lân và chú Cần đang ngồi đợi cơm, hắn
bảo:
- Đúng là
thằng Bất hỏng hẳn mất rồi!
- Anh đã gặp
nó rồi à?- Thằng Lân hỏi.
- Vừa gặp
xong, trông nó gầy yếu xơ xác lắm mà vẫn mò mẫm tìm đến chỗ bọn gái điếm.
Chú Cần và
thằng Lân cùng thở dài vẻ chán nản. Họ còn nghe nói là hình như nó đã dính cả
vào ma tuý rồi. Hai người cũng đã nhiều lần gặp nó để khuyên nhủ. Họ mong nó
hãy tránh xa cái bọn gái điếm và ma tuý vừa mất tiền vừa mất sức, không khéo
còn mất mạng nữa. Họ khuyên nó cố giữ mình ở chốn đầy rẫy những điều bất trắc,
đĩ điếm và bệnh tật này. Họ đã nói hết nhẽ. Nhưng thằng Bất không những không
nghe mà có lần nó còn chửi bới lại hai người nữa. Hắn cũng cảm thấy bất lực.
Hắn hiểu khi con người đã sa vào một sự đam mê gì thì thật khó mà dứt bỏ. Ở đời
có những cái mà khi nghiện thật khó bỏ. Gái cũng hấp dẫn như vàng. Khi đã có
vàng thì chuyện đầu tiên người ta thường nghĩ ngay đến gái. Vàng quý giá thật.
Vàng tôn vinh con người lên tận đỉnh, nhưng rồi vàng cũng sẽ đẩy con người
xuống tận đáy sự cặn bã mà thôi.
Ba người
ngồi ăn cơm trong ánh lửa bập bùng của mấy gốc củi chụm lại. Họ không có nến,
không có đèn. Mà cũng chả cần. Mỗi người có một tô cơm trộn lẫn rau rừng. Hôm
nay họ có thêm vài miếng thịt lợn mỡ lèo bèo.
Đang ăn thì
có tiếng kêu cứu nhốn nháo ở dãy lán bên cạnh. Hắn đặt tô cơm xuống đất đứng
dậy nghe ngóng. Có nhiều tiếng gào khóc thảm thiết vọng đến:
- Sập… hầm…
vàng… Khe… Giát… rồi… các… bác… ơi!
- Ối… giời…
đất… ơi… là… giời… đất… ơi…
- Đi giúp họ
cứu người ngay!- Thằng Lân quát và lao xuống dốc trước. Hắn và chú Cần vội bỏ
tô cơm đang ăn dở vớ lấy xẻng cuốc lao theo thằng Lân. Các khu lán trại nhốn
nháo. Đèn đuốc sáng rực. Đám phu vàng kéo nhau rầm rập chạy về hướng Khe Giát.
Mấy ngày
trước trời mưa to nên đất đá trên cao bất ngờ trụt xuống lấp kín một hầm khai
thác vàng ở dưới chân núi. Mấy phu vàng tham việc chưa kịp chui ra thì bị đất
đá bít kín mất cửa hầm. May một người ở phía ngoài thoát chết vội chạy về khu
lán báo tin.
Đám phu vàng
ra sức đào bới tìm cửa hầm. Nhưng lượng đất đá sạt lở xuống khá lớn khiến họ
rất khó xác định chính xác vị trí cửa hầm. Nguy cơ đất đá tiếp tục sạt lở khiến
đám phu vàng phải hết sức thận trọng. Họ vừa làm vừa phải chú ý nghe ngóng. Mỗi
khi thấy đất đá từ phía trên lăn xuống cả bọn lại hô nhau vứt xẻng cuốc bỏ chạy
tán loạn. Dưới ánh đèn đuốc nhập nhoạng đám phu vàng mặt mũi bơ phờ, thất thần,
quần áo bẩn thỉu lăn xả đào bới, moi đất một cách tuyệt vọng.
Đào bới gần
như suốt đêm đến gần sáng họ mới tìm thấy hai người bị vùi lấp. Đám phu vàng
đưa hai thi thể xuống suối tắm rửa rồi gói buộc khâm liệm cho họ.
Đám ma của
phu vàng giữa rừng sâu thật ảm đạm. Không khăn tang, không kèn trống, không có
điếu văn cũng chẳng hương nhang và bát cơm quả trứng. Chỉ có mấy bó hoa rừng
đặt lên nấm đất đắp vội. Số phận người phu vàng là thế, và phải chấp nhận như
thế. Hắn thấy ngậm ngùi, mạng sống của những người làm thuê ở mỏ vàng thật là
mỏng manh, nguy hiểm. Cái chết luôn luôn thường trực tại bãi vàng, đồng hành
của phu vàng. Hắn nhớ bữa trước nếu không có thằng Lân thì suýt nữa hắn cũng bỏ
mạng vì sập hầm.
Đó là ngày
còn đang đãi vàng tự do trên sông. Hắn chui vào một cái hầm đám phu vàng đào
sát bờ sông để moi xúc đất cát đem ra đãi. Trong những cái hầm ếch như thế này
lượng vàng sa khoáng thường nhiều hơn là cát ngoài bãi sông. Đang lúi húi trong
cái hầm ếch sâu hoắm ở chỗ bờ sông bên lở dựng đứng thì thằng Lân trông thấy
vội thò cổ vào gọi:
- Ra ngay đi
anh! Đào moi bờ sông lấy cát kiểu này rất nguy hiểm lắm!
Hắn chủ
quan:
- Không việc
gì đâu! Mày đừng sợ, mọi người vẫn làm như thế cả mà!
- Nhưng cứ
moi móc sâu thế này, bờ sông mà bất ngờ sụp xuống là mất mạng luôn!
- Mày yên
tâm! Khi nào bờ sông sắp sập thì nó phải kêu răng rắc chứ, lúc đó tao chạy ra
vẫn kịp!
Nhưng đất
sập thì làm quái gì có chuyện kêu "răng rắc" như cây sắp gãy đổ chứ!
Giữa lúc hắn đang mải mê lúi húi moi đất cát dồn vào cái bao tải nên không để ý
những mẩu đất vụn từ trên nóc hầm ếch đột nhiên lả tả rơi xuống. Thằng Lân
trông thấy thế hét to:
- Đất
sập đấy... chạy ra ngay!
Vừa gào lên
với vẻ hoảng hốt, thằng Lân vừa lao vào đẩy hắn ra khỏi cái hầm ếch. Hắn vội
vàng bỏ bao đất toài người nhao ra trước. Một tảng đất to trụt đổ ụp xuống.
Thằng Lân đang lồm cồm bò phía sau bị đất đè chẹn lấp ngang người. Nó bị đất ép
ngã sấp úp mặt xuống nước. Nó cố vùng vẫy nhưng không thể thoát ra khỏi đám đất
cát lổn nhổn. Hắn vội quay lại cố nâng đầu thằng Lân lên khỏi mặt nước cho nó
khỏi bị ngạt thở sặc nước. Đám phu vàng thấy thế lao liền đến hối hả moi đất để
lôi nó ra khỏi nơi nguy hiểm. Khi cả bọn chạy được ra xa thì một đoạn bờ sông
dài đổ ầm xuống. Thật hú vía.
Sau bận ấy
mỗi khi chui vào hầm moi đất đá, đào quặng vàng nhất nhất hắn đều nghe theo lời
chỉ dẫn của thằng Lân.
(hết phần 16)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
24.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Tiểu thuyết của Trọng
Bảo
Phần 17
Sau hôm mỏ
vàng Khe Giát bị đất lở làm hai người chết, các hầm vàng đều tạm đóng cửa vì
mưa vẫn dầm dề mãi không chưa dứt hẳn, đất trên sườn núi đã ngậm nhiều nước rất
dễ tiếp tục sạt lở. Công an cũng đã bắt đầu truy quét mạnh bọn “vàng tặc” nên
các chủ hầm vàng tiết giảm sản xuất.
Thằng Lân đã
tính đến chuyện trở về quê. Sau mấy tháng làm phu vàng cả bọn cũng chỉ đủ vặt
mũi đút miệng, chả kiếm được bao nhiêu. Ở giữa rừng sâu, giá cả cắt cổ, làm
được đồng nào cơ bản là ăn hết đồng ấy. Chú Cần cũng muốn về, vợ chú ở nhà nhắn
lên nói bà mẹ đang ốm nặng. Tuy thế thằng Lân lừng khừng chưa muốn rời khỏi nơi
này ngay vì nó muốn đưa cả thằng Bất cùng về. Nhưng việc tìm gặp được thằng Bất
bây giờ quả là rất khó khăn. Nó trở thành tay chân thân tín của Ông Cụt rồi,
không biết nó đang ở đâu. Thằng Bất bây giờ đã là một thằng kẻ cướp mất rồi.
Thật khó mà đưa nó trở lại con đường lương thiện. Vậy mà thằng Lân vẫn còn nuôi
hy vọng.
Còn hắn thì
cũng chưa muốn về xuôi. Không phải vì hắn còn nuôi hy vọng đổi đời khi vận may
bất ngờ xuất hiện vớ được một cục vàng sa khoáng to bằng quả bưởi. Hắn chưa
muốn ra khỏi bãi vàng là vì còn có một lý do khác. Đó là hắn chỉ muốn gặp và
nếu có dịp thì đánh nhau với thằng Ông Cụt một trận. Mấy lần hắn tìm cách tiếp
cận chỗ thằng Ông Cụt ở nhưng đều chạm trán với bọn tay chân canh gác cẩn mật
xung quanh. Không thể đến gần nhưng hắn đã nghĩ ra một cách rất hay để trừng
thằng Ông Cụt và đám tay chân của nó. Đó là sau mấy lần phát hiện có kẻ rình
mò, Ông Cụt đã lệnh cho tay chân chặt trụi hết cây cối, phát quang xung quanh
đại bản doanh để dễ quan sát. Nhìn đám cây cối bị chặt hạ đã bắt khô dần, hắn
nảy ra ý tưởng sử dụng một mưu kế như đã đọc được trong các loại sách kiếm hiệp,
truyện dã sử của bọn Tàu Tưởng, Trung Quốc. Đó là dùng “kế hoả công”. Hắn sẽ
tìm cách phóng hỏa khu đại bản doanh của thằng Ông Cụt để dạy cho nó một bài
học. Nhưng hắn chưa thể thực hiện “hoả công kế” vì trời mưa cứ liên tục, núi
rừng ướt sũng.
Chưa thể về
xuôi nên thằng Lân rủ hắn và chú Cần vác máng gỗ ra bãi sông đãi vàng tự do.
Sau mấy ngày nước lũ lớn tràn qua, bùn đất trên bãi sông trôi đi làm lộ ra
những đám đất cát có nhiều hạt vàng, vảy vàng. Đám phu vàng kéo nhau ra bãi
sông cạn rất đông mong kiếm thêm được phân nào hay phân nấy. Mỗi ngày ở rừng
không có việc làm là mỗi ngày ăn vào số tiền đã dành dụm được và hy vọng đổi
đời ngày càng teo đi.
Đang cặm cụi
moi cát, sàng đãi lọc tìm vàng thì hắn nghe có nhiều tiếng ồn ào, hoảng loạn:
- Ông Cụt
đang đến đấy!
- Ối giời
ơi…
Hắn vội
ngẩng mặt lên nhìn. Từ phía đầu con dốc trên bờ một toán người đang lố nhố đi
xuống bãi sông. Trông dáng bộ bọn chúng rất nghênh ngang dữ tợn. Đi giữa bọn
chúng là một thằng tóc dài trùm đầu trông như một mụ đàn bà. Đó chính là Ông
Cụt. Ông Cụt nuôi tóc dài là để che cái tai bị chém đứt. Hắn vừa định đứng hẳn
lên nhìn cho rõ thì thằng Lân vội nhoài đến. Nó vít vai ấn hắn ngồi xuống. Chụp
cái mũ lá rách vành của mình lên đầu hắn thằng Lân khẽ dặn:
- Anh không
được lộ mặt ra nhé!
- Sợ đếch gì
chúng nó chứ?
- Bọn chúng
đông, lại có súng, không đấu lại được đâu!
- Hừm… hừm…
Hắn gầm gừ
trong cổ họng. Thằng Lân ngồi đãi cát sát ngay bên cạnh hắn. Nó có ý canh chừng
đề phòng hắn manh động. Đám côn đồ hùng hổ kéo đến chỗ đám đông đang làm vàng.
Bọn chúng đã đến gần ngay chỗ hắn thì dừng lại. Ông Cụt hỏi đám tay chân:
- Bọn phu
đãi vàng ở khu vực này “nộp thuế” đầy đủ chứ?
- Cũng có
vài thằng kêu không đãi được gì nên không chịu nộp ạ!
Ông Cụt
quát:
- Thế thì
đập cho chúng nó một trận rồi tống cổ mẹ đi nơi khác mà đãi! Thằng nào chống
lại cho nó mất bàn tay cầm máng đãi luôn.
Nghe tiếng
thằng đầu đảng quát tháo thị uy, hắn vội đảo người quay lại nhìn. Qua cái vành
mũ rách hắn giật mình vô cùng sửng sốt khi nhận ra thằng Ông Cụt chính là một
người quen cũ. Nhưng tại sao nó lại làm vua ở đây được nhỉ? Hắn thắc mắc tự
hỏi. Đó chính là cái thằng đại ca “quản lý thị trường” ở nhà giam Trại Chuối
dưới chân núi Tam Đảo dạo trước. Cái thằng đã bị hắn cắt mất một tai trong đêm
đầu tiên hắn vào trại giam để thụ án tù 17 năm liên quan đến ma túy. Hoá ra cái
tai bị cắt ấy lại trở thành chiến tích vang dội của nó trên giang hồ, giúp nó
trở thành một Ông Cụt lừng danh khiến mọi người khiếp đảm, đồng đảng nể phục.
Hắn cố nén để khỏi bật lên cười sằng sặc vì cái thằng “đại ca quản lý thị
trường” thật có tài lừa đảo, bịp lòe bàn dân thiên hạ. Hắn chỉ muốn đứng bật
ngay dậy mà lên hét thật to cho bọn phu vàng cùng biết rằng: “Chính tao! Đúng chính
là tao đây đã cắt cái tai của cái thằng Ông Cụt này đấy! Ha... ha... ha...”.
Một thằng
trong đám tay chân Ông Cụt chợt kêu lên:
- Cái thằng
đội mũ lá kia mặc cái áo vằn vện rất giống áo của thằng hôm nọ rình mò bị chúng
ta đuổi bắt trượt.
- Đúng
đúng...
Mấy thằng
khác cũng nhất loạt thốt lên như vậy. Ông Cụt trừng mắt bảo với bọn tay chân
đang xúm xít xung quanh:
- Hai đứa
xuống lôi cổ nó lên đây xem là thằng nào!
- Tuân lệnh!
Nghe bọn
chúng nói với nhau, hắn liền buông cái máng gỗ đưa tay với một hòn đá dài dài
như cái dùi cui để sát ngay cạnh chân mình. Liếc mắt nhìn sang bên cạnh, hắn
thấy thằng Lân cũng đang làm như vậy. Hắn biết thằng này vốn là một chiến sĩ
đặc công. Nó đã từng tham gia những trận đánh thọc sâu vào tận sào huyệt của
bọn Pôn-pốt ở vùng rừng núi biên giới Campuchia - Thái lan. Khi gặp tình huống
phải đối mặt với hiểm nguy thì thằng Lân cũng không phải là một tay xoàng.
Thằng Lân
khẽ dặn hắn:
- Anh cứ
bình tĩnh! Nhưng nhớ là ta sẽ vừa đánh lại bọn chúng vừa lùi dần xuống phía
thác nước rồi cùng nhảy xuống vực để thoát thân nhé! Cẩn thận, chúng nó có súng
đấy!
- Mày đừng
có ra mặt! Cứ để một mình tao đối phó với bọn chúng nó thôi.
Hắn dặn lại
thằng Lân. Nhưng hắn cũng hiểu là thằng Lân sẽ không bao giờ bỏ mặc anh em bạn
bè trong những lúc nguy hiểm, cam go.
Hai thằng
côn đồ xăm xăm đi xuống chỗ đám phu vàng đang nhớn nhác. Khi chúng sắp đến chỗ
hắn và thằng Lân thì trên phía đầu sông bỗng có nhiều tiếng ồn ào nhốn nháo.
Lại có cả tiếng súng nổ. Một thằng chắc là đám tay chân của Ông Cụt lao rất
nhanh xuống bãi gào to: “Công… an… đang… đến… đấy…!”. Thằng Ông Cụt liền phẩy
tay ra hiệu rút lui. Cả bọn lập tức hộ tống Ông Cụt chạy lên bờ sông. Bọn chúng
biến mất rất nhanh vào trong đám cây cối rậm rạp bìa rừng. Hai thằng đang hùng
hổ xuống định tóm hắn cũng vội vã quay lại chuồn ngay.
Thằng Lân
chống tay đứng dậy. Cả thân hình nó run rẩy. Nó nói, răng va vào nhau lập cập:
- Về… về…
lán thôi anh!
Nhìn thằng
Lân run cầm cập, mặt mũi tái nhợt đi, hắn thấy trong lòng hơi bực. Hắn hỏi nó
vẻ coi thường:
- Mày sợ hãi
bọn chúng nó đến thế cơ à?
Thằng Đang
vẫn run rẩy như sắp đổ ụp xuống. Nó cố gắng nói, giọng hổn hển như bị hụt hơi
rất khó nghe:
- Không…
không… tự… dưng… em… em… thấy rét… rét… quá…
Chú Cần thấy
thằng Lân như vậy thì vội vứt đồ nghề đãi vàng lao đến đỡ nó. Chú bảo hắn:
- Thằng Lân
bị sốt rét tái phát rồi!
Hắn chợt
hiểu. Hắn cũng vội nhào đến giúp chú Cần đỡ thằng Lân. Thằng Lân không thể đi
được nữa. Người nó run run, hai tay ôm lấy ngực, hai hàm răng va vào nhau côm
cốp. Hắn lập tức ghé lưng cõng thằng Lân lật đật chạy về lán.
Đặt thằng
Lân nằm xuống sạp nứa, hắn bảo chú Cần lấy ngay cái chăn chiên rách đắp cho nó.
Thằng Lân kêu rét quá. Hắn phải lôi cả mấy cái bao tải vẫn dùng để đựng quặng
vàng phủ thêm lên người cho nó. Thằng Lân vẫn cứ rên lên vì rét. Người nó run
bần bật. Không còn cái gì để đắp thêm cho nó nữa. Hắn bảo chú Cần:
- Chú ở lại
đây với nó! Tôi sang bên kia suối tìm mua thêm cho nó một cái chăn và xem có
kiếm được viên thuốc ký ninh nào không!
- Anh đi
nhanh rồi về ngay nhé! Cẩn thận kẻo lại gặp bọn tay chân Ông Cụt đấy!
Hắn đi hồi
lâu. Khi hắn mang về một cái chăn len mỏng và mấy viên thuốc thì thằng Lân đã
mê man chả còn biết gì nữa. Hắn bảo chú Cần mài thuốc ra hoà nước rồi cạy răng
đổ thuốc vào miệng cho nó. Thằng Lân không đỡ nhưng đến gần sáng hôm sau thì nó
hơi tỉnh. Nó khó nhọc cố nói với hắn và chú Cần là hãy bỏ bãi vàng mà về quê
ngay, đừng cố nấn ná ở đây nữa. Chú Cần bảo: “Khi nào mày đỡ thì chúng ta sẽ về
luôn!”. Thằng Lân nghe vậy khẽ lắc đầu rồi nhắm mắt. Từ lúc đó trở đi nó không
tỉnh lại lần nào nữa.
Thằng Lân
nằm ốm li bì hai ngày thì chết. Căn bệnh sốt rét ác tính mà thằng Lân đã mang
về từ chiến trường bất ngờ tái phát quật ngã nó ngay tại bãi vàng nơi chốn rừng
sâu núi thẳm Tây Bắc. Thật là khổ thân nó quá. Nó nằm co quắp trong góc lều của
phu vàng bẩn thỉu trông chả khác gì một kẻ ăn mày đói khát chết ở chợ. Hắn và
chú Cần phải nhờ cánh phu vàng giúp đào hố chôn thằng Lân ở ven rừng. Nơi đã có
mấy nấm mộ phu vàng chôn trước đó không lâu. Những nấm mộ lạnh lẽo không một
dấu chân nhang. Lần ra bờ suối lựa tìm một hòn đá phẳng phiu mà trắng đục hắn
dùng dao ngồi hì hục khắc tên thằng Lân rồi vùi xuống phía cuối nấm mộ của nó
để đánh dấu.
***
Hôm sau, hắn
và chú Cần quyết định về xuôi. Sau cái chết của thằng Lân, hắn cũng chả thiết
gì việc dạy cho thằng Ông Cụt một bài học nữa. Nhất là khi hắn biết thằng Ông
Cụt danh tiếng lẫy lừng trên giang hồ ấy lại chính là cái thằng “đại ca quản lý
thị trường” đã bị hắn cắt cụt một tai ngày trước khi còn cùng ở chung trong tù.
Hắn và chú
Cần lần ra đến cửa rừng. Nhìn thấy họ, hai thằng “lính gác” nghiện ngập mặt mũi
vêu vao đang nằm ở trong một cái lều cạnh lối mòn chạy ra chặn lại hỏi:
- Hai ông
anh đi đâu đấy?
- Về quê làm
ruộng, đếch thèm làm “phu vàng” nữa!
- Thế hả!
Chắc là hai ông anh đã kiếm được bẫm rồi chứ gì? Vậy xin hai ông anh “nộp thuế”
trước khi về quê nhé!
- Khi làm
vàng trong mỏ chúng tôi đã nộp đủ rồi!
Chú Cần nhã
nhặn nói. Một thằng cười hềnh hệch:
- Đấy là
thuế thu khi đào đãi vàng tại bãi. Còn bây giờ là một loại thuế khác cơ!
Hắn sẵng
giọng hỏi:
- Thuế gì?
- Là “thuế
xuất”! Ai muốn ra khỏi rừng đều phải nộp “thuế xuất”, tức là xuất ra khỏi bãi
vàng ấy mà. Mỗi người hai chỉ. Đây là quy định của Ông Cụt!
Vừa nghe
thấy chúng nhắc đến tên Ông Cụt, hắn nổi điên lên ngay:
- Về bảo cái
thằng Ông Cụt nhà chúng mày có ăn cứt của tao thì đến đây. Tao sẽ ỉa ra cho một
bãi thật to, thật vàng tha hồ mà lấy nhé!
Hai thằng
“lính gác” nghe thấy thế biết là gặp phải người không dễ bắt nạt, chúng liền
rút phắt mã tấu và côn gỗ ra. Hắn gạt chú Cần lùi lại phía sau rồi tiến lên
trước. Hai thằng côn đồ múa côn, vung mã tấu xông đến. Chỉ với tay không hắn
lựa thế đối phó lại hai thằng lính gác. Không khó khăn gì hắn đã tước được cái
côn của một thằng. Với cây côn trên tay hắn đánh bật cây mã tấu của thằng kia
chả khó khăn gì. Hai thằng bị mất vũ khí định bỏ chạy nhưng không thể thoát.
Hắn tóm cổ nện cho hai thằng nghiện một trận thừa sống thiếu chết hộc cả máu
mồm, máu mũi ra. Hai thằng phải quỳ mọp xuống đất vái lạy như tế sao xin hắn
tha mạng. Hắn rút phắt cây mã tấu của bọn chúng mà lúc nãy bị hắn đánh văng đi
đang cắm ở gốc cây rồi nói:
- Bây giờ,
tao sẽ cắt của mỗi thằng một cái tai để chúng mày nhớ và chừa cái thói theo đóm
ăn tàn, bắt nạt, ức hiếp phu vàng đi!
Hai thằng
lính gác khiếp sợ quá! Chúng vừa vái lạy vừa cuống quýt lôi từ trong túi ra nào
là tiền, nào là vàng đưa cho hắn để xin tha mạng. Chú Cần cũng vội can ngăn,
xin hắn tha cho bọn chúng.
Hắn ném thanh mã tấu xuống đất và bảo:
- Chúng mày
cất tiền và vàng đi! Thằng tao dù chết đói cũng không thèm lấy thứ tiền và vàng
bẩn thỉu ấy! Hãy về bảo với thằng chủ Ông Cụt của chúng mày là: “Tao, Trần Đại
Lỗi, số tù 5351… từng ở nhà giam Trại Chuối. Tao chính là người đã cắt cái tai
của thằng Ông Cụt ấy vứt cho chó ăn. Chúng mày nhắn bảo với nó là còn lại một
cái tai đấy hãy liệu mà cố giữ lấy, hiểu không!”.
- Vâng…
vâng…
- Cút ngay…
Hai thằng
“lính gác” chuyên làm cái việc thu thuế ở cửa rừng lồm cồm đứng dậy. Trông hai
thằng nghiện thật tội nghiệp. Mặt mũi chúng sưng vêu đầy máu me. Được tha mạng,
chúng líu ríu dìu nhau chạy tháo thân vào trong rừng…
(hết phần 17)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
25.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
ĐỜI HẮN
Phần 18
Mất hơn hai
ngày vừa đi bộ vừa đi nhờ xe chở gỗ của lâm nghiêp hắn và chú Cần mới ra đến ga
Lào Cai. Hai anh em tìm cách trèo lên một toa chuyến tàu hàng chở Apatít về
xuôi để đỡ mất tiền vé đi tàu chợ. Nhưng chuyến tàu chở hàng chỉ về đến ga Yên
Viên.
Hắn và chú
Cần chui rào ra ngoài cổng nhà ga. Chú Cần sẽ tìm cách bắt xe để sang ga Hà Nội
đi tàu hỏa về Hà Nam. Còn hắn thì chưa biết sẽ đi đâu, làm gì. Chú Cần do dự
một lúc rồi bảo:
- Hay là anh
về quê Hà Nam với tôi. Anh có sức khỏe có thể đi làm thuê đóng gạch hoặc vác
đất đào ao, vượt nền nhà! Chắc chả đến nỗi bị đói đâu!
Hắn lắc đầu:
- Thôi chú
cứ về quê đi! Anh em ta chia tay nhau ở đây nhé!
Chú Cần
khoác cái túi lên vai lầm lũi đi ra phía cổng nhà ga. Nhìn bộ dạng chú Cần hắn
sực nhớ ra và gọi vội giật lại. Hắn lục túi tìm mãi trong các túi mới thấy mấy
tờ giấy bạc nhàu nát. Hắn đưa cho chú Cần tờ một trăm đồng dặn:
- Chú về đến
quê thì mua thẻ hương sang nhà thằng Lân thắp vài nén trên bàn thờ của nó giúp
tôi nhé. Chắc là nó đã về đến nhà trước cả anh em mình rồi đấy!
Chú Cần cầm
tờ giấy bạc rồi dụi mắt quay đi.
Trời bắt đầu
nổi cơn giông. Gió lốc cuốn lá khô bay lên loạn xạ khắp sân ga. Cái dáng gầy
yếu của chú Cần liêu xiêu trong gió bụi. Chú Cần đi rồi hắn lững thững vào
trong nhà chờ tàu. Hắn nhớ hôm nào ở chính cái nhà ga này “bè lũ bốn tên” hăm
hở cùng nhau ngược lên rừng tìm vàng mong sẽ đổi đời. Thế mà bây giờ thằng Lân
thì vùi xác nơi rừng sâu núi thẳm. Thằng Bất hiền lành trở thành một tên nghiện
ngập, lưu manh. Chú Cần thì ốm yếu gần như trắng tay lủi thủi về quê. Còn hắn
thì cũng chả khá hơn. Thôi mặc, số kiếp nó là thế. Hắn tự an ủi mình. May mà
hắn còn có sức khoẻ. Có sức khoẻ là còn có cơ làm việc, kiếm tiền và hy vọng
thay đổi cuộc đời. Bây giờ hẵng cứ vào trong nhà ga tìm chỗ nào để ngả lưng cái
đã. Suốt đêm qua nằm trên cái toa tàu chở đất đá chạy ầm ầm không tài nào mà
ngủ được.
Vào nhà chờ,
các ghế đều chật cứng người ngồi. Nhà ga đông khách. Hắn tìm một chỗ ghế trống
ngồi ghé cho đỡ mỏi chân. Khách chờ tàu ồn ào trò chuyện. Ngồi đối diện với hắn
ở băng ghế trước mặt có hai ông dáng vẻ là những cán bộ nhà nước. Họ mặc quần
áo com-lê tuy không sang trọng nhưng sạch sẽ, thẳng nếp. Hai người đang sôi nổi
trao đổi, trò chuyện với nhau. Qua câu chuyện của họ hắn biết họ chờ tàu lên
Vĩnh Phú tham dự một cuộc hội thảo về “đổi mới” cách làm ăn, về “khoán quản,
khoán hộ” trong nông nghiệp. Câu chuyện của họ nghe thật khó hiểu. Họ nói về
những “hạch toán kinh tế”, những “hộp đen”, “khoán hộ, khoán sản phẩm trong
nông nghiệp”. Hắn nghe ù cả tai. Nhưng hắn hiểu lõm bõm là cách làm ăn cũ không
còn phù hợp nữa. Hai ông này chê bai cách quản lý của hợp tác xã nông nghiệp,
phê phán về cung cách làm ăn mà cái thời còn ở quê hắn từng biết. Hắn vô cùng
sửng sốt, nói như hai ông này nếu ở quê hắn thì đi tù là cái chắc. Nhưng tại
sao giữa chốn đông người thế này, lại có cả mấy anh công an, mấy ông phòng thuế,
quản lý thị trường nữa mà chẳng ai phản ứng gì. Có mấy anh bộ đội, một anh công
an còn ngồi sán lại nghe hai ông này nói chuyện. Một ông đạp xích lô ngồi cạnh
hắn chợt hỏi:
- Chú là
người đi kiếm việc làm thuê à?
- Vâng!
- Thế thì
chú nên về quê đi! Về nhận lấy vài sào ruộng mà làm khoán, vượt mức khoán thì
hưởng, đỡ phải làm thuê, làm mướn cho khổ!
- Nhưng
ruộng là của hợp tác xã cơ mà! Ai người ta giao cho mình?
- Chú chả
hiểu gì cả! Bây giờ hợp tác xã giao ruộng cho xã viên rồi! Ai làm năng xuất cao
thì được hưởng!
- Giống địa
chủ ngày xưa “phát canh thu tô” phải không ạ?
- Không hẳn
thế! Đây là khoán quản, hợp tác xã giao ruộng khoán cho nông dân. Nông dân làm
chủ ruộng đất, thoải mái cày cấy, chăm sóc cây lúa, hoa màu…
Hắn nghe
cũng lờ mờ hiểu. Hắn thấy thinh thích. Nhưng hắn cũng không có ý định về quê.
Vì hắn có về thì cũng chả ai giao ruộng đất cho hắn cả. Hắn là thằng tù thì ai
tin chứ. Nhớ lại vẻ mặt của ông phó chủ tịch xã hôm đám tang thằng Đang hắn lại
càng không muốn về làng. Hai ông cán bộ còn nói thêm về “mở cửa”, “hội nhập
kinh tế”. Hắn không hiểu lắm nhưng ông đạp xích lô thì có vẻ hiểu. Ông bảo:
“Nếu chú không về quê thì lên biên giới mà kiếm việc làm. Khi mở cửa biên giới,
tự do thông thương, buôn bán thì thiếu gì việc làm”. Nghĩ đến việc đào giếng và
kiếm củi dạo trước, hắn lại thấy do dự. Hắn ngồi gục đầu vào thành ghế nhưng
không ngủ. Hắn giỏng tai chú ý lắng nghe hết mọi chuyện và bình luận của mọi
người xung quanh. Hai ông cán bộ đã ra ga lên tàu đi Vĩnh Phúc. Mấy người ngồi
trong nhà ga vẫn sôi nổi bàn chuyện “đổi mới”. Một bà nói với anh bộ đội đeo
quân hàm thượng uý:
- Nói chú
đừng giận nhá! Ở làng tôi bọn trẻ con vẫn hát nghêu ngao: “một gạch ba sao
không bằng một sào ruộng khoán” đấy… hí hí hí…
- Đúng thế!-
Anh sĩ quan quân đội nói:- Có lẽ cháu cũng phải xin phục viên về quê làm ruộng
thôi bà ạ! Lính tráng thời bình mà suốt năm đi xa, vợ con nheo nhóc, khổ lắm!
Hắn cảm thấy
hơi bức bối. Mẹ kiếp! Lính tráng đánh nhau bục mặt, sống chết chẳng sợ, đối mặt
hòn tên, mũi đạn mất mạng như chơi thế mà hoà bình đeo quân hàm sĩ quan hẳn hoi
đời sống lại quá khó khăn, vợ con nheo nhóc, lương bổng không bằng một sào lúa
thì ai còn muốn đi bộ đội để nhận cái phần chịu chết, chịu thiệt thòi cơ chứ!
Hắn chợt bùi ngùi nhớ đến thằng Đang, thằng Lân - những thằng lính chiến ấy sao
mà số phận thật hẩm hiu. Chúng nó đã không chết nơi trận mạc mà lại bỏ mạng vì
miếng cơm, manh áo. Hoá ra để tồn tại còn khó khăn hơn là cái chết. Tuy vậy con
người vẫn phải vật lộn bằng mọi cách để tồn tại chứ không phải bó tay chịu
chết. Hắn nhớ cái bận cắt tai thằng “đại ca quản lý thị trường” bị cộng thêm
hai năm tù và chuyển sang một trại cải tạo khác ở Phú Thọ. Tại đây hắn lại bị
bọn “đại bàng” khống chế. Vẫn lại chuyện “tù cũ bắt nạt tù mới”. Bọn chúng đổ
cả phân, nước giải vào mặt hắn, bắt hắn khom lưng làm ghế cho một thằng đầu gấu
ngồi. Hắn nghiến răng chịu nhục. Một hôm bọn tù đi làm trong thung lũng. Hắn ở
bộ phận đào hố trồng cây. Lừa khi thằng đầu gấu đang đứng đái cạnh một gốc cây
không đề phòng, hắn gí luôn cái thuổng vào hai ngón chân của nó ấn thật mạnh.
Hai ngón chân của nó đứt rời. Nó rú lên thật thảm thiết. Hắn cố nén một tiếng
gầm trong cổ họng bảo:
- Mày mà
khai ra tao thì không những hai ngón chứ mười ngón chân, mười ngón tay của mày
cũng không còn một ngón, hiểu không!
Thằng đầu
gấu vẫn kêu nhưng khi quản giáo và bọn tù xô đến thì nó ấp úng nói là sơ ý đâm
xẻng vào chân làm đứt hai ngón. Nó được băng bó, cầm máu và đưa vào trạm y tế
của trại tù tiêm phòng uốn ván. Sau bận ấy, hắn luôn đề phòng. Không thấy thằng
này có hành động gì trả đũa. Hắn cũng đỡ bị bọn tù ức hiếp, đày ải. Nhưng hắn
vẫn luôn phải cảnh giác. May sau đó hắn được chuyển sang buồng giam khác. Từ
chuyện này hắn rút ra một điều rằng “phải ác với cái ác thì mới mong tồn tại
được ở chốn giang hồ”. Hắn chỉ lấy làm tiếc là không giằn mặt được thằng Ông
Cụt ở bãi vàng thêm một lần nữa.
Ông đạp xích
lô lại hỏi:
- Thế chú có
định về quê nhận ruộng khoán không?
- Nhưng tôi
có là xã viên của hợp tác xã đâu mà họ giao ruộng khoán cho!
- Thế à! Vậy
thì nếu chú không muốn về quê làm ruộng thì ngày mai đi theo tôi!
- Theo bác
làm việc gì được, tôi có xích lô đâu mà đi đón khách?
- Theo tôi
xuống chỗ bờ sông Đuống! Ở đấy tôi quen một ông chủ chuyên cung cấp than tổ ong
cho dân trong phố. Ông ấy đang cần gấp mấy nhân công làm than. Tôi sẽ đưa chú
đến giới thiệu với ông ấy. Chú đến đấy mà làm, tuy vất vả nhưng công việc nó ổn
định, tiền công cũng cao. Thời buổi này cứ chịu khó rồi cũng sẽ khá dần lên chú
ạ!
- Thế thì
may quá! Cám ơn bác!
- Cám ơn gì,
cùng bọn dân đen với nhau cả thôi!
Hắn đắn đo
khi quyết định trở thành một thợ đóng than tổ ong. Vì không biết cuộc đời hắn
rồi có sáng sủa hơn những viên than đen sì kia không. Nhưng, biết đâu than thì
đen mà cuộc đời thì lại đỏ.
***
Lão chủ cơ
sở sản xuất than tổ ong trên bờ sông Đuống đồng ý nhận ngay hắn vào làm việc.
Lão này tên là Thủ. Lão có biệt danh mà mọi người thường vẫn thường gọi là “Thủ
đen”. Lão ta dáng người đậm thấp và đen như than, thật tương ứng với nghề
nghiệp của mình. Nghe nói hồi còn trẻ lão này hát rất hay, tính tình lại phong
lưu nên có một cô gái trắng trẻo, xinh đẹp mê như điếu đổ. Cô là con ông hàng
chài vẫn ghé neo thuyền ở bến sông. Cô mê tiếng hát của anh Thủ đến bần thần
tâm trí. Mỗi khi anh Thủ hát bài “Giọt mưa thu” trong lòng trinh nữ cứ nao nao
khó tả. Có bữa ngồi trên thuyền rửa bát mải mê nghe tiếng hát trên bến cô mê
mẩn thả hết cả bát đĩa xuống sông.
Một hôm,
trời sẩm tối khi con thuyền chài vừa neo lại, cô gái đã chuồi người xuống nước
bơi lên bờ đi tìm người hát bài “Giọt mưa thu”. Đêm ấy sau khi nghe bài hát mê
hồn của chàng Trương Chi “người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”íây trên bãi
sông vắng vẻ cô gái hàng chài xinh đẹp đã dâng hiến cho anh Thủ sự trinh trắng
của mình.
Sau đêm ấy,
cái bụng của cô đã kênh vạt áo. Ông thuyền chài tuy rất tức tối nhưng vẫn phải
gả cô con gái xinh đẹp của mình cho thằng đóng than đen nhẻm. Cô gái theo chồng
lên bờ làm than. Họ sống thật hạnh phúc, có với nhau ba mặt con. Nhưng trận bom
năm 1972 ném xuống cầu Đuống đã giết chết vợ lão và đứa con gái út. Lão ở vậy
nuôi hai đứa con. Bằng nghề nặn than, lão nuôi hai con ăn học. Cô con gái lớn
hiện đang học đại học, cậu con trai kế sắp hết cấp ba. Từ khi người ta phát
minh ra loại than tổ ong thì việc làm than đun bếp của lão càng thêm phát
triển, trở nên nổi tiếng. Nhưng khi cơ sở sản xuất than ngày càng ăn nên làm ra
thì lão Thủ mỗi ngày một hom hem, già yếu đi. Nghề làm than vất vả và độc hại.
Lão rất muốn truyền nghề lại cho ai đó kế tục sự nghiệp của mình. Lão cũng đang
nghiên cứu đường lối, chính sách kinh tế mới của nhà nước, nghiền ngẫm nội dung
luật thành lập doanh nghiệp tư nhân. Lão đã nghĩ đến việc phải xúc tiến thành
lập “Công ty TNHH Than tổ ong Sông Đuống” để phát triển sản xuất lớn hơn. Lão
sẽ lên làm giám đốc hẳn hoi. Hiện tại thì cơ sở sản xuất của lão bán than tổ
ong cho nhiều cơ quan, hàng quán, hộ gia đình. Lão Thủ có bộ phận chuyên môn
đóng than và một đội quân phân phối đến tận nơi tiêu thụ, hầu như đến từng bếp
nấu than trong khu vực.
Khi được ông
đạp xích-lô dẫn đến giới thiệu, lão Thủ lập tức nhận ngay hắn vào làm việc.
Nhìn tướng mạo hắn, lão Thủ lờ mờ nhận thấy ở hắn một người sẽ kế tục sự nghiệp
đóng than tổ ong trên bến con sông Đuống này. Tuy vậy, do hắn mới vào nghề, lại
chưa nắm được kỹ thuật đóng than tổ ong nên được giao làm việc ở bộ phận phân
phối sản phẩm. Hắn được cấp một chiếc xe đạp thồ có gia công gắn các phụ kiện
để xếp than tổ ong chở vào trong phố. Hắn cũng được bàn giao cho một bản danh
sách các khách hàng ở khu vực Hàng Đậu, Hòe Nhai cho đến phía bắc Hồ Tây. Ngày
ngày, hắn làm công việc chở than vào phố đến các địa điểm giao hàng. Hắn có sức
khỏe nên đẩy xe chở than nặng đi băng băng. Khi bán hết than quay về hắn đạp xe
vù vù. Buổi tối vì vô gia cư nên hắn được lão chủ cho ngủ lại ngay tại nơi làm
than. Hắn được lão chủ chi thêm cho một ít tiền công hàng đêm trông coi bảo vệ
nhà xưởng sản xuất. Thế là lợi cả đôi đường.
Một hôm,
giao hết xe than, đang chuẩn bị quay về thì có tiếng gọi:
- Này chú!
Vận chuyển cho tôi hai bao hàng này nhé!
Đó là một bà
buôn đứng ở cổng chợ Long Biên. Hắn hỏi lại:
- Chở đi đâu
ạ?
- Sang chợ
Gia Lâm! Mà có phải chú là công nhân của lão “Thủ đen” chuyên than tổ ong
không?
- Đúng ạ!
- Vậy tốt
rồi! Thế thì từ nay buổi chiều sau khi bán hết than chú về qua cổng chợ chở
hàng về Gia Lâm cho tôi nhé!
Bà ta căn
dặn hắn địa chỉ giao hàng. Hắn chuyên chở cho bà hai bao hàng vải và quần áo
may sẵn. Bà ta trả cho hắn mấy chục đồng tiền công. Từ đó hắn có hàng để vận
chuyển cả hai chiều. Lúc đi thì hắn phải gò lưng đẩy xe đi bộ vì than nặng, lúc
về hai bao hàng vải nhẹ tênh hắn đạp xe vùn vụt. Hắn có thêm thu nhập. Nhưng
tính hắn vốn sòng phẳng. Hắn đề nghị được chia phần tiền công cho lão Thủ vì
cái xe đạp là tài sản của lão ta. Lão Thủ xua tay bảo hắn cứ giữ cả lấy số tiền
ấy, khi nào cần thì sửa chữa xe, mua săm lốp mà thay thế.
Những ngày
bán than tổ ong ở Hà Nội giúp hắn hiểu được nhiều điều, biết được nhiều chuyện
ở chốn thị thành. Hóa ra người thành phố không phải là ai cũng sung sướng. Cũng
có những nghịch cảnh, những số phận éo le. Hắn còn nhớ mãi một chuyện. Lần đó
hắn chở than đi qua một ngôi biệt thự khá sang trọng. Ông chủ ngôi biệt thự
chợt nhìn thấy hắn bèn gọi dừng lại. Ông thuê phá dỡ gian nhà cấp bốn ở góc
vườn. Đây là gian nhà ông ta làm cho bà mẹ già ở. Khi bà cụ mất, ông ta liền
cho phá đi, giải phóng mặt bằng làm nơi treo phong lan, bày cây cảnh, kê bộ bàn
ghế bằng đá ngồi thư giãn, ngắm hoa, đọc báo hoặc tiếp khách ngoài trời.
Hắn về báo
cáo lại với lão Thủ. Lão chủ lò than tổ ong bảo mấy ngày nữa tạm dừng đóng than
thủ công để sửa chữa lại nhà xưởng, mua sắm máy đóng than nên cho các công nhân
tạm nghỉ, hắn có thể đi làm ngoài thêm mà kiếm tiền. Hắn đến nhà ông chủ biệt
thự ấy nhận việc phá dỡ căn nhà cấp bốn.
Ông này là
một cán bộ loại bự. Làm quan to nên ông ta đưa mẹ từ quê lên Hà Nội. Bà mẹ già
mắt đã mờ, chân đã chậm, lại vốn dĩ là nông dân tần tảo vất vả cả đời nên khi
về già ốm yếu, bệnh tật. Bà cụ sinh hạ được mỗi ông ta là con duy nhất. Chồng
chết, cụ ở vậy nuôi con. Bà cụ lần hồi xới đất lật cỏ kiếm từng xu, từng hào
cho ông ăn học nên người, trở thành vị quan chức to nhất vùng. Dân làng khi
thấy ông ta đánh chiếc ô tô con bóng lộn về quê đón mẹ ra thủ đô phụng dưỡng
tuổi già, ai cũng trầm trồ khen ngợi ông ta là người có hiếu. Bà hàng xóm sát
vách thì cứ nức nở khen ngợi mãi: “Con thế mới đáng là con chứ! Đúng là đẻ con
khôn mát L... rười rượi, chả bù cho mấy thằng giặc nhà tôi chỉ biết cờ bạc,
trai gái, phá gia chi tử!”.
Ông ta bán
sạch nhà cửa, ruộng vườn rồi đưa mẹ ra đi trong sự thán phục của cả làng.
Lên thành
phố bà cụ vẫn quen lối sống tùy tiện thoải mái như ở quê. Bà cụ nhai trầu bỏm
bẻm suốt ngày. Nước cốt trầu vương vãi cả trên sa-lon và nền phòng khách được
lát bằng gỗ quý khiến vợ ông rất khó chịu. Bà vợ ông càng bực bội mặt nặng, mày
nhẹ mỗi khi ăn cụ thường hay làm cơm rơi vung vãi, đổ cả canh ra bàn. Ông cán
bộ nọ còn lắm phen phát bực với mẹ. Nhiều lần có khách đến chơi hỏi thăm, bà cụ
cứ rỉ rả kể lại mãi chuyện quê, chuyện ngày xửa ngày xưa nuôi con vất vả,
chuyện con biếng học hay chơi bời lêu lổng khiến ông phát ngượng. Có lần ông đã
quát mẹ khi khách vừa mới ra khỏi cửa khiến bà cụ tủi thân cứ sụt sịt mãi. Còn
bà con dâu và thằng cháu đích tôn thì thường xuyên trì triết, cằn nhằn mỗi khi
bà cụ làm đổ nước hay rớt bã trầu ra sàn nhà. Bà cụ buồn lắm. Suốt ngày cụ lầm
lì như cái bóng trong ngôi biệt thự sang trọng. Khi con cháu đi vắng, cụ muốn
mở tivi nghe dân ca cho đỡ buồn. Nhưng con dâu sợ bà làm hỏng tivi nên đã rút
mất phích điện. Giá như còn ở nhà quê, cụ sẽ sang nhà bà bạn hàng xóm cùng nhau
giã trầu hay tuốt rơm nếp để tết chổi. Còn ở đây giữa chốn nhà cao cửa rộng
nhưng cổng khóa, then cài im ỉm cụ thấy mình như người bị giam lỏng.
Bà cụ rất
muốn trở về quê hương, về lại cái làng nhỏ nghèo khó mà cụ đã sống gần hết cuộc
đời mình. Đắn đo mãi một lần cụ mới sẽ sàng bảo con trai và con dâu: “Hay là vợ
chồng anh cho mẹ về quê! Ở đây mẹ thấy không hợp!”. Ông con trai gạt phắt đi:
“Mẹ về quê thì biết sẽ ở đâu! Nhà thì đã bán mất rồi!”. Còn bà con dâu nói mát:
“Sướng lại chả muốn!”. Thằng cháu đích tôn thì lấc cấc dài giọng ca cải lương:
“Cụ bô ơi! Cụ mà về quê thì nào biết lấy ai sớm khuya nâng giấc, chăm sóc,
phụng dưỡng lúc tuổi già… à…à…!”.
Mặc dù từ
ngày đón mẹ ra ở cùng bao nhiêu phiền nhiễu nhưng con trai, con dâu chẳng bao
giờ muốn cho mẹ trở về quê. Không phải vì đã trót bán mất ngôi nhà của tổ tiên
để lại. Chỉ cần bỏ ra vài ba chục triệu là họ thừa sức mua một miếng đất ở quê
và làm cho mẹ căn nhà khác. Nhưng họ chẳng còn mặt mũi nào. Đã được tíếng là
hiếu thuận thì phải giữ chứ. Với lại còn uy tín của ông, của bà trước cơ quan
nữa. Thời buổi này cái ghế của ông không ít kẻ nhòm ngó, sơ sảy một tý dễ sụt
giảm uy tín là hỏng ngay. Hơn nữa để bà cụ ở Hà Nội cũng có thêm một nguồn thu
đáng kể. Ấy là mỗi khi tổ chức mừng thọ cho cụ, dịp tết nhất và nhất là những
khi cụ trái gió trở trời ốm đau (mà bà cụ thì lại rất hay ốm đau), anh em trong
cơ quan, những người được ông bà nâng đỡ sẽ phải đến chúc mừng, thăm hỏi và đều
có quà cáp. Quà thì đâu chỉ có cân đường, hộp sữa, nải chuối hay chục trứng gà
như ở quê mà là phong bì dày cộp bên trong để toàn tiền loại mệnh giá lớn hoặc
đô-la. Những món quà này thực ra chả phải là để dành cho người ốm!
Tuy vậy, để
mẹ ở nhà trên cũng nhiều khi phiền phức, ông bàn với vợ làm một gian nhà cấp
bốn ra chỗ góc vườn đưa bà cụ xuống đấy ở. Bà vợ ông sốt sắng đồng ý ngay. Thế
là bà cụ chỉ còn được lên nhà trên mỗi khi mừng thọ hoặc ngày tết và lúc nào
đau ốm để mọi người trong cơ quan của con trai, con dâu đến chúc mừng, hoặc
thăm hỏi. Những người đến thăm hỏi, chúc mừng bà cụ chẳng qua chỉ là cái cớ.
Đây là một dịp thuận lợi để họ đến cống nộp.
Vào một đêm mưa
gió trong ngôi nhà cấp bốn ẩm thấp nơi góc vườn bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng
sau nhiều ngày ốm nặng lay lắt mãi. Cũng ngay trong đêm, thi hài cụ đã được di
chuyển đến quàn trong phòng lạnh của một nhà tang lễ lớn nhất thành phố. Tại
đây, chọn ngày đẹp, lễ tang của cụ được tổ chức thật trọng thể. Có rất nhiều
đoàn xếp hàng chờ đến lượt vào phúng viếng. Người làng trong đoàn đại biểu của
địa phương lên tham dự lễ tang ai cũng sửng sốt, nể phục. Vòng hoa nhiều vô kể,
không thể đếm nổi. Tuy nhiên, chẳng có tiếng trống, tiếng kèn “ò í e” như ở
quê. Cũng không có các vị sư sãi, các vãi già đến tụng kinh, chèo đò để người
chết được siêu thoát, được sang cõi Tây Thiên cực lạc với Đức phật Thích ca mầu
ni. Quan tài cụ được xe tang đưa thẳng ra đài hóa thân hoàn vũ hiện đại nhất
nước. Qua màn hình tivi người làng nín thở hồi họp chứng kiến cảnh chiếc quan
tài rất đẹp của cụ từ từ chui vào trong lò thiêu xác như chui vào miệng một con
quái vật gớm ghiếc. Nhân viên nhà hỏa thiêu ấn nhẹ công tắc điện một cái, lửa bùng
cháy đùng đùng. Thế là thành mây khói. Chút tro cốt còn lại của cụ được cho vào
chiếc lọ bé xíu đặt trên một cái hốc tường ở nghĩa trang. Vậy là xong xuôi.
Chuyện này chắc là khi còn sống bà cụ đã từng được nghe người ta kể lại. Cụ sợ
lắm. Cụ chỉ muốn được trở về quê, nếu có chết thì về với ông bà ông vải, gặp
lại mấy bà bạn thân cùng tuổi với mình đã ra đi trước đó. Nhưng điều mong ước
cuối đời ấy của bà cụ đã không thành. Sau đám tang, ông con trai nghĩ ngay đến
số tiền phúng viếng, nhẩm tính sơ sơ cũng đủ mua một cái xe ô tô mới tương đối
xịn. Và, việc ông phải làm đầu tiên là cho phá ngay căn nhà cấp bốn góc vườn.
Khi biết rõ
về “sự tích” của căn nhà cấp bốn góc vườn trong khuôn viên ngôi biệt thự, hắn
cảm thấy bùi ngùi, thương cảm cho bà cụ vừa mới qua đời.
***
Hắn bắt đầu
phá dỡ dần căn nhà cấp bốn. Hắn cố chừa lại một góc để ở tạm mấy hôm. Buổi tối
hắn mới có thể thu dọn đống vôi vữa, gạch vụn cho vào bao tải rồi dùng xe đạp
thồ chở ra đổ trộm ngoài bờ đê. Ban ngày mà chuyên chở những thứ này thì sẽ bị
công an tóm ngay, với lại muốn đổ trộm những thứ phế thải ra bất cứ chỗ nào
cũng đều phải đợi khi đêm đến. Ông chủ nhà dặn hắn làm ăn phải cẩn thận kẻo ảnh
hưởng đến ông ta. Hắn vâng vâng dạ dạ để ông ta yên tâm.
Sau khi phá
nốt cái góc căn nhà cấp bốn, nơi mấy đêm vừa rồi vẫn ngả lưng sau những chuyến
chở phế thải đi đổ trộm ngoài bờ đê, hắn rụt rè lên phòng khách ngôi căn biệt
thự gặp ông chủ.
Nhìn nền nhà lát gạch hoa và gỗ hương bóng
loáng hắn ngại ngần không dám bước vào. Ông cán bộ chủ nhà hất hàm hỏi:
- Đã xong
xuôi cả rồi chứ?
- Chỉ còn
một xe đất thải cuối cùng, tối nay tôi sẽ chở ra rồi đi luôn!
- Vậy là
thanh toán tiền công hả?
- Vâng!
Nhưng tôi cũng có việc xin báo cáo lại với bác.
Hắn vừa nói
vừa móc trong túi quần ra một gói ni-lông nhỏ được chằng buộc bằng những cái
dây chun rất kỹ đưa cho ông chủ nhà. Ông ta vội rụt ngay tay lại trừng mắt hỏi:
- Cái gì
đây?
- Những thứ
này tôi đã tìm thấy nó khi phá dỡ nốt chỗ góc nhà lúc chiều. Chắc là của bà cụ nhà
ta cất giấu. Là… tiền và vàng ạ!
- Vàng…
hả...?
Ông ta gần
như giật phắt cái gói từ tay hắn, nhanh như một con chim cắt chộp mồi. Chẳng nề
hà cái gói ni-lông đầy bụi bẩn và dính bết nước cốt trầu đen xỉn, ông lập cập
mở ra. Trong gói có một đôi hoa tai, một cái nhẫn vàng và một cuộn tiền. Toàn
là tiền lẻ, độ vài trăm nghìn đồng. Nhưng lại có hai tờ loại một trăm đô-la
cuốn ở bên ngoài. Đây chắc là những tờ tiền của người nào đó đưa “mừng tuổi” bà
cụ từ hôm tết mà ông con không biết để thu hồi.
Ông ta hất
hàm hỏi hắn:
- Chỉ có thế
này thôi à?
- Vâng…
- Có đúng
như thế không? Hay là…
Câu hỏi của
ông cán bộ làm hắn tái mặt đi vì thấy mình bị xúc phạm ghê gớm. Hắn khinh bỉ
nhìn ông chủ nhà. Hắn đã quá thật thà đem trả lại toàn bộ số tài sản tìm thấy
thế mà không được một lời cảm ơn lại còn bị nghi ngờ. Hắn quay mặt bỏ đi nhưng
ông cán bộ gọi giật lại:
- Thằng kia
đứng lại! Tại sao mày không trả lời câu hỏi của tao hả?
Nghe tiếng
ồn ào ngoài phòng khách bà vợ ông chủ nhà và thằng con đang ở phòng phía sau
cùng chạy ra. Biết rõ mọi chuyện bà ta chu chéo:
- Ối giời ơi
là giời! Chết tôi rồi! Cho ăn sung, mặc sướng, đầy đủ thế mà bà ấy còn lén lút
cất giấu bao nhiêu là tiền vàng thế này!
Chỉ tay vào
mặt hắn, bà ta nghiến răng kèn kẹt:
- Cái thằng
kia! Mày còn giấu giếm cái gì không hả... Mày đã chở bao nhiêu chuyến đi rồi
hả?
Chỉ tay vào
mặt ông chồng, bà ta rên rỉ:
- Sao ông sơ
ý, mất cảnh giác thế… Mấy đêm vừa rồi nó đã đem những cái gì ra ngoài ông có
biết không? Ông phải gọi ngay công an đến khám xét, tra hỏi thằng này cho tôi!
- Bà im đi!
Gọi công an có mà... - Ông cán bộ cáu kỉnh.
Thằng con
thì cầm cái nhẫn vàng của bà nội giơ lên lật đi, lật lại xem xét. Rồi nó gật
gật đầu nói nhỏ với bố: “Bố cứ để thằng này cho con xử lý!”.
***
Lẽ ngay sau
khi bị ông cán bộ nghi ngờ xúc phạm hắn đã rời khỏi ngôi biệt thự ngay tức
khắc. Nhưng vì chưa được thanh toán tiền công nên hắn còn chần trừ chưa đi. Lúc
hắn đang đang chuẩn bị ăn cơm thì thằng con ông chủ dẫn theo một thằng nữa mặt
mũi vẻ hung hãn ra chỗ góc vườn. Hai thằng đạp đổ nồi canh đầu cá của hắn đang
nấu. Thằng con ông chủ túm áo, dí dao vào cổ hắn. Giọng nó sực mùi rượu:
- Mày… giấu…
tiền… vàng… của… nhà… tao… ở… đâu…?
Hắn coi
thường nhìn hai thằng côn đồ. Chỉ cần một cái vung tay thì hai thằng oắt con
này sặc gạch, chết không kịp ngáp. Song không thèm chấp lũ vô lương, hắn giằn
giọng bảo:
- Có bao
nhiêu tao đã đưa cả cho ông chủ rồi!
Thằng con
ông chủ nhà gầm gừ:
- Vẫn còn! Muốn
sống khôn hồn thì hãy nôn ra ngay!
- Đã
đưa hết rồi!
- Hết...
rồi... à...?
Mũi dao
trong tay thằng con ông chủ nhích thêm một tý. Máu từ cổ hắn ứa ra rơi thành
giọt xuống ngực áo. Đã thế thì tao sẽ cho chúng mày hiểu thế nào là lễ độ! Bằng
một động tác quét chân và động tay của hắn hai thằng côn đồ đã văng ra xa mấy
mét. Chúng lồm cồm bò dậy vung dao lên tiếp tục xông vào. Mẹ kiếp! Bọn khốn này
muốn chết thật rồi. Hắn chợt nhớ lại chuyện hai “lính gác” bữa trước ở bãi vàng
cũng cầm côn và mã tấu lao vào hắn như thế này. Hai thằng oắt con khốn kiếp này
chắc cũng phải nện cho một trận lên bờ xuống ruộng giống như hai tên “lính gác”
bãi vàng hôm nào đây. Hai bàn tay gân guốc của hắn vo lại thành hai nắm đấm.
Giữa lúc ấy
thì ông cán bộ xuất hiện. Ông ta vội vã ngăn thằng con lại. Thực ra ông ta đã
theo dõi vụ việc “xin tý tiết” của thằng con ngay từ đầu. Thấy tình hình có vẻ
không ổn, ông ta vội lên tiếng:
- Thôi,
chúng mày để cho nó biến đi!
Hắn ném ánh
mắt nhìn khinh miệt vào cái bản mặt phì phị của ông cán bộ nọ. Hắn nhổ toẹt một
bãi nước bọt xuống đất. Hất trả lại mấy bao vôi vữa phế thải, hắn dắt chiếc xe
đạp thồ ra khỏi ngôi biệt thự sang trọng.
(hết phần 18)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại- ngày 21/08/2015
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày
27.8.2013
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét