Trang Tản văn Bút kí1 Nguyễn Anh Tuấn
Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015
Dưới bóng lâu đài học
vấn kinh bắc – Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Thứ ba - 14/08/2012 17:07
Vài kỷ niệm với trưởng nam của thi sĩ Hoàng Cầm Tôi trở lại một vùng quê Kinh Bắc xưa... Chợt cồn cào nhớ đến một nhà nghiên cứu văn hóa quê gốc Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đó là anh Hoàng Kỳ. Tôi thuộc thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ rất nhiều năm trước khi biết đến người con trai đầu của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng- thói quen hình thành trong một hoàn cảnh gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh......
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
DƯỚI BÓNG LÂU ĐÀI HỌC VẤN KINH BẮC
DƯỚI BÓNG LÂU ĐÀI HỌC VẤN KINH BẮC
Vài kỷ niệm với trưởng nam của thi sĩ Hoàng Cầm
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 13.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Tư tưởng khoan thứ sức dân
qua một Lễ hội đã có từ hàng ngàn năm trước.Nguyễn Anh Tuấn
Từ một khúc nhạc cầu hồn cho Điện Biên Phủ
Nguyễn Anh Tuấn
Trong ảnh: Phóng viên Schoendoerffer bị ngã trên chiến trường Điện Biên Phủ - Ảnh của Bảo tàng Điện Biên Phủ (NAT chụp lại)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 05.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Nhớ nhà văn "lão bản" Vương Trung
Bút ký chân dung Nguyễn Anh Tuấn
Ruộng bậc thang không trồng lúa
Muốn ăn, cơm khắc đến
Muốn ăn, cá khắc về
Không khi nào lạnh rét
Đời đời chẳng già nua...
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Cớ sao cơn mưa xứ đồi lại đến cùng anh
Đêm thương buồn giữa hạ?
Chỉ còn đêm mưa này
Ngày mai em về nhà chồng
Mưa giăng trắng cánh đồng
Phố xá sau lưng, bạn bè trăm ngả
Anh nhìn em qua mưa hun hút đường dài...
Mọi sự đều không đúng lúc
Đã quá muộn để nói lời yêu đương
Lại quá sớm khi nói lời giã biệt!
Mai em về nhà chồng
Hết rồi những cơn mưa ướt mái đầu con gái
Một đêm nào chúng ta chia tay
Bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng...
Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Anh thức qua đêm nhìn mưa
Anh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Bong bóng nước trôi xuôi vỡ nghìn hoa cánh trắng
Đâu rồi dấu chân em
In mòn thời thiếu nữ?
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Chỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
Anh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Mọi sự đều không đúng lúc
đã quá muộn để nói lời yêu đương
lại quá sớm khi nói lời giã biệt…
Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Chỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
---- Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 15.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
"Nước núi Sót mát lòng ưu ái”
(Cảm nghĩ về một lễ hội ở Hà Tĩnh)Nguyễn Anh Tuấn
Tôi trở lại một vùng quê Kinh Bắc xưa... Chợt cồn cào nhớ đến một nhà nghiên cứu văn hóa quê gốc Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Đó là anh Hoàng Kỳ.
Tôi thuộc thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ rất nhiều năm trước khi biết đến người con trai đầu của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng- thói quen hình thành trong một hoàn cảnh gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh... Nhưng dần dà, cái vỏ ngoài ấy đã biến mất hẳn sau nửa giờ trò chuyện, khi anh hiểu rõ rằng: trước mặt anh là một "con mọt sách", đang muốn tìm hiểu về văn hóa vùng Kinh Bắc... Với tư cách là phó giám đốc thư viện, anh đã nhiệt tình tìm giúp tôi những tài liệu cần thiết- đầu tiên là cuốn Địa chí Bắc Giang. Anh không mệt mỏi giải thích cho tôi vài tồn nghi khoa học- như một nhà nghiên cứu thứ thiệt, và với nguồn cảm hứng của một nhà thơ về một vùng đất dày đặc trầm tích văn hóa & lịch sử... Anh mời tôi đến thăm nhà anh, một ngôi nhà nhỏ nằm trong hẻm dốc ở rìa thị xã. Chị Vân vợ anh, một phụ nữ hiếu khách trong vẻ nhẫn nhịn lặng lẽ quen thuộc của người Kinh Bắc, chị chào tôi một câu rồi xin phép quay đi, lúi húi với đàn gà đàn lợn...
Khi đó, đang thực hiện một bộ phim tài liệu về Học vấn đất Kinh Bắc xưa & nay, tôi đã trân trọng mời anh cùng tham gia. Anh hồ hởi nhận lời. Thế là, hai anh em chúng tôi và đồ nghề quay phim trên một chiếc xe máy phân khối lớn đã rong ruổi qua nhiều vùng quê Kinh Bắc... Chúng tôi đã đi dọc sông Đuống- một chi lưu quan trọng của sông Cái, và theo dòng sông "Nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ" đó của thi sĩ Hoàng Cầm để đến với "cái nôi sinh thành dân tộc Việt Nam" như cố học giả Nguyễn Văn Huyên đã chứng minh trong luận văn tiến sĩ của mình hơn bảy mươi năm trước, đến với vùng huyền thoại gắn với lai lịch dân tộc Việt: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Phật bà Man nương, đến với Luy Lâu- trung tâm Phật giáo lớn nhất nước ta thời cổ đại… Chúng tôi không chỉ một lần đứng nhìn bao quát cả một vùng non nước trải rộng đến chân trời- quê hương của nhiều danh nhân văn hoá kiệt xuất, là vùng học vấn khoa bảng hàng đầu đất nước, nơi góp phần minh chứng cho chân lý của nhà bác học Lê Quý Đôn- đốc đồng Kinh Bắc năm 1764: "Phi trí bất hưng" (Không có trí thức thì Quốc gia không thể hưng thịnh được). Ông nội cụ Lê Quý Đôn là Thượng thư Bộ công, quê gốc ở huyện Đông Ngàn (huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh nay) đã đưa gia đình về lập nghiệp ở huyện Duyên Hà (nay là Hưng Hà, Thái Bình), ở đó còn tấm bia ghi rõ: Họ Lê trước đây/ Vốn từ Kinh Bắc/ Chuyển đến Duyên Hà/ Nối đời đại đức.
Kinh Bắc xưa có nhiều dòng họ cha truyền con nối đỗ đạt cao, đặc biệt có tới 102 vị đại khoa làm sứ thần (cả nước có 307 vị). Nhiều vị trở thành các nhà văn hoá, các tác giả tên tuổi- như Huyền Quang, Hàn Thuyên, Thái Thuận, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá Quát, v.v. Vùng đất này đã từng có nhiều người thầy dạy dỗ con em dân thường trở thành văn nhân, nhà khoa học nổi tiếng, và cũng từng có thày dạy vua và thái tử như: Lê Văn Thịnh, Nguyễn Cư Đạo… Hàng chục tiến sĩ, trạng nguyên người Kinh Bắc đã làm tế tửu Quốc Tử Giám (tương đương hiệu trưởng trường đại học nay) như Vũ Quốc Nguyên, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Nhân Thiếp, Thân Nhân Trung, v.v. Hoàng Kỳ đã đưa tôi tìm đến các văn chỉ & đền thờ họ Phạm, họ Nguyễn ở Kim Đôi có tới 6,7 đời đỗ đại khoa, dòng họ Nguyễn ở Vân Điềm có 7 đời đỗ tiến sĩ, họ Ngô ở Vọng Nguyệt có 6 đời đỗ tiến sĩ; rồi tới những làng có 3, 4, 5 đời tiến sĩ: họ Quách ở Phù Khê, họ Nguyễn ở Tam Sơn, họ Nguyễn ở Đại Bái, họ Nguyễn ở Nghĩa Lập... Đến đâu Hoàng Kỳ cũng nhiều có bạn bè quý trọng anh, tận tình giúp đỡ nhóm làm phim. Trong những ngày điền dã quay phim vất vả đó, anh đã chăm chút lo toan cho tôi như đối với một đứa em trai thân yêu của mình. Có lần, tôi muốn tìm một khung cửi dệt có "con cò mấp máy suốt năm canh" như nữ sĩ Hồ Xuân Hương miêu tả để quay phim- khi mà các khung cửi truyền thống đã bị dẹp bỏ, Hoàng Kỳ đã cùng các bạn anh mò mẫm khắp làng để tìm cho ra một khung cửi có con cò gỗ phủ bụi ở một góc nhà, động viên gia đình khôi phục lại, lau chùi sạch sẽ, lại có người ngồi dệt; và con cò gỗ lại "mấp máy" hiển hiện những mảnh đời âm thầm làm lụng của bao người vợ, người mẹ, người em gái vùng Kinh Bắc cho chồng, cho con, cho anh dùi mài đèn sách... Trước hàng chục em bé đeo khăn quàng đỏ đến thăm Văn Miếu Bắc Ninh rậm rịt cỏ dại (lúc đó chưa được xây tường bao quanh và chưa khang trang như bây giờ), anh đã nhiệt tình giảng giải cho các em (cho cả cụ thủ từ và tôi nữa) những hiểu biết cặn kẽ của anh về các tấm bia Kim bảng lưu phương, đọc vanh vách danh sách 10 vị đỗ ở khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên ở nước ta mà người đứng đầu danh sách là thí sinh Lê Văn Thịnh- sau đó là vị thái sư danh tiếng bị hàm oan suốt 900 năm!...
Một buổi sáng, chúng tôi rời huyện Thuận Thành để sang huyện khác giữa khi các sân trường đang vắng lặng, chỉ còn văng vẳng tiếng giảng bài, đọc bài từ các phòng học lộng gió và thơm ngát hương đồng; trong khi đó, các mẹ các chị vẫn đang cặm cụi trên những mảnh vườn, thửa ruộng, chắt chiu từng nong tằm, hạt lúa, củ khoai... Những cô bé cậu bé rời trường học lại bắt tay phụ giúp cha mẹ chăn trâu, cắt cỏ, bóc sắn, học bài...và mơ ước tới những chân trời xa. Hàng trăm năm nay, các tiến sĩ cử nhân của những vùng quê Kinh Bắc đã lớn lên như thế trong lời ru ngọt ngào, trong mồ hôi mặn đắng tần tảo nuôi con, nuôi em ăn học... Tâm lý coi trọng học vấn, coi trọng trí thức, coi trọng nhân tài đã hàng ngày được củng cố, trở nên bền chắc và cao quý. "Bạc đầy nong không bằng cong chữ"-"nhân bất học bất tri lý" (Người mà không học thì không biết được lẽ phải)... Ngay cả khi nền Hán học chính quy đã bộc lộ những mặt bảo thủ phản động, thì những truyền thống lành mạnh về giáo dục và học vấn vẫn được nhân dân trân trọng giữ gìn. Thời phong kiến, Nhà nước chỉ tổ chức chu đáo bậc học và các kỳ thi tuyển cao cấp, còn trên thực tế, do lòng hiếu học của nhân dân, các bậc sơ học và trung học hầu như do nhân dân ở các cấp làng xã lo liệu. Truyền thống hiếu học và nền học vấn "khai tâm" ấy đã đi vào tranh dân gian Đông Hồ với hình tượng "Thầy đồ cóc", "Tiến sĩ chuột vinh quy" thấm đượm tâm hồn trào lộng dân gian, đi vào tục thi đọc mục lục, tục kéo cờ chạy chữ, đi vào thế ứng xử: "Mồng một thì về quê cha/ Mồng hai quê mẹ, mồng ba quê thầy"... Trong gần 300 hương ước còn lại của Kinh Bắc xưa, sự học là một trong những điều khoản được coi trọng hàng đầu. Có một hương ước quy định: "Khi làm sổ dự toán thu chi của làng nên tùy theo tình hình tài chính mà dự định một số tiền để trợ cấp tiền giấy bút cho những học trò nhà nghèo mà học hành tấn tới thành tài"... Theo chân anh Hoàng Kỳ, những địa danh trở thành biểu tượng của lòng hiếu học cảm động đất Kinh Bắc đã găm vào tâm trí tôi trong nhiều năm tháng dài: Đại Mão, Mão Điền, Thanh Khương, Song Hồ, Kim Đôi, Vọng Nguyệt, Tam Sơn, v.v.
Tôi học được ở Hoàng Kỳ sự chu đáo tận tụy đối với công việc- nhất là công việc có liên quan đến tri thức sách vở. Anh tôn trọng sự chính xác của tư liệu, rất ghét sự đại khái qua loa. Đằng sau dòng chữ nhỏ li ti và chân phương của anh trên những trang viết là cả một tinh thần lao động say mê, căng thẳng... Anh cắm cúi đọc và dịch lắm lúc quên cả bữa ăn. Hình như, đến thời kỳ được tiếp xúc với kho tư liệu sách vở và ngấm "men" của nó, anh đã lao vào cái thế giới mênh mông vừa kỳ vĩ huyền ảo vừa đẫm lệ máu ấy để bù đắp lại những năm tháng dài sau khi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ ngồi ghế đá chờ việc, không dám gặp gỡ ai để tránh cái nhìn thương hại cho con một kẻ từng mắc án "Nhân văn Giai phẩm" và phải chịu án tù vì họa "văn tự"*... Nhưng cũng chính "văn tự" đã cứu sống cho ý nghĩa cuộc đời Hoàng Kỳ, và anh đã coi tri thức như một thứ Tôn giáo mới! Khi về Hà Nội làm biên tập viên báo Sức khỏe & Đời sống, anh cũng đem cả cái vốn đọc vốn học suốt bao năm vùi mình ở thư viện vào các lĩnh vực nâng cao sức khỏe mọi người... Và anh khảo cứu trong kho thư tịch cổ để rút ra không chỉ bài học ứng xử cho bản thân, mà còn giúp cho nhiều thế hệ độc giả- trong đó có học trò của anh là tôi- cái lý do tồn tại để không trở thành "một khối nặng vô ích của trái đất"- theo cách nói của văn hào Nga N. Gogol... Trong những ngày đi dọc ngang đất Học vấn Kinh Bắc đó, anh đã kể cho tôi nghe về mấy đề thi Tiến sĩ thời xưa, như ở khoa thi Giáp Tuất (1694): "Hãy bàn về các bậc hào kiệt"- nghĩa là bàn về các nhân tài xuất sắc, và ở khoa thi Canh Thìn (1700): "Kế sách xây dựng một quốc gia bền vững." (Khoa này, cả nước có 19 người đỗ, trong đó có 3 tiến sĩ người Kinh Bắc). Anh giở sổ tay đọc một đoạn chép về cách dùng nhân tài trong luận văn Tiến sĩ của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực tại khoa thi năm Nhâm Tuất (1442, Kinh Bắc đỗ 5 Tiến sĩ trong 33 Tiến sĩ cả nước): "Tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc Thánh nhân trị nước. Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu. Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, xử dụng kẻ sĩ chính trực..."
Dường như dưới suối vàng, nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Kỳ vẫn đang cặm cụi viết những dòng chữ đẹp dành cho cõi đời này: Hào kiệt thì đời nào cũng có, và dù bị kẻ tiểu nhân, lũ độc ác tìm cách hãm hại tiêu diệt, các bậc nhân tài bao giờ cũng được lòng dân che chở. Còn những người có trách nhiệm xây dựng một Quốc gia bền vững nếu không biết trọng thị những bậc nhân tài như thế, nếu không biết quý trọng những người dân dám xả thân để bảo vệ nhân tài, họa diệt vong của một Quốc gia ắt đang cận kề...
Anh Hoàng Kỳ ơi! Đã được cùng anh "Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc"* năm nào, giờ đây em xin có một nén nhang thơm tưởng nhớ anh và nhẩm lại vài bài học vỡ lòng về Tri thức dưới bóng lâu đài Học vấn trên quê hương anh...
Hà Nội - Bắc Ninh, Cuối Xuân 2012
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
* "Về Kinh Bắc" (1959 – 1960) của Hoàng Cầm
---- Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 13.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Tư tưởng khoan thứ sức dân
qua một Lễ hội đã có từ hàng ngàn năm trước.Nguyễn Anh Tuấn
Tạp chí Văn Hiến Việt Nam số mới nhất (3/ 2012) có một bài viết khá lý thú: "Mùa xuân xem lễ rước Vua". Chỉ có điều hơi tiếc là, bài viết không có một hình ảnh minh họa khả dĩ giúp người đọc thêm tin tưởng và có thể hình dung được rõ nét hơn về "Lễ Rước vua độc đáo" này! Là người cũng đã từng chứng kiến toàn bộ Lễ hội trên, và ghi lại được khá đầy đủ hình ảnh của nó, tôi xin tham góp một số hình ảnh cụ thể, cùng đôi lời bổ sung...
Tương truyền Thục chủ An Dương vương xây Loa thành, cứ ngày đắp thì đêm lại bị phá đổ; nguyên do bị Bạch Kê Tinh (gà trắng hóa thành tinh) ban ngày trú ẩn ở núi Thất Diệu, ban đêm lại xuất hiện phá hoại. Vua bèn làm đài cầu khẩn, được Huyền Thiên Trấn Vũ sai thần Kim Quy (tức sứ Thanh Giang) hiện ra mách bảo kế giết Bạch Kê Tinh. Sự tích Kim Khuyết Cung còn lưu giữ tại đình Nhội có chép: Vua cùng Rùa Vàng đến vùng núi Thất Diệu tìm cách trừ Bạch kê Tinh. Khi đến nơi thấy phiến đá có in dấu chân người, Rùa vàng cho vua biết: đây là nơi Đức Huyền Thiên tu luyện và đã giáng để trừ yêu ma giúp dân an cư lạc nghiệp... Sau khi trừ được yêu quái, thành ốc xây xong, để tưởng nhớ công đức của Huyền Thiên Trấn Vũ, vua Thục đã cho xây đền trên núi Sái - ngọn núi lớn nhất của Thất Diệu Sơn, đổi tên làng Ma Lôi thành Xuân Lôi; thời An Dương vương đền có tên là Kim Khuyết Cung, đến thời nhà Mạc (1590) gọi là Quán Chân Linh, tức đền Sái nay, thuộc làng Thuỵ Lôi, hay làng Nhội (Đông Anh- Hà Nội). Đức Lý Thái Tổ sau khi dời đô ra Thăng Long, đã đến núi Sái & đền Sái này để cầu Huyền Thiên và sinh được hoàng tử. Nhà vua đã cho xây đền Trấn Vũ (tức đền Quán Thánh) ở phía Bắc kinh thành để thờ Huyền Thiên, và Huyền Thiên trở thành vị thần trấn ngự phía Bắc của "Thăng Long tứ trấn".
Còn đình Thuỵ Lôi (tức Đình Nhội) nằm ở trung tâm làng Nhội, là một ngôi đình cổ khang trang đồ sộ bậc nhất vùng Kinh Bắc còn sót lại, có kiến trúc cuối thời Lê đầu thời Nguyễn gồm 7 gian (Xem ảnh). Đình này thờ Huyền Thiên Trấn Vũ và Cao Sơn Đại Vương- con thứ hai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. (Dưới chân núi Sái đi về phía đông theo một con đường dẫn tới một quả núi núi khác có đền Thượng cũng thờ thánh Cao Sơn Đại Vương.)
Chính làng Nhội với các di tích lịch sử giàu màu sắc huyền thoại đó là nơi hàng ngàn năm qua vẫn diễn ra một lễ hội độc đáo có một không hai trên khắp nước ta: Lễ Rước Vua Rước Chúa.
Nguyên cớ thế này: kể từ khi Loa Thành xây xong, hàng năm cứ đến tiết xuân, vua Thục lại triệu tập quan quân từ Cổ Loa kéo về đền Sái dâng hương bái yết Đức thánh Huyền Thiên... Sau, thấy đại giá đi lại làm dân mệt nhọc và khiến dân hao phí tiền bạc, nên vua đã giao cho dân làng có quyền thay mặt vua tiến hành nghi lễ Thiên tử xuất cung bái vọng, giả xưng quan tước- gồm một Đô tướng, một phó Đô tướng, một quan Trấn thủ, một quan Tán lý, một quan Đề Lĩnh... Đình Thuỵ Lôi đến nay còn lưu giữ một số câu đối nhằm minh chứng lễ hội rước Vua đã thành tập tục kéo dài hàng ngàn năm này là thực hiện theo chiếu chỉ của Thục An Dương vương, như:
Thục Đế triều đình cho phép dân khai hội lễ
Hương thôn tiên chỉ đại diện hành lễ bái tôn vinh
Hội rước Vua Rước Chúa diễn ra hàng năm đã diễn lại tích xưa: An Dương vương cùng đoàn tuỳ tùng về bái yết Đức Thánh Huyền Thiên trên núi Sái. Sau đó vua quan lại trở về kinh đô Cổ Loa- chỉ cách đó trên 10 cây số, và nếu là ngày xưa với xa giá tiền hô hậu ủng thì cũng chỉ đi mất độ hai, ba canh giờ là cùng!
Bài viết trên T/C Văn Hiến đã miêu tả khá kỹ lưỡng toàn bộ tiến trình cũng như các chi tiết của Lễ Hội, ở đây, tôi chỉ xin góp một lời bình: trên đất nước ta, từ hàng ngàn năm trước, người đứng đầu Quốc gia đã có tấm lòng thấu hiểu và thương dân sâu sắc, đã có một hành động "khoan thứ sức dân" hết sức cụ thể và ẩn chứa lòng nhân hậu; còn dân gian cũng đã cảm nhận được một cách sâu sắc tấm lòng ấy, rồi lưu giữ mãi từ đời này qua đời khác bằng một hội lễ sinh động, tưng bừng. Phải tận mắt nhìn thấy những thanh niên trai tráng khênh hai kiệu Vua - Chúa, nhiều lần tung hai chiếc kiệu có người đóng thế vua chúa lên một cách hăng hái, và chứa chan tinh thần Dân Chủ... thì mới cảm nhận được hết ngọn lửa của tình yêu và sự đồng cảm giữa Nhân Dân với những bậc cầm cân nảy mực thiên hạ ở cái thời xa xưa đó...
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 11.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Từ một khúc nhạc cầu hồn cho Điện Biên Phủ
Nguyễn Anh Tuấn
Nhà hát Lớn thành phố một đêm đầu tháng 5 năm 1954. Khán giả chìm trong im lặng khi cây đũa của người nhạc trưởng vang lên, và âm thanh trầm buồn của cả dàn giao hưởng làm nền cho cây vĩ cầm độc tấu khúc Réquieme. Rồi âm thanh đó tràn sang toàn bộ cảnh chồng hình những chiếc Dacota bay đen bầu trời và những cột khói lửa bốc lặng lẽ…
Không hiểu sao, tôi bỗng nhớ đến cái trường đoạn đầy rung cảm và có lẽ là hay nhất trong bộ phim "Điện Biên Phủ” của đạo diễn P.Schoendoerffer khi tôi vượt đèo Pha Đin…Tây Bắc đang mùa ban nở. Hoa ban làm bừng sáng các hẻm núi, vực sâu, những vạt đồi trơ trụi. Hoa ban trắng đến ngẩn ngơ- thứ hoa hút hồn cả tuổi trẻ của tôi trên vùng núi hiểm trở và khắc nghiệt này…
Thật thú vị đến bất ngờ, tôi bắt gặp người đạo diễn của bộ phim đó ở ngay trong bảo tàng nằm giữa chiến trường xưa: hình ảnh người phóng viên mặt trận đang bị ngã cố bảo vệ chiếc máy quay, và có thể vẫn đang bấm máy. Phải chăng, khúc tưởng niệm về một cuộc chiến bi thảm đã dạo hoà âm mở đầu trong tâm hồn Schoendoerffer ngay từ cú bấm máy đặc biệt ấy?
Trong bộ phim nói tiếng Pháp đã quen thuộc với khán giả Việt Nam từ hơn 15 năm trước có nhân vật chàng phóng viên quay phim mặt trận- hình bóng của chính Schoendoerffer ngày nào (diễn viên đóng vai này là con trai đạo diễn)- hình ảnh tiêu biểu của lớp thanh niên Pháp ngày ấy bị ném vào lò thiêu của một cuộc chiến mà chỉ những kẻ chủ mưu mới hiểu rõ mục đích! Còn phần lương tri của nước Pháp văn minh đã mang trọn khúc tưởng niệm lúc rải rác, lúc dồn dập, dần trở thành bản giao hưởng của nỗi dày vò khôn nguôi, để rồi phát triển thành chủ đề khát khao đối thoại trong tình hữu nghị qua hàng loạt diễn văn, đáp từ, cảm tưởng… của các chính khách, nhà quân sự, nghệ sĩ Pháp- đặc biệt là những sĩ quan binh lính Pháp từng tham gia chiến trường Điện Biên Phủ, như Pierre Le Roy, Rombu Laret, Pierre Rossion, Fabies Alain, Marie Véronique, v.v. Câu nói của ông cựu đại sứ Pháp Louis Amigues dường như có thể cô đúc tâm trạng của nhiều người Pháp: "Ne pas oublier, pour ne pas recommencer” (không bao giờ quên, để không bao giờ lặp lại).
Trong một cuộc họp báo tại Paris, để trả lời phỏng vấn: "Ông tạo ra bản Réquieme ở trong phim với dụng ý gì?”, người đạo diễn mỉm cười: "Xin quý vị hãy xem phim của tôi. Tôi đã làm cả một bộ phim chỉ để giải đáp mỗi câu hỏi đó". Để thực hiện một bộ phim tốn kém về lịch sử chiến tranh, Schoendoerffer đã phải huy động vốn liếng của nhiều người, trong số đó không ít là những cựu binh Điện Biên Phủ. Có hiểu cái guồng quay thương mại của điện ảnh phương Tây thì mới càng thấy trân trọng cảm phục Schoendoerffer khi ông làm ra một bộ phim chỉ cốt để góp phần giải toả "hội chứng Điện Biên Phủ” cho cả một thế hệ trong đó có ông…
Trên đường vào Mường Phăng, qua các làng bản đơn sơ nhưng yên bình của đồng bào dân tộc, tôi bỗng nghĩ đến những con người buộc phải rời xa ruộng đồng và người thân, buộc phải cầm súng từng nhẫn nại làm công việc chấm dứt "bản giao hưởng chiến tranh” kinh hoàng… Sau lưng họ là những thôn làng bốc lửa, những ngôi đình đổ sụp, những lũy tre cháy vàng vì bom napal…
Không ai có thể quên cái cảnh bản Noong Nhai ở Điện Biên bị đốt phá. Những ngôi nhà sàn êm ấm cháy rừng rực, tiếng kêu khóc của đàn bà con trẻ lẫn tiếng rú gào của súc vật trong cơn hoảng loạn… Cho dù ngày hôm nay chúng ta đã quên đi hận thù, mở rộng cửa đón bè bạn bốn phương kể cả những người là cựu địch cũ tới VN, nhưng sự thật lịch sử đắng ngắt sẽ không bao giờ hoá thành thơm ngọt. Bản tưởng niệm của phía Việt Nam không có chương dành cho sự xuê xoa, xuý xoá, bợ đỡ, biến trái thành phải. Nhưng bản tưởng niệm đó lại có chương dành cho lòng nhân từ.
Nếu ở thời Lê lợi - Nguyễn Trãi, những kẻ xâm lược bị bắt được cấp lương ăn ngựa cưỡi để trở về, thì ở thời đại Hồ Chí Minh, những người tù binh Pháp đã được sống trong danh dự dù là danh dự của người bại trận. Họ được hưởng chế độ tù binh theo công ước quốc tế, và hơn thế sự cảm thông của người lính cụ Hồ. Và chính điều đó đã làm cho bản tưởng niệm về sự đại bại của người Pháp bớt hẳn đi màu sắc bi thảm.
Sáng tạo nghệ thuật của Schoendoerffer quả là độc đáo khi cho anh nhạc trưởng người Việt Nam và cô nhạc công người Pháp cùng đứng trong dàn giao hưởng tấu lên khúc tưởng niệm chung về Điện Biên Phủ. Ta hiểu vì sao, Schoendoerffer, từ đỉnh cao của khát vọng hoà đồng giữa những con người đã trầm tư trên cánh đồng chết chóc cũ: "Tôi tưởng nhớ đến những chiến hữu của chúng tôi và tôi tưởng nhớ đến những chiến hữu của các bạn”. Đó cũng là cảnh kết phim. Sự "tưởng niệm” chính là "chìa khoá” nghệ thuật, là cái "thần nhãn” của bộ phim hoành tráng này.
Trên đồi Him Lam, thật tình cờ, có cả hai đoàn cựu binh Pháp và Việt Nam cùng thăm lại chiến trường cũ. Một cựu binh Pháp giở bản đồ, rồi chỉ ra các hướng. Một người khác bốc nắm đất cho vào túi giấy… Còn bên đoàn cựu binh Việt Nam ồ lên thích thú khi tìm thấy một chiếc mũ sắt đã hen gỉ. Có đôi ba người chống nạng vất vả. Rồi cả hai đoàn cựu binh gặp gỡ nhau trong lịch sự và niềm nở; thích thú truyền tay nhau chiếc mũ nát… Trong đoàn cựu binh Việt Nam, có một nữ ca sĩ lớn tuổi rơm rớm nước mắt, bà bất giác cất lên tiếng hát bài Ave Maria của Schubert. Không gian chỉ còn tiếng chim hót và tiếng gió thổi trên đồi cây… Phải, những bản tưởng niệm dù sâu sắc thành kính đến đâu cũng tới lúc cần nhường chỗ cho những bài ca của tình yêu và mơ mộng, của khát vọng sáng tạo…
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
---- Trong ảnh: Phóng viên Schoendoerffer bị ngã trên chiến trường Điện Biên Phủ - Ảnh của Bảo tàng Điện Biên Phủ (NAT chụp lại)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 05.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Nhớ nhà văn "lão bản" Vương Trung
Bút ký chân dung Nguyễn Anh Tuấn
Đầu xuân này, tôi được gặp nhà văn Vương Trung lần cuối cùng.
Lúc đó, ông đã nằm bẹp trên nệm Thái. Tôi ngồi bên ông rất lâu, không nỡ hỏi nhiều, dù ánh mắt ông cồn cào bao điều muốn nói với người bạn vong niên, đứa em kết nghĩa của ông từ thuở khốn khó năm xưa... Hoa mắc-cọp nở trắng vườn, và qua cánh cửa nhà sàn, chúng như nhòe lệ. Dưới những chùm hoa này, bao lần ông hồ hởi trò chuyện với các bạn văn nhiều lứa tuổi, với thầy trò khoa văn sử trường Cao đẳng Sư phạm...
Còn giờ đây, khi hoa mắc-cọp bắt đầu tàn để vào mùa bói quả, ông đã nằm yên nghỉ mãi mãi giữa núi rừng Tây Bắc. Ở một chuyến xe đêm tốc hành ngược Sơn La vào đúng ngày ông tạ thế, hồi nhớ về ông tràn ngập giữa sương mù và bóng tối đường trường...
Ngày ấy, từ căn phòng tập thể giáo viên của tôi đến nhà ông chỉ vài chục bước chân- một ngôi nhà sàn truyền thống cũ kỹ nằm trên sườn đồi, với mấy đứa con nhỏ lít nhít, và rất nhiều sách vở, bản thảo. Là cán bộ Sở Văn hóa Sơn La, làm việc ở thị xã, có khi vài tuần ông mới về nhà ở thị trấn Thuận châu, nhất là vào những dịp đi điền dã khắp vùng Tây Bắc. Những dịp đó, ông vẫn nhờ tôi xem xét hộ việc học hành của cô con gái đầu lòng. Tôi không sao quên nổi vóc dáng cây sậy của cô bé cấp một, chữ viết như gà bới, váy áo cóm xộc xệch, mặt mũi xanh xao bởi cõng em thường xuyên và đói ăn, lại mau nước mắt- cháu Phanh Nèn giờ đã là hiệu trưởng trường PTCS Mường Ék, nơi ông cất tiếng khóc chào đời. Ông cũng từng nhờ giáo viên văn chúng tôi giúp tài liệu ôn thi vào khóa chuyên tu ĐH văn Tổng hợp; và cái thời ông về Hà Nội học là thời gia đình ông lao đao nhất... Vợ ông, bà Cầm Thị Dước, một phụ nữ Thái cổ truyền nhỏ nhắn, là em gái của những trí thức văn nghệ sĩ có tên tuổi: nhà dân tộc học Cầm Trọng, nhạc sĩ Cầm Bích, nhà giáo Cầm Nghiệp. Bà làm cán bộ phát thanh huyện với giọng nói trong vắt, với tinh thần tận tụy, và làm "nội tướng" trong một gia đình cán bộ văn hóa nghèo sinh hoạt như dân bản!... Việc đầu tiên của tôi khi bước vào ngôi nhà sàn quen thuộc là ôm choàng lấy đôi bờ vai gầy gò và để mái đầu trắng cước phủ khăn tang của bà nấc lặng lẽ trong lồng ngực tôi. Gần hai năm trời chăm sóc chồng lâm trọng bệnh, thân hình bà giờ teo tóp lại tựa lõi cây rừng, song đã là chỗ dựa vững chãi nhất, nguồn an ủi lớn nhất của ông cho tới giờ phút chót! Và nhờ có bà cáng đáng gia đình qua bao đận gian nan, nhà văn & nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Vương Trung đã có thể yên tâm lao động chữ nghĩa nặng nhọc để lưu lại cho nền văn học dân tộc Thái, nền văn học Việt Nam hiện đại và kho tàng văn hóa nước nhà không ít giá trị quý báu!
Ông tên đầy đủ là Lường Vương Trung, xuất thân từ một dòng họ Mo chang dân tộc Thái đen ở xã Mường Ék- huyện Thuận châu, nghĩa là dòng họ chuyên làm Mo (Lường mo, Lò tạo - họ Lường làm ông mo, họ Lò làm quan) như truyền thống xã hội Tây Bắc cũ. Ở vùng thập châu Thái xưa kia, và cho cả đến tận bây giờ, ông Mo mường chính là linh hồn của tập tục Thái, là người thâu nhận, tập trung những tinh túy văn hóa của cả một dân tộc có các ông tổ là Tạo Xuông, Tạo Ngần, Lạng Chượng... Chính Lạng Chượng và con cháu nhiều thế hệ kế tiếp đã khai phá các vùng đất, lập bản dựng mường trên khắp lưu vực sông Đà, sông Mã... và phát triển Mường Muổi thành trung tâm của người Thái- tức châu Thuận bây giờ. Người Thái ở Việt Nam có chữ viết khá sớm và ý thức đầy đủ về việc ghi chép lịch sử dân tộc từ ngàn năm nay. Theo khẳng định của một số nhà Thái học có uy tín: Cầm Trọng, Cầm Cường..., các Mo mường chính là tác giả của những văn bản lịch sử cổ xưa và quan trọng, như bộ Quam tô mương, Quam phanh mương, sử thi Táy pú xớc*...Những trí thức lớn đó của dân tộc Thái uyên bác về ngôn ngữ, hiểu biết sâu về lịch sử và văn hoá dân tộc, đồng thời còn là mưu sĩ của các triều đại chúa đất Thái.
Nhưng ông "Mo mường thời hiện đại" này (theo cách gọi vui và cũng khá chuẩn xác về ngữ nghĩa của một nhà văn bạn tôi) lại có tâm hồn của một nghệ sĩ. Từ thuở mới biết chọc sàn và thổi sáo tìm đường đến với trái tim các cô gái, Vương Trung đã bước vào con đường sáng tác văn học trên một nền móng vững chắc của văn hóa - văn học Thái. Cùng thời và cùng hòa nhịp với đoàn quân Giáo dục thế hệ 59 từ miền xuôi lên Tây Bắc, anh giáo tiểu học khu Tự trị Thái - Mèo Vương Trung đã sớm có những vần thơ được đồng nghiệp yêu thích; và như bất cứ một nhà thơ dân tộc nào, trước khi có thơ in sách báo, Vương Trung đã có nhiều bài thơ ca tiếng địa phương được truyền miệng rộng rãi trong dân gian. Bà Lê Thị Liên từng dạy học ở Tuần Giáo (Mường Sinh) nhớ lại: ngoài những bài thơ của mình, ông Vương Trung còn làm mê mẩn cả hội đồng giáo viên bởi những câu tục ngữ, dân ca vùng Tây Bắc cực kỳ thú vị. Ông có thể kể hàng giờ về những tình ca dân gian Thái, Kh’Mú. Còn riêng tôi thì đã nhiều lần được sống mê say trong cái thế giới của người sống, của hồn ma và ở các mường Trời (Mường Then) thông qua những lời "khắp" sử thi và lời cúng mo bay bổng huyền ảo nhưng lại thấm đẫm sự sống được Vương Trung cùng nhiều nhà văn hóa dân gian Thái sưu tầm, chú giải và dịch ra tiếng phổ thông...
Thơ Vương Trung mới chỉ in trong hai tập ở các nhà xuất bản Trung ương: truyện thơ "Inh Éng" và tập thơ "Sóng Nậm Rốm." Trong "Sóng Nậm Rốm", cả thơ ngắn lẫn trường ca- tuy chất lượng nghệ thuật không đồng đều, song có thể thấy rõ điều này: ông đã bứt rất xa khỏi lãnh địa văn nghệ quần chúng, và không còn chút dấu vết nào của lối thơ chạy theo đề tài, minh họa sự kiện & đường lối chính sách. Dung lượng trí tuệ và dung lượng hình tượng cảm xúc được hòa hợp một cách đầy bản lĩnh ở một cây bút giàu kinh nghiệm được kế thừa rất sâu truyền thống văn học dân gian, lại ý thức rất rõ rệt về tính chuyên nghiệp của mình! Thơ ông khá hiện đại trong cấu tứ và ngôn ngữ hình tượng mà vẫn giữ được về cơ bản hồn cốt dân tộc, có khả năng đứng lâu bền trong những hợp tuyển thơ Việt Nam hiện đại- bài thơ "Núi, mây và đàn bò" là một ví dụ tiêu biểu.
Nhưng truyện thơ mới là thể loại "đắc địa" của Vương Trung! Ông đã lao tâm khổ tứ trong việc sưu tầm, khảo cứu cả một hệ thống sử thi & trường ca dân gian Thái, Kh’ Mú, Dao, Mông... khắp vùng Tây Bắc. Khi sáng tác, truyện thơ của ông có sự gắn kết hữu cơ giữa tính sử thi như là hồi quang của những biến động lịch sử-xã hội với chất thơ của đời sống thường ngày thông qua sự cảm thụ vẻ đẹp tâm hồn cũng như sự bi thương bất hạnh của những số phận cụ thể... Trong số đó, "Ing Éng" là một truyện thơ nổi bật. Ing và Éng là đôi bạn từ thưở ấu thơ, khi lớn lên thì tình bạn thân thiết chuyển thành tình yêu. Mối tình đầu đang độ nồng thắm thì Inh đi nghĩa vụ quân sự. Éng chối từ làm vợ Lò Oan- con một nhà giàu mà cha mẹ gả ép. Ngay đêm tân hôn, cô trốn vào rừng, rồi tìm đến nông trường Mường Ẳng xin làm việc. Lò Oan đã giả mạo thư của bố Éng gửi cho Ing báo tin Éng đã lấy chồng, đồng thời phao tin là Ing đã lấy vợ ở biên giới. Trong một lần tiêu diệt phỉ, Ing bị thương nặng. Khi vết thương lành, trên đường trở về đơn vị, nghỉ tại nông trường Mường Ẳng, Ing bất ngờ bắt gặp lại Éng. Éng đã chạy biến... Rồi cả hai vỡ lẽ: "Hoá ra dây tình bền rìu chặt không đứt, dao cứa áo tình từ nhỏ không rách hở thân". Mối tình đầu được nối lại đằm thắm. Ing lại tiếp tục lên đường về đơn vị, họ "Gửi mắt nhau niềm tin; gửi tim nhau nỗi nhớ"... Với một ngôn từ giản dị, chắt lọc, tác phẩm đã dựng nên những hình tượng thơ chân chất rung động về các cảnh ngộ, về tâm trạng của các lứa tuổi khác nhau- nhất là tâm trạng của hai nhân vật chính từng phải trải qua chuỗi dài những buồn khổ, oán hận, dằn vặt, và niềm vui tái hợp... Tác phẩm này đã được nhân dân khắp vùng Tây Bắc rất ưa thích. Nó hay được trích đoạn làm hợp cảnh để hát phục vụ trong các lễ hội và tiệc rượu. Có nhiều người đã thuộc lòng cả tác phẩm.
Sáng tác dài hơi mới nhất của ông là tiểu thuyết "Đất bản quê cha" (Nxb Văn hóa dân tộc-2007). Trong tác phẩm này, Vương Trung đã có thể làm cái việc "tập đại thành" những trải nghiệm của ông về cuộc sống cũng như những hiểu biết về văn hóa - xã hội Thái xưa kia lẫn hiện tại mà ông thâu nhận, nghiền ngẫm trong nhiều năm ròng. Đường dây truyện xoay quanh số phận hai nhân vật chính Pâng - Sượi, khởi nguồn từ motif "yêu nhau mà không lấy được nhau" thường thấy trong nhiều truyền thuyết, truyện thơ cổ dân tộc Thái. Ông cũng đi sâu vào khám phá tận tế vi đời sống tâm hồn của người Thái với chằng chịt mối quan hệ xã hội, tập tục địa phương, v.v, như một số tác giả mà nổi bật là Mạc Phi với bộ tiểu thuyết "Rừng động". Nhưng cái mới mẻ, sáng tạo của riêng Vương Trung chính là sự tái hiện một cách sống động cuộc đấu tranh gian khổ chinh phục thiên nhiên của những con người trong thời đại mới, giữa bao thử thách và tai nạn do lòng tham, thói đố kỵ, sự ngu muội của chính đồng bào mình gây ra! Ở đây, truyền thuyết cũ lồng trong truyền thuyết mới, mà truyền thuyết mới chính là câu chuyện kể về người anh hùng Pâng Pun đã cùng vài người bà con đơn độc mở mương vắt qua vách đá hiểm trở Pha Dương dẫn nước suối Huổi Hiểm về khai khẩn đất hoang, cải tạo đất bạc màu giúp cho cả bản hướng thoát nghèo đói... Công việc đó của họ vấp phải biết bao sự thờ ơ, chống đối, không chỉ là những xỏ xiên bới móc, mà cả sự trả thù độc địa xuất phát từ mối thù cá nhân từ thế hệ trước... Kết thúc cuốn tiểu thuyết là hồi ức xót xa đầm nước mắt của mối tình đầu bất thành Pâng - Sượi, quanh bài thơ buồn của người đàn bà cô quạnh, nhưng không kéo người đọc chìm trong bi lụy bởi nguồn cảm hứng sử thi mới của "chứng tích Pha Pâng Pun trị thiên nhiên" bên cạnh "núi Pha Tạo, Pha Nàng nuối tiếc nhìn nhau"... Và đó cũng là sự bắt đầu của sự sống mới, của tình yêu mới từ những đôi trẻ đang tìm cách xóa bỏ hận thù xưa của hai gia đình, đang tiếp tục công việc làm giàu cho bản thân và quê hương. Có lẽ, vì từng có một mối tình đầu bất hạnh được kể lại trong cuốn tiểu thuyết đầu tay "Mối tình Mường Sinh" gần như một tự truyện, nên Vương Trung càng có điều kiện thấu hiểu cảm thông cho tâm trạng đang yêu "mãnh liệt như sóng tung, thác dội" của những cặp trai gái, và ông đã khiến cuốn "Đất bản quê cha" có sức hút đắm đuối không ít độc giả trẻ tuổi! Và đọc cuốn tiểu thuyết này, tôi có cảm giác Vương Trung đã từng trôi nổi qua nhiều vùng đất, nhiều nền văn hóa & văn học để tự tin trở về với dân tộc mình- không phải với tâm lý cổ "Mười bản không bằng bản rụng rốn/Mười mường không bằng mường treo nhau" mà với một tâm thế cao hơn nhiều- tâm thế của một nhà văn khi đã hiểu rõ vùng quê mình như một "thầy pháp thuật" của tâm hồn và chữ nghĩa...Văn xuôi ông có lối kể chuyện rủ rỉ, không làm sửng sốt bởi những phát hiện độc đáo về tâm lý hay miêu tả sự việc mà thấm dần vào lòng người đọc những mảnh đời, những trạng thái tâm tư tựa mạch nước ngầm. Ông sống với nhân vật và ngôn ngữ tự sự của mình như cá gặp nước, dựng lên những tâm trạng phong phú thậm chí phức tạp của con người sống trong các làng bản hẻo lánh- không hề giản đơn và ngô ngọng như hầu hết các tiết mục sân khấu- điện ảnh- truyền hình khi miêu tả đồng bào dân tộc miền núi! Nhưng vì vận dụng hơi nhiều lối cảm nghĩ và diễn đạt của người nông dân Tây Bắc nên văn ông đôi chỗ đậm chất biền ngẫu của "lối nói có vần"; những cách so sánh ví von đầy trực cảm của người miền núi không phải lúc nào cũng đắc dụng, điều này ảnh hưởng phần nào tới thụ cảm của công chúng độc giả toàn quốc. Song với những gì đã được Vương Trung dồn sức thể hiện qua 300 trang in, "Đất bản quê cha" quả là một đỉnh của văn xuôi miền núi hiện đại trong nhiều năm tới! Ông còn có cả mấy kịch bản văn học phim truyện dài tập, ngắn tập viết rất công phu đang chờ dịp được đưa lên màn ảnh lớn- nhỏ, như: "Chuyện tình ở đất Mường Sinh", "Sự tích Hoa Ban", v.v.
Mảng quan trọng không kém trong sự nghiệp của nhà văn Vương Trung là sưu tầm, khảo cứu, dịch thuật văn học & văn hóa dân gian Thái. Nhiều thập kỷ qua ông lang thang cặm cụi hết bản nọ mường kia tìm gặp các già làng để nghe hát, hỏi han, ghi chép, nghiền ngẫm, lục tìm đọc hàng ngàn trang giấy nát phủ bụi trong các kho lưu trữ và trong nhiều ngôi nhà sàn cổ... Những công trình biên soạn công phu: "Nhà sàn Thái", "Phong tục tang lễ của người Thái đen xưa kia", những khảo cứu và dịch thuật dày công: "Mo khuôn", "Táy Pú xấc", "Kén kẻo", "Chương Han"... đã lần lượt được in ra. Và còn bao công trình dang dở nữa! Ông đang thu thập tư liệu để làm nốt công trình biên khảo lớn về gia phả các dòng họ Thái ở Tây Bắc, và hiện đã hoàn thành cuốn dịch thuật & biên khảo "Phanh mướng luông"- tức là chuyện kể về lịch sử Mường lớn: Mường Muổi (Châu Thuận). Lường Bun, một người con trai của ông kể: trước khi ra đi, trong cơn đau, ông còn cố gượng hỏi anh là đã đánh máy nốt giúp ông bản thảo tập "Phanh mướng luông" chưa, khi anh gật đầu, ông mới có thể nhắm mắt...
Ông là người đam mê học hỏi. Cứ mỗi lần "hạ sơn" về Hà Nội họp hành, khi quay lên ông lại vác theo hàng đống sách do bạn bè tìm hộ - nhất là những sách lý luận về văn học, mỹ học, ngôn ngữ, văn hóa... Hễ có dịp là ông lại đi đây đó khắp mọi miền Đất Nước. Có lần, ông lên nghĩa trang Yên Kỳ nhân đám tang của một gia đình người bạn, hỏi han ghi chép tỉ mỉ để nhận ra sự khác biệt về phong tục tang ma giữa hai miền văn hóa... Những trang viết nghiên cứu của ông có sự thấu hiểu tường tận của người sinh ra từ đáy kho tàng văn hóa Tây Bắc, có rung cảm tinh tế của một hồn thơ, và có một tầm vóc lý luận đáng nể trọng. Ví như, sau khi phân tích bóng dáng xã hội trong truyện thơ dân gian về loài chim huyền thoại mang tên Kén Kẻo, ông đã khái quát về "đôi cánh lãng mạn" và "yếu tố thực ảo xen lẫn" của tác phẩm này xuất phát từ cánh bay thực của nhân vật trong cả một hệ thống hình tượng so sánh: cánh ngựa, cánh lá thuốc thiêng, cánh rồng...từ nhiều tác phẩm dân gian khác nhau không chỉ riêng ở Tây Bắc Việt Nam để định vị giá trị của nó, và giúp cho việc tìm hiểu tác phẩm trở nên dễ dàng hơn đối với số đông người đọc.
Những điều ông khảo tả kỹ lưỡng trong công trình "Phong tục tang lễ của người Thái đen xưa kia" đã được họ hàng, bè bạn, dân bản quanh vùng trân trọng phục dựng lại phần nào - bằng chính đám tang ông!
Từ đêm trước, những thủ tục đưa ma đã được bắt đầu. Khi tôi đến, ánh dương chưa xuất hiện trong khu vườn còn quanh quất hồn chủ nhà như đang thủ thỉ tiễn biệt từng gốc cây già mốc thếch, từng trái mắc-cọp bé bỏng... Mấy năm trước khi viết kịch bản phim truyện có liên quan tới đám tang một người vợ trẻ ở bản Thái, tôi đã chăm chú nghe ông giải thích cặn kẽ tập tục của đồng bào lúc đưa ma. Ông kể, theo quan niệm xưa, linh hồn người nghèo khi chết nếu không có của cải làm lễ cúng ma (dệt Heo) thì sẽ không được về mường Trời mà phải lang thang cô quạnh dưới đất làm ma tà (phi ha); và để lên được một tầng cao hay thấp trên cõi Trời là do có tiền làm lễ Heo nhiều hay ít... Với sự bộp chộp hiếu thắng, tôi hỏi ông: "Lên mường Trời mà cũng chỉ phân chia đẳng cấp theo số đầu gà đầu lợn và tiền bạc sao?" Ông không nói gì, chỉ tới khi hai anh em khề khà bên chén rượu ngâm mơ vườn nhà, ông mới khẽ khàng: "Này chú em! Cái bất công trong thế giới người sống lẫn người chết mà chú nói lúc nãy, thời bây giờ còn nặng hơn nhiều lần đấy..." Rồi ông lặng lẽ uống. Tới hôm nay, khi con cháu đã cố lo đủ số lễ "dệt Heo" để ông khỏi thành phi ha, buổi sớm nhập nhoạng đó dường như âm âm vọng những lời ông chưa kịp nói: "Chú nghe nhé, người cầm bút chúng ta cần minh chứng thật thuyết phục cho cái điều chưa từng có trong tục lệ cũ: để lên các tầng của mường Trời, không nhất thiết cần có nhiều tiền của- dù là tiền của trong sạch, mà cái cần nhất là sống thế nào để khỏi hổ thẹn với cháu con..."
Anh ơi, anh đã tạo ra vài truyền thuyết mới về sức mạnh tinh thần của con người trong cuộc mưu sinh gian khổ, và các thế hệ sau cần lấy chính cuộc đời anh để bổ khuyết vào cái "tiêu chuẩn" được lên mường Trời mà sự giàu có về tri thức và lòng nhân ái mới là điều tiên quyết...
Quyển "Xán xông" (Khóc tiễn đưa hồn) đang mở trước mặt người con rể trưởng thay thầy cúng cất giọng buồn thương "khắp hảy phi tai” (hát khóc hồn người chết) bộc lộ ước vọng muôn thuở của người đời:
Mình lên mường Trời, hãy ở đấy
Lên đến ruộng hạn không trồng dâuRuộng bậc thang không trồng lúa
Muốn ăn, cơm khắc đến
Muốn ăn, cá khắc về
Không khi nào lạnh rét
Đời đời chẳng già nua...
Nhưng hồn đâu thể bình tâm hưởng hạnh phúc một mình nơi cao sang, hồn còn nặng nghĩa với nhân quần, vì vậy người sống đã nói hộ nguyện vọng lắng sâu của hồn là muốn làm chỗ dựa tình cảm, động lực tinh thần cho những người thân yêu:
Hồn hãy về mường Sại
Về ngăn nước vào ruộng
Về kiếm cá nuôi con
Về cấy lúa nuôi nhà
Hãy về nhà về cửa, hồn hỡi...
(Vương Trung dịch từ tiếng Thái
Giữa những lời khóc ma ấy, kèm tiếng hời họa theo của phụ nữ già trẻ chít khăn trắng đang ngồi bên quan tài được phủ bằng khăn piêu, trong khi mấy người già đương buộc chỉ đen vào cổ tay những người trẻ tuổi để giữ hồn đừng vội đi vội quên, tôi chợt rưng rưng nhớ tới lời khấn của nhân vật chính trong tiểu thuyết "Đất bản quê cha" lúc kể lại thân phận mình: "Đời đầy bụi gai đống sỏi, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mười đắng mới có một ngọt, mười cay mới có một bùi..." Nhưng dù phải "tốn phí quãng đời dài như rác rưởi trôi sông, gặp bao cảnh chìm nổi theo sóng cuộn, vật vã theo sóng tung" khắp các vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, dù không ít đận "gặp hổ sói, vốn liếng bay sạch như bông lau tàn theo gió cuốn" thì nhân vật của ông cũng luôn sống hiên ngang, không bao giờ dùng tới những thủ đoạn hiểm ác- như tay thầy cúng Lào Tóng từng lợi dụng mê tín của dân để bịa ra hồn ma khủng bố tinh thần người lương thiện... Phải chăng, đó cũng chính là cách ông dạy dỗ các con trai gái dâu rể và các cháu của mình trở thành những con người mà ông đã có thể yên tâm gửi gắm lại cõi đời? Phải chăng, đó cũng chính là con đường sáng tạo ăm ắp gian truân và tròn đầy trung thực của nhà văn Vương Trung?
Thị trấn Châu Thuận giờ đây không còn bóng ông đi chậm chạp giữa Phố núi bình dị, với cây gậy chống sau lần tai biến, thỉnh thoảng dừng lại hỏi han một người dân bản mang nông sản bán rong, hoặc ngẩn ngơ trước một ý thơ run rẩy vụt hiện giữa bóng núi chợt sẫm lại bởi mõ trâu về bản trên dòng suối Muội... Nhưng khi nhà văn lão bản Vương Trung nằm yên nghỉ trên một nghĩa trang nhìn xuống thung lũng của những thửa ruộng nước thấp cao xinh xắn, dưới bóng đỉnh Pú Luông - Khau Tú trầm mặc, linh hồn ông dường còn thầm thì mãi cùng rừng thông về cuộc sinh tồn và sức mạnh tình nghĩa của đồng bào ông đã và đang trải qua "bao cảnh chìm nổi theo sóng cuộn"- để tới không phải một Mường Trời nào như hằng ước, mà tới một cuộc sống yên bình no ấm ở bất kỳ nơi trần thế nào có thể trở thành "Đất bản Quê cha"...
Sơn La- Hà Nội, 18/3/2012
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
* Quam tô mương (truyện kể về mường)- Quam phanh mương (diễn ca hoá truyện kể về mường )- Táy pú xớc (lần theo dấu tích chinh chiến của cha ông)
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 02.5.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Lên ngọn suối gặp "Vùng rừng nóng bỏng"
Bút ký của Nguyễn Anh Tuấn
Tôi trở lại Sơn La khi những cánh hoa đào phơn phớt mát dịu đương hối hả tranh giành lần cuối với màu xám bạc của lau và đá. Và lần nào cũng thế, cứ bắt đầu qua Thung Khe để vào xứ sở sương mù, quê hương của suối sâu thác dữ, núi rừng trùng điệp, tôi đều chợt lặng đi nhớ tới người anh, người đồng nghiệp đã qua đời hơn hai mươi năm trước: nhà biên kịch điện ảnh người Thái Cầm Kỷ. Anh mất giữa cái tuổi mà sự tích lũy sáng tạo đang căng đầy thôi thúc trong một trái tim nóng bỏng...
Xe tôi lúc này đang vượt đèo Chiềng Đông hiểm trở. Tôi ngậm ngùi nhìn cái nơi mà Cầm Kỷ gặp tai nạn... Những điều anh dự báo và khẩn thiết kêu gọi trong kịch bản phim truyện "Vùng rừng nóng bỏng" chưa kịp lên màn ảnh đã rơi ập vào chính số phận của anh: chiếc xe chở Cầm Kỷ đã bị đổ do hậu quả của những cơn lũ rừng, sau nhiều năm tháng dài đốt phá rừng triền miên vô tội vạ! Cứ mỗi năm, những con suối Tây Bắc ngày một trở nên ngầu đục hung dữ hơn! Cả những cánh rừng hoa ban kỳ diệu mà chỉ riêng vùng rừng Tây Bắc mới có cũng đang bị chặt, bị đốt phá một cách không thương tiếc! Cầm Kỷ xót xa tâm sự cùng tôi sau nhiều lần từ Sơn La hoặc Lai Châu quay về Hà Nội. Ánh mắt anh ứ lệ, ngầu đỏ...
Một trong những việc đầu tiên của tôi khi về nhận công tác ở Xưởng Phim truyện VN (sau là Hãng PTVN) là tìm đến một căn phòng của dãy nhà tập thể tre nứa sát hồ Tây, mang theo chai rượu nút lá đặt trước mặt Cầm Kỷ: "Tây Bắc là quê hương thứ hai của em. Xin ra mắt đàn anh! " Cầm Kỷ tròn xoe mắt nhìn tôi từ đầu tới chân rồi reo lên: "Hay quá, tớ đang cô độc đây!..." Lúc đó, tên tuổi anh đã vang danh với các kịch bản được dựng thành phim có nhiều người xem hâm mộ, đoạt cả giải Quốc tế: "Hai người mẹ", "Chom và Sa" (1), "Lưu lạc", "Trở về Sam Sao"..., còn tôi thì mới lẫm chẫm vào nghề; nhưng điều đó không hề ngăn cách chúng tôi để có biết bao buổi trò chuyện tâm đắc trong căn phòng tồi tàn này, rồi sau đấy là căn phòng ngăn đôi ở khu tập thể cũ kỹ Hoàng Hoa Thám... Cứ sau mỗi buổi chiếu phim nghiên cứu học tập của cơ quan vào tối thứ tư, anh lại lôi kéo tôi ngồi bàn luận tới khuya. Rất quan tâm tới cách thể hiện độc đáo trong các phim, song điều khiến anh cảm thụ sắc bén và nhanh nhạy trước hết là những vấn đề nhân văn của chúng. Có lần, sau buổi chiếu phim "Dòng nước đen" của Nhật, sáng hôm sau anh kể cho tôi nghe ý tưởng một kịch bản mới nói về thân phận những người dưới đáy xã hội... Qua anh, tôi được hiểu thêm rất nhiều về nền văn hóa các dân tộc Tây Bắc, về các nhà thơ - nhà văn hóa dân tộc đáng kính mà tôi từng được tiếp xúc ở Sơn La, như nhà thơ Cầm Biêu, nhà Thái học Cầm Cường (hai anh trai của Cầm Kỷ), nhà thơ Lò Văn Mười, nhà thơ Lò Văn Cậy, nhà thơ Vương Trung, nhà dân tộc học Cầm Trọng, nhạc sĩ Cầm Bích, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hoàng Trần Nghịch, Đinh Ân, Đinh Tranh, v.v. Tôi được anh coi là người bạn vong niên tri kỷ, trước hết là bởi từng có một phần tuổi trẻ gắn bó với quê hương anh và đã kịp yêu quý nó... Lúc Cầm Kỷ viết kịch bản "Đường rừng" (tức "Điều anh chưa kịp nói" kể lại chuyện người thanh niên yêu nước Lò Văn Giá dẫn bốn tù chính trị vượt ngục Sơn La rồi khi trở về bị giặc giết hại), anh chịu khó trao đổi với tôi thường xuyên, vì đã đọc những truyện ký của tôi viết từ thời dạy học về nhà ngục khét tiếng này (2). Chính anh đã đề nghị với Ban giám đốc & Hội đồng nghệ thuật Xưởng phim giao kịch bản trên cho một đạo diễn mới tốt nghiệp nhưng có hiểu biết về Tây bắc, và được chấp thuận ngay. Nhưng sau đó, một Đảng viên kỳ cựu kiêm đạo diễn lâu niên đã nì nèo lãnh đạo xin được làm phim này, coi như cuộc "cúng giỗ" cuối cùng của ông trong loại phim "cúng cụ" để hạ cánh bình yên xuống miền quên lãng; thế là tay đạo diễn trẻ đương nhiên bị gạt bắn ra ngoài guồng làm phim - kể cả chức danh phó hay trợ lý đạo diễn, sau khi đã kỳ công ngồi viết kịch bản phân cảnh kỹ thuật cả tháng trời với tư cách là đạo diễn chính! Bộ phim rồi cũng ra đời, và một trong những "Điều anh chưa kịp nói" của Cầm Kỷ rất có thể là nỗi ấm ức cho bản thân mình và cho cả anh bạn đồng nghiệp trẻ...
Sau gần một năm Cầm Kỷ mất, tôi có lên Sơn La để làm một phim chân dung về anh. Tại thị xã Sơn La ngày đó, những dấu vết kinh hoàng của trận lũ tháng 7 năm trước vẫn đang còn in đậm trên làng bản, phố xá và trong tâm trí của mọi người. Đằng sau và bên cạnh ngôi mộ của Cầm Kỷ- ngôi mộ đầu tiên trên ngọn đồi sau trở thành Nghĩa trang Nhân dân Thành phố- khi ấy đã xuất hiện thêm hàng chục ngôi mộ của nạn nhân cơn lũ quét đè bẹp thị xã Sơn La vào năm 91 ảm đạm đó! Vợ con anh đang chăm sóc phần mộ anh. Đôi mắt cháu nhỏ mất cha nhìn ngơ ngác... Giữa núi rừng lặng lẽ, bên hương khói mộ anh, tôi đã cầu mong anh thanh thản mà lại như nghe thấy anh đang khóc hô hô cho một vùng rừng đang bị phá hoại tàn khốc, cho môi trường sinh thái đang bị thiêu hủy từng giờ, cho cái thiên nhiên đang cất lên lời kêu cứu tuyệt vọng cuối cùng... Những đàn kiến rừng khổng lồ đang ùn ùn bỏ tổ ra đi mà tôi quay chộp được trên đường đi bộ từ Hua La về Mường Chanh phải chăng báo hiệu cho những cơn lũ rừng khủng khiếp sắp tới- những cơn lũ mang tên lũ ống, lũ tràn, lũ quét, lũ đầu mùa, lũ muộn...?
Mười năm sau đó, tôi có trở lại Hua La khi quay bộ phim truyện về số phận của một cô gái Thái xinh đẹp bị vu là "Ma cà rồng", và làm một phim tài liệu về những cánh rừng đầu nguồn. Vẫn là cảnh đốt nương mù mịt, núi đồi bị cạo trọc nhẵn thín, những bóng người và trâu bò xa tít trên các nương cằn cheo leo, dốc ngược; còn các luật tục khắt khe tự bao đời của người Thái đối với Rừng thiêng đã bị quy luật sinh tồn và kinh tế thị trường buông thả xâm phạm nặng nề...
Và thêm mười năm sau nữa, tình cảnh vẫn chẳng có gì khác: chỉ cách trung tâm Thành phố Sơn La choáng ngợp cờ hoa và ánh điện màu chưa đầy 5 cây số đã là sự hoang tàn của đất và rừng, lại thêm những vết lở loét khổng lồ bên suối Mường La bởi khai thác khoáng sản bừa bãi... Những ngôi nhà sàn đẹp đẽ từng góp phần tạo nên danh xưng đáng yêu "Thị- xã-nhà-sàn" đã dần biến mất để thay thế bởi những hình hộp bê tông cắm đủ loại mái tân kỳ lổn nhổn...
Năm Cầm Kỷ qua đời, cháu lớn của anh học chưa xong phổ thông, cháu nhỏ nói chưa sõi, vợ con anh sống nheo nhóc trong một ngôi nhà tranh sập xệ trên đường vào xã Hua La. Còn anh, sống giữa Thủ đô không ít năm nhưng lại giống người đồng rừng mới về thành thị, ngơ ngác trước mọi thứ mánh mung, chỉ biết mệt mài với những trang bản thảo, lại không ưa, không biết quỵ lụy trong những mối quan hệ rắc rối... Cầm Kỷ sống cảnh gà trống nuôi con nhiều năm ròng sau khi người vợ đầu là một ca sĩ bỏ đi xuất khẩu lao động... Nói đến anh, mọi người thường lắc đầu thương hại. Lúc nào anh cũng là người túng thiếu nghèo khổ nhất trong giới nghệ sĩ điện ảnh... Anh đã buộc phải trở về quê hương thường xuyên hơn để tìm đường kiếm sống- làm phim truyền thống cho các xã các huyện, viết các vở kịch ngắn cho ngành truyền thông địa phương, lên núi phá hoang trồng ngô khoai sắn, nuôi gia cầm cùng vợ con (người vợ thứ hai của anh là một cán bộ Đoàn tại Sơn La)... Và dĩ nhiên, những ý đồ sáng tác vẫn cồn cào thường trực trong anh. Anh vẫn viết với một tình yêu theo cách đồng bào anh bộc lộ: "Yêu người nào thì muốn bồng, muốn cõng người ấy lên"- như câu tục ngữ Thái anh yêu thích... Song ngôi nhà tranh vách nát ở Thị xã đâu có che nổi cho những trang viết, những chồng bản thảo khỏi bị mưa dột? Tệ hơn, những kịch bản tâm huyết của anh dần trở nên lạc lõng thảm hại giữa "chợ trời" phim ảnh, chẳng một ông chủ hãng phim nào- kể cả ông giám đốc của xưởng phim truyện to nhất nước đang trả lương bèo bọt và thất thường cho anh, có thể mỉm cười chào đón anh nữa. Bởi lúc đó cả ngành Điện ảnh nước nhà trong tình trạng cấp cứu, lại đang bị ngập lụt trong thứ phim đã đi vào từ điển tiếng Việt hiện đại: "Phim mì ăn liền"- nghĩa là cái thứ phim câu khách bằng mọi giá, kể cả chà đạp lên sự liêm sỉ tối thiểu!
Nhưng chuyện cơm áo dày vò đâu có thể làm nguôi ngoai nổi những điều nung nấu tâm can người nghệ sĩ chót mang hồn vía của núi cao rừng thẳm và những bản tình ca dân gian say đắm như Tiễn dặn người yêu, Chàng Lù nàng Ủa, Nàng Tóc thơm...! Bữa no bữa đói, anh vẫn cắm cúi miệt mài viết, vẫn lắng nghe không bỏ sót một tiếng kêu cứu nào từ núi rừng quê hương! "Vùng rừng nóng bỏng" của anh dù phải vùi sâu trong chồng bản thảo hay phủ dày bụi trên bàn biên tập vẫn cựa quậy thôi thúc đòi được lên màn ảnh để đến với hàng chục triệu khán giả- bởi điều đó trước mắt có liên quan mật thiết đến sinh mệnh của các con anh, của những thế hệ em nhỏ Tây Bắc!...
Đằng sau vóc dáng đồ sộ nặng nề như gấu của anh là một tâm hồn nhạy cảm dễ ứa lệ và một khát vọng sáng tạo tựa ngọn lửa đêm lễ hội cao nguyên. Anh có lần bảo tôi: "Tớ phải viết, phải lao động nghệ thuật như một con trâu điên, cả cậu cũng vậy, đừng có dúm dó như thế, để mai sau mọi người sẽ hiểu: trong các đống bản thảo này là những trái tim khổng lồ rớm máu đã đập như thế nào..."
Hai thập kỷ trước, tôi đã tới Mường Chanh - huyện Mai Sơn, quê hương của nhiều nhà hoạt động văn hóa - quân sự - chính trị người Thái có tên tuổi khắp vùng Tây Bắc thời hiện tại. Đây là một vùng căn cứ địa Cách mạng cũ, một địa phương nổi tiếng với cây lúa nếp Tan và nghề gốm đất nung cổ truyền. Đó là một thung lũng tuyệt đẹp, có những mảnh ruộng xinh xắn, có dòng suối trong vắt mềm mại tựa dải lụa từng tắm mát tuổi thơ Cầm Kỷ... Nhưng rời cái toàn cảnh rộng thi vị như tranh vẽ đó, tôi đã tới trước những lớp học tiêu điều, trống huếch, đầy phân súc vật dù đã sắp tới ngày khai giảng...Vốn xuất thân là một thầy giáo, chắc Cầm Kỷ đã không ít lần xót xa trăn trở về giáo dục miền núi sau mỗi lần về quê hay đi tới các vùng cao vùng xa ở Tây Bắc để thu thập tư liệu cho sáng tác... Đến bao giờ thì Tây Bắc mới thực sự trở thành một "hòn ngọc của Tổ quốc"? Đến bao giờ tất cả các em nhỏ miền núi đều được đến trường- những ngôi trường ít ra cũng được khang trang gần bằng các trụ sở Công quyền?... Đến bao giờ những cọn nước quay chầm chậm chỉ còn là một biểu tượng đẹp và buồn của quá khứ trên sông suối Tây Bắc?... Phải chăng, đó cũng là những điều đã ngày đêm dằn vặt nhà biên kịch và tạo nên âm hưởng trầm buồn đến bi tráng trong các trang kịch bản của anh?... Dưới mái nhà sàn ám khói, người chị cả đáng kính của anh đã hát cho tôi nghe. Và tôi hiểu, nỗi buồn đó của Cầm Kỷ còn bắt nguồn từ giọng hát lê thê buồn bã bên bếp lửa sàn đêm đêm của người chị nghèo thay mẹ nuôi em...
Bố mẹ chúng ta khuất núi từ lâu rồi
mấy chị em đùm bọc rau cháo chăm nhau
không ngờ em lại ra đi trước chị
trên cõi Trời em hãy bình tâm,
bởi điều đau đớn ấy chị để trôi trên dòng nước,
chị treo nó lên ngọn cây
cho gió bay xa,
tỏa khắp rừng sâu,
lan mọi phương trời
để con cháu biết rõ về em, noi gương em, tiếp tục công việc của em...
(Dịch nghĩa từ tiếng Thái)
Lời "khắp" Thái buồn như tiếng khóc- lúc thầm thì kể lể nức nở, lúc dâng cao nhưng nhức xoáy tâm can... Trong tiếng hát quấn quýt ngọn lửa sàn bập bùng, tôi lại hình dung ra những con nộc-phay, tức chim lửa mà Cầm Kỷ từng kể cho tôi nghe sự tích về chúng- loài chim tượng trưng cho linh hồn những người chết vì đói ngày giáp hạt thường quay trở về nương rẫy làng bản thành chảo lửa trên nền trời xám đục bởi tro than, chúng hót lời não nuột nhắc đừng bao giờ quên những thời đói khổ...
Phó GS -TS hóa học Cầm Cường, một người nghiên cứu rất sâu về văn học dân tộc Thái, nguyên là Chủ nhiệm chương trình Thái học Việt Nam (nay đã mất) từng ngậm ngùi kể về người em trai của mình: "Cầm Kỷ say sưa nghề nghiệp đến mức có lúc dường như lãng quên cả hạnh phúc gia đình, bỏ quên cả vợ con, họ hàng. Nhưng thực ra, Cầm Kỷ là người rất giàu tình thương và trách nhiệm... Hai anh em tôi rất tâm đắc về việc khai thác phát huy vốn văn hóa dân tộc, đã bàn bạc nhiều về chuyện chuyển thể lên màn ảnh hai truyện thơ Xống chụ xon sao, Khun Lú náng Ủa và một số truyện cổ dân gian Thái, Mông, Kh’ mú... Gia đình chúng tôi bị hẫng hụt lớn khi Cầm Kỷ mất sớm, và hy vọng các bạn đồng nghiệp của Cầm Kỷ sẽ tiếp tục hoàn thành nốt những công trình dang dở nhiều ý nghĩa đó..."
Tôi đã nhiều lần "Lên ngọn suối"- tên một trường đoạn của kịch bản phim "Vùng rừng nóng bỏng" chưa kịp thực hiện, để tìm lại ngọn nguồn của một nỗi đau, một ước vọng trong "trái tim khổng lồ rớm máu" luôn hướng về quê hương Tây Bắc... Giai đoạn viết kịch bản này, cứ được trường đoạn nào Cầm Kỷ lại gọi tôi tới bắt nghe và góp ý, bên chén rượu trắng và đĩa lạc luộc... "Vùng rừng nóng bỏng" đề cập tới sự cần thiết phải giao đất giao rừng cho dân với một chính sách để dân có thể sống được mà không phải phá rừng đốt nương, cho đến hôm nay càng nóng bỏng hơn lúc nào hết trước những vấn đề thời sự nhức nhối cấp bách về thiên nhiên & môi trường sinh thái cần được bảo vệ, về phương thức làm ăn để thoát nghèo đói, về môi trường văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc Tây Bắc đã, hay đang có nguy cơ bị dìm vĩnh viễn trong nước lạnh hoặc bị xúc gọn vào bảo tàng... Nhưng cái tập kịch bản vang vọng tiếng kêu thống thiết của loài chim lửa kia cùng nhiều tập kịch bản ngồn ngộn sự sống khác chứa đựng huyết lệ của Cầm Kỷ chắc cũng sẽ rơi tõm vào khoảng không đáng sợ... Biết làm sao được, khi còn tồn tại những người có trách nhiệm thiếu lương thiện hay thiển cận khiến cả ngành Văn hóa lẫn Điện ảnh lao đao tựa bị lũ quét, khi mà những ông chủ sản xuất phim hiện tại (cả Tư nhân lẫn Nhà nước) đang cay cú đến mờ mắt với những canh bạc phim ảnh hốt ra vàng nhờ khoe chân dài, váy ngắn, ngực phơi lưng hở của những "siêu mẫu siêu sao" và trưng bày cuộc sống vương giả hoặc nhầy nhụa tình dục mà nếu có đem phim lên chiếu không phục vụ đồng bào miền núi thì cũng chỉ là một điều oái oăm đến xót xa, hơn thế, một sự điếm nhục!
Tuy vậy, tôi vẫn âm thầm hy vọng về những "Bình minh trên rẻo cao", như tên một kịch bản tốt nghiệp điện ảnh đã làm thành phim tài liệu của Cầm Kỷ từ năm 1962. Và chắc chắn rằng: nếu "trái tim khổng lồ rớm máu" đó còn đập tới hôm nay sẽ còn hòa nhịp với Biển Đông nóng bỏng, Tây Nguyên nóng bỏng, Duyên Hải nóng bỏng... Cả cuộc đời lừng lững đam mê sáng tạo của Cầm Kỷ vẫn luôn là nguồn động lực tinh thần mạnh mẽ đầy bí ẩn đối với nhiều người- trong đó có tôi...
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
1. Phim Chom và Sa đoạt giải Silver Elephent tại LHP Quốc tế thiếu nhi năm 1979. Phim dựa theo câu chuyện có thật kể về hai em bé người Thái đen ở Mường La (Sơn La) không còn cha mẹ, chạy trốn khu tập trung của giặc Pháp, sống lẩn khuất trong rừng, cho đến khi bộ đội Việt Minh vào giải phóng Tây Bắc đã cứu sống các em và nuôi cho ăn học...
2. "Người tù áo sạch" (tập truyện) NAT- Nxb Thanh niên, 1993
Xuân Nhâm Thìn 2012
Bài & ảnh: Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
- Trên thượng nguồn sông Mã- Sơn La
- Nương đồng bào dân tộc ở xã Hua La (Thành phố Sơn La)
----
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 23.02.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
"Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu."
(Xuất xứ bài thơ "Mai em về nhà chồng" của Trần Hòa Bình)
Thị trấn Xuân Hòa - Vĩnh Phúc hai mươi năm trước...
Tối mịt, sau khi ăn uống quấy quá cho xong tại quán cơm bình dân, tôi và Trần Hòa Bình đang định quay lên căn phòng tập thể của Bình ở Đại học Sư phạm Hà Nội II, thì Bình bảo: "Tôi với ông đi dạo quanh thị trấn đi?"
Hồi ấy, chỉ cần ra khỏi khu vực của trường ĐHSP là khung cảnh vắng ngắt, ao chuôm đầm lầy ngổn ngang. Chúng tôi lang thang trong đêm vắng, chỉ có tiếng côn trùng, ếch nhái hân hoan chào đón những bước chân lãng du...
Thỉnh thoảng, tôi lại phóng xe lên Xuân Hòa với Trần Hòa Bình, những hôm anh có giờ dạy ở trường. Quang cảnh tịch mịch của thị trấn nghèo không xa lạ với chúng tôi, nhưng lần nào chúng tôi cũng đều tìm thấy thêm một điều gì đó thi vị, thân thương đối với hai kẻ cô đơn, hạnh phúc gia đình trắc trở... Đi mãi lên gần phía hồ Đại Lải, một cơn mưa giông bất chợt ào xuống, chúng tôi chạy vội trú chân trong một quán lá sơ sài ven đường. Chúng tôi rét run, im lặng nhìn mưa đêm, mỗi đứa âm thầm theo đuổi những nỗi niềm run rẩy mơ hồ của cõi đời phù du...
Hơn tiếng sau, mưa ngớt, chúng tôi lóp ngóp trở về phòng tập thể của Bình... Quá nửa đêm, khi tôi đang gật gà ngủ ngồi bên một cuốn sách, thì Trần Hòa Bình lay tôi dậy. Anh đã đặt sẵn chai rượu trắng nút lá trên sàn đá hoa. Anh rót rượu và bảo: "Ngủ làm gì ông, phí của giời!" Anh với tay lên bàn cầm một tờ giấy có những dòng viết vội. "Làm tí rượu nhạt cho tỉnh, rồi tôi đọc ông nghe. Tôi vừa viết xong đây..."
Bình đã đọc cho tôi nghe bài thơ "Mai em về nhà chồng", bằng cái giọng sang sảng của một giảng viên văn khoa và đượm nghẹn ngào của của một thi sĩ đa cảm mà sự mộng mị đắm đuối đầy những linh cảm bất trắc đã được khung cảnh vắng lặng nhoè mưa của thị trấn buồn phụ hoạ thêm:
Mai em về nhà chồng
Tặng Nguyễn Anh Tuấn
Cớ sao cơn mưa xứ đồi lại đến cùng anh
Đêm thương buồn giữa hạ?
Chỉ còn đêm mưa này
Ngày mai em về nhà chồng
Mưa giăng trắng cánh đồng
Phố xá sau lưng, bạn bè trăm ngả
Anh nhìn em qua mưa hun hút đường dài...
Mọi sự đều không đúng lúc
Đã quá muộn để nói lời yêu đương
Lại quá sớm khi nói lời giã biệt!
Mai em về nhà chồng
Hết rồi những cơn mưa ướt mái đầu con gái
Một đêm nào chúng ta chia tay
Bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng...
Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Anh thức qua đêm nhìn mưa
Anh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Bong bóng nước trôi xuôi vỡ nghìn hoa cánh trắng
Đâu rồi dấu chân em
In mòn thời thiếu nữ?
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồi
Chỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
Tôi định hỏi ngay: "Vì sao ông lại đề tặng tôi, chẳng phải là ông viết cho Em nào sẽ về nhà chồng?" Nhưng tôi đã không hỏi, và không bao giờ hỏi nữa. Bởi ngay sau đó, tôi chợt đặt mình trong tâm trạng của Bình; nếu tôi có làm được một bài thơ nào trong đêm ấy, dù là có nghĩ về ai hay làm cho một đối tượng nào đó, tôi cũng sẽ chỉ đề tặng THB mà thôi. Độc thoại trong đêm mưa và đối thoại trong im lặng đã là nguyên cớ để bài thơ ra đời. Cô em nào đấy ngày mai, hoặc ngày kia đi lấy chồng, đâu có quan trọng! Điều chính yếu là từ rất lâu rồi, THB đã để tuột cơ hội tìm một tình yêu và hạnh phúc đích thực... Nỗi cô đơn và cảm giác bất lực xót xa trước những gì tốt đẹp ta hằng khao khát cứ rời xa ta từng ngày từng giờ đã là một nguồn cảm hứng thơ ca của nhiều thời đại, và thật không may (hay là may mắn?) THB đã bị chúng bất chợt "tóm" mất hồn vía trong một đêm mưa thật buồn!
Anh thức qua đêm nhìn mưaAnh thức qua năm tháng nhìn em
Anh thức qua cuộc đời nhìn tình yêu
Cái cách mà tác giả "thức" qua đêm nhìn mưa để rồi liên tưởng tới những năm tháng dài, tới cả cuộc đời "thức" để nhìn em, để nhìn tình yêu quả là đậm "chất THB": thông minh, biến hóa một cách tài hoa, nhưng nhờ cảm xúc mạnh mà ấn tượng về "tiểu xảo" đã bị xóa nhòa trong thụ cảm người đọc. Thức qua cả cuộc đời để nhìn tình yêu, tìm tình yêu, sao có cái gì đó thật xa vời, vô vọng, song vẫn cứ phải làm thế, như một thứ định mệnh; có điều nỗi buồn rưng rưng bởi Tình yêu chưa thành, chưa tìm thấy, ở đây vô tình hòa nhập với khát vọng về sự hoàn thiện nên nó mang một giá trị về Thẩm mỹ và Nhân cách.
Cả cái triết lý này nữa:Mọi sự đều không đúng lúc
đã quá muộn để nói lời yêu đương
lại quá sớm khi nói lời giã biệt…
Sự thông minh đã không biến chúng thành triết lý vặt, "khổ lắm biết rồi", bởi có những vần thơ phập phồng nhớ thương tiếc nuối làm nền trải khắp bài để chúng trở thành phát hiện bất ngờ mới mẻ về nhân tình thế thái - điều mà chúng ta vẫn gặp phải song ít khi ngẫm về chúng như một chiêm nghiệm thấm thía - không phải chỉ riêng trong Tình yêu, mà còn cho mọi lĩnh vực của quan hệ xã hội mà ở đây Tình yêu chỉ là một cái cớ trực tiếp, cụ thể, như giọt nước làm đầy tràn cốc nước...
Ông thầy dạy văn bậc đại học giàu hồn thơ THB thời đó dường như vẫn chưa cắt được hết cái "đuôi" của một anh giáo làng quê mà hồi xưa từng được hình tượng hóa trong "thầy đồ Cóc" dân gian- bởi lẽ thi hứng và thi liệu trong bài thơ khá "siêu thực" này lại mang đậm âm hưởng ca dao Bắc Bộ ngàn đời:
Bong bóng nước dưới chân dập dờn nghìn hoa trắng...Mai em về nhà chồng
Mưa theo em ròng ròng thương nhớ
Mai em về nhà chồng
Nước mắt gửi vào mưa âm thầm khung cửa...
Xứ đồi đêm ấy đã gợi cho THB bao suy tưởng về Xứ Đoài nghèo khó thân thương của anh- nơi anh từng chứng kiến những cơn mưa ướt mái đầu con gái và có dấu chân em/ In mòn thời thiếu nữ... Trĩu buồn bởi ký ức, nhưng anh đã bình thản để Đưa tiễn một thời con gái và chia tay với một "thời xa vắng" của mình:
Cớ sao mắt em buồn như đêm mưa xứ đồiChỉ mình anh nhận thấy?
Sớm mai ra là góc bể chân trời
Chúng mình xa nhau mãi mãi
Đưa tiễn một thời con gái
Mưa bây giờ lùa ướt tóc anh...
Có lẽ đây là một trong những bài thơ tập trung nhiều nhất tâm lực, cảm nghĩ, nước mắt, và... cả kỹ thuật thơ của THB! Đêm mưa Xuân Hòa ấy thức dậy trong anh bao đêm mưa và chiều mưa của một tuổi trẻ từ "xứ đồi" ra thành phố, nghèo túng, long đong, phải chật vật tìm hướng đi cho khát vọng đời mình, tìm cách giải tỏa bao cơn "tức nghẹn" của sự nghiệp văn chương, khi Phố xá sau lưng, bạn bè trăm ngả và hạnh phúc tưởng đã nắm gọn trong tay mà hóa ra mịt mù sương khói... Giả sử anh có một cô người yêu nào sắp lấy chồng ngày đó thì chắc cũng không da diết, buồn thương khắc khoải đến thế! Mà thực ra, không ít cô gái- trong đó có học trò thầm đeo đuổi anh chàng tài hoa đeo kính cận dày cộp có khả năng làm tan hoang rơi rụng trái tim người bởi giọng nói tự tin thủ thỉ, và có thể cũng được anh đền đáp ít nhiều về tình cảm, rồi họ chẳng liên tiếp báo tin là sẽ đi lấy chồng đấy thôi! Nói cho công bằng, "cô em mai đi lấy chồng" trong bài thơ là hình bóng của tất cả những cô gái yêu anh, được anh trân trọng tình yêu đó- nhưng lại không có điều kiện để đến được với nhau... THB ít có khả năng dung hòa được giữa thực tế trần trụi và ước vọng cao vời, anh tìm an ủi trong học trò, bè bạn; không có bất kỳ khả năng "đập phá" nào, anh tìm sự giải tỏa trong thơ, nhạc, tranh vẽ... Và anh đã chọn một đêm mưa Xuân Hòa, đúng hơn là đêm mưa đó đã chọn anh- khi đồng cảm cùng thằng bạn cũng "ngơ ngẩn" về đời sống còn hơn mình, để lưu lại trong vườn Thơ một đóa hoa không màu mà chứa đủ các màu sắc như giọt mưa giữa bầu trời của tâm hồn thi sĩ...
Kỷ niệm ngày mất của nhà thơ, nhà báo Trần Hòa Bình
16/8/2008 - 16/8/ 2011
(Đạo diễn Điện ảnh)
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 16.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Tưởng nhớ Hồng Sơn ngày xá tội vong nhân
Một trại giam ở Bắc Giang. Người đại úy quản giáo dẫn một tù nhân đàn ông còn trẻ đi từ phòng giam tử tù về phía cổng trại. Khi đi qua một khu phòng giam nữ, kẻ đang đi tới những khoảnh khắc cuối cuộc đời chợt dừng lại, hất mặt về phía có một người đàn bà tì mặt qua chấn song đang gào khóc nức nở, và anh ta hét lên như cố biểu lộ vẻ yêng hùng: "Im ngay! Đừng có khóc! Vớ vẩn!"
Đó không phải là một cảnh dàn dựng để quay, mặc dù cảnh ngộ đó cũng lọt vào ống kính máy quay một cách vô tình, khi đoàn làm phim "Khát vọng công lý" của Hãng phim truyền hình Việt Nam (VFC) đang thực hiện một cảnh quay ngoại.
Một cán bộ trại giam cho tôi biết: cả hai người đó đều bị án tử hình vì buôn lậu ma túy, nhưng người phụ nữ được giảm án chung thân bởi còn có con nhỏ. Cả đoàn phim lặng người khi chứng kiến cuộc chia ly lần cuối của đôi vợ chồng tội phạm. Lúc đó, diễn viên chính của phim (cũng đang trong trang phục tù nhân) bỗng lặng lẽ rời xa mọi người, lảo đảo đến tựa người vào một gốc cây và ngồi sụp xuống như bị kiệt sức. Tôi chạy vội đến anh, định hỏi han, thì anh từ từ ngẩng đầu lên. Một đôi mắt đỏ ngầu, với những tia lửa như sẵn sàng thiêu đốt tất cả, nhưng đau đớn làm sao, hoang mang và đơn độc làm sao! Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa hết cảm giác bàng hoàng và cũng không thể lý giải nổi về ánh mắt đó...
Ánh mắt của diễn viên Hồng Sơn!
Tôi im lặng ngồi xuống cạnh Hồng Sơn. Tôi tránh ánh mắt của anh, và cũng tránh nhìn thêm cảnh "chia ly" thê thảm kia. Suốt nửa giờ đồng hồ, cả đoàn phim như bị tê liệt, còn tôi thì cố chờ nghe một điều gì đó từ chính Hồng Sơn thốt ra- chỉ để mong anh được nhẹ nhõm hơn, cho tới khi trợ lý đạo diễn nhắc cả đoàn tiếp tục tiến độ quay cho hết bối cảnh ngoại trong trại giam...
Tối hôm đó, không có lịch quay, tôi sang gõ cửa phòng Hồng Sơn tại nhà nghỉ của Ủy ban Tỉnh, vác theo chai rượu làng Vân do anh bạn nhà văn ở Bắc Giang cho. Phòng anh có một dám diễn viên trẻ và những người làm ánh sáng, phụ quay đang đánh tá lả, còn anh thì nằm dài trên giường mình. Thấy tôi, anh mừng rỡ ngồi dậy... Suốt hơn hai chục năm tôi không có liên lạc gì với anh sau một lần cộng tác làm phim; và từ ngày anh trở lại với nghề diễn, tên tuổi lại được nhắc tới qua hơn chục phim thì tôi mới lại mời anh tham gia phim của tôi- đó là lần cộng tác thứ hai. Hồng Sơn có lý lịch vai diễn thật dày dặn, cả sân khấu lẫn phim điện ảnh, phim truyền hình, cả phim ngắn tập lẫn phim nhiều tập, nhập vào nhiều loại tính cách, nhiều cương vị xã hội. Nhưng, Hồng Sơn tâm sự, vai diễn mà anh tâm đắc nhất, để lại nhiều dấu ấn nghề nghiệp cho anh nhất chính là vai người kỹ sư trong bộ phim nhựa đen trắng "Đằng sau cánh cửa"- đó là vai diễn đầu tiên trong điện ảnh của Hồng Sơn. Lúc đó, tôi mới "chân ướt chân ráo" vào nghề, làm phó cho đạo diễn Anh Thái. Tôi có nhiệm vụ tìm diễn viên, và khi đưa Hồng Sơn tới Xưởng phim truyện số 4 Thụy Khuê để chụp ảnh thử vai, thì vẻ trong sáng hào hoa của một diễn viên sân khấu trẻ, một chàng thanh niên điển trai Hà Thành gốc đã chinh phục được ngay các thành phần chính trong đoàn làm phim! Thế rồi, chẳng hiểu có phải là định mệnh không, số phận của nhân vật chính trong bộ phim đã "ám" vào anh: người kỹ sư vì quá trung thực thẳng thắn nên cuộc đời gặp bao nỗi bất hạnh, bị vợ bỏ, sống đơn độc với cảnh "gà trống nuôi con"... Và sau mấy năm cởi áo sọc trong trại giam thật, giờ đây anh lại khoác nó vào để diễn xuất. Cảnh quay Hồng Sơn cầm bát cơm của tử tù vừa ăn vừa trào lệ khiến tất cả đoàn phim ngậm ngùi, sau đó là khâm phục- không chỉ vì anh đã nhập vai một cách xuất sắc mà còn vì sự trải nghiệm xót xa của đời anh vào một thăng hoa nghệ thuật...
Mặc kệ những tiếng "sát phạt" của đám tá lả bên cạnh, khi đã có men rượu, Hồng Sơn như chìm trong kỷ niệm cũ, anh thầm thì: "Ông Tuấn ơi, tôi đã không có can đảm như tay kỹ sư của "Đằng sau cánh cửa". Tôi bị cám dỗ ma qủy cuốn đi... Ông có biết chiều nay tôi nghĩ gì không?" Tôi im lặng. Và thật lâu sau, Hồng Sơn mới tiếp: "Tôi run người căm giận kẻ đã gieo cái chết trắng cho đồng loại... Và tôi ghê sợ chính tôi... Không ngờ, tôi lại từng đổ đốn, lại từng khốn nạn thế..." Cả buổi tối hôm đó, Hồng Sơn "độc thoại" về những đoạn đời hãi hùng của anh. Anh thành thực trong xấu hổ và ân hận vì đã từng lấy trộm của bạn một đôi giày lúc cơn nghiện dày vò, sau khi đã "thổi bay" cả ngôi nhà "hương hỏa" giữa phố cổ cùng bao vật dụng gia đình trong khói trắng... Anh cười cay đắng kể lại chuyện đến nhà bạn thân hỏi xin tiền, biết chắc là bạn sẽ chạy cửa sau nên đón lõng bạn ở đó... Anh bật khóc khi nhớ lại chuyện đứa con gái sinh viên phải đành lòng dúi trộm cho bố mấy trăm ngàn dành dụm được để bố cắt cơn ghiền... Mắt anh rưng rưng một niềm xúc cảm và biết ơn khi nói về những người quản giáo tốt bụng, lương thiện đã cưu mang nâng đỡ anh trong trại cải tạo mà anh trân trọng gọi là "các thầy". Anh còn đề nghị tôi cộng tác viết kịch bản và làm phim về đoạn đời của anh trong "trại", mà anh khẳng định chắc chắn rằng: "Đó sẽ là một phim rất xúc động, có tác dụng thiết thực và mạnh mẽ đối với nhiều cuộc đời trót lỡ lầm..."
Nhưng Hồng Sơn ơi! Chúng ta chưa kịp bắt tay nhau thực hiện ý định này thì Sơn đã vội ra đi ở tuổi mới ngoài 50! Một nữ diễn viên đã từng đóng vai luật sư tìm mọi cách để minh oan cho nhân vật kỹ sư do anh thủ vai trong phim "Khát vọng công lý", vừa mới đây hốt hoảng gọi cho tôi, thông báo anh đã mất sớm nay tại một căn phòng xa trung tâm Thành phố, nơi anh đã sống một mình suốt những năm qua...
Không gia đình, tài sản chẳng còn gì, chỉ tồn tại sống và chạy chữa bệnh tật bằng khoản tiền thù lao ít ỏi do đóng phim truyền hình; nhưng những năm tháng qua, chắc hẳn đối với Hồng Sơn lại là những năm tháng giàu ý nghĩa nhất. Đó cũng chính là đoạn đời đặc biệt của Hồng Sơn: anh tự đốt cháy mình trong lao động nghệ thuật căng thẳng, dám sống hết mình với vai diễn, dường như chỉ bằng cách đó anh mới bù đắp được phần nào khoảng thời gian quý giá đã mất của tuổi trẻ. Đó còn một cuộc "tự hành xác" đau đớn song thật vinh quang; những vai diễn cuối đời của anh không chỉ là những vai diễn, chúng còn là sự thức tỉnh, hơn thế- là sự nảy nở kỳ diệu của một tâm hồn lương thiện, của một tình yêu đắm say trước những vẻ đẹp của Cuộc sống mà anh từng chối bỏ, vùi dập chúng trong những cơn mê điên dại...
Một đời diễn viên, vinh có nhục có, hạnh phúc có đau khổ có - cộng thêm những đau khổ anh tự gây cho mình và những người quanh anh, song Hồng Sơn có thể tự hào và yên tâm ra đi, vì tất cả những cái đó anh đã kịp hóa thân thực hoàn hảo trong biết bao hình tượng nhân vật, và đã kịp lóe sáng thành một thông điệp của Nhân loại mà sứ mệnh của một người nghệ sĩ đã trao cho anh... Sự hoàn thiện tâm hồn và nhân cách không bao giờ là muộn mằn; và nghị lực não lòng của anh, khát vọng làm một người tử tế, cùng cống hiến nghệ thuật của anh đã trao cho đời một bài học nhân sinh tươi rói, nóng hổi... Nếu nhân vật chính trong "Khát vọng công lý" mà Hồng Sơn hóa thân cuối cùng đã được minh oan, thoát khỏi bản án tử hình một cách kỳ lạ bởi nhiệt huyết của luật sư và những người thiện tâm, thì tội lỗi của con người Hồng Sơn cũng đã được hóa giải từ lâu bởi chính anh và bởi những người tốt không thiếu ở quanh anh...
Ra đi vào đúng dịp Xá tội vong nhân, ở thế giới bên kia, anh có thể tự tin bước vào cõi Phật với một nụ cười thanh thản, động viên chúng tôi sống tiếp, và tiếp tục phấn đấu- cũng có khi bằng cả cái nghị lực não lòng của anh- để cuộc đời này sẽ trở nên đáng yêu đáng trọng hơn như anh đã kịp giác ngộ và khao khát...
Một nén nhang kính cẩn trước hương hồn anh trong giây phút hóa thân cuối cùng, Hồng Sơn ơi!
Hà Nội, 13-8-2011
Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn
----
Ảnh của họa sĩ thiết kế Đỗ Tuấn Thịnh (Các cảnh trong phim "Khát vọng công lý" - 5 tập của đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn- Diễn viên chính: Hồng Sơn - Thanh Giang - Thanh Tùng - VFC sản xuất năm 2007, phát sóng lần đầu trên VTV1) ---- Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 15.8.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn vandanviet.net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
"Nước núi Sót mát lòng ưu ái”
(Cảm nghĩ về một lễ hội ở Hà Tĩnh)Nguyễn Anh Tuấn
Chúng tôi đang đi trên sông nước của một vùng quê Hà Tĩnh đượm màu huyền thoại...
Trước khi đưa đoàn làm phim tới đây để thực hiện bộ phim tài liệu về một danh thắng và một lễ hội cổ truyền đặc sắc vào bậc nhất, tôi đã tìm đọc khá nhiều tài liệu, và thả hồn trong chính sử, dã sử...
Truyền thuyết kể lại: xưa kia, sau cuộc kỳ ngộ trên bãi sông để nên duyên vợ chồng, công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử bị vua cha là vua Hùng thứ III tức giận và không nhận làm con nữa. Đôi vợ chồng trẻ phải bươn chải buôn bán nơi đầu sông cuối chợ. Rồi một ngày kia Chử Đồng Tử đã giong buồm đến một ngọn núi ở giữa biển để tu hành đắc đạo. Trong tác phẩm"Lĩnh Nam Chích Quái" đời Trần, ở truyện "Nhất Dạ Trạch" có nói đến chuyện một nhà sư tên là Phật Quang đã truyền dạy đạo Phật cho Chử Đồng Tử và Tiên Dung tại một ngôi chùa ở núi Quỳnh Viên. Ngọn núi ấy chính là Quỳnh Viên - Nam Giới, một danh thắng bậc nhất của xứ Nghệ. Nhưng giới nghiên cứu Việt Nam trong một thời gian dài đều coi đó là "một ngọn núi chỉ có trong thần thoại" (ví dụ như nhóm chủ biên "Thơ văn Lý Trần" tập III), cho tới khi TS Lê Mạnh Thát trong cuốn "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" đã xác nhận rằng, núi Quỳnh Viên là có thật, và đưa dẫn chứng bằng mấy câu trong bài "Nam giới hải môn" của vua Lê Thánh Tông làm năm 1470 khi đưa quân đi chinh phạt Chiêm Thành:
Di miếu man truyền kim Vũ Mục
Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên
(Di miếu còn truyền nay Vũ Mục
Danh sơn vẫn nhắc cổ Quỳnh Viên)
Sau khi miêu tả lai lịch di tíchVũ Mục, tác giả LSPGVN khẳng định núi Quỳnh Viên nằm tại cửa Sót là có thật, trên đó còn có một ngôi chùa, và như vậy đã hé mở được phần nào vấn đề Phật giáo được truyền vào nước ta từ thời đại Hùng Vương vốn là đề tài tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu (Theo Thích Phước An- Đường về núi cũ chùa xưa, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008). Sách "Nghệ An chí" của tiến sỹ Bùi Dương Lịch đời Gia Long cũng chép: "Huyền sử đời Hùng Vương tương truyền rằng Chử Đồng tử và nàng Tiên Dung tu tiên đắc đạo ở Rú Bể nên gọi là núi Quỳnh Viên và đó cũng là cái tên xưa nhất của dãy Nam Giới này”.
Dân gian thì gọi dãy Quỳnh Viên Nam giới là "Núi Sót”, "Rú Bể”, "Rú Bằng đội mũ”, "Rú bể mang tơi” thì trời động mưa.
Đây là ranh giới phía nam của Việt Thường xưa thuộc nước Nam hồi thế kỷ thứ IX. Bên kia sông Sót ngày xưa là núi Mốc- tên chữ là Mục Sơn. Trên mình dãy Quỳnh Viên và xung quanh nó là cả một vùng di tích lịch sử văn hoá có niên đại kéo dài từ thời hậu kỳ đá mới cho đến tận thời hiện đại, mà tiêu biểu nhất là đền Chiêu Trưng.
Dãy núi Quỳnh Viên, với đền Chiêu Trưng thờ danh tướng Lê Khôi là một danh thắng thiên nhiên và di tích lịch sử đẹp nhất của tỉnh Hà Tĩnh cũng như của cả miền Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình.
Quần thể miếu, lăng này hài hoà trong vẻ đẹp hùng vĩ của biển trời lồng lộng đã dâng cho đời sự hoành tráng, cổ kính của kiến trúc dân tộc. Trên những mái núi trập trùng có nhiều khe suối chảy ngày đêm, nổi tiếng nhất là khe Hau Hau, nước ngọt uốn lượn- ngày xưa là nước cống tiến vua khi ngự qua tỉnh An Tĩnh. Nơi đây đã in biết bao dấu chân tao nhân mặc khách của cả nước, như nhà Vua- chủ soái thi đàn Hồng Đức Lê Thánh Tông, như tể tướng Bùi Huy Bích, như thi nhân lãng tử Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... Bãi biển quanh núi có những hàng phi lao dày đặc bao phủ; còn cách đền Chiêu Trưng đại vương không xa là đền Thánh Mẫu và đền Ngư ông, tất cả đã họp lại thành một quần thể di tích thắng cảnh độc đáo vùng Quỳnh Viên - Nam giới - Cửa Sót...
Đền Chiêu Trưng là một di tích lịch sử văn hoá từ thế kỷ XV đặc biệt hiếm hoi còn sót lại. Di tích lại đặt tên một ngọn núi vươn ra biển cả, núi non biển trời hùng vĩ, thơ mộng. Danh thắng Quỳnh Viên và di tích lịch sử đền Chiêu Trưng đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. "Nghệ An chí " có đoạn viết về Long Ngâm: "Hình núi như trán rồng, liền ở dưới có một dải sống như vòi rồng, hai bên tả hữu có hai tảng đá tròn như mắt rồng, dưới núi có một cái ao lộ thiên rộng và sâu, hình miệng rồng, bốn phía xung quanh ao toàn là cỏ rậm, bùn lầy không thể vào được. Hai bên có hai nhánh núi ôm quặt lại như hai chiếc râu rồng, nước ao chảy quanh co từ trong núi ra biển, ngoài biển lại nổi lên một ngọn chắn ngang, sóng vỗ ầm ầm như sấm động".
Đền Chiêu Trưng thờ đại vương Lê Khôi, là khai quốc công thần của nhà Lê. Ông đã từng dự hội thề Lũng Nhai lịch sử năm 1416, là một võ tướng toàn tài của nghĩa quân Lam Sơn, có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp Bình Ngô cứu quốc của Lê Lợi. Lê Khôi làm quan trải ba triều, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Khi ông mất, cả triều đình đều xúc động, cảm thương, Nhà vua cho bãi triều ba ngày. Sau đó, truy tặng ông chức "Nhập nội đô đốc", phong thần và cho dựng đền thờ trước lăng mộ. Ngọn Long Ngâm, nơi an táng phần mộ và lập đền thờ Lê Khôi ở phía đông bắc dãy Quỳnh Viên. "Thượng đẳng phúc thần"- đó là một danh hiệu cao quý ghi trong một Sắc phong của triều đình cho đức thánh Lê Khôi.
Xa xa, nhìn về phía tây nam ở ngã ba Hộ Độ, ba con sông của huyện Thạch Hà hợp lưu thành một dòng lớn đổ ra Cửa Sót tựa một dải lụa xanh tuyệt đẹp hoà chảy vào đại dương...
Trong tổ hợp Đền Cờn, Đền Quả, Đền Bạch Mã, Đền Chiêu Trưng vốn nổi tiếng nhất của cả miền Nghệ -Tĩnh, thì Đền Chiêu Trưng - Lê Khôi đến nay còn tương đối nguyên vẹn hơn cả.
Cửa Đền nhìn ra phía biển, có hai hàng trụ ghi câu đối ca ngợi công đức của người trung liệt và sự linh thiêng của vùng đất này như sau:
Linh thiêng của người luôn phù hộ cho dân cửa Sót/ Ân huệ đó được dân ở đây bảo vệ và giữ yên phần mộ cho Người (dịch từ chữ Hán)
Đền thờ qua thời gian và biến động lịch sử vẫn giữ nguyên vẻ cổ kính- gồm Thượng điện, Trung điện, Hạ điện và một số công trình phụ trợ.
Phía đông đền Hạ là Nhà bia- nơi đặt tấm bia khắc bài thơ Nôm của vua Lê Thánh Tông vẫn còn nguyên vẹn và sắc nét chữ. Bài thơ có đoạn viết:
Phong lưu, phú quý ba đời thấy
Sự nghiệp công danh bốn bể đầy
Thương ít, tiếc nhiều, bao xiết kể
Miếu đường hồ dễ cột nào thay...
Đền hạ là nơi đón tiếp quan khách về tế lễ, ngày xưa là các vị quan đứng đầu hàng tỉnh thần An Tĩnh; ngày nay là tất cả mọi người- từ vị chủ tịch Huyện đến người dân thường, từ nhà nghiên cứu đến các cô cậu học sinh sinh viên...
Tiếp đền Hạ là đền Trung, nơi các bô lão trong vùng đại diện người dân "tửu lệ”, tức là những người bảo quản, phục dịch họp bàn về việc tế lễ, sửa chữa đền. Toà Trung điện được chạm trổ rất kỳ công, thực sự là một công trình nghệ thuật vô giá. Tất cả các đấu, đòn, xà ngang, xà dọc, cột, vách của Trung điện đều được khắc chạm tinh xảo, lộng lẫy, với nhiều đề tài và nhân vật như: tứ linh, bát tiên, tiên đánh cờ, tiên cưỡi hạc, Rồng mẹ, Rồng con, chèo thuyền đảo nước, hát múa đánh cờ vui xuân, v.v, tất cả đều sinh động, uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn nghệ nhân dân gian. Các mảng trang trí kiến trúc chủ yếu là của nghệ thuật thời Hậu Lê thế kỷ XVII-XVIII. Trước khi tới đền Chiêu Trưng, tôi được đọc bài viết "Thăm đền thiêng cửa Sót" của tiến sĩ Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện và rất thích thú với chi tiết về bức chạm cảnh múa hát ca trù của thế kỷ XVIII tại miền trung từ hàng mấy trăm nay, được giới thiệu trong sách "Lịch sử và Nghệ thuật ca trù". Tôi cũng yêu cầu anh bạn quay phim tìm bằng được bức chạm này để ghi lại một trong những hình ảnh đã được đưa vào Hồ sơ Hát ca trù trình với UNESCO!
Hai bên Trung điện là hai cánh cửa nách xây cuốn tò vò, phải cúi đầu khi bước lên đền Thượng, chốn thâm cung. Nơi đây nghi ngút hương trầm, có tấm biển của vua Lê Thánh Tông ban: "Nam thiên tuấn kiệt”. Chính giữa, trên hương án sơn son thiếp vàng và xung quanh xếp đồ tế khí, có đặt một bức tượng gỗ lớn sơn son cổ- đó chính là tướng quân "Chiêu Trưng Đại vương” với dáng vẻ uy nghiêm mà nhân từ, phúc hậu.
Đằng sau đền là Lăng mộ Lê Khôi ngày đêm hương khói...
Bên phải đền có hai nền đất, tương truyền đó là nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung tu luyện sau khi được đức Phật Quang truyền công án.
Vào những ngày1, 2, 3, 4 tháng 5 Âm lịch- nhân dịp giỗ Chiêu Trưng Đại vương Lê Khôi, hàng vạn người khắp nơi đã về đây để tham gia Hội lễ kỷ niệm ngày mất của cụ. Trước ngày 2 tháng 5 ÂL- ngày chính giỗ thì thường có trận mưa, dân gian bảo đó là trận mưa "rửa đền, dội tượng”. Và quả thực, chúng tôi đã được thưởng thức trận mưa "rửa đền, dội tượng” này trong thị trấn Thạch Kim chiều tối mùng 2...
Ngoài đền chính trên đỉnh Long Ngâm, chỉ tính riêng vùng Cửa Sót- Thạch Hà, Lộc Hà có tới 5 đền thờ vọng danh tướng Lê Khôi- như đền Đông Phương, đền thờ Lê Khôi ở xã Mai phụ, đền thờ Lê Khôi ở xã Thạch Hải...
Chiều 30-4 ÂL, các xã đã tổ chức rước trọng thể trong làng, về tới đền thờ vọng. Đoàn làm phim chúng tôi đã tới hai đền thờ vọng ở Mai Phụ và Thạch Hải, ghi cảnh náo nhiệt tập rượt chuẩn bị cho chính hội hôm sau và có dịp hiểu thêm tình cảm sâu nặng của nhân dân đối với tướng quân Lê Khôi.
Đêm trước chính hội, đoàn làm phim nghỉ lại trong Đền. Tôi đi xuống bãi đá, nhìn về đất liền nơi có hàng phi lao tối xẫm đang ấp ủ hàng trăm cờ xí, kiệu lọng, phục trang cổ... để sớm mai sẽ rực rỡ trên mặt biển đi tới Đền. Những ngọn sóng rì rầm quanh dãy núi Quỳnh Viên như cũng đang thầm kể về người anh hùng và tình yêu thương không bao giờ vơi cạn của nhân dân đối với ông... Suốt đêm trên sân Đền nóng bức, muỗi như trấu, tôi tranh thủ hỏi chuyện các cụ trực Đền về ký ức của dân gian với Đức Thánh Lê Khôi cũng như về tiến trình Lễ hội hôm sau. Tôi được biết: các nghi lễ được chuẩn bị kỹ lưỡng, trang nghiêm. Trước lễ hội cả tháng, đã có các cuộc họp bàn, chọn thuyền rước, sản vật và đưa người xứng đáng vào danh sách lễ nghi. Tới ngày lễ chính, ban lễ nghi đã làm lễ Sái tảo, lễ Mộc dục, sau đó là lễ Khai hội, lễ yết, lễ chính kỵ và sau cùng là lễ rước. Lễ rước ở đây có một điều khá đặc biệt- đó là điểm xuất phát của lễ rước được bắt đầu từ các đền thờ vọng của các xã Mai Phụ, Thạch Kim, Thạch Hải và Thạch Bàn, cùng với hai ngôi đền gần với đền Lê Khôi là đền Thánh Mẫu và đền Ngư Ông. Nhưng trước khi về đền chính, các đoàn rước đều dừng lại ở đền Thánh Mẫu. Sau đó, các đoàn rước đi bằng đường biển sẽ nhập với đoàn rước của xã Thạch Hải đi đường bộ qua núi tập kết tại đền chính. Đoàn làm phim chúng tôi đã rất vất vả để có thể ghi hình được hết các đoàn rước tới Đền- cả đường bộ lẫn đường biển.
Lễ hội đền Chiêu Trưng lê Khôi là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian tổng hợp. Các lớp sa bồi văn hóa lịch sử, tín ngưỡng đã lắng đọng trong lễ nghi, trò diễn và nghi thức thờ cúng, khiến Lễ hội trở thành một hiện tượng văn hóa có sức thu hút lôi cuốn nhiều thế hệ dân bản địa, nhiều thế hệ khách hành hương; và đặc biệt ở đây không thấy có hiện tượng "mua thần bán thánh" cùng những biến tướng đáng buồn của lễ hội như ở nhiều nơi khác...Phải chăng, đó cũng là do ảnh hưởng mạnh mẽ của tinh thần đức thánh Lê Khôi?
Những năm Lê Khôi trị nhậm ở châu Hóa, ông đã làm được nhiều việc mà cả quân sĩ và dân chúng đều khâm phục tài cai quản của viên võ tướng này. Lúc ấy, đất nước đang có chiến tranh, nên dân chúng lưu tán khắp nơi, đặc biệt là đến các vùng rừng núi hẻo lánh, san đồi, vỡ đất, để tự nuôi sống mình. Ông cho quân sĩ đến thăm hỏi và chiêu dụ dân về những nơi quy định mà ông đã phác họa trên bản đồ. Ông khuyên mọi người làm ruộng, lấy nghề nông làm nghề cơ bản để có lương thực nuôi mình quanh năm và đóng góp để nuôi binh sĩ.
Lê Khôi còn khuyên các gia đình trồng dâu nuôi tằm, dệt lấy lụa vải mà mặc. Ông cử từng đội quân nhỏ kiên trì vận động đồng bào làm ăn lương thiện và giúp đỡ quân sĩ truy bắt những tên trộm cướp. Những tên có tội nặng thì chiếu luật mà nghiêm trị. Những tên mới lần đầu phạm ở mức nhẹ thì khuyên răn rồi cho về. Nhờ đức và uy của ông, những tên "đầu trộm đuôi cướp" dần dần tỉnh ngộ, tự thấy tội lỗi của mình và ăn năn hối cải, làm ăn lương thiện...
Đời vua Thái Tông, Lê Khôi bị vu cáo bởi một số kẻ xu nịnh, ông bị cách chức, trở thành dân thường. Nhưng rồi, nỗi oan được giải tỏa, nhờ sự sáng suốt của vua Lê Nhân Tông, ông được phục chức và được cử đến trị nhậm xứ Nghệ An.
Đại việt sử ký toàn thư chép: Lê Khôi cùng với các tướng đi đánh Chiêm Thành bắt được chúa Chiêm. Trên dường trở về, nhuốm bệnh nặng, đoạn chiến thuyền đến Cửa Sót thì ông mất, vào ngày 03 tháng 5 năm Bính Dần (1446). Đến năm 1487, khi vua Lê Thánh Tông gia phong Lê Khôi tước vương, ngài có làm bài thơ giao cho tỉnh thần đưa vào tế lễ ở Long Ngâm, có câu sau: "Võ Mục hưng trung ẩn giáp binh.
Xưa kia, Lê Khôi đi đánh trận về đến cửa Sót là đi bằng đường biển từ Thuận Hóa ra, vì thế, nhân ngày kỵ của ông, người dân Cửa Sót đã tổ chức những cuộc thi bơi thuyền để diễn tả lại chiến tích của ông, và chúng tôi đã đi theo thuyền chủ khảo để ghi lại những hình ảnh sôi động này trên sông biển ngập nắng.
Như vậy là, khi sống, Lê Khôi là một vị tướng giỏi giúp dân dẹp loạn, chống giặc ngoại xâm, khi mất ông trở thành một vị thánh che chở cho muôn dân mỗi khi gặp hoạn nạn... Không chỉ có công lao to lớn với đất nước, ông còn là người hết mực thương yêu, đùm bọc, chăm lo đời sống cho nhân dân, được nhân dân Hóa Châu một lòng tin yêu, mến phục, kính trọng. Đối lập với những kẻ có chút công trạng song tự mãn, sớm tha hóa để đến nỗi "Xú danh nan tẩy" (Hịch tướng sĩ văn- Trần Quốc Tuấn), Lê Khôi là người "Sanh vi danh tướng, tử vi thần"- trong lòng người, ông đã hóa thần, mãi mãi dõi theo phù hộ dân lành và canh giữ vùng biên cương Nam giới.
Nhân dân ở khắp mọi nơi, tiêu biểu là vùng Thạch Hà, Lộc Hà- Hà Tĩnh; Nghi Lộc, Hưng Nguyên- Nghệ An và Đông Ngạc- Từ Liêm Hà Nội đã lập đền thờ vọng ông, mong nhận được sự che chở của ông... Công đức và ân nghĩa của danh tướng Lê Khôi- đặc biệt là tấm lòng thương dân như trời biển của ông đã biến thành dòng suối ngọt ngào di dưỡng tâm hồn và in hằn mãi mãi trong tâm tưởng của người dân Hà Tĩnh cũng như người dân cả nước. Phải chăng, đó cũng là bài học thấm thía cho các bậc cầm quyền cai trị dân ở bất kỳ thời đại nào... Việc làm phim giữa những ngày hè miền Trung bỏng lửa của chúng tôi có giúp đỡ tận tụy vô tư của người dân Thạch Hà, Lộc Hà... giống như những tán lá mát rượi- như anh Nguyễn Minh Thanh, người không quản mưa nắng đêm hôm, tạo mọi điều kiện cho chúng tôi vượt biển nhiều lần ra núi Quỳnh Viên; như cụ Nguyễn Hữu Biên trong Ban QL di tích dù bận trăm công nghìn việc cho Lễ hội cũng vẫn tỉ mỉ giải thích cho chúng tôi những điều cần biết, như anh Nguyễn Văn Ý- một cán bộ trẻ địa phương, không chỉ là người dẫn đường cho chúng tôi tới các địa điểm lễ hội, mà còn xốc vác giúp đoàn khuân chân máy, đèn đóm, phản quang... có khi hàng cây số leo núi trong suốt giai đoạn quay...
Khi đến với danh thắng này, mặc dù ít có thời gian và sự thanh thản để làm người tham quan du lịch, nhưng chúng tôi ít nhất cũng đã được tắm trong cảm giác như thi sĩ Tản Đà năm xưa: "Nước núi Sót mát lòng ưu ái”. Mát lòng, bởi công đức và ân nghĩa của ông cha ta đối với các thế hệ sau không bao giờ vơi cạn...
Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
----
* Bài viết có sử dụng tư liệu của công trình nghiên cứu rất công phu: "Danh tướng Lê Khôi với quê hương Hà Tĩnh" của hai tác giả Phan Thư Hiền & Đặng Thị Thúy Hằng (NXB Văn hóa- Thông tin, 2009)
----
Nguyễn Anh Tuấn
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 12.6.2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét