Tâm sự giữa thanh thiên bạch nhật của Thần Siêu - Nguyễn Anh Tuấn
Thứ Năm, 6 tháng 8, 2015
Thứ
bảy - 29/09/2012 12:58
1. Lần
theo vài trang sách đặc biệt: Tôi đã nhiều lần- lúc một mình, lúc với bạn, lúc
với con- vào thăm Đền Ngọc Sơn...Nhưng quả thực chưa lần nào tôi tự đặt ra hoặc
phải day dứt với những câu hỏi, đại loại: Đền Ngọc Sơn với các kiến trúc như
Tháp Bút, Cầu Thê Húc, Lầu Được Trăng, Đình Trấn Ba có liên quan gì với nhau,
vì sao chúng được tạo ra ở trên đời; rồi nhiều biểu tượng trong quần thể kiến
trúc này mang ý nghĩa gì, việc giải nghĩa chúng cùng những câu chữ nơi đây đúng
hay sai?... Cho đến khi, tôi tình cờ được gặp nhà bảo tàng học Phạm Đức Huân-
do quan hệ công việc...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn
Anh Tuấn
Bút
danh khác Nguyễn
Yên Thế
Địa
chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT:
0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
TÂM SỰ
GIỮA THANH THIÊN BẠCH NHẬT CỦA THẦN SIÊU
1. Lần theo vài trang sách đặc biệt:
Tôi đã nhiều lần- lúc một
mình, lúc với bạn, lúc với con- vào thăm Đền Ngọc Sơn...Nhưng quả thực chưa lần
nào tôi tự đặt ra hoặc phải day dứt với những câu hỏi, đại loại: Đền Ngọc Sơn
với các kiến trúc như Tháp Bút, Cầu Thê Húc, Lầu Được Trăng, Đình Trấn Ba có
liên quan gì với nhau, vì sao chúng được tạo ra ở trên đời; rồi nhiều biểu
tượng trong quần thể kiến trúc này mang ý nghĩa gì, việc giải nghĩa chúng cùng
những câu chữ nơi đây đúng hay sai?... Cho đến khi, tôi tình cờ được gặp nhà
bảo tàng học Phạm Đức Huân- do quan hệ công việc...
Một sáng đầu thu, tôi cùng
ông Huân tới quần thể kiến trúc đặc biệt này. Dáng ông đi chậm chạp vụng về như
gấu. Trí nhớ của ông cũng đã giảm nhiều. Nhưng niềm háo hức say mê khám phá vẫn
sáng rực trên khuôn mặt hồn hậu của nhà nghiên cứu lịch sử. Ngón tay thô ráp của
ông sờ bên từng chữ câu đối, văn bia, đôi mắt ông nheo lại vẻ kính cẩn trước sự
bí ẩn thiêng liêng, sự nhắn gửi của tâm hồn người đã tạo ra chúng nằm đằng sau
những Hán tự, những hình hài được chạm khắc hay đắp nổi...Cùng với nhiều nhà
nghiên cứu đã dày công khảo cứu từng câu từng chữ, từng biểu tượng trong quần
thể di tích nhằm làm sáng tỏ những giá trị văn hoá- lịch sử do cụ Phương Đình
sáng tạo, một công trình từng được người đương thời ca ngợi: "Nhất đại
Phương Đình bút/ Thiên thu Kiếm thủy biên" (Bút Phương Đình một thuở/ Ngàn
năm bên Kiếm Hồ), ông Phạm Đức Huân cũng dành nhiều năm tháng để phát hiện ra
được cấu trúc “Cuốn sách mở giữa trời” (gồm 32 trang sách mở) của cụ Siêu- với
cấu trúc và lối đề chữ theo một thứ tự đặc biệt lý thú.
Nhưng trước tiên, chúng ta
hãy nhìn một cách tổng thể toàn bộ khu Di tích.
Đứng trên bờ hồ từ xa có
thể nhìn thấy một hòn đảo mang tên Ngọc Sơn- tức Núi Ngọc. Trước kia, đảo này
được gọi là đảo Tượng Nhĩ (tai voi). Khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long,
đặt tên đảo là Ngọc Tượng; đến đời Trần, đảo được đổi là Ngọc Sơn. Từ đời Lê,
trên đảo đã có võ miếu thờ Quan Công. Theo các nhà nghiên cứu, một lão nho hiệu
Tín Trai cho sửa đền thành chùa, xây một gác chuông. Rồi tới năm 1841, Hội
Hướng thiện sửa chùa, xây thêm nơi thờ Văn Xương thần, và chùa trở thành Đền
Ngọc Sơn...Điều này lý giải vì sao đền Ngọc Sơn từng được gọi là chùa ( Rủ nhau
thăm cảnh Kiếm Hồ/ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn - ca dao)
Và chúng ta hãy thử quay
về với hồ Hoàn Kiếm vào đầu những năm 70 của thế kỷ 19- khi thực dân Pháp đã
đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ, Đất Nước đang trong tình thế nguy cấp,
triều chính phong kiến rối ren…Đó cũng là lúc, cụ Nguyễn Văn Siêu đứng ra vận
động cải tác công trình liên hoàn "Đền Ngọc Sơn - Cầu Thê Húc - Tháp Bút -
Đài Nghiên"- như đã nói, vốn ban đầu chỉ là một võ miếu, được đổi thành
chùa, rồi thành đền nằm gọn trên hòn đảo Ngọc Sơn- để chúng trở thành một biểu
tượng văn hoá của kẻ sĩ Bắc Hà... Sau bốn năm ròng cải tác, và qua vài lần tu
bổ nữa, quần thể này đã có được quy mô, diện mạo như ngày hôm nay.
Qua nội dung các bài văn
bia còn trong khu di tích, chúng ta được biết: cụ Siêu và quan án sát Hà Nội
Đặng Huy Tá đã cho xây lại cây cầu cũ- đặt tên là Thê Húc Kiều, xây thêm Tháp
Bút, Đài Nghiên, Lầu Được Trăng, Đình Trấn Ba, đề chữ soạn bia, và đặc biệt cho
đặt thêm hai Ban thờ mới- biến Đền Ngọc Sơn vốn chỉ thờ các vị thánh Á Đông
thành nơi thờ cả các Tôn thần sông núi Việt Nam và Đức thánh Trần. Khi đó, toàn
bộ quần thể kiến trúc này đã in đậm dấu ấn dân tộc, và có một dáng vẻ khác
biệt, chứa đựng một nội dung sâu xa- mà ở đó, các bộ phận kiến trúc hài hoà với
thiên nhiên, có hồn văn chương hoà quyện với huyền thoại và lịch sử, chứa đựng
một kho tàng văn học giàu giá trị triết lý và mỹ cảm.
Theo gợi ý của nhà
nghiên cứu Phạm Đức Huân, chúng ta hãy thử đọc vài trang quan trọng trong “Cuốn
sách mở giữa trời” gồm 32 trang đó của cụ Phương Đình…
Bước vào quần thể kiến
trúc, ở Nghi môn, chúng ta được đón chào bởi hai chữ Phúc - Lộc, tương tự như ở
các đình chùa, nhưng ở đây Phúc Lộc còn có một ý nghĩa riêng. Những câu đối đề
hai trụ lớn và hai trụ bên của cổng đền, cùng hai dòng đại tự của cụ Siêu có ý
nhắn rằng: những ai có tầm nhìn rộng, hướng tới đỉnh cao- "lâm thủy đăng
sơn"; những ai biết tìm về cội nguồn học tập người xưa- "tầm nguyên
phỏng cổ"; những ai lòng dạ sáng trong như ngọc- "Ngọc ư tư";
những ai có công với đời cao như núi cho người đời ngưỡng vọng- "Sơn,
ngưỡng chỉ"; những ai biết gây dựng cho đời- "lập nhân"; những
ai cứu đời - "độ thế", thì tất nhiên sẽ có Phúc - Lộc!
Hai vế đối ở hai mặt trụ
quay vào cổng chính giới thiệu những nội dung mới của công trình
kiến trúc sau khi cải tác.
Rồi chúng ta tới ngay chân
Tháp Bút. Ba chữ Tả Thanh Thiên trên tháp có nhiều ý kiến khác nhau giải thích,
tranh luận từ nhiều năm nay, như: viết thơ lên trời xanh, viết lên trời xanh,
đánh nhà Mãn Thanh, giãi bày tấm lòng với trời xanh, đặt câu hỏi với trời xanh,
v.v. Gần đây nhất, ông Phạm Đức Huân giải nghĩa là: viết giữa thanh thiên bạch
nhật, nói ra sự thật giữa ban ngày… Ẩn ý thực của cụ Siêu thế nào, chúng ta còn
chờ đợi sự giải mã của nhiều nhà nghiên cứu nữa!
Miếu Sơn thần thờ núi Độc
Tôn- biểu trưng cho võ công mà trên đó, Tháp Bút được dựng lên.
Bài chí viết trên mặt tháp
nêu rõ ý tưởng của những người thiết kế là: cần coi trọng cả văn lẫn võ: Núi là
biểu tượng của chiến công mà tháp là biểu tượng của văn vật- hiểu rộng ra, có
nghĩa là văn hoá của một quốc gia.
Bảng Rồng- Bảng Hổ được cụ
Siêu dựng lên cùng các câu đối, đại tự có ý nhắc nhở: kẻ làm quan không nên cậy
quyền thế, và phải học tập, phải qua thi cử nghiêm ngặt để có thể làm trụ cột
quốc gia; không thể lợi dụng câu chữ để che lấp mọi gian dối tội lỗi- hơn thế
phải theo đạo văn chương vì Đất Nước, có vậy mới là người lương thiện và xứng
được ghi danh ở Bảng Rồng Bảng Hổ....
Mặt trước Đài Nghiên có vế
câu đối quan trọng: Kình thiên bút thế thạch phong cao- (tức thế bút chống trời
cao như ngọn núi đá)- tương ứng với tinh thần Tháp Bút xây phía ngoài, đó là
cái khí phách độc lập, tự chủ của người trí thức Bắc Hà! Mặt sau Đài Nghiên có
đại tự Ngọc Sơn Từ, có nghĩa đền thờ Ngọc và Núi - đền thờ sự trong sáng và sự
cao đẹp.
Nhưng đặc sắc nhất của
phần Nghiễn Đài là ở trên đỉnh Đài Nghiên - ở đó có một nghiên đá (vốn dùng để
pha mực tàu viết chữ Nho) hình nửa quả đào đặt trên ba con cóc được khắc nguyên
tảng, liền khối với bệ gạch. Ba con cóc cùng há miệng như đang cùng kể, cùng
nói điều gì hân hoan sau những ngày ngậm miệng…
Bài minh khắc chữ Hán trên
mặt nghiên đá cho ta thấy hình ảnh một loại người không góc cạnh, không tròn
trịa, không ở cao cũng không ở thấp, nhìn đời rộng rãi, hướng tới tầm cao, ứng
với bậc “bề trên” mà nhả lời rành rọt nhẹ nhàng… Ông Phạm Đức Huân dịch nghĩa
theo thể minh khắc: “Xưa kia/Khoét đất làm nghiên/Chú kinh Đạo Đức/Đẽo đá làm
nghiên/Viết sách Xuân Thu/Hòn đá cái nghiên/Không hẳn hình gì/Không vuông không
tròn/Khéo chứa được việc/Không cao không dưới/Ở vào chính giữa/Cúi nhìn Hoàn
Kiếm/Ngửa trông ngọn bút/Ứng với “bậc trên” nhả lời rõ ràng/Ngậm nguyên khí cọ
với hư không - Gã Phương Đình đề bài minh/Thọ tháp viết chữ” (Tháp Bút - Đài
Nghiên - Đình Trấn Ba - Lời nhắn của người xưa. NXB Văn hóa - Thông tin 2006).
Đặt nghiên đá trên đỉnh
Đài Nghiên, cụ Siêu đã dẫn dắt người vãn cảnh rời khỏi mặt đất đi lên, đứng ở
sàn đài thông thoáng mà nói với mọi người rằng, phải nể trọng và bảo vệ loại
người không vuông không tròn này để họ làm được nhiều việc có ích cho đất nước.
Như vậy, cách đây gần 150 năm (quần thể này được cải tác vào năm 1865), cụ Siêu
đã tha thiết kêu gọi: Cần biết sử dụng trí tuệ tài năng của kẻ sĩ (đứng đầu
trong sĩ - nông - công - thương)!
Song, số phận của Đài
Nghiên thực chẳng dễ chịu gì: bài minh sau một thời gian hình thành đã bị đục
bỏ đúng 5 chữ “Thượng thai nhi thổ vân vật” - nghĩa là: ứng với “bậc bề trên”.
Những kẻ thóc mách nịnh bợ cho rằng: những chữ đó phơi ra giữa trời là xấc xược
với bề trên, nên tìm cách đục bỏ đi… Điều này càng cho thấy rõ: Cụ Siêu đã phải
sống qua những ngày cam go, sóng gió trước và sau khi treo ấn từ quan ở Huế về
quê dạy học, không thể nói thẳng ý mình - giống như ở rất nhiều chữ trong toàn
thể cụm di tích khiến người ngày nay đang phải suy luận, tranh cãi… Cũng may,
bài minh còn được ghi lại cả trên cuốn thư ở cổng Nghiễn Đài nên nhà nghiên cứu
mới biết rõ chữ gì đã bị đục bỏ! Có người kể lại câu chuyện: viên án sát Hà Nội
đã cho đục 5 chữ trên để lấy lòng triều đình trung ương lúc bấy giờ đương ở
Huế. Nhà ông ta ở huyện Thọ Xương - Hà Nội (chỗ phố Hàng Khay ngày nay), vốn là
gia đình thi thư. Chưa có bằng chứng cụ thể để khẳng định “thủ phạm” chính là
ông án sát này. Nhưng nếu như không phải do người có quyền lực cao nhất của địa
phương - lại là ở cố đô Thăng Long - sai bảo, thì ai dám làm cái việc kinh
thiên động địa ấy, giữa thanh thiên bạch nhật? Khi biết chuyện đục chữ, những
người gia đình họ Vũ đã họp lại, phê phán viên án sát đã không nối tiếp được
gia phong, không tôn trọng văn chữ của một bậc thầy được người đời tôn xưng là
“Thần”. Viên án sát nhận lỗi, hối hận. Mấy ngày sau, dân Hà Thành nghe tin viên
quan ấy nhảy xuống giếng nhà tự tử vì hổ thẹn…
Đi qua cổng Nghiễn Đài,
hai chữ Ác - Thiện ở hai bên nhắc: cái ác ở ngay trước mặt mọi người, nhưng bên
cái Ác bao giờ cũng là cái Thiện!
Cầu Thê Húc dẫn vào Đền
Ngọc Sơn. Bốn mặt Thành cầu đều khắc chữ Thê Húc Kiều- có nghĩa ánh sáng ban
mai đậu vào thành cầu. Có người còn giải nghĩa: cầu dựa vào ánh sáng ban mai...
Ban mai biểu trưng cho sức sống mới. Cầu đưa tới lầu có ba chữ Đắc Nguyệt Lâu-
Lầu Được Trăng cùng các câu đối trước lầu này ca ngợi cảnh đẹp Ngọc Sơn, và
nhắc rằng: gặp khó khăn, nếu biết nhìn xa, biết dựa vào sức trẻ thì mọi khốn
khó rồi sẽ thông, có thể làm được những gì mình mong muốn- như được trăng vậy,
và sẽ đi tới nơi thanh bình.
Hai câu đối chữ Hán rung
động lòng người ở mặt trước Lầu Được Trăng đã miêu tả Cầu Thê Húc: Lối dẫn cầu
vồng đậu bờ đảo/ bóng lầu ôm trăng giữa hồ sâu…
Ánh trăng và ánh nắng ban
mai ấy chính là tấm lòng trong sạch cao khiết của cụ Siêu và sĩ phu Bắc Hà trước
bao nhiễu nhương biến động của thời cuộc.
Đình Trấn Ba được dựng mới
trong Đền Ngọc Sơn nhắc nhở phải trấn chặn làn sóng văn hoá không lành mạnh
tràn vào Thăng Long (điều này được ghi rõ ở trên bia đặt giữa đình, nay chỉ còn
thác bản ở bảo tàng). Văn bia do cụ Phương Đình soạn còn có đoạn gợị ý người
vãn cảnh Ngọc Sơn như sau: Nhìn ngắm quy mô hình thế Tháp bút, đài nghiên, đình
Trấn ba, xem văn chữ tất nảy sinh ý tưởng, sẽ thấy thật khác những gì người đời
đã làm...
Mặt sau đình Trấn Ba, hai
câu đối có nội dung: Đất nước đang có giặc, đền đài, sông núi đều nhắc bảo phải
phải đánh giặc giữ nước.
Mặt trước Đình Trấn Ba cho
biết: đất nước có truyền thống võ rạng, văn vững như núi.
Hai vế đối ở hai trụ nhà
Tiền Bái cho ta hay: những người hiểu biết đều chủ trương Cố đô Thăng Long phải
là Kinh đô Đất Nước…(Cần nói rõ thêm: lúc cụ Siêu cho cải tác khu Đền, Kinh đô
nước ta đang ở Huế.)
Trong Đền Ngọc Sơn, sau
khi vái hai Ban thờ Tôn thần Sông Núi và Đức thánh Trần ở hậu cung, quay ra chúng
ta gặp: Trung - Nghĩa, mà với những gì cụ Siêu đã gửi gắm qua bao dòng chữ, hai
đại tự Trung Nghĩa nơi đây mang một dung sâu rộng hơn nhiều so với lý thuyết
Nho giáo được truyền giảng trong nhiều thế kỷ…
Trên đường quay ra, ta gặp
Đình Kính Chữ nhắc nhở: Thăng Long là nơi trọng chữ nghĩa.
Và
được đọc hai câu đối mặt sau Lầu Được Trăng ca ngợi cảnh trí Ngọc Sơn thanh
bình, người lành dữ đều có thể lui tới...
Trên Cầu Thê Húc, ta nhìn
thấy mặt sau Đài Nghiên với đại tự Ngọc Sơn Từ, có nghĩa Đền thờ Ngọc và Núi,
đền thờ sự Trong sáng và Cao đẹp. Các đại tự và câu đối ở đây gửi gắm: hình ảnh
Tháp Bút, Đài Nghiên, Đình Trấn Ba lay động người xuất chúng, lay động cả người
ở ẩn. Bàn việc ở đời nên giữ lòng trung hậu, và viết văn thì đừng nói lời khinh
bạc....Là núi phải cao; Là nước phải trong... Khi quay ra, ở bên tay phải, ta
gặp ngay chữ Thiện, rồi sau đó là chữ Lộc. Một sự bố trí thật khéo léo và tinh
tế!
Hàng trăm câu chữ trong cụm Di tích đã hé mở cho ta thấy tâm tư nguyện
vọng của cụ Siêu: Người trí thức chân chính giác ngộ cái sứ mệnh dùng văn hoá
và tâm hồn cao khiết của mình để làm trụ cột cho tinh thần dân tộc! Khát vọng
và nguyện đó thực đáng quý trọng biết bao!
Tháp Bút, Đài Nghiên, Đình
Trấn Ba, Ban thờ Tôn thần Sông Núi cùng hàng trăm câu đối, dòng văn đã cho
chúng ta những bằng chứng hùng hồn về ngôn ngữ cùng lối ứng xử tinh tế của
người Thăng Long, về văn hoá Thăng Long được kết tinh và toả sáng dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào…Nhiều thế hệ khách hành hương đã và sẽ tới ngưỡng vọng ngọn
Tháp Bút sừng sững bên hồ Hoàn Kiếm cùng những biểu tượng kỳ lạ trong quần thể
kiến trúc này- một công trình văn hoá đặc sắc vào loại bậc nhất của Thăng Long
- Hà Nội ngàn năm tuổi, một công trình kiến trúc không nguy nga vĩ đại nhưng
hài hoà tuyệt diệu với cảnh vật, để có dịp lắng sâu vào trí tuệ, tâm hồn của
một nhân cách lớn- thầy giáo Nguyễn Văn Siêu, để bồi bổ cho tâm hồn mình từ một
mạch nguồn tinh thần cao khiết…
2. Tìm về cội nguồn:
Tại làng Lủ, Đại Kim, quận
Hoàng Mai, quê hương của “Thần Siêu”, chúng tôi vào thắp hương cho cụ ở từ
đường họ Nguyễn (hiện do đạo diễn điện ảnh Tự Huy- cháu bốn đời của cụ cai
quản), được đọc gia phả (do chính cụ Siêu viết). Và có điều kiện để hiểu thêm:
Cụ không chỉ là một tài năng văn chương mà vua Tự Đức phải so sánh “Văn như
Siêu, Quát vô tiền Hán”, không chỉ là một khí phách nhà nho cao khiết vốn là
đặc thù của phần đông chí sĩ Bắc Hà... Thất vọng với chính sự, buồn phiền bởi
nhân tình thế thái và sự suy đồi của đạo lý, sau khi việc dâng biểu xin triều
đình hỗ trợ cho dân ven sông Hồng bảo vệ đê lại thành chuyện “phạm thượng”, cụ
Siêu đã từ quan về quê dựng trường dạy học (ở phố Nguyễn Siêu bây giờ). Cụ ấp ủ
khát vọng đào tạo nên một thế hệ mới, truyền cho họ mơ ước, cái chí hướng mà cụ
chưa thực hiện được trong đời. Việc xây tháp Bút, đài nghiên, đình Trấn Ba cũng
là để bộc lộ cái chí hướng này…
Tại khu lăng mộ cụ, chúng
tôi được đọc “Bia thần đạo ở lăng tiên sinh Phương Đình thụy chí đạo” do Tiến
sĩ Nguyễn Trọng Hợp - học trò và cháu của cụ soạn, có đoạn :”Đến khi tuổi cao,
danh vọng càng dày; tiên sinh dạy lớp hậu học, tuy sắc mặt hiền hậu, lời nói
dịu dàng, nhưng người được tiếp vẫn thấy mình như được lên cửa rồng... Học trò
của tiên sinh nhiều người có thành tựu…”. Mặc dù sống trong thời buổi cam go
ngặt nghèo, gặp oan trái, cụ vẫn giữ trọn niềm tin yêu và sự ân cần. “Cuốn sách
mở giữa trời” của cụ mãi mãi ẩn hiện một nỗi đau, hơn thế -một lòng tin…
Ông Tự Huy đọc cho chúng
tôi nghe một bài thơ chữ Hán của cụ Siêu do ông “đặt” lại từ bản dịch nghĩa.
Bài thơ cho thấy cả chiều sâu tâm hồn thăm thẳm của một nhà văn hóa lớn và thêm
thấm thía những tâm sự của cụ gửi gắm ở tháp Bút, đình Trấn Ba, cầu Thê Húc,
lầu Được Trăng, đình Kính Chữ… và đặc biệt là ở đài Nghiên:
Việc đời nát ruột bầm gan
Chí chưa nỡ bỏ mấy trang sách nhàu
Trời xanh đội đến bạc đầu
Chân lùa cát bụi chẳng màu bùn nhơ
Gọi quan, gọi lão cũng ờ
Đường dài còn tấm thân giờ ta đi…
3. Người đau đáu với "Cuốn sách mở giữa trời."
Tại nhà riêng của ông Phạm
Đức Huân- vốn là cán bộ của Vụ Bảo tồn bảo tàng trong suốt 40 năm- trong một
căn hộ tập thể cũ kỹ 15 mét vuông, đập ngay vào mắt tôi là hai bức ảnh phóng
lớn Tháp Bút và Nghi Môn ( cổng chào), xung quanh chúng treo đầy các thác
bản của văn bia, bài minh, câu đối trong quần thể kiến trúc. Ông Huân hồ hởi
bày ra nền nhà mô hình trọn vẹn của cái công trình liên hoàn mà ông đã dành gần
hết cả cuộc đời cho nó- đó là những thành phần kiến trúc được làm bằng bìa cứng
tô vẽ tỉ mỉ, với một tỷ lệ chính xác, đặt trên tờ giấy croqui trắng tô màu hồ
Hoàn Kiếm. Ông đặt lần lượt theo thứ tự: Nghi Môn, Tháp Bút, Bảng Rồng-Bảng Hổ,
Đài Nghiên, Cầu Thê Húc, Lầu Được Trăng, Nhà Trai, Nhà Khách, Đình Trấn Ba, Nhà
Tiền Bái, Tường Hoa, Đình Kính Chữ, v.v. Cả đời cần cù lao động thanh bạch của
một nhà bảo tàng học, ông Huân chỉ cho ra đời một cuốn sách duy nhất: Tháp Bút-
Đài Nghiên- Đình Trấn Ba- Lời nhắn của người xưa... Lật xem qua những chồng hồ
sơ ngồn ngộn để làm nên bản thảo cuốn sách, tôi càng nghiệm thấy kỳ công
lao động của ông cùng tình yêu, lòng ngưỡng vọng của ông đối với công trình cải
tác của cụ Nguyễn Văn Siêu gần 150 năm về trước.
Trong cuốn sách của mình,
ông Huân khảng khái chỉ ra sai sót của không ít nhà nghiên cứu trong việc giải
nghĩa nhiều câu chữ và biểu tượng trong quần thể kiến trúc này- có những sai
sót đựơc lặp lại từ công trình này sang công trình khác, lây lan từ người nọ
sang người kia- trong đó có những người là giáo sư, tiến sĩ, nhà Hà Nội học...
(Ví dụ tiêu biểu nhất là việc dịch nghĩa bài minh trên Nghiễn Đài; ông Huân đã
đem 4 bản dịch chưa chuẩn ra khảo sát, đặc biệt vạch ra 9 lỗi sai của ông
Nguyễn Vinh Phúc mà nhiều lần in sách đều lặp lại chúng khiến sự thâm trầm uẩn
súc của cụ Siêu trở thành rối rắm, tù mù, thậm chí là vô nghĩa!) Ông bực bội
khi thấy tấm biển dịch nghĩa ở Ban thờ Tôn thần Sông Núi bản địa lại thành Sơn
thần thổ địa mà ông từng đề xuất sửa sai nhiều lần nhưng vẫn y nguyên! Ông cho
in lại bức ảnh chụp ở một cuốn sách ảnh công phu về Hà Nội (một người đàn bà
đứng khấn vái trước Miếu Sơn thần với lời chú thích: Lễ ở Tháp Bút cầu cho con
cháu học hành tấn tới) và phê phán như sau: khấn vái cầu xin thần cho con cháu
học hành tiến bộ đâu có phải là nét văn hóa của người Hà Nội! Hơn nữa, Miếu Sơn
Thần bên chân Tháp Bút không phải là nơi thờ tự, cụ Siêu dựng Miếu Sơn thần với
một dụng ý hoàn toàn khác! Còn rất nhiều khiếm khuyết, sai sót được ông Huân
liệt kê ra, chân tình và thẳng thắn đề nghị các tác giả của chúng xem xét lại,
cùng tranh luận với ông, bởi vì theo ông những khiếm khuyết đó đã làm nhòe giá
trị văn hóa của người xưa để lại. Ông Huân đề xuất 15 kiến nghị cụ thể đối với
những người có trách nhiệm- trong đó có việc giải tỏa các bức tường ngăn cách
để tạo một không gian thông thoáng cho du khách có thể ngắm nghía suy ngẫm nhận
biết khu Di tích một cách thận lợi; phiên âm và giải nghĩa chính xác tất cả
những câu chữ Hán tại đây; bứt nhổ tục thờ Văn Xương đế quân (thần ban công
danh phúc lộc) mà chính cụ Siêu đã nêu ra, đã khắc vào bia đá đặt ngay trước
đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương đế quân! v.v. Dĩ nhiên, không phải ý kiến nào của
ông cũng đều chuẩn xác cả, và ngầm ý của cụ Siêu thế nào, còn phải qua rất
nhiều tìm hiểu tranh luận nữa (ví dụ ý kiến của ông Huân giải nghĩa Tả thanh
thiên là: Viết giữa thanh thiên bạch nhật- chứ không phải viết lên trời xanh,
v.v). Nhưng lao động và tâm huyết của ông Huân nhằm trả lại sáng tạo đích thực
cho cụ Siêu, nhằm làm sáng tỏ những hàm ý sâu xa mà cụ Siêu nhắn bảo cho đời
sau... thật đáng quý, đáng trân trọng. Sách do ông chủ yếu bỏ tiền ra in, nhưng
vì không biết cách tiêu thụ, giới thiệu, lại "đụng chạm" đến khá
nhiều người, nên một công trình nghiên cứu nghiêm túc hơn 400 trang in với hàng
trăm ảnh chụp, thác bản, sơ đồ... đang nằm im lìm trong nhà ông tới 6-700 cuốn
suốt 6 năm nay!
Và không hiểu những giá
trị đích thực của quần thể kiến trúc Tháp Bút- Đền Ngọc Sơn cùng biết bao ẩn ý
thâm trầm của cụ Phương Đình gửi gắm trong đó còn phải chịu đựng thêm nỗi đau
của sự hiểu lầm, xuyên tạc, lãng quên...trong bao lâu nữa? Nhưng ít ra, trong
lúc này, tôi nghĩ chúng ta cần phải kính phục một nhà nghiên cứu lương thiện
đầy tâm huyết và tinh thần trách nhiệm: ông Phạm Đức Huân...
(Đạo diễn Điện ảnh)
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại lần 2-
ngày 06.8.2015
Cập
nhật lại lần 1- ngày 29/09/2012
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 21.02.2011
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét