Trang cảm nhận tác phẩm Nguyễn Anh Tuấn (2)
Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015
Thử mở một cánh cửa vào thế giới thơ NNguyên Bảy* - Bài Nguyễn Anh Tuấn
Thứ ba - 14/08/2012 20:12
Thời gian vừa qua, những bài thơ của NNB tựa một sự tổng kết, chiêm nghiệm những gì đã trải qua trên đường đời- như chùm thơ về Mẹ, và mới đây nhất là về Tình nghĩa trăm năm gói trong chùm "Lời chim câu". Quen biết anh từ khi tôi còn ở tuổi thanh xuân, thuộc không ít thơ anh qua nhiều giai đoạn, song cứ mỗi lần tiếp nhận một bài thơ mới của anh, tôi đều thấy ngỡ ngàng bởi sự say mê không mệt mỏi của anh trong việc khám phá thế giới bản thân mình bằng thơ ca. Nhưng dường như, ...
Thời gian vừa qua, những bài thơ của NNB tựa một sự tổng kết, chiêm nghiệm những gì đã trải qua trên đường đời- như chùm thơ về Mẹ, và mới đây nhất là về Tình nghĩa trăm năm gói trong chùm "Lời chim câu". Quen biết anh từ khi tôi còn ở tuổi thanh xuân, thuộc không ít thơ anh qua nhiều giai đoạn, song cứ mỗi lần tiếp nhận một bài thơ mới của anh, tôi đều thấy ngỡ ngàng bởi sự say mê không mệt mỏi của anh trong việc khám phá thế giới bản thân mình bằng thơ ca. Nhưng dường như, ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
THỬ MỞ MỘT CÁNH CỬA VÀO THẾ GIỚI THƠ NGUYỄN NGUYÊN BẢY
THỬ MỞ MỘT CÁNH CỬA VÀO THẾ GIỚI THƠ NGUYỄN NGUYÊN BẢY
Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh:
Nơi ấy, các cô gái đều là tiên nữ
Áo quần mớ bẩy, mớ ba
Yêu nhau bắc cầu giải yếm
...Nơi ấy các bà tiên dạy tối biết khóc
Các bà tiên dạy tôi biết cười
... Nơi ấy là kinh thành cổ tích
Nơi ấy là đời tôi…
Và trong một bài viết ở trang mạng Nguyennguyenbay.com, chúng ta đọc được những dòng sau:
"Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió."
Nhưng, những dòng tự bạch bằng thơ đầy thi vị lẫn văn xuôi trần trụi trên chỉ giúp ta có thêm mối đồng cảm ban đầu khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta mở thêm một cánh cửa để dễ dàng bước vào thế giới thơ anh! (Xin được dùng lại khái niệm "Thế giới thơ" mà GS Hoàng Như Mai đã viết về thơ NNB).
1.
Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca... Song cuốn kinh ấy lại tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm; và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế của mình, để rồi từ đó, "Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc phải vào nhà thương Thường Tín. Thơ đã ra đời như một thách đố tôi, một tự tôn tôi, một khẳng định tôi, một kiêu hãnh tôi đối nghịch với mời gọi của cơm áo và danh giá..."- như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một lý do và một phương thức chính để tồn tại...
Nhưng trong khi "tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình, lầm lũi yêu thơ", NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và "tụng" thành thơ sau khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Thơ NNB làm ta liên tưởng tới hệ thống sân khấu của Bertolt Brecht- các diễn viên ra sàn diễn cho người xem biết mình sẽ đóng vai gì trong vở, sẽ trình bày vấn đề gì (trái ngược với hẳn hệ thống sân khấu của Stanilavski ngay từ đầu đã cuốn người xem vào ảo giác, đồng nhất diễn viên và nhân vật); điều này chẳng xa lạ với nguyên lý mỹ học của sân khấu dân gian VN (như chèo) mà một trong những cốt lõi của nó là cách điệu hóa và xa lạ hóa- "Ta ra đây có phải xưng danh không nhỉ?"... Sau khi đã tạm thời "hóa thân" vào nàng Kiều và các nhân vật của Truyện Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái, vào Kinh thành Cổ tích, vào Thánh Thơ,... nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ- bằng cách đó mở rộng đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức cho bản thân sau đó là cho người đọc. Sau khi đã "khách quan hóa" nhân vật trong tưởng tượng, NNB làm công việc khảo sát, đánh giá về thân phận, phẩm cách... của nhân vật đó và đồng thời cũng tự bộc lộ thân phận cùng phẩm cách của chính người thơ. Thường là, từ một nguyên cớ, một biểu tượng giàu sức thuyết phục hay đã từng quen thuộc trong đời sống lịch sử- văn hóa dân tộc, sau khi đã làm giàu có thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn hóa thẳm sâu và thăng hoa nó bằng xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào sâu mãi vào chính nội tâm đang ngổn ngang (thậm chí có thể còn đang hoang mang nữa) của mình như đã tìm được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những chỗ này, khi "Anh bật khóc thành tiếng/ Nước mắt tràn đê", thơ anh thường lóe sáng một cách thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất... NNB thường đem cả trải nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu thơ một! Và phải chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ NNB trở nên vô cùng phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như lạc vào mê hồn trận của chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng vẫn được tác giả kéo riêng ra một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái... (Tiêu biểu như các bài Từ Thức bơ vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)
Nhưng ngay cả khi viết về (hay viết cho) một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng sử dụng biện pháp tạm gọi là "phân thân" này. Trong bài "Hai ngôi sao không lặn bao giờ", đoạn đầu nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: "Anh không nhận ra em/ Một năm có là bao xa cách/ Em ủ đầu anh vào ngực/ Anh không thể nào hỏi được/ Sao tiều tụy thế mình ơi?" Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế, để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên "đường đời nhiều cạm bẫy": "Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt chạm chạp u buồn/ Một nốt ruồi đẫm lệ/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu em/ Đôi mắt khép nhận lời/ Chỉ còn đôi mắt của vợ tôi/ Toàn thân em như cây thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt kể tôi nghe/ Lưng ngày nắng quật/ Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương chồng/ Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/ Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu." Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu, trực tiếp tâm tình với vợ ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự "phân thân" cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: "Anh ôm đôi mắt ấy/ Bỗng òa đôi mắt khóc/ Tình rụa ràn mặt anh/ Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là hai ngôi sao trên trời/ Đêm đêm nhìn anh/ Thức với anh/ Đi cùng anh/ Hai ngôi sao không lặn bao giờ." Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB (tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi sẽ đưa ngay bài này vào chương trình văn học bậc phổ thông trung học!
Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự (narrative) và trữ tình (lyric) hòa quyện khó phân biệt- trong tự sự đã thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự- đó là một thứ tự sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư thâm trầm của một" thầy phù thủy" chữ nghĩa.("Có đường bởi có bước chân/ Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau" - "Xin đừng hỏi anh vì sao/ Viết hoài chuyện tình hai đứa/ Anh còn gì khác tặng em" - "Em đã trả lại anh cho đời/ Đã trả lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/ Cái chết bỗng trở thành hèn nhát" - v.v. )
2.
Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình, NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua "Gằm gằm nỗi gì sau đít chai" cộng với một tình thương trĩu nặng thường trực thì "ngựa lá đa sẽ hóa ngựa thần"... Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền này khiến người thơ thỏa sức chìm trong "Ký ức ca dao", trong "lung linh cổ tích đêm mơ" và biết bao biểu tượng của văn hóa dân tộc gần gũi với mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất, hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng "rợp từng đàn cò trắng" hay "âm âm lời Chinh phụ lời Kiều" ... Nhà thơ đi trên "một con thuyền Trương Chi "suốt từ thời tráng niên cho tới ngày lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng hát cô đơn xa xót của chính mình... Lắng sâu vào cuộc đời dân tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của dân tộc- bằng phương tiện khi là lục bát, lục bát biến thể, khi bằng thơ không vần, thơ văn xuôi- nhà thơ bằng cách đó làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ các con thông qua những "Bài ru trằn trọc" về những lẽ đời nghiêm trang cảm động- và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! Tôi bỗng nhớ đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở một tác phẩm lớn của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi hào Virgile: "Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những người đau khổ". (1) NNB bơi lội hít thở trong cái "trường" văn hóa dân tộc đậm đà tình nhân ái của ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi "lần đầu tiên thấy lòng tôi chiêng trống", mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời "vẫn là mới sáng hôm qua"... Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh ấy, vay mượn những biểu tượng và sự thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh!... Lắng nghe một cách chăm chú chật vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức, những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối... Sự thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh (mà nếu là các nhà phê bình chuyên nghiệp sẽ đưa ra lý luận về thi pháp để soi rọi, phân tích, còn một kẻ tay ngang như tôi thì không dám lạm bàn.)
3.
Tạm kết.
Trong một tập sách đối thoại về thơ rất thú vị mới đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: "Khó mà có thể tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ." (2) "Những điều chỉ tìm thấy trong thơ" đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã thành thật đến não lòng kể lại: "Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái bàn chí đứng ba chân (một chân đã mọt gãy), với một gía sách, trong căn nhà lá 8 mét vuông, lợp giấy dầu, cạnh chuồng tiêu, ao bèo, bè bạn với côn trùng và muỗi đói..." Và đây nữa:"Những dòng thủng thẳng này được viết ra trong đói nghèo không thể tả bằng ngôn ngữ và trong những khủng hoảng tinh thân triền miên, vô lý. Nhưng lòng vẫn cố không rời phao thơ để nâng xác, cứu hồn... nếu như bạn biết tôi đã phải sống trong hoàn cảnh nào, về thân xác tôi bị đói rét hành hạ, về tình thần tôi bị ruồng bỏ và canh gác sát sao. Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy, những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn, như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng rạng trong tâm hồn..."
Thưa Bạn đã và sẽ yêu quý thơ NNB, hãy thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu (hay thêm một lần nữa) bước vào thế giới thơ NNB, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này...
Hà Nội, đêm Nguyên tiêu - Tân Mão
(Đạo diễn điện ảnh)
---
* Thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Nxb văn học, HN, 2010
1. "Émile hay là về giáo dục"- Nxb Tri thức, HN, 2008
2. Dẫn theo: "Thơ đến từ đâu", Nxb Lao động, HN, 2009
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 19.02.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Chim Hòa Bình bay qua thời gian và những nỗi đau.
(Đọc bài thơ "Lời chim câu" của Nguyễn Nguyên Bảy)
Thời gian vừa qua, những bài thơ của NNB tựa một sự tổng kết, chiêm nghiệm những gì đã trải qua trên đường đời- như chùm thơ về Mẹ, và mới đây nhất là về Tình nghĩa trăm năm gói trong chùm "Lời chim câu". Quen biết anh từ khi tôi còn ở tuổi thanh xuân, thuộc không ít thơ anh qua nhiều giai đoạn, song cứ mỗi lần tiếp nhận một bài thơ mới của anh, tôi đều thấy ngỡ ngàng bởi sự say mê không mệt mỏi của anh trong việc khám phá thế giới bản thân mình bằng thơ ca. Nhưng dường như, đối với người thi sĩ có phần lạ lùng bí hiểm này, Nghệ thuật chữ nghĩa càng ngày càng trở nên chỉ là thứ phương tiện sau rốt. Anh tối giản câu chữ bóng bẩy, phép tu từ, mỗi câu thơ chỉ giống như lời nói thô mộc hàng ngày, hoặc chắc nịch như tục ngữ, ngọt sắc như ca dao, thậm chí đưa cả lời chú thích nặng thông tin vào cấu trúc thơ, thế nhưng, hiệu quả thơ thực bất ngờ khiến người đọc không thể chỉ đọc một lần câu thơ, khổ thơ, bài thơ ấy, kích thích họ bằng chính trải nghiệm của mình để khám phá thêm ý nghĩa và sự lý thú của chúng... Đằng sau những câu thơ, hình tượng thơ đó là toàn bộ cuộc sống đầy trăn trở ngẫm ngợi, chất chứa niềm thương yêu của người viết, và chứa đựng một nội hàm văn hóa sâu xa. "Lời chim câu" là một trong những bài thơ như thế.
Lời Chim Câu
1. Tiếng Gù Bồ Câu Trống
Câu một
Chúng tôi chỉ là đôi bồ câu
Không biết véo von chỉ biết gù
Chim vợ gù giọng thủy
Chim chồng gù giọng thổ
Bài thơ này tôi đề gửi Lý Phương Liên
Tuy thế, tôi không chỉ lan man về vợ
Chúng tôi lan man thủy thổ về loài bồ câu
Câu hai (nhấn mạnh)
Thủy thổ âm dương tương khắc
Vợ chồng như đất và nước
Khắc này là khắc tương sinh
Câu ba
Vợ tôi dòng họ Lý
Chữ Phương Liên hàm hai bờ nghĩa
Phương của sen và hương của sen
Một bông sen gái
Câu bốn
Thực vật có hoa đực hoa cái
Bồ câu có trống có mái
Người có đàn ông đàn bà
(Ghi chú 1)
Chữ đàn ở đây thơ dịch nghĩa cây đàn
Chim trống gù đàn ba dây
Chím mái gù đàn sáu khúc
(Ghi chú 2)
Đàn ba dây là Càn tam lien
Đàn sáu khúc là Khôn lục đoạn
Câu năm
Trong rừng câu răn dạy làm người
Tôi chọn tu thân chỉ một câu thôi
Văn mình vợ người
(Ghi chú 3)
Một câu cửa miệng dân gian
Câu sáu
Con xin Mẹ làm vô loài xướng ca
Thương thay bồ câu không biết hót!
Tôi lạc giữa vườn chữ nghĩa ba hoa
Nơi vạn vật thăng ca đều thành giống cái
Câu bảy
Cứ thấy mái là bồ câu gù
Thăng ca ngũ cung bảy nốt
Thơ tán gái nào cũng mùi Sở Khanh
Câu tám (nhắc lại 1)
Vợ chồng như đất và nước
Khắc này là khắc tương sinh
Muốn không Sở Khanh thì tu một chữ tình
Câu chín
Trong tiếng gù bồ câu không có lời than thở
Công danh là chuyện mưa rào
Mưa rào bồ câu không xuống sân nhặt thóc
Đói khổ là chuyện ngập lụt
Bồ câu biết lưới cá câu tôm
Trong tiếng gù bồ câu chỉ có lời tình
(Nhắc lại 2)
Vợ chồng như đất và nước
Khắc này là khắc tương sinh
Anh nguyện yêu em trọn một đời tình
2. Tiếng Gù Bồ Câu Mái
Câu một
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Giữa thời bom rơi đạn nổ
Mà anh muốn cưới tình
Cưới tình thời chiến tranh phải thề không được chết
Trống mái không con nào được chết
Trước khi tình đầu bạc răng long
Câu hai
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Anh chấp nhận đời râu tôm ruột bí
Chuyện cơm áo có đáng gì kể nhỉ?
(Ghi chú 1)
Râu tôm nấu với ruột bầu
Chống chan vợ húp gật đầu khen ngon
Câu ba
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Em vắt câu thuận vợ thuận chồng
Hứng một chữ theo
(Ghi chú 2)
Thuận vợ thuận chống bể đông tát cạn
Câu bốn
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Theo anh em không là dây leo
Lưng anh xin tựa vào vú núi
Vú núi biết sinh trai sinh gái
Sữa lớn một đời cây
Câu năm
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Dẫu đời bảo xướng ca vô loài anh cứ nhận
Đã sao đã sao
Với em anh chót vót thanh cao
Trống mái gù lời xướng họa
Câu sáu
Này bồ câu trống em gọi là chồng
(Nhắc lại 1)
Trong rừng câu răn dạy làm người
Anh chọn tu thân chỉ một câu thôi
Văn mình vợ người
Trống ơi xin nghe mái nói
Ngày ngày em tâm thành hương hoa
Cầu cho tình tu thân đắc trung đắc chính
Đắc câu văn người vợ mình
Câu bảy
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Đứng nhắc tới quà của cụ Nguyễn Du
Hai chữ Sở Khanh đủ làm em điên đấy
(Ghi chú 3)
Thơ Quà Tặng Của Nguyễn Du
Trang 289, sách thơ Nguyễn Nguyên Bảy
Nhà Văn Học ấn hành 10/2010
Điên em lửa cháy
Em không thèm tiếc vàng mà thiêu rụi công yêu
(Ghi chú 4)
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng
Câu tám
Này bồ câu trống em gọi là chồng
(Nhắc lại)
Cưới tình thời chiến tranh phải thề không được chết
Trống mái không con nào được chết
Trước khi tình đầu bạc răng long
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Đôi mình đã bay qua bom đạn
Vẹn nguyên về bến thanh bình
Bồ câu gù trong veo trời xanh
Câu chín
Này bồ câu trống em gọi là chồng
Xin dâng tặng tình trọn một chữ yêu
3. Bất Ngờ Picatxô
Câu một
Này bồ câu mái em có thấy một bất ngờ kỳ lạ
Picatxô không chọn long chọn phụng
Không chọn công chọn hạc
Không chọn họa mi vàng anh
Mà chọn bồ câu dịch âm dương thủy thổ
Họa chim thái bình
Câu hai
Này bố câu trống em gọi là chồng
Chuyện ấy nào có gì lạ khác
Picatxô yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Vẽ nên tranh
Ban mai yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Duỗi nằm êm ả mặt sông
Gió sớm yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Lượn ôm hoa lúa hoa chanh
Vì lẽ ấy đôi mình cửa tổ
Phì nhiêu khoan nhặt gù tình…
Sài Gòn Tháng 5/ 2011
Tình nghĩa vợ chồng được hình tượng hóa bằng cuộc đối thoại giữa đôi chim câu Trống- Mái. Nếu như ở "Tiếng gù bồ câu trống", triết lý Á Đông về Âm Dương ngũ Hành được nêu bật tựa những ngọn núi chân lý để soi rọi làm sáng tỏ sự tồn tại (cùng ý nghĩa và đòi hỏi) của đạo nghĩa vợ chồng truyền thống, thì ở "Tiếng gù bồ câu mái" lại tràn ngập cảm xúc dân gian như nguồn suối mát rượi về tình nghĩa trăm năm. Thực ra, hàng ngàn năm qua, sự tồn tại đã vận hành như vậy trong đời sống, nhà thơ chỉ là người thu gom khái quát lại bằng hình thức cô đọng và bay bổng:
Vợ chồng như đất và nước
Có điều, ở đây tác giả "cá biệt" hóa cuộc sống lứa đôi của mình với muôn vàn lứa đôi khác bằng hình tượng:
Chúng tôi chỉ là đôi bồ câu
Không biết véo von chỉ biết gù
Rồi nhà thơ lại thêm một lần cầu đến sự chứng giám của Mẹ khi nói về Tình yêu và Sự nghiệp cả đời mình, bởi với anh, Mẹ chính là hiện thân của các bà tiên "Dạy tôi ghép chữ thành vần/ Dạy tôi làm chồng làm vợ" (Nơi ấy-Thơ NNB I):
Con xin Mẹ làm vô loài xướng ca
Thương thay bồ câu không biết hót!
Tôi lạc giữa vườn chữ nghĩa ba hoa
Nơi vạn vật thăng ca đều thành giống cái
Cái mà anh gọi vui là "vô loài xướng ca", "chữ nghĩa ba hoa" đó thực ra lại được khí thiêng sông núi (hạo khí anh linh) của người Việt tự ngàn xưa thuộc Mẹ Đất (hậu thổ, Địa Tiên) hay Mẹ Nước (Rồng) làm cơ sở, vì vậy nó hết sức thiêng liêng:
Với em anh chót vót thanh cao
Trống mái gù lời xướng họa
Nhưng đâu chỉ là "lời xướng họa"! "Tiếng gù bồ câu" đó còn trở thành một sứ mệnh cả đời người, nó có sức lôi kéo kỳ diệu, có khả năng đặc biệt uốn nắn tư cách lẫn quan niệm sống, tạo ra sức mạnh tinh thần phi thường để vượt qua mọi "Sông Mê bến Lú", để có một nhân cách ngạo nghễ coi thường mọi hư danh trong cõi đời này (mà "công danh" chỉ là một trong đó):
Trong tiếng gù bồ câu không có lời than thở
Công danh là chuyện mưa rào
Mưa rào bồ câu không xuống sân nhặt thóc
Tiếng chim gù, hay còn là tiếng hát Trương Chi mà "Ai đi qua cũng rớt mái chèo" (Sông Tương), là "Kèn lá đa cha thổi vang trời" (Bái tình), là "giao duyên lời thề non nước" (Cầu gió); và cao hơn cả, là đó là tiếng nói được truyền từ "Thánh thơ" mà "Hồn Quát nôn thốc tháo ươn hèn" để ném ra "Những vần thơ máu ứa/ Những vần thơ rợp lửa". Cũng chính vì thế, nhà thơ hiểu thấm thía những giá trị của đạo nghĩa được diễn đạt một cách giản dị và "cổ điển" qua lời người bạn đời:
Trống ơi xin nghe mái nói
Ngày ngày em tâm thành hương hoa
Cầu cho tình tu thân đắc trung đắc chính
Đắc câu văn người vợ mình
Với một nhà thơ không biết "hót" những lời vớ vẩn kệch cỡm, không biết "véo von" những điều đáng xấu hổ, dù cho "Giấc mơ thơ nát bấy như bùn" (Quả mặt trời), nhưng khi đã xác định: "Thơ và anh chưa thể chết lúc này" (Tự sự I) thì không có "công danh" nào lớn lao hơn, đáng trọng hơn cái điều mà nhà thơ khẳng định nhiều lần chỉ trong một bài thơ- đó là Tình yêu, là khát vọng Tình yêu cần được bảo vệ trong cuộc sống thanh bình- cái thanh bình từng phải đổi bằng mồ hôi, nước mắt, cả sinh mạng:
Trong tiếng gù bồ câu chỉ có lời tình
... Xin dâng tặng tình trọn một chữ yêu
... Anh nguyện yêu em trọn một đời tình
... Đôi mình đã bay qua bom đạn
Vẹn nguyên về bến thanh bình
Bồ câu gù trong veo trời xanh
Vì thế, khi nhà thơ viết đoạn "Bất ngờ Picatxô" thì chúng ta không hề thấy bất ngờ. Ngắm nhìn con chim bồ câu xơ xác bay về phía trước của danh họa Tây Ban Nha, nhà thơ có cảm tưởng chân thật và "ấm áp" quá chừng:
Picatxô yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Vẽ nên tranh
Con chim bồ câu đáng yêu đang dữ dội bay đó như tìm thấy sự đồng cảm của biết bao con người và bao xứ sở đang khao khát sự sống thanh bình, và nhà thơ như "vẽ" tiếp cái khát khao ấy bằng phương pháp của hội họa, của điện ảnh qua ngôn ngữ thơ ca:
Ban mai yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Duỗi nằm êm ả mặt sông
Gió sớm yêu tiếng gù của bồ câu ấm áp
Lượn ôm hoa lúa hoa chanh
Vì lẽ ấy đôi mình cửa tổ
Phì nhiêu khoan nhặt gù tình…
Bốn mươi năm trước, sau những trận ném bom B52 của Mỹ, tôi cũng từng được ngắm bức tranh "Chim hòa bình" của Picatxô trong một cuốn tạp chí nước ngoài, và có làm bài thơ về con chim này, giờ đây xin được liều đem nó ra để họa cùng bài thơ "Lời chim câu"- cũng là một cách để bạn đọc (trong đó có tôi) cảm thụ thêm, hiểu thêm về bài thơ của anh NNB mà tôi không thể diễn đạt hết sự sâu sắc và lý thú của nó. (Mở ngoặc nói thêm: sau những trận bom đó, tôi đã chia tay với gia đình anh chị NNB-Lý Phương Liên suốt bốn mươi năm sau mới gặp lại!)
Về Một Cánh Chim Dễ Bị Đánh Lừa
Bên tranh Chim Hoà Bình của P.Picasso
Trước mặt anh
Là con chim bồ câu thực sự
Của một Con Người
Trước mặt anh
Là cánh chim bồ câu xơ xác
Đang dữ dội bay về phía trước
Trong nỗi đau và nghị lực phi thường
Anh không thể viết cho em những dòng liên tục
Thành phố buổi trưa báo động mấy lần
Cả một lũ điên cuồng, hầm hực!
Và khi bom bắt đầu nổ rung hầm
Anh lại thấy:
Một cánh chim âm thầm
Bay về phía trước…
Anh viết cho em trong nhoáng nhoàng ánh chớp
Bên cánh chim chưa một phút ngừng bay
Bên một em bé mồ côi anh bế trên tay
Moi được từ căn hầm đã sập
Anh không thể bình tâm
Khi có kẻ khóc vì chim bồ câu họ nuôi bị chó cắn
Nhưng lại lim dim mắt khi xem ảnh trẻ con Việt Nam bị cháy thiêu trong lửa napan
Ta làm sao mà dửng dưng cho được
Khi thấy một cánh chim rơi trong sức ép của bom
Tên chim là Hoà Bình!
Em ơi em, đứa trẻ nào không biết
Thích thú, vui cười bên một con chim giấy gập!
Những em gái vuốt ve chim bồ câu mỗi sớm, mỗi chiều
Đôi mắt em thành đôi mắt bồ câu…
Ta nói về chim là nói về tình thương ấp ủ
Về những miền xa mơ mộng
Ta biết đâu
Có lúc phải nghĩ về chim như nghĩ về một nỗi đau
Vô cùng tận
Khi em cầm bút vẽ chim
Dù chỉ những nét đơn sơ nguệch ngoạc
Hay nghiên cứu về những hình khối của chim
Em có biết:
Chim tượng trưng cho linh hồn bất tử
Là sứ giả của nữ thần sắc đẹp
Lúc này đây, màu trắng tinh khiết phủ màu khói xạm
Tiếng chim gù câm bặt để giấu tiếng rên la
Nhưng chim chưa bao giờ thôi là hiện thân của Mẹ
Và vẫn ngây thơ, chất phác, dễ bị đánh lừa…
Chim đã bay không biết bao chặng đường khói lửa
Từ những ngày chúng ta còn rất nhỏ
Và hôm nay chim xuất hiện
Giữa lúc bầu trời tuổi thơ bị xé nát
Trong tiếng gầm rít máy bay giặc
Những con bồ câu tổ lành bị mất
Những con chim gập không có người chơi
Đôi cánh giấy không một lần rớm máu tươi!
Lại xuất hiện một cánh chim
Cánh chim ta đã từng thương, từng yêu
Mang trên đôi cánh xác xơ những nỗi đau
Chẳng khi nào tính được!
Và lấy chính những cánh chim đau chở che mặt đất
Nơi những vết thương còn nhức tấy chưa tan
Em có biết vì sao
Hoạ sĩ không vẽ chim ngậm cành ô-liu?
Vì vết thương trên mình chim và vết thương trên mình đồng loại
Vì cú ăn đêm vẫn ngậm ô-liu rao bán hoà bình
Chim không kêu rên, nhưng lòng người nhức ngối
Chim chỉ vỗ cánh âm thầm
Nhưng ai cũng hiểu chim vội vay về tới đích
Chim bay từ đâu, bay về đâu và đã qua đâu
Có ai hỏi, khi chim chưa muốn nói một lời nào
Khi chim đang làm một chứng nhân yên lặng
Bay qua mọi toà xử án
Và mọi thể chế…
Có thể, chim sẽ kiệt sức và rơi
Khi vừa bay tới khoảng trời xanh lồng lộng
Để lại cho đời vết tử thương
Không bao giờ hàn kín miệng
Cùng bài học xót xa
Về niềm tin chất phác dễ bị đánh lừa…
Nhưng giờ đây, em có thấy không
Chim vẫn bay, bay mãi
Trong nỗi đau và nghị lực phi thường…
Hà Nội, 1972
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 25.5.2011
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 25.5.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Khi nhà thơ buộc phải "ngoại tình" với thơ.
(Nhân đọc bài Quan Họ Không Ngoại Tình của Nguyễn Nguyên Bảy)
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy gửi bài thơ này cho tôi với một lời chú thích: "Đây là bài hóa giải mọi oan ức hận thù của anh, bài này anh mơ viết bao năm nay bây giờ mới viết được." (Thư điện tử)
Nguyễn Nguyên Bảy khiêm nhường tự nhận là "người thơ nghiệp dư", nhưng thực ra đó là một tác giả rất có ý thức về sự nghiệp thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Nhà nghiên cứu văn học Đỗ Quyên (Canada) có lần viết cho tôi: "Nguyễn Nguyên Bảy là tác giả thật kì khôi; tôi chưa hình dung hết, có lẽ vì chưa đạt được "cảnh giới". Hình như cánh "chuyên nghiệp" kính nhi viễn chi loại tác giả như vậy. Có điều này tôi chưa hiểu rõ: dường như ở Thơ và Người Thơ Nguyễn Nguyên Bảy có sự chen lấn nhau, khiến cho Thơ (văn bản) bị Người Thơ cưỡng bức. Tác giả tự nhận là "nghiệp dư" có lẽ là vậy chăng? Hay tác giả coi đời sống thơ như một thứ đạo, mà tác phẩm chỉ là phó sản của Sống Đạo? Thiển ý, đây là nút để mở thơ Nguyễn Nguyên Bảy ra đọc."(Thư điện tử)
Tôi buộc phải viện dẫn lời chuyên nghiệp của bạn để mong có một bàn đạp khả dĩ góp phần lý giải một bài thơ chứa những nội dung hình tượng quá phong phú và quá phức tạp như bài thơ này. Tôi còn cho rằng: đây là bài thơ đau xót nhất và đồng thời cũng nồng ấm bậc nhất của Nguyễn Nguyên Bảy!
***
Trong thơ Nguyễn Nguyên Bảy, hình ảnh Quan họ, những cụm từ liên quan đến Quan họ xuất hiện khá nhiều lần, tạo nên một thi liệu quen thuộc chứa đựng suy tư, thái độ sống, quan niệm thẩm mỹ của anh- "Quan họ", "Quan họ giao duyên", "quan họ tứ thời trăng", "tạ lời quan họ", "nụ cười quan họ", "Vàng của tấm lòng quan họ", "luật người quan họ", v.v.
Theo những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian có uy tín, nét độc đáo nhất làm nên đặc điểm chủ yếu của Quan họ chính là Kết Chạ. Hội Kết chạ là hội của hai làng kết nghĩa anh em- nghĩa là trai gái hai làng không được lấy nhau, họ cùng thờ chung một thần hoàng làng. Trong hội hè Kết chạ Quan họ, Thơ được đánh giá rất cao, "ngôn ngữ được xem là một thứ ma lực"; và qua sự phê duyệt của "Đôi dân" (đại diện cho Chạ chủ hai làng) mỗi thành viên chỉ phụng sự thần thánh thông qua việc trau dồi ngôn ngữ thơ ca đượm tình cùng phong cách biểu diễn đặc trưng của Quan họ.(1)
Phải chăng, chính vì thế mà đối với nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy, Quan họ là biểu tượng không chỉ là văn hóa Kinh Bắc, mà còn là biểu tượng cho toàn bộ văn hóa - văn học nước nhà, cho Duyên tình chân thật, cho Nghĩa cả, cùng biết bao vẻ đẹp khác của Thơ ca, của đời sống, của tâm hồn người... Và anh có lý. Từ đây, anh có cơ sở để thực hiện một thao tác hoán dụ tuyệt vời trong thơ ca làm nên nét riêng đậm chất Nguyễn Nguyên Bảy!
Tôi chỉ là người trai bắc quàng quan họ
Hát quan họ mà thành liền anh...
Khi anh khẳng định, anh đã yêu Quan họ như một mối tình có trời xanh chứng giám, "không ngoại tình", với một nỗi xót xa diễn tả qua bao hình ảnh "tá khách hình chủ- mượn mây tả trăng", anh đã hé lộ một điều: "Dù biết luật quan họ" nhưng lại "phạm luật chơi" nên bị "tẩy chay", anh đã buộc phải "ngoại tình", và cuối cùng đành "gạt lệ" rời khỏi "cộng đồng quan họ"... Chúng ta tự hỏi: vậy anh đã "ngoại tình" với điều gì? Thực xót xa, vì không muốn và không thể "ngoại tình" với những gì mình tin yêu trong cộng đồng Thơ ca- tức cộng đồng Quan họ, anh đã phải "ngoại tình" với chính thơ của mình!
Để có thể hiểu rõ bài thơ "Quan họ không ngoại tình" mà không rơi vào bình tán vô bổ, hoặc xa với thâm ý đích thực của nhà thơ, tốt hơn cả là chúng ta hãy lắng vào một chặng đời thơ quan trọng của chính Nguyễn Nguyên Bảy- trước khi theo anh "cõng cánh bèo quan họ" đi khắp mọi miền... (Chặng đời thơ đó chủ yếu được diễn tả qua 4 phần của tập thơ đầu tay "Thơ Nguyễn Nguyên Bảy I"- xuất bản cuối năm 2010)
Trong những năm tháng mà âm thanh cao vút của những bài hát cùng tính chất sử thi và giao hưởng hùng tráng của những "Sư đoàn", "Đường tới thành phố", "Tình yêu và Báo động", "Lửa đèn", "Mặt đường khát vọng", "Mặt trời trong lòng đất"(2)... là âm hưởng chủ đạo cho tinh thần xã hội (và đặc biệt cần thiết) thì cái bè trầm "âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều" chắc chắn không thể được coi trọng nếu không muốn nói là bị hắt hủi, bị truy bức ra khỏi đời sống cộng đồng! Lại còn "Tình yêu mượn cánh thánh thần chở che" nữa, rõ là "ngạo mạn" và "xấc xược"! Mặc dù anh tự nhận đứng trong hàng ngũ: "Chúng tôi đang viết những tráng ca/ Những tráng ca bằng gươm bằng súng"- nhưng riêng anh thì lại không viết tráng ca mà lại viết thơ của đời thường, viết tình ca thủ thỉ: "Thơ run rẩy những lời có cánh/ Khúc yêu mình trộn khúc thương con"- "Lời ru không vui không buồn/ Thơ hạ cánh đậu nghe lạnh ngắt" khi bếp lạnh và "bụng trống không", khi "Khúc yêu trong màn khóc mớ/ Khúc yêu lạc giọng ru con"(Tam tấu).
Giữa những ngày sắt thép máu lửa đó, anh lại dám "Mơ sen": "Ao thu bỗng hóa biển cồn/ Cánh cò bỗng hóa cánh buồm trắng phau"- " Bỗng cò nghiêng cánh/ Gánh tôi về/ Thuyền sen", và dũng cảm "Ngẫm về thơ": "Thuyền thơ chở đầy trăng thơ/ Đầy trà đầy rượu đầy hoa/ Và đầy nhân tình". Chiến tranh không cướp đi của người thơ nguồn cảm hứng vô tận về "Mùa yêu": "Trong thương nhớ cất thành lời hát ru/ Âm dương tình ngỡ trong mơ/ Mùa yêu chẳng có bến bờ thời gian". Trong "Mùa yêu" đó, dường như anh cố gạt đi những âm thanh chát chúa để lắng nghe rõ hơn bao giờ hết "Dân ca buồn con sáo sang sông" hay "Rêu cổ tích rù rì kể chuyện" và ngẩn ngơ trước số phận do các bà tiên xếp đặt: "Phải định mệnh nhân duyên/ Bỏ bùa anh lạc lối/ Ai rủ chân sen tới/ Cửa rừng nơi hẹn hò?".
Trong khi những lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại "Hát tặng biệt ly": "Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/ Nghe phố xá nằm dài trong mật nắng/Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng".
Cái thời cần kêu gọi lòng căm thù và ý chí chiến đấu thì anh lại đưa ra những lời đạo lý cổ xưa của ông cha tưởng chừng lạc lõng": "Này cò này vạc này nông/ Không sống tử tế đừng mong thành người" (Ký ức ca dao)- "Chợt đôi lúc anh lạc mê lạc lú/ Em hãy là Bồ Tát khoan dung"(Lời tỏ tình).
Một "Vườn chiều có thực" của thời chiến tranh có khói hun muỗi từ giẻ mà anh lại hình dung như một vùng đất cát mềm của Tiên Dung - Chử Đồng tử, của Giếng ngọc Cổ Loa, có tiếng hát Trương Chi, ở đó "Tôi đang độc ẩm cuồng say/ Những ly rượu thơ cồn cào bụng đói/ Bao nhiêu người đang đói/ Có thơ uống như tôi đâu/ Sao em lại cúi đầu/ Thương tôi mắt khóc?"(Vườn chiều)
Trong những năm đáng lẽ chỉ được hát ca, anh đã ngậm ngùi kể về người mẹ vẫn "Thương thằng mộng mị thơ ca/ Chọn yêu cuộc tình kiếp nạn", và về người vợ"Chít trắng đầu tang/ Nuôi đàn em thay mẹ/ Mom sông cô gái nhỏ/ Tay cò mắt vạc kiếm ăn"(Thuyền tình)
Cánh bèo rằng quan họ bén duyên tôi
Suốt mưa tháng sáu hát đậu hát cà
Suốt nắng tháng tám hát bưởi hát na
Suốt trăng tháng mười hát cơm gạo mới
Suốt rét tháng chạp hát nướng ngô khoai
Duyên tình ấy lỗi gì mà quan họ phạt tôi?
Những điều "xa lạ" và "lạc lõng" nói trên- xét cho cùng là vô hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án "không có án" để gia đình thi sĩ phải ôm hận "ly hương" suốt mấy chục năm trời sau đó!
Thực ra, trong những năm tháng đạn bom ấy, người thơ có phần lập dị này cũng sống như tất cả cư dân Hà Nội. Mặc dù "Nhà em nóng rực như lò/ Đun chảy mọi điều mơ mộng/ Em là cô thợ ca ba/ Tôi lặng mình và chợt hiểu ra/ Có một Hà Nội khác/ Một Hà Nội của tôi"... Anh đã sững sờ trước "những kỳ ngộ đẹp như thơ/ Tình mình làm sao sánh được/ Ấy là lẽ vì sao em không khóc/ Trước gian nan tem gạo phiếu tiền/... Biết là mình đáng sống/ "Dép lốp bè trầm áo xanh bè bổng". Anh đã khóc như tất cả những người dân lúc đó trước câu chuyện về người bác sĩ trẻ chết bởi bom Mỹ trong ngày cưới, đã xúc động run người trước hành động bất chấp hiểm nguy của những con người lao động bình dị: "Cô bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc/ Thiệp hoa phủ xác nửa mình/ Anh thợ điện người Ô quan Chưởng/ Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên..." (Ca trù mùa thu). Anh cũng trở về đài để "thay ca trực chiến" như mọi phóng viên khác của Đài tiếng nói VN, cũng "đồng loạt cánh tay giơ" để "lên Tháp Bút viết hùng ca"... Nhưng, cái "tạng" của anh không phải là "hùng ca"; và điều đặc biệt đáng quý là, người thơ hiểu rõ hạn chế của mình, anh đã không ít lần tự dày vò: "Ánh gằm gằm giấu sau đít chai/ Cháy thành lửa cũng là lửa mắt/ Mắt trông theo nắng vượt thác/ mắt trông theo trăng qua đèo/ Mặt trận cờ reo quân reo/ Trào lửa mà đành nuốt khóc/ Đứng tựa lưng trăng/ Bút thay gươm súng/ Chuốt câu thề (Tự họa tuổi trai).
Người thơ có khát vọng lý giải sức mạnh chiến thắng của hiện tại bằng mạch nguồn từ xa xưa, nên cũng dễ hiểu anh thường để "Hồn quanh quất nơi cửa rừng nguyên thủy"- "Tôi lang thang tìm tôi xưa cũ"(Về cội). Và với trí tưởng tượng phong phú tràn ngập cảm hứng lịch sử, Nguyễn Nguyên Bảy hình dung: "Sử sách thắp trưng bạch lạp/ Chữ hiện mù sương"- "Trăng nhớ những đêm Lạc Việt/ Gươm kiếm mài ngời trăng lu" (Chứng tích chiến tranh). Anh say sưa với "dòng sông chảy qua làng Việt cổ", với những nơi nào từng có "Sá cầy lật mở binh thư/ Người cấy lửa vào lúa/ Người chép lửa vào thơ" (Huyệt lửa). Anh là nhà thơ đầu tiên của thời mới tìm thấy sự đồng cảm lạ lùng với Thánh thơ Cao Bá Quát và có cả một tráng ca về cụ: "Đời Quát có hai vua/ Thơ Quát chỉ có quyền chọn một"- và Cao Bá Quát đã chọn"một ông vua là con dân mẹ nước"; thế nhưng "Đói khát vẫn hoàn đói khát/ Xã tắc khốc hư/ Ngậm miệng vái xin trời Phật", và anh nguyện sống với "Thác đoàn quân Cao Bá Quát/ Vào tử tìm sinh."(Thánh Thơ).
Từ cảm hứng lịch sử, Nguyễn Nguyên Bảy nhìn lại cuộc chiến tranh hiện tại và có cách cảm nghĩ riêng. Trong bài "Quả Mặt trời", trước tội ác hủy diệt của giặc Mỹ, anh băn khoăn: "Chảy đi đâu hỡi máu"- "Máu đã chảy lên thành Quả Mặt trời"- nhưng ấn tượng hơn cả vẫn là "Giấc mơ thơ nát bấy như bùn" và "Tọa tòa sen Phật bà khóc" (Chùa Một cột)
Tôi chưa rõ "Thơ NNB II" có những gì, song với "Thơ NNB I" mà tôi đang có trên tay, tôi chợt liên tưởng người thơ có phần "kỳ dị" này với nhân vật bác sĩ- nhà thơ Zhivago của nhà văn Nga Boris Pasternak. Trong biết bao sóng gió kinh hoàng của số phận, cắn răng chịu đựng những tàn bạo phi lý của chiến tranh, Zhivago vẫn băn khoăn trăn trở với sự nghiệp văn chương của mình; anh đã viết bản trường ca "Xao xuyến" với ý tưởng sáng tác như sau: "Bao lâu nay chàng vẫn muốn miêu tả cái cảnh trong ba ngày một cơn bão đất đen tối, lúc nhúc dòi bọ, bao vây và tấn công ra sao cái hiện thân bất diệt của tình yêu, ném đất đá rào rào vào nó, vào cái hiện thân ấy, hệt như những lớp sóng biển dồn dập đập vào bờ và chôn vùi bãi biển..."("Bác sĩ Zhivago" - Lê Khánh Trường dịch)
Nguyễn Nguyên Bảy muốn "Tượng hình làng quê sông núi" theo cách riêng của anh: "Tinh tú tôi ơi, sao thốt lời buồn/ Lập nghiệp gì đâu đời thi sĩ/... / Em gái quê cần lời thay nước mắt/ Ủ vào khăn tặng bạn trước chia ly/ Và với tôi điệu vần ấy đôi khi/ Cứu tuyệt vọng xô đời xuống vực/ Chỉ thế thôi tôi đêm ngày đèn sách/ Điệu vần dâng tạ ơn sinh!" (Tinh túy ngộ duyên). Nhà thơ biết phận mình: "Đời cha nghèo xác/ Chỉ những bài ru là giàu có hơn người"(Ru con)
Mặc dù Nguyễn Nguyên Bảy từng viết ca ngợi nụ cười: "Nụ cười là đặc sản của dân tộc tôi"(Đề dưới nụ cười), song ở thơ anh phần lắng đọng rung cảm nhất lại là nước mắt- nhất là của những người phụ nữ mà "giọt khóc rơi xuống thì thầm"(Cầu thương). Bởi chính người thơ tuyên bố: "Mà tôi/ nghĩ lạ lùng chưa/ Học khóc/ Bởi sợ đời dư hát cười"(Học khóc). Nhà thơ không chỉ nhìn thấy những quả bom rơi xuống đe dọa cuộc sống bình yên, mà còn nhìn thấy cả chặng đường lam lũ đói khổ của các làng quê Việt từ ngàn xưa và chưa biết đến bao giờ chấm dứt: "Sông cái chia nhánh còng số tám/ Nước khóa làng tôi"- "Thương đất trắng chìm trong lũ"(Làng nước)- "Những câu ru nhang cháy/ Dưới trời bâng khuâng hương"(Lời ru dưới mỗi mái nhà). Nhà thơ tự nhận: "Anh có lỗi đã thăng hoa bi kịch". Nhưng anh không thể làm khác, bởi một lẽ giản đơn: "Anh hằng kể con nghe kiếp sống ông bà/ Trải bao nhiêu cực khổ/ Vẫn trước sau làm người tử tế/ Ngẩng đầu đi khắp thế gian"- "Hãy uống cạn ly thương đắng/ Vươn vai mà đứng làm người". Điều khiến anh băn khoăn giữa lúc phải trốn chạy cái chết từ trên trời rơi xuống cũng là: "Con anh sao chẳng nên người/ Cháu anh sao chẳng nên người/ Không nên người/ Thì sao còn sông Cái sông Con/ Sao còn tiếng hát Mỵ nương/ Chèo đò lên non Tản/ Bỗng cháu nội hươ hươ thức sáng/ Hỏi sao ông khóc ông ơi?"
Thái độ nhún nhường này của anh chắc cũng gây ra sự nghi kỵ, soi mói, bởi xu thế thời đại là phải vươn tới đỉnh cao, phải "ra ngõ gặp anh hùng", vậy mà anh dám chỉ nhận mình là "tre nứa": "Thông tùng cao ngạo phong ba/ Chẳng lẽ tre nứa không là đời cây?/ Mặc ai chò chỉ lim mây/ Ta vẫn kiêu hãnh một cây giang thường/ Măng giang nấu cá ngạnh nguồn/ Sao ta chẳng biết đổi buồn thành vui"…
Trực giác và kinh nghiệm sống cho nhà thơ nhìn thấy giữa thời "hùng ca" đó đã manh nha những vấn đề đáng quan ngại của đạo lý truyền thống- đó là chủ nghĩa xu thời, chủ nghĩa thực dụng, thói ích kỷ xuất hiện, cùng những thứ không thể tồn tại bên cạnh sự "tử tế"; nhiều lần anh đã phải thốt lên cay đắng: "Quanh ta hỏi có bao người/ Gian manh mà vẫn sống đời tụng ca"- " Mặc ai dài mặc ai tròn/ Người khác với vật bởi còn cội tâm"(Bài ru trằn trọc)- "Những hồn ma nợ tình người sống/ Dẫu chết muôn đời vẫn chẳng thể yêu"(Âm dương).
Những khi chán nản, "Tôi lang thang ngơ ngẩn/ Giữa Âm Dương mông lung", buộc phải "Hát rong tôi trộn kinh hoàng vào đêm", nhà thơ chỉ biết "Tôi tụng tôi/ Nhân quả"(Cửu tụng). Thất vọng bởi những lời hứa hẹn xuông, những diễn văn lắm lời với những viễn cảnh to tát chỉ có ở thiên đường, anh "thắp nén nhang thơ"(Chép thơ công nghiệp đất) và khao khát "Ra với biển đi tất cả những ai/ Hoang tưởng như tôi biển mời ra biển"(Biển mời), hay cư xử một cách khá nghênh ngang làm tức mắt chẳng ít người: "Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao". Anh tìm đến "Thiên nhiên" như cội nguồn sinh lực và lòng tin yêu cho mình: "Tâm hồn anh bay lượn giữa thiên nhiên/ nghe ríu rít tiếng thơ trong lá cỏ"- "Không đố kỵ chẳng xỏ xiên/ Không xúc xiểm chẳng bon chen lọc lừa"- "Công danh thế là quá đủ/ Phận mình thuyền thúng qua sông"... Tất cả cốt chỉ để mong vượt qua những nghiệt ngã của đời mà anh kể lại trong "Tự thuật sinh tồn"- thế nhưng anh đã vô tình "Phạm luật người quan họ" và phải trả giá:
Khốn khổ thân tôi đa tình
Phạm luật người quan họ
Cõng một cánh bèo giạt trôi
... Cõng cánh bèo trên lưng tôi hát thầm hát oán
Lời giã bạn
Nhưng nhà thơ luôn tự khẳng định, mối tình với Thơ, với Quan Họ, với những gì xứng đáng dành cho Tình yêu thương và lòng kính trọng của anh là chính đáng, có thể tự hào trước thanh thiên bạch nhật:
Quan họ không ngoại tình!
Tuy nhiên, những cái đó chưa phải là "tội" lớn nhất của Nguyễn Nguyên Bảy và người bạn đời của anh- Lý Phương Liên! Cái "án không tuyên" đã treo từ lâu, giờ có chứng cứ cụ thể để biến thành án "văn tự" rành rành khiến họ lao đao khốn khổ, khi cả đôi vợ chồng thi sĩ đều mắc cái tội "Luận Kiều thời chinh chiến"! Lý Phương Liên sau những bài thơ được dư luận ca ngợi, thì trình trên báo chính thống bài "Nghĩ về Thúy Kiều" (sau đổi thành "Trò chuyện với Thúy Kiều") làm giọt nước đầy tràn cốc nước! Những bài thơ "luận Kiều" của Nguyễn Nguyên Bảy vẫn còn nằm trong bóng tối (gần 40 năm sau anh mới cho vào cả phần: "Một vài trống canh" -Thơ NNB I")- song anh phải gánh cùng vợ biết bao tai họa xung quanh "Nghĩ về Thúy Kiều"! (Nhà văn Triệu Xuân đã có viết bài rất đầy đủ và lý thú về chuyện này: "Trò chuyện với Thúy Kiều- bài thơ hay nhất của Lý Phương Liên"). Ta hãy thử lục lại "hồ sơ vụ án" xem nhà thơ NNB đã "luận Kiều" và "vận Kiều" ra sao: "Hai trăm năm tưởng gieo vần hôm qua"-"Vận người thành cuộc đỏ đen/ Thiêng liêng đất nước bao phen nổi chìm" (Lược Kiều)- "Muốn thay tình mới cho thơ/ Bỗng nhiên sao quá mơ hồ đời anh/ ... Anh lại đi tìm tình/ Tìm tình anh thấy chính mình thảm thương"-"Hão huyền lại mượn đời Kiều/ Dỗ em/ Dối trá bao nhiêu vơi đầy"- "Chữ tình lại buộc dây tình thanh cao"- "Không ham tiếng hót chim mồi/ Lồng son là hết một đời chim bay"(Tự tình). Và cả đời nhà thơ phải "hơ hoảng" khi đã quá dại dột, dám liều mạng làm một chuyện tày đình vào những năm 70 thế kỷ trước là tuyên bố thẳng thừng: "Thơ là Thơ. Thơ không phải là địa vị xã hội của người làm thơ./ Tôi phạm tội trẻ con/ Luận Kiều thời chinh chiến/ Biết phận mình ong kiến/ Chẳng dám trách miệng quan/ Cố lùa và nỗi nhục/ Gối tình ôm sát ngực/ Cố đừng mòn sống ơi" (Tự thuật tội lỗi). Nhà thơ cũng Tự thuật lại chuyện đó bằng văn xuôi như sau: "15 chữ ấy đủ cho một bản án không tuyên... Đã có những năm khổ sở quá – như 1972 chẳng hạn, bị vu cáo khốn nạn, 8 tháng không được làm việc, tôi chuyển sang làm thợ may. Đồng tiền kiếm được không ít, nhưng lạ lùng sao cứ thiếp vào giấc ngủ là y như nàng thơ đến (như Đạm Tiên ấy!) và bảo: Nghiệp còn nặng chưa thể bỏ được đâu! Thế là lại gạt nước mắt, lại trút tất cả những khó khăn lên vai vợ và lại làm thơ. Nhiều người tỏ vẻ xót xa thương cảm, nhưng gánh nặng đời ai dễ sẻ cho ai." (Thủng thẳng với Thơ, NNB)
Hậu quả nặng nề đến độ đôi vợ chồng thi sĩ phải làm theo lời nguyền Số phận: "Muốn hoán đêm làm ngày/ Chỉ còn một cách ly hương." (Tinh tú ngộ duyên)
Chúng tôi ngược Lim
Lên rừng cọ đồi chè giao duyên xoan ghẹo
Chùng tôi xuôi đồng bằng
Quan họ chèo trúc thẳng trăng nghiêng
Chúng tôi lên Tây Nguyên
Quan họ nhẹ mềm hòa cùng rock nặng
Chúng tôi vào Quảng
Quan họ hô bài chòi
Chúng tôi cõng nhau vào Chăm
Quan họ hở vai múa bụng
Chúng tôi chống xuồng ngồi ghe
Quan họ hát vọng cổ thâu đêm suốt sáng
Khúc bèo giạt mây trôi hát hoài không chán
Đến đâu cũng bảo ở đừng về
Những chặng đường của "gánh hát rong" này (kiểu "Nhà lăn Mê Ly" xuyên Việt của họa sĩ công tử Hoàng Lập Ngôn hồi trước Cách Mạng) kể ra cũng "hào hùng", cũng nhiều sự kiện đáng nhớ đáng yêu lắm chứ, song trong thân phận chui lủi, không chính danh, là "ngoại tình" nên cũng thực đắng đót làm sao! Mấy chục năm sau, kể cho con và ngẫm lại đời mình, nhà thơ viết: "Cha đã xa kinh thành cổ tích/ Hăm nhăm năm ăn tết Sài gòn/ Tha hương trên đất nước mình/ Lòng nhủ không nơi nào quê cha đất khách/ Vậy mà mỗi năm những ngày cận chạp/ Vẫn nao lòng bóng nhạn trời quê/ Tha thẩn tìm lối hồn về..."
Sau nhiều năm tháng lang thang, sống cảnh "Bạn bè lều quán chợ chiều/ Tìm được chỗ tựa lưng là ngủ", vào một buổi xế chiều, người thơ tổng kết đời mình trong lệ lạnh: "Sáu mươi tuổi bây giờ mới hiểu/ Đêm đông ai hát Tết buồn "- "Thương con cháu chảy nhòe giấy viết/ Xứ tuyết ấy làm gì có Tết/ Quê người đất khách con tôi/ Áo cơm đời nặng thế áo cơm ơi/ Cánh cò trắng lội mò tuyết trắng" (bài thơ Hoa Đỗ Quyên của NNB)
Quan họ còn đó chúng tôi phải về
Người nào chẳng có bến quê
.
Mẹ cha ơi, làng xóm đây rồi!
Một câu thơ làm thành cả khổ thơ là tiếng nói ấp iu của người thơ suốt những năm tha hương lúc nào cũng chỉ chực thốt lên trong nỗi nghẹn ngào: "Mẹ cha ơi, làng xóm đây rồi!"
Thực não lòng khi nhà thơ phải "Thưa Lời: Lời hỉ xả lạy tặng bốn phương tám hướng những người từng nộ dọa, thị phi, roi ngữ, ganh khinh hẳn chỉ muốn dậy tôi sống làm người tử tế, xin tha cho tôi mọi tội đời (nếu có)" (Thơ NNB I)
Âm hưởng của điều "Thưa lời" ấy bàng bạc suốt tập thơ đầu tiên của NNB gói gọn cả đời thơ anh và trong bài mới nhất "Quan họ không ngoại tình". Ở bài thơ này, cái chủ đề "Quan họ" đã ngân nga trong "Ô cửa vuông trăng" viết từ nhiều năm trước, khi mà "Người tương tư thơ ấy vẫn chưa về": "Trầm bổng dàn đồng ca thiếu nữ/ Hát lời quan họ giao duyên/.../ Xác thân anh chết chìm/ Nếu nàng không vớt anh khỏi bể/ Chén cơm anh ăn vì thế/ nặng bao nhiêu nghĩa buồn/ Ô cửa em ngồi ru con/ Sao em hát lời nàng kiếp trước/ Quan họ trao duyên/ Em nhìn theo bóng chim xuôi/ Giục anh tạ lời quan họ/ Quan họ đi rồi anh tạ tình em…"
Thời thế đổi thay, rồi cũng bởi sự trả giá quá nhiều, và bởi sự chân thành đến cảm động dù phải chịu bao hắt hủi ghẻ lạnh mà gia đình thi sĩ "phạm luật" năm xưa đã được "đền bù danh dự":
Án phạt năm xưa xóa trắng
Quan họ không ngoại tình
Trong đoàn "Quan họ" hôm nay "chiêu tuyết "cho danh dự bị tổn thương của gia đình nhà thơ dường như có cả người mẹ kính yêu "quệt mép trầu/ Răng đen nụ cười quan họ"(Hỏi về bánh trôi nước), có "Quan họ" đã cứu vớt nhà thơ khỏi chết chìm trong tủi nhục, cứu cho cả lời nguyền từ kiếp trước là nhà thơ phải tiếp tục "Hát lời Quan họ" cho nhân quần- sau nhiều năm tháng bị sự tầm thường ngu muội xua đuổi:
Chuyện tôi cõng cánh bèo bỏ làng quan họ
Xa lắm xa lơ hơn bốn chục năm rồi
Còn lại mấy ai quan họ cùng thời
Liền chị liền anh bây giờ cười câu chuyện cổ
Chúng tôi khiêng về Lim một cỗ thuyền tình
Bốn mươi năm bèo nở thành thuyền đấy
Nan nào nan cũng trúc xinh
Mạn thuyền nào cũng lưng tình quan họ
Chúng tôi thả thuyên tình xuống hồ bán nguyệt
Cánh bèo không chịu xuống thuyền
Cánh bèo trèo lên quán dốc
Tôi vội mây trôi
Bài thơ hư - thực lẫn lộn, biến ảo mộng - đời, xen kẽ nghĩa bóng - nghĩa đen, người đọc chỉ có thể bằng sự nhập thân, bằng mối giao hòa cao độ để cảm xúc- chứ không thể dùng luận lý tỉnh táo để nhận ra vẻ đẹp của câu chữ hồn thơ cùng ý tứ thâm trầm của tác giả... Và nếu không chìm đắm trong thơ của một thời phải "ngoại tình" với thơ đó thì làm sao cắt nghĩa nổi những giọt lệ thơ mừng tủi ngày "Cánh bèo trèo lên quán dốc", "ngồi gốc cây đa" để hát đoàn viên mà lại "nặng bao nhiêu nghĩa buồn"? Giữa một chiều u ám của ngày đã xa, nhà thơ lang thang nơi "Cửa rừng" và hình dung:
"Trong màn mưa rất ảo/ Chớp hiện một bông sen"
Nỗi khát khao trong lành làm sao, và cũng tội nghiệp làm sao khi đường đường chính chính "yêu" mà phải lén lút "ngoại tình", bị gạt ra ngoài chính thống. Nhưng cũng như sự sống, Thơ không thể tàn lụi, vẫn giống "Sen ngoài hồ nhựa dâng lên nụ/ Anh lan man vẽ tương lai" (Hoa tình).
Và cuộc đời thật công bằng- nhất là đối với Thơ của một tình yêu dám bất chấp mọi thế lực dù cao siêu hay tầm thường ngăn trở. Bản chất của "Quan Họ" là công bằng- thời nào cũng thế, tuy cũng có khi bị sai khiến, bị méo mó dung nhan, hoặc vô tình làm tay sai của "đao phủ"... Người thơ hôm nay không còn phải mơ tưởng ra một "Nàng tiên Cá" của "Dàn đồng ca Quan Họ" tới cứu vớt mình khỏi chết chìm dưới đáy biển của nỗi ô nhục dai dẳng là "phản bội" lại cộng đồng; gia đình thi sĩ từng chịu nhiều long đong oan ức giờ đây được "Dàn đồng ca chật một thuyền tình" quây quần chăm sóc- như bản chất của sự việc là phải như thế, và mãi mãi cần như thế:
Mọi người nhường cánh bèo hát
Tôi thầm đừng bèo giạt mây trôi
Cánh bèo cười
Vừa cười bèo đã nở thành sen
Sen hát bài quan họ chung tinh
Khoan thai thuyền đưa nôi
Sen ngào ngạt khắp đất trời quan họ…
Và bây giờ, xin hãy đọc lại bài thơ, nhâm nhi từng câu một để cảm thông với mối tình Thơ "Quan họ không ngoại tình" suốt gần nửa thế kỷ...
***
Quan Họ Không Ngoại Tình
Tôi chỉ là người trai bắc quàng quan họ
Hát quan họ mà thành liền anh.
Dù biết luật quan họ
Hát tình tình gửi mây bay
Hát tình tình vương theo gió
Thăng hoa tình chỉ được lúng liếng chữ
Cấm ngặt gửi tình vào môi
Gửi tình vào tay
Gửi tình vào da thịt
Sex phải trong veo
Không trong veo thì không thành liền anh liền chị
Đến hẹn lại lên tình
.
Khốn khổ thân tôi đa tình
Phạm luật người quan họ
Cõng một cánh bèo giạt trôi
.
Cánh bèo tôi vốn liền chị con côi
Cha mẹ bay về trời
Bỏ lại một chuồng gà vịt
.
Cánh bèo rằng quan họ bén duyên tôi
Suốt mưa tháng sáu hát đậu hát cà
Suốt nắng tháng tám hát bưởi hát na
Suốt trăng tháng mười hát cơm gạo mới
Suốt rét tháng chạp hát nướng ngô khoai
Duyên tình ấy lỗi gì mà quan họ phạt tôi?
Cõng cánh bèo trên lưng tôi hát thầm hát oán
Lời giã bạn
Quan họ không ngoại tình
.
Chúng tôi ngược Lim
Lên rừng cọ đồi chè giao duyên xoan ghẹo
Chùng tôi xuôi đồng bằng
Quan họ chèo trúc thẳng trăng nghiêng
Chúng tôi lên Tây Nguyên
Quan họ nhẹ mềm hòa cùng rock nặng
Chúng tôi vào Quảng
Quan họ hô bài chòi
Chúng tôi cõng nhau vào Chăm
Quan họ hở vai múa bụng
Chúng tôi chống xuồng ngồi ghe
Quan họ hát vọng cổ thâu đêm suốt sáng
Khúc bèo giạt mây trôi hát hoài không chán
Đến đâu cũng bảo ở đừng về
.
Quan họ còn đó chúng tôi phải về
Người nào chẳng có bến quê
.
Chuyện tôi cõng cánh bèo bỏ làng quan họ
Xa lắm xa lơ hơn bốn chục năm rồi
Còn lại mấy ai quan họ cùng thời
Liền chị liền anh bây giờ cười câu chuyện cổ
Chúng tôi khiêng về Lim một cỗ thuyền tình
Bốn mươi năm bèo nở thành thuyền đấy
Nan nào nan cũng trúc xinh
Mạn thuyên nào cũng lưng tình quan họ
Chúng tôi thả thuyên tình xuống hồ bán nguyệt
Cánh bèo không chịu xuống thuyền
Cánh bèo trèo lên quán dốc
Tôi vội mây trôi
.
Mẹ cha ơi, làng xóm đây rồi!
.
Liền anh cùng thời cười sún răng ô
Liền chị cùng thời cười vàng ngực lụa
Gọi cánh bèo là liền em
Án phạt năm xưa xóa trắng
Quan họ không ngoại tình
Liền anh mới chạy xô nhà tầng
Mặc cho tôi khăn áo the xanh
Liền chị mới thẹn thùng xiêm váy
Mặc cho cánh bèo hoa cỏ tứ thân
Rước quan họ ra hồ bán nguyệt
Chúng tôi lên chật một thuyền tình
.
Mọi người nhường cánh bèo hát
Tôi thầm đừng bèo giạt mây trôi
Cánh bèo cười
Vừa cười bèo đã nở thành sen
Sen hát bài quan họ chung tinh
Khoan thai thuyền đưa nôi
Sen ngào ngạt khắp đất trời quan họ…
Sài Gòn, tháng 5/2011
----
1. Theo Đặng Văn Lung: "Lễ hội và nhân sinh"- NXB ĐHQG TpHCM, 2005.
2. Tên những tác phẩm trường ca & thơ dài nổi tiếng của Phạm Ngọc Cảnh, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo...
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 05.6.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Sự tha hóa trong những cuộc đi tìm bản thể...
(Đọc tiểu thuyết "Ma trận tình" của nhà văn Nguyễn Nguyên Bảy)
"Ma trận tình” mới đọc qua lần đầu tưởng đâu chỉ là một truyện tình… Nhưng các Ma trận tình ở trong đó cũng chính là Ma trận đời mà tác giả đã xác định cái la bàn để khỏi lạc đường bằng mấy lời phi lộ: "Người viết chỉ muốn gửi một thông điệp, cội rễ của tình yêu là đức tin, không có đức tin thì đừng mong có một tình yêu đẹp."(nguyennguyenbay.com) Song, xem ra cái la bàn đó "đánh lừa" người đọc qúa rõ nên ở trong một trang sách, tác giả đã "tạ lỗi" bằng một lưu ý rằng, chúng ta "đều lạc trong ma trận tình, ma trận tình giăng mắc trong ma trận đời. Đời loạn thì tình loạn, không phủ được thì đành nương theo ma trận mà yêu mà sống..."
"Ma trận tình” là cuốn tiểu thuyết không thể chỉ đọc một lần; nó có sự hấp dẫn buộc người đọc phải nín thở theo dõi cuộc chiến tâm lý giữa cha cố Đức Minh và giám đốc Bảy Trọng quanh một người con gái, xem kết cục ai thắng ai, song người đọc sẽ thấy cần phải đọc lại, phải tiếp tục ngẫm nghĩ về những cái nằm đằng sau và rộng lớn hơn nhiều "cuộc chiến" ấy- cái "cuộc chiến" khi thì được lý giải bằng một cuộc "cạnh tranh": "Còn bây giờ, theo Cha, cạnh tranh ngoài xã hội hầu như không có, nhưng lại xuất hiện những cạnh tranh mới, cạnh tranh trong cơ chế cai trị, trong thế lực phe đảng, trong lòng tham và quyền lực, trong thói dối trá. Cạnh tranh này theo nghĩa đen là đấu đá. Và cũng theo Cha, cạnh tranh đấu đá đó mới thật tội lỗi, nó xô đẩy cả một tập thể, một cộng đồng vào cái hố nghèo đói và tội ác", khi thì bộc lộ trong tâm sự bất lực đau xót của Bảy Trọng: "những người anh hùng một thời của anh giờ đang múa kiếm giữa chợ chiều. Đau lòng lắm. Chúng ta quá say mê chiến thắng, tự hát cho nhau nghe mãi một khúc chèo, dù hay mấy cũng phải chán. Chủ nghĩa xã hội chẳng thể đẹp hơn chủ nghĩa tư bản trong lý thuyết mà hòng thuyết phục được con người”.
Nhà văn trong những năm tháng xa đó đã nhìn ra được những vấn đề xã hội còn nhức nhối đến hôm nay mà gióng lên hồi chuông thức tỉnh.
"Ma trận tình” trước hết có thể nói là một cuộc thám hiểm đầy gay go và dũng cảm của tác giả vào hiện thực của một thời kỳ đầy những biến động bão tố thời cuộc nửa sau thế kỉ 20, nơi giao tranh giữa hai chế độ xã hội, hai đối cực tư tưởng.... Nhưng tác giả không cần vẽ lên một "Hội chợ phù hoa" náo nhiệt, chỉ xoay quanh bối cảnh tại một nhà máy giấy và một xưởng in ấn do vị cố đạo xây dựng từ thời trước năm 1975 trên đất Sài Gòn, và mượn một mối quan hệ tình tay tay ba tay tư để làm xương sống cho tiểu thuyết; có điều, cái mượn đó thật điệu nghệ, nếu không để ý thì không thể nào nhận ra cái dụng ý "mượn" này. Anh mượn tình để nói về đời, cụ thể hơn- cái cơ chế quái gở của đời như một sản phẩm của chủ nghĩa duy ý chí, của sự bất chấp quy luật phát triển tự nhiên cũng như xã hội, chúng còn gây tác hại nhỡn tiền ngày hôm nay... Cái cơ chế làm méo mó nhân cách, làm biến mất dần dần sự hồn nhiên, thẳng thắn, trung thực- kể cả trong tình yêu nguyên sơ mà ở đó con người ta có thể sống thật nhất với bản thân mình! Bẩy Trọng có thể nói là một nhân vật được tác giả quan sát, chiêm nghiệm qua nhiều năm tháng, qua nhiều nguyên mẫu đời thực- và chắc hẳn có cả hình bóng tác giả! Ở anh ta, tính tích cực xã hội và vẻ đẹp tâm hồn không chỉ bộc lộ qua hành động cương quyết, khéo léo, tự tin trước mục đích cao cả, mà còn được thể hiện qua sự ngưỡng mộ rồi đi tới thầm yêu trộm nhớ của cô gái xinh đẹp xưng "tôi", thể hiện qua thái độ kính nể của "đối phương" là cha cố Minh Đức- một nhà kinh doanh giỏi trong ngành in. Nhưng, sự cố tình vờ vịt của anh ta để che giấu tình cảm thật, sự cân đong lựa chọn của anh ta giữa rung cảm tự nhiên với những toan tính, ngụy biện, cái mánh khóe anh ta xử dụng để "thoát hiểm" khỏi dư luận, trong cái định kiến nặng nề của một xã hội dở ta dở tây rơi rớt phong kiến nhiễm đầy thứ đạo lý tuyên huấn của thời đại mới, Bẩy Trọng đã dần tự đánh mất chính bản thể của mình lúc nào mà không tự biết! Như lời phán xét nghiêm khắc của cô gái thầm yêu anh: "Anh đã chấp nhận đời sống địa ngục bán cả vợ con cho danh lợi, tức là anh chỉ yêu anh, yêu cái anh gọi là lý tưởng, anh chẳng hề yêu ai". Nhưng cũng thực tội nghiệp, Bẩy Trọng chỉ là một nạn nhân của tình trạng "Gốc đạo lý nhiễm độc thì bảo sao hoa trái không thui chột", một con người nuôi chí lớn mà phải sống trong cái môi trường xã hội có "những cuộc họp phút chốc biến thành chợ hàng bán tôm cá", một xã hội như cha cố Đức Minh bàn luận: "do sự băng hoại về đạo đức thường tình trong quan hệ giữa con người với con người, nên dối trá đã thành một nết xấu", trong hoàn cảnh ấy, "làm sao ông ta có thể thu phục được nhân tâm, làm sao ông ta có thể gạt được những đồng chí của ông ta co cụm lại cản phá. Nhân tâm tan rã thì đừng hòng mưu cầu sự nghiệp." GĐ Trọng cay đắng nói về Thanh tra như sau:" Nếu nhà máy chúng ta phá sản, họ sẽ tới với vòng hoa chia buồn. Còn như nhà máy ăn nên làm ra họ sẽ tới với còng số tám. Một kiểu quản lý quái gở..." Cái kiểu bi kịch này ở nhân vật chính diện chưa được văn học chính thống của ta coi trọng, nhưng trong "Ma trận tình” nó đã được khai thác một cách khá triệt để! Dễ nhận thấy là nhà văn ngụp lặn rất sâu trong thực tế đời sống và đắp da thịt cho suy nghĩ, tư tưởng của các nhân vật chính Bảy Trọng, Long, cha Đức Minh nên nhân vật đã không biến thành cái loa phát ngôn tư tưởng cho tác giả mà không ít tác phẩm văn học của ta trong giai đoạn ấy (và cũng không chỉ ở giai đoạn ấy) mắc phải!
Nếu tác giả (theo lời nhà văn Tô Hoàng) là "người luôn luôn biết linh hoạt, cơ động cải biến hoàn cảnh; làm chủ được cuộc đời mình, để biến báo khôn lường, để thoát hiểm trong những tình thế ngặt nghèo" ("Lạc vào Ma trận tình của thầy Bảy") thì trong tiểu thuyết "Ma trận tình”, các nhân vật chính đều không thể "thoát hiểm” trong những tình thế ngặt nghèo" bởi họ đã bị một cái vòng kim cô nào đó vô hình thít chặt. Không chỉ Bảy Trọng- một sản phẩm của "chế độ mới", mà cả cha Đức Minh- một sản phẩm của "chế độ cũ" ( nói theo cách của giới truyền thông chính thống) cũng vậy. Họ đều bị một cái gì đó mạnh hơn ý chí tự do của họ nhiều lần buộc thần phục, buộc họ phải nhu nhược đớn hèn. Chính sự đớn hèn đó cũng là một biến thái của "tha hóa"- không dám sống thật với mình, không dám công khai những chính kiến, những yêu ghét cá nhân, trước tình yêu trần thế phải giả khoác áo thầy tu, trong khi đó thì thầy tu thật lại muốn phá đạo để hoàn tục mà không đủ lòng dũng cảm vượt qua vòng nô lệ của đức tin... Cha cố Đức Minh bộc bạch: "Ta giao cho con bổn phận quyến rũ người đàn ông ấy, bắt người đàn ông ấy phải quỳ ngã dưới chân con... Đời ta không là bỏ đi, nếu như con vẫn là bạn ta, vẫn như ta đào luyện, đã mong đợi". Điều bộc bạch thầm kín và bất ngờ này vượt ra khỏi phạm vi của một cuộc xưng tội thông thường, chợt hé lộ sự thật: cô gái thật ra chỉ một thứ phương tiện để phần quỷ dữ ẩn sâu trong cha cố sai khiến nhằm thực hiện một tham vọng dù có nhân danh gì chăng nữa cũng khiến người ta ghê sợ... Đây cũng là một mạch ngầm sâu nhất của tiểu thuyết khiến nó tạo nên không chỉ nội dung triết lý mà còn là cái động lực bên trong của kết cấu cuốn tiểu thuyết thúc đẩy dòng chảy số phận các nhân vật!
Nhân vật trung tâm xưng "tôi" không chỉ là một cô gái có nhan sắc mà còn có nhân cách, có bản lĩnh, song cô cũng không thể thoát khỏi nguy cơ bị nhấn chìm trong cơn lũ thực dụng và âm mưu của cái xã hội kỳ quái khiến "Tình yêu đối với anh cũng là một tội lỗi cần lên án, bị cả cũ lẫn mới xua đổi", và có lúc cô đã kêu lên chua xót: "Tôi ơi, phận dơi, không thuộc họ chim cũng không trong họ chuột !"
Sự xuất hiện của nhân vật Tư Cơ- bồ của vợ Bẩy Trọng (mà tác giả đã cho nữ nhân vật chính gọi là "Lãnh tụ") đã tình cờ và nhanh chóng giải tỏa mọi xung đột giữa các nhân vật, điều này giống như một trò đùa của số phận! Chúng ta hãy nhớ lại nhân vật "quan thanh tra"* trong hài kịch tuyệt tác cùng tên của văn hào Nga N.Gôgôn để thấm hơn ý nghĩa xã hội thâm trầm mà tác giả NNB gửi gắm và tô đậm thêm nội dung triết lý của "Ma trận tình”.
Hai Sĩ- anh chàng xe ôm si tình nghĩa hiệp - King giang hồ được miêu tả không nhiều nhưng có thể nói là một vệt sao băng lướt qua trong đời nhân vật nữ chính và để lại âm hưởng gần như "anh hùng ca" của cuốn tiểu thuyết thế sự! Nhân vật Hai Sĩ, cùng với nhân vật Trinh, một cô gái sống theo bản năng nhưng tốt bụng, lương thiện đã tạo nên một nét folklore khỏe khoắn, trong trẻo nhưng không hề lạc điệu ở tác phẩm, giữa trùng trùng điệp điệp những suy tư dằn vặt cùng những âm mưu, những trò đấu đá của các nhân vật!
Như thế là, "Ma trận tình” đã thoát ra khỏi thân phận của một cuốn tiểu thuyết diễm tình lấy nước mắt của các cô các bà, bởi đằng sau, bên cạnh những trăn trở yêu đương của nhân vật nữ chính (Long), nhân vật nữ phụ (Trinh) là những suy tư của chính tác giả thổi hồn vào người đọc những vấn đề về ý nghĩa cuộc sống, về chính nghĩa công bằng, về giá trị đích thực của con người trong xã hội, về cái hoàn cảnh nhân đạo cần có để con người trở nên "Người" hơn... Nhưng nó không rơi vào cái bẫy của một cuốn tiểu thuyết luận đề; mà xét cho cùng, nếu có là luận đề thì cũng là luận đề một cách tận cùng và thực "đáo để" về sự tha hóa nhân cách của những "nhân vật thời đại" theo lối của Lermotov (tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng "Một nhân vật thời đại" được dịch sang ta là "Một anh hùng thời đại"**)
Cái xưởng in và hoạt động của nó ở "Ma trận tình” không cần được miêu tả kỹ càng theo lối văn xuôi thế kỷ XIX như các xưởng in của Đavit và anh em nhà Quanhtê trong tiểu thuyết "Vỡ mộng" của H. Banzăc, song cũng đủ để tạo nền cho những xung đột số phận, và ta cần lưu ý rằng, tác giả chỉ tập trung tả về cái máy phân tích màu- nhưng chủ yếu lại thông qua thái độ phản ứng của hai nhân vật về nó, để từ đó có dịp khai thác kỹ thêm đời sống tâm hồn, dáng vẻ nhân cách ở tận bề sâu của nó.
"Ma trận tình” dù được viết dưới hình thức "tôi tự sự" song lại rất giàu chất Cinéma, nó gần giống loại tiểu thuyết - điện ảnh của nhà văn Pháp đương đại Marguerite Duras. Tôi nghĩ, "Ma trận tình” có thừa chất liệu hình ảnh và xúc cảm để xây dựng thành một bộ phim truyện dài hấp dẫn về mặt hành động, lôi cuốn về xung đột nội tâm và làm ngây ngất người xem bởi chất thơ tràn ngập trong nhiều tình huống, trong nhiều lời đối thoại và độc thoại...
Các nhân vật của cuốn tiểu thuyết đều được đặt trong một trạng thái tinh thần căng thẳng, trong vòng xoáy của các số phận đan cài- người đi tìm tình yêu đích thực, người đi tìm sự ủng hộ từ nhiều thế lực, người hy vọng được cứu rỗi từ những ước vọng mơ hồ, những chờ đợi mong manh... Ở đây, ngòi bút của nhà văn NNB chứng tỏ một năng lực phân tích tâm lý sâu sắc, và chúng ta có thể tìm thấy ảnh hưởng từ truyền thống của văn học hiện thực thế giới với L. Tônxtôi, Đốtxtôievski, Stăngđan, Flôbe...- những bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lý con người. Nhưng, NNB đã không dừng lại ở đó! Vào những năm mà văn học ta còn chạy theo đề tài và đang mầy mò với những hướng đi mới trong cách thể hiện để thoát khỏi vòng kim cô Hiện thực XHCN, thì NNB đã vô tình (?) đi theo một phương cách tự sự có hơi hướng của trường phái Tân-tiểu-thuyết phương Tây mà Natalie Sarraute là một trong những đại diện. Với sáng tác của nữ nhà văn Pháp này, cốt truyện lui xuống hàng thứ hai để ưu tiên cho các chuyển động của ý thức; theo bà, vật liệu của tiểu thuyết từ nay chủ yếu là "những chuyển động trong phạm vi của ý thức, những chuyển động bên dưới ngôn ngữ, cái ở dưới độc thoại nội tâm", bà đi tìm những hiện tượng đời sống chỉ với tư cách là "những nguồn gốc các hành vi và lời nói của chúng ta, nguồn gốc những tình cảm mà chúng ta biểu lộ, mà chúng ta tin rằng chúng ta cảm thấy." (Theo Patrick Brunel: "Văn học Pháp thế kỷ XX", Nguyễn Văn Quảng dịch, NXB Thế giới, 2006 - trg. 288-289)
Nhà nghiên cứu văn học lỗi lạc người Nga M.Bakhtin đã đưa ra những khái niệm lý luận mới mẻ: "Nó là ai?", "nhân vật tự thú", "sự tự ý thức", "thực thể độc thoại", v.v. trong các công trình viết về thi pháp tiểu thuyết của mình; và theo tôi có một luận điểm ông viết về Đôxtôievski mà chúng ta có thể vận dụng để có thể hiểu thêm về "kiểu" tự sự của nhân vật xưng "tôi" trong "Ma trận tình”: "Cái sự thật mà nhân vật cần phải đạt tới và rốt cục đã thật sự đạt tới khi giải thích các biến cố cho mình... Về thực chất, chỉ có thể là sự thật về ý thức của chính mình... Qua miệng người khác, cũng chính những lời nói đó, với nội dung như thế, một nhận định như thế chắc sẽ có một ý nghĩa khác, giọng điệu khác, và sẽ không còn là sự thật nữa."( "Những vấn đề thi pháp Đôxtôievski"- Trần Đình Sử-Lại Nguyên Ân-Vương Trí Nhàn dịch, NXB Giáo dục, 1998- trg.53)
Chúng tôi chưa bàn đến việc nhà văn NNB đã thành công đến mức độ nào trong kiểu "tự sự" mà trong đó "nhân vật tự thú" như thi pháp tiểu thuyết hiện đại đòi hỏi, nhưng có một điều rõ ràng là: hình thức đó xuất phát từ một nhu cầu cần thiết của chính tác giả nhằm bộc lộ tất cả những gì đang nung nấu trong nội tâm mình!
Theo tác giả, "Ma trận tình” viết ra vào những năm 1986-1987, và tác phẩm đã không được cấp phép in từ bấy đến giờ chắc bởi được viết theo kiểu "Ma trận" về những vấn đề xã hội nhạy cảm, nhất là với một thái độ không né tránh! "Ma trận tình” có thể được coi là một đỉnh cao văn xuôi của NNB và cần được có một vị trí thích đáng trong văn học Việt Nam kể từ 1975 với những đóng góp đáng kể- không chỉ là những vấn đề nhân bản được đặt ra ở tác phẩm mà còn là sự tìm tòi đầy căng thẳng của nhà văn trong nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại.
Hà Nội, đầu tháng 1-1012
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
* Tóm tắt nội dung hài kịch "Quan thanh tra": Một viên công chức tầm thường được bọn quan lại ở một thị trấn nọ tưởng nhầm là quan thanh tra từ Pêtecbua tới. Bọn chúng cực kỳ lo sợ nên tìm cách mua chuộc, hối lộ "quan lớn". Chúng tố cáo lẫnnhau để tâng công. Viên thị trưởng còn định lợi dụng cả vợ và con gái hòng leo cao hơn trong sự nghiệp hoạn lộ... Tác phẩm "Quan thanh tra" đã phơi bày toàn bộ chế độ mục nát của Nga hoàng với bộ máy công chức toàn phường vô lại và trộm cướp.
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 12.01.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
CÔNG TRÌNH CỦA MỘT ĐỜI NGƯỜI:
CUỐN SÁCH
"MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN"
Gần nửa thế kỷ trước, Martin Luther King (nhà hoạt động dân quyền Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964) đã từng nói: "Trong đống ngổn ngang hài cốt và tàn dư của nhiều nền văn minh, nổi lên một dòng chữ đầy nuối tiếc: Quá muộn rồi. Sau đây, chúng ta sẽ đi về đâu, sự hỗn loạn hay một cuộc sống cộng đồng?"
Trong quá trình phát triển, con người đã nhận thức được một cách thấm thía hậu quả chính là từ trong sự phát triển- đó là ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và dẫn đến các tai biến môi trường, các nhiễu loạn sinh thái, điều đó đã và đang tác động đến an ninh xã hội, an ninh quốc gia và nhân loại. Nhận thức được những vấn đề môi trường gay gắt, các quốc gia và cộng đồng quốc tế đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất đầu tiên về môi trường ở Stockholm, và ngày 5/6/1972 đã trở thành ngày Môi trường thế giới. Kể từ đó đến nay đã gần 40 năm; mặc dù các quốc gia đã và đang thực thi nhiều biện pháp bảo vệ môi trường trong phát triển xã hội, song những vấn đề môi trường ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, nhất là trong các quốc gia nghèo mà năng lực chống đỡ bị hạn chế. Giữa lúc cả xã hội loài người đang xao xác tơi tả bởi những vấn đề Môi trường cùng các hệ lụy đau lòng bởi Môi trường bị tàn phá, Tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, giữa khi con người trên khắp hành tinh đang bị Thiên nhiên trả thù đích đáng bởi sự thiển cận, độc ác, tham lam của chính mình thì sự xuất hiện của một công trình nghiên cứu công phu như "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" vào lúc này kể đã là quá muộn! Nhưng, Muộn còn hơn không. Cùng với nỗ lực của các cá nhân, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế, cuốn sách mới nhất của PGS-TS Nguyễn Đắc Hy đã góp một tiếng nói quan trọng vào sự cảnh tỉnh cộng đồng: cần có một cách ứng xử văn minh và khoa học đối với Trái đất chung của chúng ta.
Công trình "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" (Nhà xuất bản CAND - Hà Nội, 2011) có thể nói là một "tập đại thành" những vấn đề về Môi trường và Phát triển xã hội cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực tiễn, vốn không có nhiều trong lĩnh vực này. Nó là sự tổng kết sau nhiều thập kỷ chiêm nghiệm, vật vã đau đớn của tác giả qua các công tác quản lý Nhà nước về môi trường, ở nhiều cơ quan khác nhau... Trước những tác động nguy hiểm của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng như các thiên tai: bão lũ, động đất, sóng thần v.v. đã, đang và sẽ gây ra những thiệt hại to lớn về người và của cải cho dân tộc và các vùng lãnh thổ trên thế giới, trong khi Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đang đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh sinh thái và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, thì sự xuất hiện của công trình "MÔI TRƯỜNG VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN" là một hành động chứa đầy ý nghĩa tích cực!
Là người làm phim độc lập vốn quan tâm sâu sắc đến Môi trường và Phát triển xã hội, chúng tôi đã coi cuốn sách của tiến sĩ Nguyễn Đắc Hy như một "cẩm nang" đặc biệt, thậm chí như một thứ "Thánh kinh" mới để thám hiểm vào biết bao vấn đề ngổn ngang và hóc búa về Môi trường, để từ đó soi vào những vấn đề xã hội nóng bỏng- như một góc nhìn cơ bản vào thực chất của sự phát triển bền vững cần có của xã hội chúng ta cả hôm nay lẫn mai sau...
Có một điều rất lý thú, do chính tác giả tâm sự: Một trong những động lực để ông hoàn thành được công trình của đời người này, lại xuất phát từ mấy câu thơ, sau một lần được dự cuộc tọa đàm về thơ Trần Dần tại L’ Espace (Trung tâm văn hóa Pháp - 24 Phố Tràng Tiền, Hà Nội): "Tôi hiểu rằng tư duy với kinh nghiệm của mình còn quá nhỏ hẹp trong biển cả của môi trường và sự phát triển... Tất cả những vấn đề quá rộng lớn đó khiến tôi nhiều lúc không đủ năng lực và can đảm để hoàn thành cuốn sách, không dám viết tiếp, vì càng viết lại càng cảm thấy sự hạn chế của mình. Song niềm tin vào tương lai, như nhà thơ Trần Dần:
"Tôi đói -
mọi cái gì
tôi chửa biết,
mọi khát khao
hy vọng
loài người
... đã cho tôi một nghị lực mới mẻ không ngờ..." (Tr.5-Sđd)
Trước khi mạn phép được đi sâu phân tích một cách tổng thể những giá trị của công trình dày gần ngàn trang in khổ lớn này với lời đề từ: "Văn minh sinh thái là cội nguồn của phát triển Hạnh phúc nhân loại", tôi xin được trích dẫn giúp bạn đọc gần như toàn bộ lời mở đầu của Phần hai cuốn sách:
"SINH THÁI NHÂN VĂN - NĂNG LƯỢNG KỲ DIỆU
Xin phép cho tôi được bắt đầu bằng một câu chuyện cảm động - thoạt tiên tưởng như là kỳ lạ, nhưng nếu suy nghĩ kỹ một chút, sẽ thấy biết bao thông điệp nhân văn cũng như nhận thức của con người về những vấn đề thời sự nóng hổi - đó là câu chuyện "Trong yêu thương, tất cả sẽ lớn lên” của tác giả Maria Montessori. Mời các bạn chịu khó theo dõi:
"... Năm lên năm tuổi, tôi được bố mẹ gửi đến một nhà trẻ tư thục nằm trong một khuôn viên xinh đẹp. Chín giờ sáng mỗi ngày, 33 bạn trong lớp lại được tập trung tại phòng lớn để làm quen với những bài học đạo đức đầu đời. Chúng tôi ngồi ngay ngắn trên những chiếc ghế đầy màu sắc hoặc trên tấm thảm dày giữa sàn có hình ông mặt trời rất đẹp. Chúng tôi luôn háo hức khi tham gia vào những bài học mới lạ đầy cuốn hút.
Một sáng nọ, khi chúng tôi đã ngồi ngay ngắn bên nhau, cô giáo phụ trách thông báo: Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu một bài học mới. Đây là bài học rất thú vị và cô muốn các con hãy ghi nhớ nó! Vừa nói cô vừa mang ra hai chậu cây nhỏ. Trên mỗi chậu là một cây con chỉ cao chưa tới gang tay với hai chiếu là bé xíu. Đây là hai cây hướng dương. Trông chúng có giống nhau không nào? Cả lớp gật đầu, vẻ rất nghiêm túc. Bây giờ, cô trò mình sẽ có một thí nghiệm nho nhỏ như sau: Chúng ta sẽ cung cấp cho cả hai cây cùng lượng ánh sáng và nước như nhau nhưng sẽ đặt chúng ở hai vị trí khác nhau. Một cây sẽ được đặt trên bệ cửa sổ trong nhà bếp, cách xa tất cả mọi người. Cây còn lại sẽ được đặt ngay tại phòng này, và nó sẽ cùng chúng ta sinh hoạt mỗi ngày. Nói xong, cô đặt một chậu lên bệ cửa sổ phòng lớn rồi dẫn cả lớp vào nhà bếp đặt chậu cây còn lại lên vị trí mà cô vừa nói. Nơi đó cũng có ánh sáng, có gió thổi nhưng khá kín và ít người lui tới. Quay về phòng lớn, trước những đôi mắt tròn xoe vì ngạc nhiên của chúng tôi, cô giải thích: Mỗi ngày, cô trò chúng ta sẽ hát cho chậu cây trong phòng này nghe, sẽ nói với nó những lời yêu thương và khen ngợi sự phát triển của nó. Chúng ta sẽ dành cho nó những điều tốt đẹp nhất, các con nhé. Một bạn giơ tay phát biểu: Còn cái cây trong kia thì sao, thưa cô? Cô giáo mỉm cười: Chậu cây trong nhà bếp sẽ được dùng làm vật đối chiếu với chậu cây bên ngoài này. Thế các con nghĩ chúng ta sẽ làm gì với nó nào? Mình không nói chuyện với nó hả cô? Một bạn lên tiếng hỏi. Đúng vậy, nói thầm cũng không được. Cô giáo trả lời dứt khoát. Mình cũng không nghĩ tốt về nó nữa ạ? Đúng rồi, đây chỉ là một thí nghiệm thôi, các con ạ. Chúng ta cùng chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra nhé!
Hai tuần kế tiếp, những đôi mắt thơ ngây của chúng tôi lúc nào cũng mở to, háo hức chờ đợi kết quả; thỉnh thoảng một vài bạn trong lớp len lén mở cánh cửa nhà bếp, nhìn thật nhanh chậu cây rồi vội vàng đóng lại như thể nếu nhìn lâu thì thí nghiệm của cô giáo sẽ "mất linh nghiệm”. Chậu cây trong nhà bếp trông thật yếu ớt và gầy nhẳng, hình như nó chẳng lớn lên chút nào. Trái lại, cái cây ngoài phòng lớn rất nhanh, dường như nó cảm nhận được tình cảm và sự quan tâm của chúng tôi qua những bài hát, những câu nói dịu dàng và những suy nghĩ tốt đẹp đầy tình yêu thương; nó đang vươn lên mạnh mẽ và căng tràn nhựa sống.
Bước sang giai đoạn tiếp theo của thí nghiệm, và để xoa dịu những tâm hồn nhạy cảm đang lo lắng cho sự sống còn của cây bên bệ cửa sổ nhà bếp, cô giáo quyết định mang nó ra ngoài phòng lớn; tất cả chúng tôi đều hết sức vui mừng trước quyết định này của cô. Từ nay, cây hướng dương đó sẽ không còn chịu cảnh cô đơn nữa; sang tuần lễ thứ hai, nó bắt đầu có những thay đổi tích cực; đến tuần thứ tư, nó bắt kịp cây hướng dương ở ngoài phòng lớn và hầu như không còn bất kỳ sự khác biệt nào giữa chúng. Tôi nhớ mãi hình ảnh hai cây hướng dương ngày ấy cùng bài học về tình yêu thương mà cô giáo đã mang đến cho chúng tôi, nó giúp tôi hiểu được rằng: "Trong tình yêu thương, tất cả sẽ lớn lên...”
(Theo: "All Things Grow... with Love")
Nhận thức về màu xanh của phát triển, của hoà bình trước hết phải xuất phát từ nhận thức về tự nhiên, quy luật của tự nhiên, quy luật của phát triển theo lẽ sống công bằng của xã hội... Đây chính là tư tưởng chủ yếu trong cuốn sách "Môi trường và con đường phát triển".
Trở lại đoạn văn trên, các bạn có thấy điều thú vị này không: cái giúp cho hai cây hướng dương phát triển bình thường không phải chỉ là nắng, gió, nước, không khí thuộc thế giới tự nhiên, mà còn là cái toát ra từ con người- không phải con người dửng dưng, khô lạnh, mà là con người nhân ái giàu xúc cảm...Và cả hai thứ nuôi sống hai cây hướng dương một cách thần kỳ đó được gọi là "năng lượng”.
Vậy, thực chất năng lượng là gì? Chúng từ đâu ra? Ý nghĩa của chúng đối với cuộc sống tự nhiên và xã hội loài người là gì? Cơ chế hoạt động và tương lai của chúng ra sao?
Trước hết, cần phải khẳng định một sự thật lớn mà không phải nhiều người đã biết: Sự sống của con người và hệ tự nhiên đều xuất phát từ những dòng năng lượng. Và tất cả các dòng năng lượng đều chuyển hoá thành các dạng năng lượng khác nhau cho sự phát triển của các hệ sinh thái, cho sự sống. Các dòng năng lượng đó đều phụ thuộc ở con người và xã hội cùng những phương thức sử dụng, chuyển hoá, sử dụng chúng phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho hạnh phúc của con người, cho hoà bình, hay cho chiến tranh- vì các mục tiêu chính trị hoặc các động cơ xã hội rất khác nhau, thậm chí đối địch nhau...Và ngày nay, hệ quả nhỡn tiền của quá trình giải phóng năng lượng là đã phát thải các khí nhà kính- chúng là thủ phạm gây nên sự biến đổi khí hậu, kèm theo đó là làm nhiễu loạn sinh quyển…Còn n ữa, việc khai thác bừa bãi các nguồn năng lượng tự nhiên mà không thể tái sinh được (như dầu mỏ và khí thiên nhiên). Tất cả những "sự cố” đáng buồn đó đã và đang làm cản trở đến sự tiến hoá của nhân loại!
Có nhiều loại tiến hoá khác nhau, như tiến hoá bản vị, tiến hoá nhân quyền, tiến hoá vì cộng đồng hay tiến hoá địa kinh tế - chính trị, v.v, mà tất cả những sự tiến hoá đó đều phụ thuộc vào tri thức nhân văn của nhân loại, vào tính chất của các thể chế chính trị quốc gia, cũng như trong các hoạt động thương mại, các quan hệ quốc tế… Nhưng tương lai của con người sẽ đi về đâu? Hạnh phúc, hoà bình, và nền sinh quyển bền vững sẽ ra sao?... Điều đó còn phụ thuộc vào trình độ của nền văn minh nhân loại, vào lương tri của con người giác ngộ được bản chất cái thế giới chứa đầy các loại năng lượng chúng ta đang sống.
Những dòng năng lượng tự nhiên (như mặt trời, năng lượng sinh học, năng lượng sinh thái, năng lượng trái đất, năng lượng sinh quyển, năng lượng vũ trụ,v.v), cùng với những dòng năng lượng nhân tạo (như năng lượng khoa học và trí tuệ, năng lượng kỹ thuật… và nhất là các dòng năng lượng chính trị, tình cảm của con người và của xã hội) có thể làm nên sự phát triển kỳ diệu trong thiên niên kỷ này, cũng như trong những kỷ nguyên tiếp theo của nhân loại hay không, điều đó trông chờ ở nhận thức của mỗi con người, vào tính chất của mỗi thể chế chính trị... Thực chất của quan hệ con người - xã hội với tự nhiên trong sinh quyển là quan hệ sử dụng, sở hữu, và quản lý năng lượng- bao gồm năng lượng vật thể và năng lượng phi vật thể (như năng lượng tâm linh, năng lượng tôn giáo...) Các dòng năng lượng vật thể và phi vật thể bao gồm năng lượng vật chất tự nhiên và vật chất nhân tạo đó thông qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh - thương mại và cộng đồng... mà phát huy hiệu quả. Cụ thể hơn, ta sẽ có năng lượng vi sinh, vi điện tử, năng lượng vũ trụ, năng lượng nhân sinh, năng lượng khoa học, năng lượng trong các quan hệ xã hội, chính trị, địa - chính trị, tôn giáo - dân tộc... Tóm lại, năng lượng và quan hệ năng lượng- từ năng lượng vật thể đến năng lượng phi vật thể- luôn luôn và bao giờ cũng là nền tảng của sự sống, của sự phát triển trong lịch sử tiến hoá của nhân loại- nhân loại trên trái đất và ở cả hành tinh khác trong những kỷ nguyên sau này.
Để làm sáng tỏ hơn về chuyện năng lượng, tôi xin kể lại một sự kiện còn nóng hổi: Tháng -2009, khi tổ chức rước tượng Phật Ngọc về chùa Phật Tích huyện Tiên Sơn- tỉnh Bắc Ninh, trong vòng 1 tuần mà tổng số người từ nhiều tỉnh thuộc Trung du và vùng đồng bằng sông Hồng đã có tới 4 triệu lượt người về dự lễ phật, chiêm ngưỡng đức phật Ngọc Thạch từ Úc sang Việt Nam (qua 5 địa điểm chùa từ miền Trung đến miền Nam và miền Bắc). Từ đó có thể xác định được giá trị tâm linh - phi vật thể được lượng giá thông qua số lượng người, các chi phí cùng những đóng góp vật chất... trong dịp về lễ Tượng Phật Ngọc. Như vậy, trong lượng giá trị của các vật thể vật chất tự nhiên, các giá trị sinh thái (mà các phương pháp định lượng đang trong quá trình nghiên cứu), ta cần tính đến cả những giá trị tâm linh - giá trị phi vật thể, bởi chúng cũng đều được lượng giá thông qua việc luợng giá trị chuyển đổi. Các giá trị tâm linh - giá trị phi vật thể là những dòng năng lượng có từ cấp số cộng đến cấp số nhân, và hơn nữa là cấp vũ trụ... Chúng lại được nhân lên từ tình thế tác động của con người, được cộng hưởng với các giá trị đặc biệt, lớn lao của những năng lượng sinh ra trong các biến cố lịch sử lớn, ví như các cuộc cách mạng (cách mạng văn hoá, cách mạng thánh thần, cách mạng vũ trụ, cách mạng tôn giáo, v.v. )
Nhìn lại sự tiến hoá hàng triệu năm- từ các kỷ nguyên trái đất - sinh quyển đến các kỷ nguyên vũ trụ, ta nhận thấy một điều sáng rõ: dòng chảy thời gian cùng với sự chuyển hoá của các kỷ nguyên sẽ luôn luôn và bao giờ cũng gắn bó mật thiết với nền văn minh của nhân loại trên trái đất. Và sau này, khi tới kỷ nguyên vũ trụ, cũng đều có điểm xuất phát lẫn động lực ở trí tuệ và văn minh của nhân loại để bảo vệ, để cải thiện cái không gian nhiều chiều mà con người sống trong đó- được gọi một cách nôm na, đã trở nên quen thuộc thậm chí đến nhàm chán, đó là MÔI TRƯỜNG.
Vậy, môi trường có vị trí nào trong thế giới năng lượng mà chúng ta đã bàn ở trên? Xét cho cùng, môi trường cũng là một thứ năng lượng đặc biệt, mà chỉ vì không hiểu biết về nó, con người ta đã huỷ hoại nó! Môi trường hoàn toàn phụ thuộc vào các cách thức phát triển của xã hội, phụ thuộc ở sự phát triển hài hoà giữa hệ thống kinh tế - xã hội, với hệ tự nhiên.... Tương lai tươi sáng của môi trường ra sao? Cần làm gì để tránh những hiểm hoạ, tai biến và các sự cố dẫn đến huỷ diệt, để cuộc sống con người thoát khỏi nghèo đói cùng biết bao nhiêu bệnh tật bởi môi trường ô nhiễm, các hệ sinh thái bị huỷ hoại?... Môi trường và con đường phát triển phải nằm trong chủ quyền tài nguyên, tài sản quốc gia và trong hệ sinh quyển chung, kết hợp giữa tinh thần nhân văn dân tộc với tinh thần hợp tác vì năng lượng nhân quyền. Và những giá trị tài nguyên quốc gia đó tuy đã đem lại các giá trị gia tăng đích thực cho nền kinh tế đất nước, song đương nhiên không phải là tăng trưởng tư bản từ tài nguyên - tăng tài sản cho quốc gia, mà chính là kinh doanh - thương mại - bán các nguồn tài nguyên của đất nước; vì vậy, khi phân tích, đánh giá tăng trưởng GDP cần phải xem xét các giá trị gia tăng cũng như các giá trị mất đi của các dòng năng lượng tài nguyên tự nhiên... Những điều lớn lao đó có giải quyết được hay không lại phụ thuộc vào sự lựa chọn phát triển, vào nền văn minh của nhân loại mà trong đó, lương tri - đạo đức con người cần đặt lên hàng đầu!
Trong những năm tháng công tác về chính sách, về chiến lược trong Nhà nước, và trong khi viết cuốn sách "Môi trường và Con đường phát triển”, tôi thường tự hỏi: suy nghĩ và hành động thực tiễn của nhân loại trong tiến trình tiến hoá của nhân loại đã diễn ra như thế nào? Và, tôi cần phải rút ra điều gì từ đó, để cuốn sách trở nên hữu ích với nhiều người? Đây chủ yếu là sự tập tập hợp tri thức nhân loại và có vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh, thực tiễn ở nước ta, từ đó góp phần vào việc đề ra những chính sách, pháp luật và thể chế quản lý Nhà nước về Môi trường và Phát triển. Tôi đã mất nhiều thời gian sưu tầm tư liệu… Trong những năm tháng học tập ở Liên Xô trước đây về quản lý kinh tế và viết luận văn tiến sĩ, tôi may mắn được tiếp xúc với rất nhiều tác phẩm của các nhà triết học, chính trị học, kinh tế học kinh điển từ những thế kỷ trước mà các giá trị trí tuệ vẫn còn có thể soi sáng lâu dài cho sự phát triển chung của nhân loại. Và sau gần 10 năm thôi quản lý Nhà nước, lại có thời gian nghiên cứu, tôi có điều kiện nghiệm chứng lại về những vấn đề môi trường và phát triển trong hiện tại cũng như xu hướng trong tương lai… Đó là điều cốt lõi mà tôi muốn được thể hiện trong cuốn sách "Môi trường và con đường phát triển”. Đây là cuốn sách tiếp theo cuốn "Phát triển bền vững trong tầm nhìn của thời đại” (xuất bản năm 2003). Cuốn sách mới này thực chất là sự tiếp tục dòng suy tưởng về "những vấn đề môi trường và sinh thái trong phát triển” từng được những học thuyết của các nhà kinh điển về triết học, kinh tế chính trị học, địa lý học, sinh thái học... kiểm nghiệm, đúc rút ra nhiều quy luật của sự phát triển mà ngày nay nó vẫn đang cần thiết đối với con đường phát triển lâu dài và bền vững của nhân loại.
Cuốn sách "Môi trường và Con đường phát triển” được viết trong thời gian cuối của cuộc sống, khi tôi đã nhận ra được một điều: tri thức của con người thì mênh mông, triết lý của cuộc sống thì trường cửu, song hành động của nhân loại vì nhân sinh thì đầy rẫy những bất cập, thậm chí là tội lỗi... ngược hẳn lại với những điều mà tôi đã học được về giá trị của nền văn minh nhân loại vốn đề cao các quan hệ giữa phát triển với tự nhiên và xã hội, cũng như sự điều khiển nhịp nhàng lương thiện của các thể chế xã hội - cộng đồng trong mối liên hệ sinh quyển và con người… Nỗi buồn, niềm lo lắng và sự bất an cũng là một nguồn cảm hứng lớn khi tôi cầm bút…
Để viết được cuốn sách này, dòng năng lượng chủ yếu giúp tôi chính là từ những buổi sáng sớm, những buổi chiều tà khi đi tập thể dục quanh khu vườn Văn Miếu - Quốc Tử Giám- lúc năng lượng trí tuệ phát ra nhiều nhất, nó vừa gợi lại cho tôi những ý tưởng mới, đồng thời hồi tưởng được các tích luỹ qua những năm tháng học tập, qua các hoạt động thực tiễn trong công tác quản lý Nhà nước- từ Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nước đến Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường, và khi về hưu làm việc cho Viện Sinh thái và Môi trường… Đúng theo lý thuyết Phật giáo, đó là "dòng năng lượng” được phát sinh chính từ trong tư duy "hướng tâm”. Phải chăng, đó chính là "dòng năng lượng” nhân tạo có giá trị nhất của con người đối với sự phát triển của nhân loại, của cộng đồng và của hệ thống tự nhiên mà tôi đã may mắn có được?
Những năm cuối của thế kỷ trước, tôi tình cờ được đọc một cuốn sách lý thú của hai tác giả Aurelio Peccei (Ý) và Daisaku Ikeda (Nhật) - cuốn "Tiếng chuông cảnh tỉnh cho thế kỷ XXI", trong đó có những dòng dẫn luận khiến tôi suy ngẫm nhiều năm: "Tình hình toàn cảnh thế giới đang trở nên xấu đi, và một điều rất thực tế là mối nguy hiểm do những cuộc khủng hoảng hiện nay gây ra đang trở nên nghiêm trọng hơn... Thật vô lý nếu chúng ta xao lãng những cơ hội to lớn mà nhân loại có được do kết quả của tri thức cùng những phương tiện khoa học; và cũng thật vô lý nếu chúng ta từ chối trách nhiệm cải thiện số phận của chính chúng ta”. Trong khi cố gắng "thức tỉnh con người”, thực hiện "cuộc cách mạng con người”, hai tác giả đó đã nhấn mạnh yếu tố "con người” như một dạng năng lượng đặc biệt có sức mạnh kỳ diệu: "Chúng tôi cho rằng, rất nhiều vấn đề chủ yếu hiện nay là thuộc về tư tưởng và đạo đức, và không có một sức mạnh khoa học kỹ thuật nào hoặc biện pháp kinh tế nào có thể giải quyết được những vấn đề đó... Khi chúng ta tự hoàn thiện mình từ bên trong, chắc chắn chúng ta không bao giờ bị sụp đổ” - và tôi xin mạn phép thưa thêm: chắc chắn thế giới này sẽ không bao giờ bị sụp đổ... Suy tưởng về giá trị vô song của năng lượng đạo đức - tinh thần, tư tưởng sẽ cứu rỗi thế giới đó, từ hơn hai nghìn năm trước, Đức Phật đã nói tới, và trong kỷ nguyên năng lượng - khí hậu, nhất là trong thế kỷ XXI. Khi nghiên cứu những vấn đề môi trường và con đường phát triển, chúng ta không thể không nghiệm chứng về các nguyên lý trường tồn trong các lý thuyết triết học và nhân văn mà các nhà khoa học vĩ đại những thế kỷ trước đã chỉ ra, như thuyết tương đối của nhà vật lý&năng lượng Einstein, thuyết Darwin xã hội của nhà sinh vật học Darwin; về kinh tế học Adam Smith- tác giả "Của cải của dân tộc"; về địa lý kinh tế V.I Vernadsky, về các chu trình địa lý tài nguyên và kinh tế; về sinh thái học ODum, các lý thuyết về biện chứng của K.Marx, F.Ăng-ghen, V.Lenin; lý thuyết nhân chủng học Malthus về quan hệ giữa dân số và nhu cầu năng lượng... cùng tư tưởng của nhiều nhà hoạt động chính trị xã hội như Napoleon trong mục tiêu hành động "Không có gì là không thể”, nhà kinh tế học Hungmen về "tâm lý trong kinh tế kinh doanh - tài chính”, và nhà báo nổi tiếng Friedman về "thế giới phẳng”, v.v.
Kho tàng mênh mông của tri thức nhân loại, qua các nhà khoa học vĩ đại kể trên và nhiều nhà khoa học khác nữa mà tác giả không thể kể hết và vận dụng hết vào trong cuốn sách của mình. Nhưng có lẽ bài học lớn nhất mà tôi rút ra được khi suy nghĩ về cuốn sách này là: mọi sự sống của tự nhiên và xã hội loài người đều có các giới hạn, và khi vượt quá giới hạn sẽ xảy ra các nhiễu loạn; khi đó con người và xã hội phải điều chỉnh đề tiến lên nấc thang phù hợp với sự phát triển mới. Như vậy, quy luật phát triển cũng chính là quy luật của tiến hoá nhân loại trong sinh quyển...
Những tư tưởng của các nhà chính trị - kinh tế - xã hội nêu trên giống như một lời kêu gọi khẩn thiết, nóng bỏng tính thời sự. Những vấn đề cốt lõi ở cuốn sách được đúc kết từ những suy ngẫm của bản thân tôi trong quá trình công tác và quản lý trên lĩnh vực tài nguyên và môi trường- chúng hoàn toàn được dựa trên các nguyên lý triết học xã hội, kinh tế, chính trị, sinh thái nhân văn, cùng cách nhìn lịch sử phát triển trên quan điểm sinh thái học và địa kinh tế - chính trị.
Đối với những vấn đề nhạy cảm và phức tạp đề cập trong cuốn sách này, tác giả luôn cảm thấy mình chỉ là một người học việc, một học trò mà dám to gan bình luận... Tuy vậy, tác giả đã dám nói ra những suy tư, nhận thức của mình, trong một lĩnh vực thời sự quen thuộc nhưng lại còn mới mẻ về lý thuyết, về quan hệ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên với bảo vệ môi trường- nhất là ở nước ta. Hy vọng rằng, cuốn sách nhỏ gồm tri thức và thực tế mà tôi góp nhặt được ở đây chỉ như là công sức trong việc tổng hợp có tham chiếu từ những vấn đề của lý luận, cũng như thực tiễn phát triển của nhân loại.
Thời gian trôi cuốn theo những dòng năng lượng vật chất - văn hoá - tâm linh - chính trị cho sự phát triển bền vững, và chúng sẽ được lượng giá để trở thành nền văn minh của nhân loại. Chính những năng lượng tư duy trên cùng với năng lượng tâm linh trong giấc mơ về cháu ngoại của tôi ra đời từ dòng năng lượng Phật độ... đã là một trong những động lực tinh thần lớn giúp tôi hoàn thành công trình này..."
Còn biết bao điều lý thú và giàu ý nghĩa của cuốn sách trên, chúng tôi xin được khất quý vị độc giả trong những bài viết tiếp theo. Xin được thay mặt tác giả vô cùng cảm ơn quý vị!
Hà Nội, cuối năm Tân Mão 2011
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
Ảnh:
- Tác giả nguyễn Đắc Hy và bìa cuốn sách
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 01.01.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Nhìn lại "Hiện tượng Lý Phương Liên" của 40 năm trước
(Nhân Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII) -
Em tuổi hai mươi như tất cả mọi người
Chọn số phận ở thời mình đang sống…
Tôi sẽ không gọi Lý Phương Liên là nhà thơ- mặc dù chị xứng đáng và cần được gọi như vậy, nhất là khi danh xưng "nhà thơ" đang bị lạm dụng. Tôi cũng sẽ không dám nói nhiều tới nội dung- nghệ thuật những sáng tác thơ ca của chị, vì "Sau biết bao chìm nổi, nương dìu nhau mà sống, 40 năm sau, tập thơ "Ca bình minh" của Lý Phương Liên và tập "Thơ Nguyễn Nguyên Bảy" ra mắt bạn đọc" (Thanh niên Oline), đã có nhiều người viết làm công việc đó một cách công tâm, sòng phẳng. Với tư cách là một người yêu thơ, và là một người bạn vong niên rất lâu của chị, nhân Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ VIII đang diễn ra, tôi chỉ muốn nhìn lại đôi chút về "Hiện tượng Lý Phương Liên" sau một quãng thời gian đủ hình thành dăm bảy thế hệ người viết...
Vào đầu thập niên 70 thế kỷ trước, khi những bài thơ của cô thợ máy Lý Phương Liên xuất hiện đã gây ra những "cơn sốt" trong dư luận. Hồi đó, những người ở lứa tuổi đôi mươi hình như cùng sống trong một "bầu khí quyển" tinh thần đặc biệt của xã hội, đều có thể rung động trước những câu thơ "chói ngời sắc đỏ" của Nguyễn Mỹ hoặc "nhuộm mầu thu vui" xanh rượi tình yêu thương của Lý Phương Liên - nói chung là chúng chẳng khác nhau là mấy, hoặc chỉ là những biểu hiện khác nhau của một tâm trạng chung: cùng một niềm tin yêu rộng mở, cùng một suy nghĩ nghiêm trang, cùng một niềm đắm say ngây ngất trong một hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi phải dâng hiến tất cả cho Tổ quốc và Dân tộc đang đứng trước thử thách hiểm nghèo... Chị không phải là một nhà thơ theo nghĩa thông thường. Có thể nói chị là một hiện tượng văn chương, hơn thế, một hiện tượng tâm lý xã hội, một ánh xạ của tinh thần thời đại, một tiếng vọng chân thực của tinh thần đông đảo lớp trẻ hồn nhiên, hăng hái, say đắm lý tưởng. Cứ mỗi lần đọc lại thơ Lý Phương Liên, những ai có chút tâm hồn lãng mạn thời ấy ( mà ta quen dùng đến nhàm và có phần thái quá là "lãng mạn cách mạng") đều có thể cảm nhận được cái men sống kỳ lạ ; không ít người đã nâng niu chút men ấy, cái hương vị ấy của tình người để mà sống qua những chặng đời gian nan - dù ở khói lửa chiến trường hay trong chốn sương mù tịch mịch, tất cả đều gìn giữ cái "màu hoa chuối đỏ tươi" (Nguyễn Mỹ) và những "đêm hè trời đầy sao hoa" tận đáy hồn...
Thơ Lý Phương Liên kể về ngôi nhà của chị giống như một "Cái lò tổ ấm năm chị em", về bảy gia đình trong "Xóm nhỏ", về "Chị hàng xóm làm nghề tráng bánh đa nem", về một lần "Chờ anh dưới cột đồng hồ", về chuyện "Thắp hương", về Hà Nội "Sau cơn mưa", v.v. Tất cả đều giản dị, với "tính chân thực của ngôn ngữ"- song điều quan trọng hơn cả là chúng đã vươn tới "tính chân thực của thông báo" trong "quá trình tìm kiếm chân lý của nghệ thuật"- như nhà lý luận văn học Nga kiệt xuất Iuri Lotman từng đòi hỏi.(1) Cũng chính "tính chân thực của thông báo" đó cùng dấu ấn tâm hồn riêng biệt của Lý Phương Liên đã là cái giúp cho thơ chị vượt thời gian.
Lý Phương Liên hồn hậu làm thơ, như đã hồn hậu sống, hồn hậu tin tưởng, hồn hậu vượt lên trên mọi bất hạnh của số phận rơi xuống gia đình nhỏ bé của chị mà chị đã tình nguyện gắn nó vào số phận chung của cả dân tộc một cách đầy ý thức. Chị hồn nhiên kể hết những khổ nghèo, thiếu thốn, đắng cay, không hề thi vị hóa chúng. Ai cũng có thể soi mình trong đó, để tìm sự an ủi, sự cảm thông, một chỗ vịn tinh thần tình cảm để cùng vượt qua bao nỗi cam go:
Cái nghèo chẳng dễ hiểu đâu
Xa sâu như tiếng đàn bầu trong khuya
Linh thiêng lời mẹ dặn dò
Kiếp người là một gánh lo hãi hùng...
Điều gì đã cho chị thổi được vào sự sống cái tình yêu run rẩy với những hình ảnh đơn sơ, quen thuộc thế này:
Từ vị ngọt của lúa thơm
Từ hương mát của hoa trái
Từ sức gió chạy trên đồng hoang dại
Từ bong bóng mưa tháng năm...
... Chân mang gió qua núi
Cánh cò cô đơn, cánh cò lặn lội
Góa chồng nuôi con
Câu ca dao xôn xao trời đêm
Và tiếng hát
Xôn xao những cánh đời đói khát
Chị giải thích đó là do "Cội nguồn"- như tên của bài thơ, và đó cũng là cội nguồn sâu xa của một vệt Thơ chắt ra từ suy nghĩ xoáy lòng, từ dự cảm trước những điều bất công ngang trái, từ tinh thần dũng cảm sống không đầu hàng số phận của "tuổi hai mươi không tin vào định mệnh", đồng thời không lúc nào rời xa yêu thương hồn hậu:
Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa
Không có vùng trời nào toàn chim hót
Không có cây khế vàng trong cổ tích
Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng…
Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng
Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại
An phận ư? Mơ hồ sợ hãi
Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…
Thế là đã rõ: có tin yêu hồn hậu thì mới có tâm trạng ngơ ngác, sự thất vọng chua xót, nỗi đau đớn tận cùng, rồi từ đó mới có lòng dũng cảm để sống, để vượt lên mọi thử thách và để khẳng định bằng câu hỏi: "Có gì đẹp hơn tình yêu không anh?" Nhưng cũng chính từ tận đáy của niềm tin yêu trong trẻo, Lý Phương Liên đã có những suy ngẫm đích thực và xoáy sâu về thân phận con người, về trách nhiệm sống thực sự của con người trong cộng đồng xã hội, khi mà "Số phận mình là số phận của nhân dân". Và đó cũng là một nội dung tư tưởng quan trọng trong bài thơ dài "Nghĩ về Thúy Kiều"- khi in sách đổi thành "Trò chuyện với Thúy Kiều" mà nhà văn Triệu Xuân cho rằng "là một trong những bài thơ hay nhất của cuộc đời thơ Lý Phương Liên, nó là "đỉnh" của chị."(trieuxuan.info). Những người nỡ "đánh" tàn tệ bài thơ "Nghĩ về Thúy Kiều" lúc ấy đâu có hiểu rằng: "đánh" nó tức là cũng vô tình "đánh" vào sự hồn hậu đáng yêu kia. Nàng Kiều của thi hào Nguyễn Du cũng hồn hậu tin đời, tin người đấy thôi, và nếu có lúc nào đấy nàng nhận ra sự bội phản, hiểu rõ sự bất trắc thì cũng chủ yếu là do tình yêu thương hồn hậu tận trong bản năng mách bảo. Lý Phương Liên, một cô gái 20 tuổi đã đồng cảm với nàng Kiều, và đã cố gắng thâm nhập vào chiều sâu trái tim người nghệ sĩ vĩ đại- nơi đã tìm ra những bí mật khuất lấp, những thế lực đen tối giật giây số phận con người vô tội. Trong "dàn đồng ca quan họ" văn chương (chữ của Nguyễn Nguyên Bảy) lúc đó, tiếng thơ của Lý Phương Liên vút lên trở thành một trong những giọng ca chủ đạo, trở thành một trong những "liền chị" có uy tín nhất, được nhiều người quý mến hơn cả, bởi hơn ai hết, chị đã nói ra được cái không khí tinh thần chung, lý giải cái điều mà nhà thơ Hoàng Xuân Họa đã chân thành kể lại: "... thơ chị đã làm rung động cảm xúc mấy thế hệ bạn đọc ngày ấy. Những người hôm nay tuổi từ 60 – 80 từng là nhà giáo, sinh viên, bộ đội, công nhân thời đó hầu như đều đọc, thuộc bài Ca Bình Minh, Lời Ru Với Anh, Ngã Ba... trong lúc cuộc sống thời chiến chẳng dư dả gì, lấy thơ nâng đỡ tinh thần để làm việc và chiến đấu... Từ chiến trường trở về tôi vẫn giữ được cuốn sổ có chép ba bài thơ: Lời Ru Với Anh, Ca Bình Minh và Em Mơ Có Một Phiên Tòa chép trên báo Nhân dân trước đó mấy năm, đem đi hỏi bạn bè về tác giả Lý Phương Liên, thấy ai cũng nhìn trước nhìn sau im lặng tảng lờ chẳng dám nhận mình đã đọc thơ Lý Phương Liên, mặc dầu họ đều là những người làm nghề chữ nghĩa, viết lách, thèm thơ như thèm lĩnh tiền nhuận bút, cuốn sổ gạo, ô phiếu thịt!"(vandanviet.net) Vậy mà thơ Lý Phương Liên đã không hề có "những trận bạo động chữ” nào - theo cách nói của nhà văn Văn Giá (phongdiep.net), cũng không hề có cái chuyện thường ngày bây giờ của một số người viết trẻ là "nặng tiếp thị, "nổ”, PR quá đà thành gian dối gây thất vọng."(Vi Thùy Linh- trannhuong.com). Thơ Lý Phương Liên có thể là một minh chứng sáng rõ nhất cho cái đòi hỏi này của nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên: "Văn học nói chung, văn học trẻ nói riêng, không thể là một thứ viễn mơ, xa rời và thờ ơ với số phận nhân dân, dân tộc” (phongdiep.net)
Để có thể khẳng định thêm về ảnh hưởng của "hiện tượng Lý Phương Liên" đối với đời sống xã hội nói chung, đời sống văn học nói riêng, tôi cho rằng cần nhắc đến một luận điểm trong tiểu luận đặc sắc: "Quan niệm về thơ ca trong thơ Pushkin" của triết gia Nga Vladimir Soloviev mà những người viết trẻ hôm nay cũng có thể rút ra được những điều quý giá cho bản thân: "Thơ ca có thể và phải phục vụ cho cơ đồ của cái chân và cái thiện trên thế gian- nhưng chỉ bằng phương cách của mình, chỉ bằng vẻ đẹp của mình và không bằng một cái gì khác... Tất cả những gì có chất thơ- có nghĩa là tất cả những gì đẹp- sẽ bằng cách ấy dồi dào nội dung và hữu ích theo nghĩa tốt nhất của từ ấy". (2) Và cũng chính V. Soloviev đã viết về tình yêu dân tộc và đất nước trong tác phẩm của thi hào Ba Lan A. Mickiewicz như một lời kêu gọi thấm thía đối với mỗi người cầm bút Việt Nam hiện tại: "Cả ở đây trong sức mạnh đặc biệt của tình cảm có sự dự liệu một chân lý vĩ đại, nó nói rằng dân tộc cũng như ngã thể con người có sứ mệnh vĩnh hằng và tuyệt đối, và phải trở thành một trong những hình thức trường cửu, có giá trị tự thân và không thể thay thế... cần làm sao cho thể trần thuật của tình cảm ái quốc: "tôi yêu nước" chuyển thành thể mệnh lệnh: "hãy giúp đất nước ý thức được và thực hiện được nhiệm vụ cao nhất của nó"... (3)
Hà Nội, 9/9/2011
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
1. Cấu trúc văn bản nghệ thuật - Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2004, tr.38.2,3. Siêu lý tình yêu. Những tác phẩm triết- mỹ chọn lọc, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Văn hóa Thông tin & TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội- 2005, tr.854, tr.906
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 22.9.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Xin trích kèm theo một vài bài thơ
tiêu biểu của Lý
Phương Liên
CA BÌNH MINH
Em đi làm ca ba
Đêm buồng đầy đường phố
Hà Nội vào giấc say trẻ nhỏ
Em đi giữa lòng đường
Hát khẽ...
Bạn bè em có nhiều ý lạ
Khi nói tới ca ba
Ca của những đêm hè trời đầy sao hoa
Ca của những đêm đông bập bùng ánh
lửa
Còn em với niềm vui bé nhỏ
Em gọi ca ba là ca bình minh
Ý nghĩ ấy gặp em như một sự vô tình
Đêm ca ba đi dọc đường Nam Bộ
Tay vẫy chào những đoàn tầu rời
ga Hàng Cỏ
Đưa bộ đội lên đường
Các anh đi suốt ca ba thẳng tới chiến
trường
Đón bình minh Đất Nước
Và một đêm ca ba hôm trước
Chị hàng xóm nhà em trở dạ đầu long
Em dìu chị đến nhà hộ sinh
Sáng hôm sau gió cao trời xanh
Chị hàng xóm đón em tiếng oa oa con
khóc
Ai cũng muốn mỗi ngày đời là một ngày
sống đẹp
Đêm thao thức cho ngày
Ơi ca ba! Ca ba em đi vào hôm nay
Đã thấy bình minh trước mặt
LỜI RU VỚI ANH
Chim bằng ngoan của em ơi
Đêm nay ngon ngủ sáng mai lên đường
Em ngôi nhìn ngắm yêu thương
Cho no mắt nhớ ngày thường chim bay
Em muốn anh như bàn tay
Xòe ra là gặp
Chim bằng trời biếc
Chim bằng con trai
Ngủ ngoan anh nhé sáng mai lên đường
Ở nhà bên cạnh người thương
Để chim nghỉ cánh dặm trường đời xa
Lồng son phòng hẹp đôi ta
Chim bằng chẳng thể quanh ra quẩn vào
Xa anh nói nhớ làm sao
Chân đứng tổ kiến lòng chao gió cành
Lẽ nào em buộc cánh anh
Buộc cánh anh
Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình
yêu
Trời lộng chim reo
Mắt em mai sớm dõi theo chim bằng
Nỗi nhớ trong long
Cho chim cánh gió
Cho ngày nắng nỏ
Chim bay
Ngủ ngoan anh nhé đêm nay
Để mai xa suốt tháng ngày có em...
TỪ LỜI RU CỦA MẸ
Có lẽ nào những lời ru của mẹ
Hóa những lời tiên tri
Cò cha cò mẹ bay đi
Cò con côi cút lấy gì nuôi nhau...
Mới tám tuổi đầu
Cha mất
Mẹ lặn lội thân cò bến chợ bến song
Em còn vừa mới lọt long
Con đưa nôi em ngủ
Con cò bay la con cò bay lả
Chúng con ngủ lúc nào trong tiếng mẹ
ru đêm
Tiếng ru như có con thuyền
Ra sông Vào biển
Nào ngờ thuyền chúng con bị cuốn vào
bão lớn
Năm chị em ôm nhau
Mẹ mất
Lời tiên tri đúng thật
Con là cây buồm mười tám tuổi chổng
chiêng
Những lúc chợt rùng mình kinh sợ
Con lại nghe tiếng mẹ ru hời
Cánh cò trắng muốt như soi
Lời ru đi suốt cuộc đời chúng con
Áo rách giữ thơm
Đói lòng ăn sạch
Cánh cò trắng không mầu gì nhuộm được
Con mở buồm đón gió mà đi...
TRÒ CHUYỆN VỚI THÚY KIỀU
Hai trăm năm và chảy dài vô hạn
Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài
Trái đất chúng mình cho đến hôm nay
Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm
nổi
Thời gian còn nửa ngày là đêm tối
Còn đồng tiền đổi trắng thay đen
Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen
Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ
Tôn Hiến
Còn những đất đai triền miên chinh
chiến
Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm
dài…
Bốn tiếng đàn lắng thấm vào tâm tưởng
Ôi con người có dễ gì tưởng
tượng
Con người khốn khổ thế này chăng?
Thúy Kiều ơi, Thúy Kiều ơi
Bao giờ người mới thoát đời lênh
đênh?
Thời gian đọng lại buồn tênh
Mỗi trang Kiều một mông mênh cõi
người…
2
Mẹ em bảo
"Có một đấng thiêng đứng trên đầu
trái đất
Đôi mắt nhìn khắp cả xa sau…”
Mẹ em tin như thế từ lâu
Và cầu mong số phận đừng phụ bạc
Niềm tin ấy chẳng bao giờ đổi khác
Chết chồng lủi thủi nuôi con
Mẹ không thể làm gì cho đời mẹ vui
hơn
Số phận buộc mẹ vào cơ cực
Những lúc mẹ thầm thào với con về
hạnh phúc
Cũng là khi lòng mẹ nguyện cầu
Ai đưa mẹ tới mai sau
Thiên đường của một hành tinh khác
Con kinh hoàng nhận nỗi đau mẹ chết
Cuộc đời này có số phận thật chăng?
Có đấng nào mách bảo mẹ đâu
Đời con còn đó mai sau
Sống là điều mẹ nguyện cầu cho con
Cửa nào cũng khóa chốt, cài then
Hỡi oan hồn định mệnh Đạm Tiên
Hỡi réo rắt tiếng đàn Kiều trầm bổng
Xin đừng dọa người yêu cuộc sống
Em bước lên gõ cửa cuộc đời
Đời của tôi ơi
Em mở vòng tay đón
Hỡi trời cao đất rộng
Đời bao nhiêu sắc mầu, bao cung bậc
âm thanh
Sắc mầu nào chẳng vẽ nên tranh
Cung bực nào chẳng thành thơ, thành
nhạc
Đại dương nào ẩn trong màu nước biếc
Chẳng sóng ngầm, mắt bão với phong ba
Không có con đường nào toàn bóng mát
và hoa
Không có vùng trời nào toàn chim hót
Không có cây khế vàng trong cổ tích
Kho báu cũng không, dù có mật khẩu
vừng…
Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi
hung
Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại
An phận ư? Mơ hồ sợ hãi
Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…
Trên chết chóc muốn dập vùi
Trên đau thương mới là người, người
ơi…
Tôi tuổi hai mươi, không nơi nào có
được
Tôi sinh ra giữa cơn lốc xoáy tròn
đất nước
Vai gánh nặng cuộc chiến tranh hủy
diệt
Mỗi người dân đều nhận phần mất mát
Chia đều nhau bom đạn với cơm ăn
...Em tuổi hai mươi như tất cả mọi
người
Chọn số phận ở thời mình đang sống…
Định mệnh đây, chúng tôi bay qua lửa
Cứu sống Kiều từng trang
Hai vai tôi kéo lặc lè đồ đạc nặng
Cũng như nàng, có thể nặng
hơn
Có khác chăng, nàng chẳng một đoái
thương
Xe đồ tôi ai qua đường cũng đẩy
Những mái tóc bạc phơ hay đỏ cháy
Những nét cười duyên dáng cũng xăn
tay
Ai cũng nhận xe đồ tôi chở nặng hôm
nay
Là chính xe đồ mình chở nặng
Xung quanh tôi không một ngày buồn
vắng
Không một đêm cay đắng tủi hờn
Không một ai có thể giầu hơn
Không ruột thịt mà đầy nhà ruột thịt
Không họ hàng mà xum vầy thân thiết
Không mẹ cha mà đầy đủ mẹ cha
Tôi vượt lên mình thực chẳng êm ru
Nhưng đứng lại thì chưa ngày tôi nghỉ
Thúy Kiều ơi, như người sang song
Tôi đưa đò cập bến
Năm chị em côi nghỉ dăm ngày trên bến
Sắp đến đoạn đường ra biển dài lâu
Cuộc đời mình chưa lặng gió được đâu
Số phận mình là số phận của nhân dân
Soi gương đời nhìn thấy hết gian
truân
Thấy hết gian truân để mà cười, mà
sống…
Đường ra biển có thể dài năm tháng
Mất mát nhiều hơn, gian khổ
cũng nhiều hơn
Nhưng một điều chắc chắn phi thường
Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng
đẹp…
Thúy Kiều ơi, tôi nghe rõ tiếng đàn
Nàng đang gẩy khúc nào mà bổng trầm
réo rắt
Tiếng gõ cửa cuộc đời ngày thêm dồn,
thêm gấp
Lắng nghe, lắng nghe… chính tiếng đập
tay người
Chúng ta mở cửa cuộc đời
Và cầm lái con thuyền nhân định
Giữa biển lớn thuyền chúng ta lướt
đến
Sáng toàn thân ánh sáng của con
người!
(Rút từ tập "Ca bình minh"-
Nxb văn học, 2011)
___________________________________________
___________________________________________
"Tìm về cơn khát dịu êm..."
*
Mãi đến tận chiều nay, "Hình như bóng dáng mùa thu/ Thấp thoáng ngoài khung cửa nhỏ", tôi mới lại giở tập "Hình như thu"* của tác giả Lý Viễn Giao tặng hồi chớm hè để đọc một cách kỹ lưỡng...
Tôi được gặp tác giả đôi ba lần, trong mấy cuộc giao lưu ra mắt sách thơ của vợ chồng thi sĩ Nguyễn Nguyên Bảy- Lý Phương Liên, chưa có điều kiện để trò chuyện nhiều với ông và cũng bởi có cảm giác ông là người sống thu mình, không cởi mở. Nếu chưa gặp ông, chỉ đọc thơ ông, ta cũng có thể mường tượng ra một con người sống trầm lặng, không nói to bao giờ, thường xuyên mơ mộng, hay ngẫm ngợi, chỉ kín đáo quan sát để không bỏ sót một sắc thái nào của thiên nhiên, một biểu hiện nào của tâm lý những người xung quanh...
Thơ ông hé lộ ra một tâm hồn thiên về hoài niệm những vẻ đẹp xưa cũ, giản dị, rêu phong... Ông là người chờ hoa Quỳnh nở trong tâm trạng như cả cuộc đời chờ đợi, để biết rằng sau đó canh tàn thì "hồn mãi dâng khơi"... Thơ ông hình như phải đọc trong một tâm thế tĩnh lặng, trong một cảm xúc đặc biệt nào đó chợt cuốn ta vào sự hồi tưởng về những gì dịu êm, thanh cao, thậm chí nhuốm nỗi buồn, khi mà nhân tình thế thái chẳng có mấy vui vẻ dễ chịu...
Ông từng sang Nhật, sang Campuchia, tới thăm nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử trong nước, ở đâu ông cũng đều làm thơ ghi lại cảm nghĩ của mình; song tôi thiển nghĩ: những nơi đã đi qua chính là cái cớ để ông chiêm nghiệm trăn trở với những gì thân thuộc trong tâm hồn đa cảm của ông. Những bài thơ có địa danh cụ thể của ông đều có cái thú vị để nhớ, có câu để thuộc, nhưng thực ra, những bài thơ câu thơ rút ra từ cõi mông lung của tâm trạng của ông mới để lại rung cảm sâu xa, in dấu ấn sâu đậm cho người đọc ông...
Con người thơ ấy dễ bần thần khắc khoải với cái "mắc nợ" tưởng chừng không đâu, có thể thực vô nghĩa (và vô duyên) với người đời:
Nợ em một nửa dòng sông...
Nợ em một nửa giấc mơ...
Có nhiều điều rất bình thường, lại đã được thông tin hóa đến nhàm, nhưng qua hồn thơ ông, dường như chúng lại chợt mang một cái gì đó thật mới lạ, và rưng rưng. Sóng muôn đời vẫn chỉ là sóng, nhưng với ông lại thành "Sóng hờn", "Sóng vô tình", "Sóng nhớ".
Sóng vẫn ngủ
Đợi người cuối bãi
Để bây giờ
Trút hết về anh...
Nhà thơ Đoàn Phú Tứ xưa có "Màu thời gian" thì bây giờ Lý Viễn Giao có "Màu nỗi nhớ"- cái nỗi nhớ tràn ngập hồi tưởng và ký ức. Ký ức trong ông tựa những giọt nước rơi tí tách; ký ức chắt lọc những gì tinh tế nhất, dễ cảm nhất, mong manh nhất và dễ bị tổn thương nhất. Có thể nói ông là một "lãng tử" cô độc của ký ức buồn:
Rèm động
Cơn mơ bỏ đi
Đêm trắng
Mọi thứ đối với ông, ở vào tuổi ông, hình như tất cả đều là "hình như": "Hình như lòng chạm heo may", "Hình như thu nhớ thăm người" và biết bao cái "hình như" khắc khoải mơ hồ, có mà không, không mà có, cũng bởi mọi điều mọi vật của đời thường đã tới lúc cần phải đi qua bộ lọc của ký ức, tưởng như chẳng khắt khe cao siêu gì nhưng thực ra phải tuân theo một đòi hỏi ngặt nghèo của thẩm mỹ, của lý tưởng sống thanh cao mà ông tôn thờ; đoạn thơ sau đây có thể là tiêu biểu cho khát vọng tinh thần ấy:
Về đi em
Về với phù sa
Chân đất bùn đen tươi mầu hoa súng
Nơi ấy làm hay
Nói vụng
Nơi ấy con người
Nơi ấy tình yêu
Phải chăng, có thể dùng chính khổ thơ rất hay này của Lý Viễn Giao để "vẽ" lên được một cách sinh động chân dung tinh thần ông:
Có những hạt mưa không tên
Rơi từ miền xưa hoang vắng
Dắt ta ngược dòng năm tháng
Tìm về cơn khát dịu êm...
*
Lý Viễn Giao là nhà thơ khá tài hoa trong tả cảnh, tả tình, ông đã bắt đầu làm chủ được chữ nghĩa.Viết đến thế này có thể nói là "tuyệt bút":
Chỉ cần gió đẩy lời sương khói
Cũng đủ lung linh lối đá mòn
Thơ ông kiệm lời, cô đọng cảm xúc, thường chỉ với mấy nét bút đơn sơ của tranh thủy mạc cũng đủ chạm tận đáy lòng người. Ta hãy thử đọc bài thơ viết trong mùa "Vu lan":
Về thăm mẹ
Bước nhẹ
Cỏ thơm.
Lối nhỏ lên chùa
Ngày xưa
Mẹ.
Mấy dòng đơn sơ tưởng không thể đơn sơ hơn đã vẽ ra toàn bộ cảnh vật chứa đựng biết bao trân trọng, nhớ thương kỷ niệm về tuổi thơ, cũng như số phận đời người.
Rất nhiều đoạn thơ 3 câu theo thể thơ Haiku khá nhuần nhị và độc lập nằm trong tổng thể một bài thơ dài khiến bài thơ đó mang nhiều âm hưởng lạ lùng, cho thấy sự tinh tế của Lý Viễn Giao trong cảm thụ cuộc sống cũng như trong nghệ thuật làm thơ. Tôi chỉ dám xin trích hú họa vài đoạn (giống những bài Haiku hoàn chỉnh) để người đọc chậm rãi thưởng thức:
Chiếc lá vàng/ Bay ngang/ Se lạnh
Cánh mỏng/ Lưng trời/ Mắt xa khơi
Cỏ may găm áo/ Khờ khạo/ Lời thề
Gặp lần đầu/ Đã có nhau/ Kiếp trước
Người ấy sang ngang/ Bến nước cuối làng/ Chênh chao sóng mãi...
Trang giấy học trò/ Đôi cánh bướm khô/ Dính đầy mực tím
Giọt nắng cuối ngày/ Nâng cánh vạc bay/ Dìu cò về tổ
Nắng vẫn còn kia/ Mưa đã ùa về/ Đôi bờ sợi tóc
Giá như ở hầu hết những bài có địa danh cụ thể được ông gia công nhiều hơn về tứ thơ, thoát ra khỏi ý nghĩa lịch sử hay tính chất thời sự... thì tập thơ còn có sức nặng hơn nữa. Tuy nhiên, tập "Hình như thu" của Lý Viễn Giao hình như đã có một sắc thái thật riêng biệt để khỏi bị chìm lẫn đi trong số hàng ngàn tập thơ ra đời trong những năm qua, bởi dấu ấn tâm hồn khá riêng biệt của ông in rõ nét qua một ngòi bút tinh tế, có trăn trở tìm tòi hữu hiệu về hình thức thể hiện.
Nếu muốn tạm lảng tránh những điều dữ dằn gay gắt trong đời sống để lấy thêm nguồn dinh dưỡng cho tâm hồn và có thêm niềm tin yêu rộng lớn đặng vượt qua những nỗi thất vọng phiền muộn, ta hãy thử một lần chìm trong mạch nguồn tâm tư của nhà thơ vốn xuất thân từ nhà giáo này.
Thềm vắng
Trăng trôi
Thừa một chỗ ngồi
"Chỗ ngồi" đang "thừa" đó của sự thanh cao hướng về nội tâm vẫn còn ngóng chờ tôi và bạn, thưa bạn đọc!
Hà Nội, Thu 2011
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
* Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2010
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 26.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
"Con đường tình ta đi" dẫn về đâu?(Đọc "Những hoàng hôn ta đã đi qua" của Trần Đình Hoành)
Trần Đình Hoành
Con đường tình ta đi (*)
Quanh co
Qua những hàng cây rợp lá
Những cánh đồng xanh cỏ mạ
Những đàn bò sữa
Nhẩn nhơ
Nắng hong vàng
Những hành trình bình an
Thân ái
Chỉ hai đứa
Một chiếc xe
Một con đường
Và bầu trời mênh mang
Những hoàng hôn vàng tím
Hồn ta thấm ngập
Mênh mông sắc màu
Từ những hoàng hôn ta đã đi qua...
For my wife Trần Lê Túy-Phượng
Lake of the Woods
Virginia, USA
Tuesday, August 16, 2011
----
(*) "Con đường tình ta đi" là tên của một con đường ở Virginia.
----
Bài thơ tựa một khúc du ca trong trẻo, cất lên giữa chiều thu yên bình, giữa khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của một miền quê Bắc Mỹ, xuyên qua một con đường quanh co rợp bóng cây mang tên "Con đường tình ta đi"- cái tên như một thứ "định mệnh" ngọt ngào đối với hai người...
Họ đi trong buổi hoàng hôn, ngẩng nhìn bầu trời mênh mang có những chiếc lá vàng loáng ánh chiều tà đang xoay tít, và rơi mãi vào trong hoài niệm... "Chỉ hai đứa/ Một chiếc xe..." Họ đi bằng gì, điều đó không quan trọng. Có thể là một chiếc xe du lịch đời mới. Có thể là một chiếc xe đạp. Có thể là một chuyến xe bò thổ mộ giống ở miền Trung Nam Bộ hồi nào. Cũng có thể dắt tay nhau đi bộ... Nếu không có "những cánh đồng xanh cỏ mạ" và "những đàn bò sữa nhẩn nhơ nắng hong vàng" làm hậu cảnh thì người đọc hoàn toàn có thể hình dung hai người đó giống đôi bạn Nàng Thơ và Nhà Thơ trong tranh của danh họa Pháp Henri Rousseau hồi đầu thế kỷ trước. Con người và cảnh vật hài hòa, đồng cảm, quyến luyến, xa lạ với mọi thứ ồn ào dung tục, con người khao khát "Những hành trình bình an/ Thân ái"- như trong mộng tưởng cao vời của nhân loại từ thuở xưa...
Nhưng hiện tại thì đôi lứa trong bài thơ lúc này cũng đang được hưởng "Những hành trình bình an/ Thân ái" đó mà chỉ con đường vắng xa ngái và "Những hoàng hôn vàng tím" làm xáo động tâm can. Chỉ có điều, tâm can xáo động ấy lại là "Mênh mông sắc màu" khi ký ức ùa ngập về "Từ những hoàng hôn ta đã đi qua..." Hai con người say đắm thiên nhiên và biết lắng nghe những gì sâu thẳm nhất của lòng mình lên tiếng. Họ như hiểu nhau qua từng ánh mắt, nụ cười, và không hề giống như những kẻ đang phải chạy trốn khỏi những khung cảnh gay gắt, máu lửa- bởi họ cùng mang theo trong mình vẻ đẹp của "những hoàng hôn ta đã đi qua", biết sống trọn vẹn với từng cung bậc cảm xúc trong lành nhất, đặc biệt là trước Thiên nhiên kỳ diệu, vĩnh cửu. Đột nhiên họ trở thành thi sĩ- dù chỉ là trong những khoảnh khắc, nhưng cũng đủ tạo ra bao hạt ngọc quý của tâm hồn góp phần làm bền chắc hơn, tỏa sáng hơn những giá trị Nhân bản của cuộc đời.
Đọc bài thơ này tôi bỗng nhớ tới đoạn kết một bài thơ buồn của nhà thơ Pháp G. Apollinaire, bài "Automne malade" (Mùa thu đau ốm):
Les feuille
Qu’on foule
Un train
Qui roule
La vie
S’écoule
(Những chiếc lá (rơi)/ Gót người đi/ Một con tàu/ Đang lăn bánh/ Cuộc đời/ Cứ thế trôi)
Có điều, nếu trong "Automne malade", cảm xúc của nhà thơ buồn tê tái, khi mà "Gió và rừng cứ khóc mãi không thôi" (Le vent et forêt qui pleurent), thì trong bài thơ "Những hoàng hôn ta đã đi qua" lại thấy "Hồn ta thấm ngập" những "sắc màu" và mối đồng cảm với vẻ đẹp của chiều tà trong những kỷ niệm êm đềm, thi vị. Âu đó cũng là hai trạng thái tâm hồn khác nhau của con người trong một đời người...
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 19.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 19.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét