Đáy Vực – Truyện ngắn Trọng Bảo (Hà Nội)
Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015
Ngày 03.01.2012
Con sông Đáy chảy đến đầu làng Vực thì bị bẻ gập lại. Dòng nước
xiết đâm thẳng vào một mỏm đá bật trở lại một đoạn rồi mới có lối chảy về xuôi.
Nơi dòng sông bị gấp lại tạo nên một vùng xoáy nước lớn, sôi sùng sục như một
cái chảo khổng lồ khi mùa lũ lớn. Những người đi bè từ thượng nguồn về đến đây
thường phải chèo chống rất vất vả mới thoát khỏi cảnh bị quay vòng mấy bận
trong xoáy nước này. Ngày học cấp 2, chúng tôi thường ra sông tắm.
Thông tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác giả Trọng Bảo
Tên thật: Hà Trọng Bảo
Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
(Trích trong tập Phong lan Đỏ)
Phần 1- Chuyện ma đi đò
Con sông Đáy
chảy đến đầu làng Vực thì bị bẻ gập lại. Dòng nước xiết đâm thẳng vào một mỏm
đá bật trở lại một đoạn rồi mới có lối chảy về xuôi. Nơi dòng sông bị gấp lại
tạo nên một vùng xoáy nước lớn, sôi sùng sục như một cái chảo khổng lồ khi mùa
lũ lớn. Những người đi bè từ thượng nguồn về đến đây thường phải chèo chống rất
vất vả mới thoát khỏi cảnh bị quay vòng mấy bận trong xoáy nước này. Ngày học
cấp 2, chúng tôi thường ra sông tắm. Mùa hè, bọn con gái thả những cánh hoa
phượng xuống chỗ xoáy nước. Những cánh hoa phượng loang ra như vệt máu quay
tròn.
Một hôm
mới sáng ra, những người đi chợ sớm hốt hoảng nhìn thấy thi thể một cô gái lập
lờ trong vùng nước xoáy. Cô gái không mặc gì trên người. Một mảnh khăn buộc
ngang bụng rách tả tơi. Ngực cô nham nhở những vết xước. Dân làng Vực đưa cô
gái lên bờ. Các bà các chị vừa khóc vừa tắm rửa, mặc quần áo cho cô. Cô gái còn
rất trẻ. Cặp vú như hai ngọn măng mới nhú. Cô bị cưỡng hiếp rồi bị đẩy xuống
sông. Công an huyện chưa cho chôn cất ngay vì còn khám nghiệm tử thi và chờ tìm
thân nhân. Nhưng chờ đến hơn một ngày, không thấy ai đến nhận xác, dân làng Vực
mới được phép chôn cất. Đám ma cô gái chết trôi sông rất đông. Cánh con gái lớp
tôi tết cho cô một vòng hoa bằng những chùm phượng vĩ đỏ như máu.
Từ đó, chúng
tôi không dám ra tắm ở chỗ dòng sông gẫy khúc ấy nữa.
Bà Thường
làm nghề chèo đò chở khách sang ngang ở bến sông Làng Vực. Anh Thưởng, người
con trai duy nhất của bà đi bộ đội. Một mình bà với một niêu cơm nhỏ trong túp
lều rách trên bến sông. Những buổi chợ phiên, người qua đò đông, nhiều bữa bà
chả kịp nấu cơm. Bà gò lưng ghì chặt mái chèo lựa cho con thuyền vượt qua vùng
nước xoáy. Đêm đêm nghe tiếng gọi "Đò ơi!", thì dù mưa gió, giá rét
bà cũng lập cập khoác chiếc áo tơi, cởi dây chèo thuyền sang sông đón khách. Bà
bảo: "Mình lỡ một giấc ngủ không sao nhưng để khách lỡ một độ đường thì
cực lắm!".
Từ hôm có cô
gái chết trôi về vùng nước xoáy ở bến sông làng Vực thì rất ít có khách qua
sông vào lúc đêm khuya. Người ta đồn rằng nhiều đêm nghe tiếng gọi đò bên kia
sông, bà Thường chèo thuyền sang đều gặp khách là một cô gái mặc quần áo trắng
tinh đứng đợi. Nhưng lần nào đò đến giữa sông thì cô ấy cũng biến mất. Có người
làm nghề chài lưới trên sông thì bảo nhiều lần nhìn thấy bóng một người con gái
ngồi trên chỗ xoáy Vực, đôi mắt cô đỏ rực như lửa.
Chuyện ma ở
bến sông mỗi người nói một phách và ngày càng thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly
kỳ khiến bọn trẻ con chúng tôi sợ hãi. Lớn lên, tôi mới hiểu đó toàn chuyện
người lớn phịa ra để dọa lũ trẻ không xuống bến tắm khi lũ lớn dễ chết đuối.
Nhưng có những chuyện thì tôi không hiểu nổi, đó là từ sau khi cô gái chết trôi
về bến sông làng Vực thì hầu như năm nào chỗ nước xoáy ấy cũng có người bị chết
đuối. Mà người chết toàn là đàn ông mới lạ. Có những thi thể từ đâu trôi về. Ở
vùng thượng nguồn khi có người bị lũ cuốn trôi, người nhà thường đem hương
nhang, có khi cả quan tài đến xoáy Vực chờ sẵn. Thể nào xác thân nhân họ cũng
sẽ dạt về đây.
Lão Phụ làm
nghề quét chợ thì bảo cô gái bị chết dạo nọ được vua Thủy Tề nhận làm con nuôi
và cho phép bắt chín mươi chín người làm quân hầu. Nhớ lại nỗi oan ức, cô giết
toàn đàn ông rồi kéo xác về nơi bến sông làng Vực. Anh Hừng bị thọt chân nên
không phải đi bộ đội. Anh là tay sát cá và bơi lặn giỏi. Trên cạn, anh đi lại
khó khăn nhưng khi xuống nước thì như một con rái cá. Anh chả tin câu chuyện ma
quỷ của lão quét chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, anh Hừng đều lặn xuống chỗ
xoáy nước bắt cá. Chẳng cần lưới vó gì, chỉ tay không lặn xuống, ngoi lên hai
tay anh cầm hai con cá chép lấp loáng vây đỏ, hai nách kẹp hai con, mồm ngậm
một con. Cả thảy là năm con. Mỗi con độ bảy tám lạng đến một cân. Anh đem lên
chợ bán. Chúng tôi thắc mắc hỏi anh giỏi bắt cá thế sao không lặn liền mấy hơi
bắt lấy vài chục cân lên chợ mà bán. Anh cười hì hì: "Dưới đáy vực cá
nhiều lắm nhưng bắt làm gì nhiều, chỉ đủ tiền đong gạo thôi". Tôi hỏi:
"Anh có gặp ma không?". Anh trợn mắt dọa: "Có chứ! Mắt nó đỏ
rực. Nó chỉ con cá nào, anh mới dám bắt con đó"...
- Ha...
ha... ha...- Nghe tiếng cười sau lưng, chúng tôi giật mình quay lại nhận ra đó
là anh Thú. Anh Thú là con ông đồ Hạo. Ông đồ Hạo là người khá giả. Ông nuôi
anh ăn học đầy đủ, nhưng anh tính tình hung bạo, không chịu nghe lời bố. Khi
nhỏ anh ấy thường trốn học đi chơi. Lớn lên, anh bỏ nhà đi biệt tăm. Nghe nói
anh đi đào đãi vàng, tham gia nhiều vụ đâm thuê, chém mướn, bảo kê cho bọn buôn
lậu. Anh bị bắt đi tù. Lúc ra tù, người anh xăm trổ đầy những hình thù quái dị.
Cả làng đều sợ anh. Nghe chúng tôi kháo chuyện ma ở xoáy Vực, anh phá lên cười
và chìa ra một cái gói vuông vuông bảo:
- Chúng mày
biết cái gì đây không?
- Không biết
ạ!
- Thuốc nổ
đã gắn kíp rồi đấy!
- Ôi
trời...- Chúng tôi hốt hoảng chạy rạt về một góc. Anh Thú cười sằng sặc bảo:
- Theo tao
ra xoáy Vực mà lấy cá.
Lũ chúng tôi
tuy sợ hãi nhưng vẫn rẹo rọ đi theo, cách anh khá xa. Đến xoáy Vực, anh Thú
đứng trên mỏm đá. Rít một hơi cho điếu thuốc đỏ rực rồi anh dí vào dây cháy
chậm. Khói xì xì ra mấy giây anh mới thả quả bộc phá xuống vực. Một tiếng nổ
trầm đục, nước tung lên tận ngọn tre. Sóng chưa kịp lặng cá đã nổi lên trắng
mặt nước. Bọn cá mương, cá trôi chết ngay nổi như phao. Lũ cá chép, cá bống thì
còn cố quẫy quẫy rồi lờ đờ rạt vào bờ. Trẻ con, người lớn ào xuống, tranh cướp
cá náo loạn cả khúc sông.
Anh Thú ngồi
trên bờ hút nốt điếu thuốc. Những người vớt cá bắt đầu lên bờ vì rét. Khi đi
qua chỗ anh Thú, họ đều khép nép và để lại cho anh một con cá to nhất. Khi anh
Thú vừa túm cái bao tải đựng đầy cá lại thì có tiếng người gào lên:
- Cá...
cá... có một con cá to quá. Nó bị thương rồi!
Mọi người đổ
xô lại. Giữa xoáy Vực, một con cá to gần bằng thân người đang nổi lên lập lờ,
đuôi ngoe nguẩy. Nhiều người ào xuống nước lao đến ôm lấy con cá. Con cá quẫy
mạnh, cố lặn xuống. Nhưng nó bị sức ép quá mạnh của quả bộc phá nên đã choáng
váng, kiệt sức. Con cá được đưa lên bờ. Nó nằm dài trên bãi cát trắng nhởn. Đôi
mắt mở trừng trừng, đỏ rực. Nhìn con cá, bất giác tôi chợt thấy nó tựa như cô
gái trẻ bị chết trôi dạo trước. Theo lệnh của anh Thú, người ta xẻ thịt con cá.
Máu nó chảy đỏ cả bến sông.
Khi tôi nhập
ngũ thì nghe tin anh Thú lại ném một quả mìn nữa xuống xoáy Vực. Quả mìn anh
vừa buông khỏi tay đã phát nổ. Anh bị cụt cả hai tay và mù một mắt. Giờ thì anh
ngồi lê la ăn xin ở chợ.
Anh Thưởng
về phục viên. Mấy lần về quê qua đò anh đều nhận ra tôi. Mặc dù ngày anh đi bộ
đội tôi còn rất nhỏ. Anh Thưởng về làng đã lâu nhưng chả thấy nói đến chuyện vợ
con gì. Ngày còn ở nhà anh yêu một người con gái. Hai người đã thề non, hẹn
biển, trao kỷ vật cho nhau. Anh vào Nam chiến đấu trong ba lô còn giữ cái vỏ
gối do người yêu thêu tặng có bốn chữ "mãi mãi yêu anh" và hai con
chim bồ câu ngậm mỏ vào nhau. Nhưng trong khi anh cố tìm cách viết thư gửi về
thì ở nhà người thêu gối đã đi lấy chồng. Ngày chiến thắng anh trở về bến sông
đã chẳng còn người đứng đợi. Anh Thưởng được xã bố trí làm một chân bảo vệ. Từ
ngày anh làm bảo vệ, tình hình an ninh trong làng, ngoài xóm yên hẳn, ít xảy ra
các vụ ăn cắp vặt, hoa màu ngoài ruộng không bị mất trộm như trước. Cũng có
người hỏi chuyện vợ con nhưng anh chỉ cười trừ. Mẹ chết, anh trả cái chức tổ
trưởng bảo vệ về bến sông với con đò của bà để lại.
Khi người ta
bắc một chiếc cầu cách xoáy Vực hơn chục cây số về phía hạ lưu thì khách qua đò
thưa hẳn. Bây giờ có xe máy, người ta qua cầu có xa hơn cả chục cây số nhưng
tiện hơn. Cũng kể từ khi mua được chiếc xe máy tôi chả bao giờ qua bến đò nữa
nên chẳng mấy khi gặp anh Thưởng.
Bẵng đi mấy
năm. Một trưa tôi đang ăn cơm thì nghe tiếng trẻ con léo nhéo gọi cổng. Thằng
con tôi ra mở cổng rồi dẫn vào một lũ trẻ con đến bốn năm đứa. Nó lấy ra một ôm
báo cũ chia cho mỗi đứa mấy tờ. Thì ra lũ trẻ con xin báo về bọc sách vở chuẩn
bị năm học mới. Chia đến đứa con gái bé nhất, thằng con tôi hỏi:
- Cái Sương
năm nay lên lớp một hả?
- Vâng ạ.-
Con bé ngoan ngoãn đáp.
- Cho mày
thêm hai tờ nữa.
- Em cảm ơn
anh...
Tôi hỏi:
- Con bé ấy
là con nhà ai vậy?
- Nó là con
anh Thưởng lái đò.- Vợ tôi đáp:- À! Mà anh ấy dặn anh về rỗi rãi ra nhà anh ấy
chơi.
- Có nghe nói
anh ấy lấy vợ bao giờ đâu nhỉ?
- Con nuôi
đấy!
- Anh ấy xin
ở đâu được đứa con gái xinh xắn thế nhỉ?
- Xin gì!
Người ta bỏ lại cho mà nuôi đấy!
Vợ tôi kể,
một buổi sáng mùa đông rét như cắt thịt da, sương mù giăng kín mặt sông, chẳng rõ
mặt người. Có một người đàn bà gọi đò. Chị ta chùm khăn kín mặt tay xách cái
làn to bước xuống thuyền. Anh Thưởng xoa xoa hai bàn tay cho đỡ cóng rồi lịch
kịch đẩy con thuyền rời bến. Sương mù càng dày đặc. Người lái đò và khách chỉ
nhìn thấy nhau lờ mờ. Sang đến bến bên kia, người đàn bà vội vã đi ngay, hẹn
chiều về trả tiền đò cả thể. Anh Thưởng quay mũi thuyền. Trời trở gió, thuyền
bị xô mạnh chòng chành. Chợt anh nghe tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc hình như
rất gần. Vụt nghĩ đến chuyện ma đi đò mẹ vẫn kể, anh cũng thấy hơi run. Nhưng
vốn là một chiến sĩ trinh sát, anh trấn tĩnh và nhận ra tiếng khóc ở ngay mũi
thuyền. Anh bỏ tay chèo lần tới phát hiện ra cái làn của người khách lúc nãy để
lại. Anh bật lửa. Trong làn có một đứa trẻ con đang quẫy đạp. Thấy ánh lửa, nó
nín ngay, hai tay huơ huơ lên như muốn với lấy anh. Đôi mắt nó sáng như hai
viên ngọc. Anh thọc tay vào làn và chạm vào một bình sữa còn nóng ấm. Thì ra
người mẹ này đã có ý định bỏ lại đứa con của mình.
Anh Thưởng
bế đứa bé lên bến suốt ngày ngóng đợi. Nhưng người đàn bà không quay lại. Anh
Thưởng đành nuôi đứa bé. May cô em gái họ cũng mới sinh cho nó bú ké. Con bé
lớn lên cùng anh trên con thuyền rách. Bao nhiêu người khách là phụ nữ nuôi con
mọn qua đò đã cho nó bú nhờ. Anh đặt tên nó là Sương vì nhặt được nó trong một
buổi sớm sương mù dày đặc.
Anh Thưởng
rất yêu quý bé Sương. Hai bố con quấn quýt bên nhau. Năm bé Sương hai tuổi đột
nhiên anh nhận được một lá thư từ nước ngoài gửi về. Thư của một người đàn bà
mà với anh chẳng xa lạ gì. Đó chính là người đã tặng anh cái vỏ gối thêu chữ có
hai con chim bồ câu ngậm mỏ nhau. Đọc thư, anh mới biết bé Sương là con chị ta.
Chị ta đã chủ định để nó lại trên thuyền cho anh để khỏi vướng khi làm thủ tục
xuất cảnh theo một người đàn ông ra nước ngoài định cư. Chị ta tỏ ra hối hận,
xin anh tha thứ đã phụ tình còn để lại thêm một gánh nặng cho anh. Chị ta hứa
sẽ gửi tiền về chu cấp cho bé Sương. Đọc thư, mặt anh tái đi vì giận dữ. Đúng
là đồ vô sỉ. Anh đã viết cho chị ta một bức thư yêu cầu nếu còn lương tâm thì
hãy để cho bé Sương được yên. Anh sẽ nuôi nó lớn khôn mà không cần những đồng
tiền của chị ta...
Những câu
chuyện xung quanh bến sông làng Vực còn rất nhiều. Chuyện vui, chuyện buồn đều
có cả. Viết đến đây tôi định khép lại chuyện thì lại có thêm một sự kiện nữa
xảy ra ở xoáy Vực. Đã từ lâu lắm rồi xoáy Vực không có người bị chết đuối, nhất
là từ khi người ta xây một con đập ở trạm thủy nông phía thượng nguồn sông Đáy.
Xác chết này không phải từ đâu trôi đến mà đó là một người ở làng Vực- nói
chính xác hơn là dân gốc ở làng Vực. Hắn ta cùng trang lứa với tôi. Những lần
chúng tôi kéo nhau ra sông tắm, hắn vẫn dạy tôi tập bơi. Hắn bơi lội giỏi nhất
bọn. Khi mưa lũ, nước xiết, xoáy vực sôi sùng sục mà hắn dám đứng từ trên mỏm
đá phóng xuống tắm. Thế mà hắn lại chết đuối giữa xoáy Vực lúc mùa cạn, nước
lặng. Hắn đã ngã xuống sông hay nhảy xuống sông tự vẫn? Nghe nói hắn dính vào
một vụ tham nhũng lớn, bị tịch thu tài sản, sắp phải hầu tòa nên trở về cái nơi
hắn đã ra đi để chết. Nhưng thôi, đó là một câu chuyện khác về hắn mà tôi sẽ
viết, còn xin để câu chuyện này khép lại ở đây.
(hết phần 1)
Phần 2:
DÒNG SÔNG DÒNG ĐỜI
Đó cũng lại
là một buổi sáng tinh mơ. Dân làng Vực bị đánh thức bởi tiếng kêu thất thanh từ
ngoài bến sông. Tiếng kêu cứu có người bị chết đuối khiến người ta nghi ngờ.
Bây giờ đang là mùa khô, nước sông Đáy rất cạn làm sao có người lại bị chết
đuối được chứ.
Mọi
người hớt hải chạy ra bến sông, đổ dồn về chỗ xoáy Vực. Mùa cạn. Dòng
nước chảy lờ đờ như ngái ngủ, mất hết vẻ hoành tráng gầm gào như khi mùa mưa lũ
lớn. Khi tôi chạy đến nơi thì mọi người đã đứng đen đặc trên bờ sông. Trời lạnh
chưa ai nhảy xuống sông vớt xác người. Tôi túm lấy một thằng bé con đang chạy
ngược từ bến sông lên hỏi:
- Ai bị
chết đuối thế?
- Cháu
không biết! Ông này trông lạ lắm...
Đã lâu
lắm rồi không có người bị chết đuối ở xoáy Vực. Sao bây giờ lại có người bị
chết ở đây. Hay là con ma nữ ở đáy Vực lại nổi hứng bắt người về làm quân hầu?
Nhưng con ma ấy hình như đã bị anh Thú nổ một quả bộc phá lớn nên tan hết linh
khí và đã về cõi niết bàn để đầu thai kiếp khác như người ta vẫn đồn đại rồi cơ
mà.
Tôi
xuống sát mép nước. Mấy anh dân quân đã dùng sào khều cái xác đang lập lờ vào
gần bờ. Người chết đã nổi chứng tỏ đã nằm dưới đáy xoáy Vực từ tối hôm trước.
Xác chết nằm úp. Đó là một người đàn ông. Hắn ta mặc một bộ com lê màu sẫm vào
loại đắt tiền. Khi cái xác được lật ngửa lên, tôi buột miệng kêu: "Thằng
Hiến!". Đúng rồi, nó là thằng Hiến - bạn học với tôi thời phổ thông. Tôi
lại càng ngạc nhiên và băn khoăn bởi vì hắn là người từ nhỏ vẫn rất giỏi bơi
lội. Hắn từng đoạt giải nhất cuộc thi bơi tại đại hội thể dục thể thao học sinh
phổ thông trung học toàn tỉnh. Hắn vẫn dạy chúng tôi tập bơi. Chúng tôi vẫn gọi
hắn là con rái cá. Mùa lũ, xoáy Vực như một cái chảo khổng lồ sôi sùng sục, hắn
vẫn dám phóng xuống tắm. Thế mà hắn lại chết đuối khi mùa nước cạn, xoáy Vực
lặng sóng như một cái bể bơi trong nhà. Dân làng đồn đại lắm chuyện. Có người
bảo hắn chết do tự tử, người thì nói bị thánh vật, người lại nói hắn uống rượu
say đi lạc ra sông trượt chân ngã xuống xoáy Vực. Chẳng biết đúng sai thế nào.
Tôi thì lại nghĩ có lẽ không phải nó chết do dòng nước mà chết bởi dòng đời.
Tôi thì lại nghĩ có lẽ không phải nó chết do dòng nước mà chết bởi dòng đời.
Tôi nhớ ngày
vừa học hết phổ thông, tôi lên đường nhập ngũ thì thằng Hiến cũng đi học ở nước
ngoài. Nó có chú ruột làm quan chức trên tỉnh nên được ông thu xếp cho một xuất
du học không phải thi. Ngày ấy, học giỏi chưa chắc đã được học tiếp lên đại
học. Xã tôi có một ông bưu tá. Ông này bị lãnh đạo xã quản lý rất chặt chẽ. Thư
từ, công văn gì gửi cho dân trong xã đều phải vào sổ và báo cho ông chủ tịch
biết. Theo chỉ đạo của lãnh đạo xã, các loại giấy gọi đi học phải có lệnh mới
được chuyển. Thường là sau khi hoàn thành các đợt tuyển quân mới chuyển những
giấy gọi đi học của đám học sinh vừa thi đại học, cao đẳng xong. Thành thử khi
chúng tôi đã yên ổn vào biên chế ở đơn vị quân đội rồi thì giấy báo vào đại
học, cao đẳng mới được gửi đến nhà. Thằng Hiến thì lại khác. Khi đang học năm
cuối cấp ba, một hôm nó ghé tai tôi bảo: "Tao chả cần phải học hành thi cử
khốn khổ như bọn chúng mày. Hết lớp 10 (hồi ấy lớp 10 là cuối cấp ba) là tao sẽ
đi học ở Liên Xô". Nghe hắn nói tôi không tin. Nhưng sự thật lại đúng như
vậy.
Trước hôm lên đường nhậo ngũ, mẹ tôi bảo:
- Mấy đứa
nhớ bảo nhau vào đền Vực thắp hương cầu thần, khấn phật để các ngài phù hộ cho
"đi đủ về đủ, tránh được hòn tên, mũi đạn nơi mặt trận". Đền Vực là
thiêng lắm đấy!
Găp chúng
tôi đang mua hương hoa ngoài chợ, thằng Hiến cười nhạo:
- Bọn chúng
mày ngu lắm. Chả có thần phật nào hết! Mà thần phật đ... là cái gì cả. Cứ có ô
to là xong tất.
- Mày không
được nói bậy!
Tôi mắng.
Hắn phẩy tay vẻ lếu láo:
- Chúng mày
có cúng vái suốt ngày thì có thằng cũng sẽ sinh Bắc, tử Nam cho mà coi...
Thằng Hiệp
đưa bó hương cho tôi định xông tới tống cho nó một quả đấm vào mõm. Tôi vội
can:
- Thôi chấp
làm gì cái thằng hãnh tiến!
Thằng Hiến
biết hơi quá lời, nó vội đạp xe đi thẳng.
Chúng tôi
vào bộ đội. Năm thằng đi, chỉ có ba trở về. Thằng Hiệp bị thương rất nặng. Hôm
tôi đến thăm nó ở bệnh viện quân y dã chiến nó đã nguy lắm rồi. Lúc hơi tỉnh
táo, nó cố thều thào dặn tôi:
- Nếu tao không trở về được, mày nhớ đến đền Vực thắp một nén hương cầu thần phật phù hộ cho mẹ tao luôn mạnh khoẻ. Mẹ tao năm nay chắc là đã già yếu lắm rồi...
- Nếu tao không trở về được, mày nhớ đến đền Vực thắp một nén hương cầu thần phật phù hộ cho mẹ tao luôn mạnh khoẻ. Mẹ tao năm nay chắc là đã già yếu lắm rồi...
Hiệp hy
sinh, mới đây hài cốt nó được đưa về quê. Mẹ nó làm lễ đưa linh vị nó lên đền
thờ. Thằng Đoan cũng nằm lại mặt trận, mộ nó đến giờ vẫn chưa tìm thấy. Chỉ còn
tôi và hai người bạn nữa trở về, người còn trong quân ngũ, người đã chuyển
ngành. Hội đền làng Vực năm nào chúng tôi cũng hẹn nhau về.
Lại nói
về chuyện thằng Hiến. Sau mấy năm đào tạo tại Liên Xô, rồi ở lại làm
nghiên cứu sinh tiến sĩ. Hắn về nước khi chiến tranh đã kết thúc, lại đúng khi
ông chú hắn được bổ nhiệm đứng đầu một bộ. Thế nên đời hắn cứ như diều gặp gió.
Hắn được bổ nhiệm chức vụ phó chưa ngồi nóng chỗ đã chuyển sang phòng vụ
trưởng, được vài năm đã là cấp cục. Tài năng chả biết, công lao cống hiến chẳng
rõ đã có gì ghê gớm chưa nhưng cứ mỗi năm về gặp mặt đồng môn lại thấy hắn đi
một cái xe ô tô khác, cái năm sau xịn hơn cái năm trước. Trong khi đó chúng tôi
năm nào về chỉ có cái xe máy là may, khác là cái xe ngày càng tã tượi hơn.
Hắn
giàu nhưng keo kiệt. Chưa thấy bao giờ hắn đóng góp nhiều hơn anh em khác. Khi
chúng tôi bàn việc ủng hộ các bạn học, hay giúp đỡ các thầy cô gặp hoàn cảnh
khó khăn hắn không tham gia, nói là có việc bận, gọi lái xe đi mất.
*
Mấy năm
trước, khi đào đất ở gần đền Vực, người ta tìm được một tấm bia đá. Những dòng
chữ Hán khắc trên bia còn tương đối rõ. Dân làng cử người về viện Hán nôm ở tận
thủ đô Hà Nội thuê họ lên dịch văn bia. Đó là tấm bia ghi chép về việc xây dựng
đền Vực. Mới biết đền là nơi thờ một vị nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Người đã có
công tích rất lẫm liệt trong cuộc khởi nghĩa của hai bà. Khi cuộc kháng chiến
chống giặc phương Bắc của Hai Bà thất bại, vị nữ tướng thua trận nhảy xuống
xoáy Vực tự vẫn, giữ tròn khí tiết. Tôi đã viết một bài báo về sự tích ngôi đền
thờ vị liệt nữ anh hùng.
Trước
sự tích của đền Vực và công tích của vị nữ tướng, dân làng Vực bàn bạc và quyết
định phải trùng tu ngôi đền. Những người dân làng Vực bắt đầu thực hiện việc
quyên góp. Họ phôtô bản dịch văn bia và cả bài báo của tôi viết về vị nữ tướng
mang đi khắp nước. Nghe ở đâu có người làng Vực sinh sống là họ tìm đến quyên
tiền. Quả là một cuộc hành trình vĩ đại của những người nông dân thành tâm
hướng về tiên tổ. Có những bà, những chị chưa một lần ra khỏi làng cũng cứ khăn
gói lên đường. Ai ủng hộ dù đấu gạo, vài nghìn họ cũng cảm tạ, ghi chép cẩn
thận vào sổ công đức và cấp giấy chứng nhận cho người đóng góp.
Vì thế
có chuyện buổi sáng nọ, tại một công sở của một cơ quan kinh tế có hai người
đàn bà lam lũ xin vào gặp ông thủ trưởng. Mấy anh bảo vệ ùa ra xua đuổi quầy
quậy. Cơ quan đang chuẩn bị đón ông bộ trưởng xuống thăm. Cờ hoa, biểu ngữ đã
chăng từ hôm trước. Đám nhân viên nữ áo dài thướt tha, ôm hoa đang đứng chờ
sẵn.
Trong
khi đó, hai người đàn bà quê mùa lại cứ nài nỉ, luẩn quẩn ở cổng, đuổi mãi
không chịu đi. Mấy anh bảo vệ đã nổi cáu. Nhưng khi một người đàn bà nói chính
là thím họ của ông thủ trưởng cơ quan này và việc đến đây thì máu Trương Phi
của họ nguội hẳn. Họ vội cấp báo cho ông trưởng ban hành chính. Ông trưởng ban
báo lên ông vụ trưởng. Ông vụ trưởng vã mồ hôi hột lật đật chạy lên phòng thủ
trưởng.
Thủ trưởng
đang đứng trước gương ngắm nghía dung nhan và tập trước mấy lời thưa gửi cấp
trên cho xuôi chảy, khỏi ấp úng, lúng túng. Nghe tiếng gõ cửa, ông ta sẵng
giọng:
- Có
việc gì thế?
- Dạ!
Báo cáo... báo cáo...- Ông vụ trưởng vừa mở cửa vào vừa nói.
-
Báo... báo... cái gì! Nói ngay đi, bộ trưởng đến rồi à?
- Dạ
chưa ạ! Mà là có thím của thủ trưởng từ quê lên ạ!
-
Thím... có đúng không! Mà lên có việc gì?
- Bà ấy
nói gặp thủ trưởng để quyên góp trùng tu đền... đền...
- Đ...
ề... n... V... ự.... c!
Thủ trưởng
nhắc. Ông vụ trưởng thở phào:
-
Vâng... vâng... đúng rồi ạ! Họ nói có cả bài báo viết về ngôi đền xin gửi thủ
trưởng xem để quyết định đóng góp ạ.
- Báo
với chí gì, vứt đi, chỉ viết láo. Thôi quẳng cho họ mấy đồng để họ đi đi. Bộ
trưởng sắp đến rồi đấy.
- Thưa
anh bao nhiêu ạ?
- Hai
triệu... À thôi, cho hẳn năm triệu...
Ông vụ
trưởng vừa đi ra đã vội quay lại. Ông chưa kịp báo cáo thêm thì thủ trưởng đã
hất hàm:
- Lại
còn việc gì nữa?
- Dạ!
Nhưng người đàn bà nói là xin gặp anh để anh ký vào bảng vàng công đức và đưa
tận tay giấy chứng nhận đã ủng hộ xây dựng đền ạ!
- Thôi
dẹp dẹp! Vớ vẩn, không cần, bảo họ đi ngay đi!
Thủ trưởng xua xua tay. Ông bực mình lẩm
bẩm: "Đền với điếc, tày cái lỗ mũi! Ông sẽ về quê xây một cái đền to gấp
ba gấp bốn cho mà biết!".
Chả
phải nói tên, bạn đọc cũng đã biết vị thủ trưởng đó là ai rồi. Đó là thằng Hiến
bạn học thời phổ thông của tôi. Hắn đã về quê mua một khu đất khá rộng. Trong
khu đất ấy hắn xây một cái biệt thự sang trọng để nghỉ ngơi, thư giãn cuối
tuần. Hắn xây một ngôi nhà thờ tổ họ khá to trong khuôn viên. Có lần tôi đi qua
còn nghe thấy cả tiếng chuông ngân nga, tiếng mõ lốc cốc nữa.
Nhưng
rồi mọi việc biến thiên. Trời đất xoay vần, chả ai lường trước được. Hắn đang
lên như diều, bỗng bị đứt phựt một cái. Từ một việc rất nhỏ là cái cốt tre
trong cột tiêu giao thông, bộc lộ vụ tham nhũng, rút ruột công trình rất lớn.
Mà tác giả chỉ đạo và thu lợi chính là hắn. Mọi việc vỡ lở, bung bét cả ra. Ông
chú cấp cao ô lớn cũng đành bó tay, không cứu nổi. Mới đang ở giai đoạn điều
tra, chưa công bố kết luận cuối cùng, nhưng hắn đã hiểu thế là hết.
Và gần
đến ngày hội đền làng Vực hắn trở về quê.
Chập
tối hôm trước người làng thấy hắn đi bộ ra chợ. Hắn mua một thẻ hương rồi đi về
phía đền Vực. Hắn đã vào thắp hương tạ lỗi với thần phật, tổ tiên tại đền. Cụ
thủ từ coi giữ đền Vực lầm rầm khấn giúp cho hắn. Nhưng cầu xin mấy lần mà vẫn
không gieo được quẻ. Hai đồng xu không chịu sấp ngửa theo mong muốn. Cụ thủ từ
đành an ủi hắn: "Thôi thì nhất sự tại dương, vạn sự tại âm. Xin thí chủ cứ
tĩnh tâm...".
Sáng
hôm sau, khi nghe có tiếng người kêu cứu dưới bến sông, cụ thủ từ vội nhỏm dậy.
Cụ lật đật vào điện thờ châm ba nén hương chắp tay khấn rồi cắm vào bát nhang.
Ba đốm lửa bỗng cháy rực lên rồi phụt tắt tựa như có ai vừa hắt một gáo nước
lạnh vào những nén hương đang cháy.
(hết phần 2)
Phần 3:
LÒNG NGƯỜI THĂM THẲM
Hội
làng Vực năm nay buồn. Bởi lẽ trước ngày khai hội lại có người chết ở Xoáy Vực.
Thằng Hiến được người nhà đưa về mai táng sau khi công an đã khám nghiệm tử thi
mất nửa ngày.
Hôm đưa đám, lũ bạn đồng môn chúng tôi cũng
có nhiều đứa đến. Có đứa chả ưa gì nó nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, ai còn chấp
nê người chết làm gì. Cơ quan nó cũng có một đoàn kéo về. Toàn ô tô xịn. Mấy
chục vòng hoa bọc giấy bóng kính, nghe nói mỗi vòng cả trăm nghìn đồng khiến
dân làng Vực lác mắt. Bởi đám ma ở quê giỏi lắm thì chỉ có vài vòng hoa tự làm
tròn như cái vành nón, buộc lơ thơ mấy bông hoa dâm bụt héo rũ.
Thả một
hòn đất xuống huyệt rồi tôi lùi ra cho đám thanh niên lấp huyệt và đắp nấm. Tôi
đang chen ra khỏi đám đông nhốn nháo kẻ xúc đất, người kêu khóc thì có một bàn
tay vỗ bộp vào vai. Tôi giật mình ngoảnh lại nhận ra anh Thưởng. Trông anh có
vẻ gầy gùa, khuôn mặt vêu vao không còn vẻ sung sức như hồi mới về phục viên.
Anh bảo:
- Ra nhà tao
chơi đi! Hôm nay con Sương cũng về, nó mua được mớ cá tươi, đang rán. Ra làm
chén rượu cho ấm bụng...
- Vâng...
nhưng để em ngó xem thằng cháu nó đứng chỗ nào nhắn là trưa không về để vợ em
khỏi chờ cơm.
Dặn thằng
cháu xong, tôi theo anh Thưởng ra bến sông. Căn nhà của anh ngày xưa chơ trọi
trên bờ sông bây giờ ngập lút giữa những ngôi nhà cao tầng ngất ngưởng. Kinh tế
phát triển, bãi sông trở thành dãy phố. Nhờ mấy lần được trợ cấp, được hỗ trợ
tiền sửa nhà tình nghĩa nên anh cũng xây được tường gạch, lợp mái ngói. Ba gian
nhà ngoài còn lát được gạch hoa. Thứ gạch hoa nội do địa phương sản xuất, nét
hoa văn nhoè nhoẹt.
Vừa cùng tôi
ngồi xuống ghế, anh đã lên tiếng gọi cái Sương. Từ sau bếp cái Sương lật đật
chạy lên. Tay nó còn cầm đôi đũa. Con bé lớn quá. Mới đấy mà đã chục năm. Hôm
nó vào nhà tôi xin báo bọc sách để đi học lớp 1 còn bé tý. Thế mà bây giờ nó đã
học đại học năm thứ hai. Trông nó phổng phao, xinh đẹp. Hôm trước nghe vợ tôi
kể nó học giỏi lắm. Vừa học đại học ở Hà Nội nó vừa đi làm thêm kiếm tiền gửi
về cho bố. Anh Thưởng vài năm nay ốm đau luôn. Di chứng chiến tranh trong người
anh bắt đầu phát tác.
Cái Sương
chào tôi rồi xin phép xuống bếp vì đang rán dở mấy khúc cá.
Anh Thưởng
rót hai chén rượu. Bé Sương đã bày cho chúng tôi một vài món để nhâm nhi trước.
Anh Thưởng nâng chén rượu lên làm một ngụm rồi bỗng rằn mạnh cái chén xuống
bàn. Giọng anh nghẹn đắng:
- Khốn nạn!
Thật khốn nạn...
Tôi ngạc
nhiên:
- Có chuyện
gì vậy anh?
Anh Thưởng
cũng như chợt bừng tỉnh. Anh lúng túng nhìn xuống bếp. Nét mặt anh tái dại đi
nhưng giọng anh thì nhỏ hẳn lại, chùng xuống. Có lẽ anh sợ cái Sương nghe thấy.
- Thì chính
là chuyện của cái Sương. Suýt nữa thì nó sa vào cạm bẫy của bọn vô nhân ấy...
- Bọn nào
vậy anh?
- Bọn...
bọn... bọn...- Anh cầm chén rượu ngửa cổ uống cạn. Nét mặt anh nhăn nhúm không
rõ vì rượu đắng hay vì nỗi bức bối trong lòng. Tôi không hỏi thêm. Vì tôi biết
những lúc như thế này hãy lặng yên để nhân vật tự bộc lộ là phương án tốt nhất.
Nếu cố gặng hỏi có thể họ sẽ chôn sâu luôn vào lòng mình tất cả những gì ta muốn
biết.
Anh Thưởng
ngồi thừ người. Rồi lại rót rượu, lại uống. Lại rót. Hình như rượu lại làm cho
anh bình tâm hơn. Khi cái Sương xin phép đi thăm bạn dắt xe ra khỏi nhà anh mới
bắt đầu kể.
*
Bé Sương thi
đỗ đại học với số điểm rất cao làm cả làng Vực ngạc nhiên. Bởi từ lâu lắm làng
mới có người thi đỗ đại học. Bọn học sinh làng này có đứa học chưa hết phổ
thông trung học đã bỏ học về Hà Nội làm ô-sin hoặc lên biên giới làm cửu vạn
gánh hàng thuê qua biên giới. Đứa nào cố lắm thì cũng chỉ thi đỗ vào trung cấp
hoặc cao đẳng là cùng.
Cái Sương
học đại học ngành công nghệ thông tin. Nó học giỏi được học bổng nên anh Thưởng
cũng đỡ một khoản tiền chu cấp hàng tháng. Mấy trăm tiền trợ cấp thương tật của
anh mua rau chả đủ nói chi học phí đại học của con. Năm học thứ hai cái Sưong
đã tìm được việc làm tại một công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhờ nó rất giỏi
ngoại ngữ và vi tính. Tuy làm hợp đồng nửa buổi vì còn phải học nhưng lương
tháng của nó cũng vài triệu. Nó tiết kiệm dành chút ít gửi về thêm cho bố chữa
bệnh. Anh Thưởng thì hết thường trú ở bệnh viện này đến bệnh viện khác. Con đò
rách cũng chả còn ai chèo chống. Bây giờ đời sống khá lên họ toàn đi ô tô, xe
máy nên chẳng còn mấy ai đi đò. Anh Thưởng vỡ hoang được bãi đất ven sông. Mùa
khô anh trồng ngô hoặc mía. Mùa mưa anh cất vó, cất tôm cũng qua bữa. Đám đất
trống xung quanh nhà anh đều được người ta mua làm nhà cao bốn năm tầng. Thành
thử căn nhà của anh bị quây bốn phía. Đứng ở sân mà như đứng dưới đáy giếng.
Cái Sương
vừa học vừa đi làm thêm. Vợ chồng ông chủ công ty nọ cũng là người gốc
Việt. Bà vợ ông ta thỉnh thoảng mới về Việt Nam. Họ mua một ngôi biệt thư cao
cấp ở khu đô thị mới vừa làm trụ sở, vừa làm nơi ăn nghỉ.
Một bữa, ông
chủ bảo có tài liệu cần sử lý gấp bảo cái Sương ở lại làm thêm. Bà vợ ông chủ
cũng vừa sang Việt Nam. Họ hứa sẽ cho cái Sương cùng đi nước ngoài một chuyến.
Mọi thủ tục đã xong. Cái Sương thích lắm. Nó lập tức gọi điện về nhờ báo tin
cho bố biết.
Dịch xong
mấy thứ tài liệu ông chủ đưa cho thì đã muộn. Ông chủ pha cho Sương một cốc sữa
rồi quay ra. Có điện thoại. Uống được một ngụm nhỏ cái Sương đặt cốc vội vàng
mở túi tìm điện thoại. Lúng túng nó làm đổ cốc sữa. Vừa lau xong chỗ sữa đổ ra
sàn thì ông chủ bước vào với một bộ đồ ngủ. Đôi mắt ông ta rừng rực lửa. Cái
Sương hốt hoảng lùi lại. Ông ta lao lại phía Sương. Cái Sương kêu cứu nhưng căn
phòng làm việc kín chả ai nghe tiếng. Cái Sương chống cự quyết liệt khiến ông
chủ hơi ngạc nhiên. Cốc sữa lúc nãy ông ta pha là một liều thuốc kích thích cực
mạnh. Tại sao con bé này vẫn kháng cự quyết liệt thế. Ông ta lại lao đến. Nhưng
sức lực của một thằng say rượu và say thuốc kích dục không thể làm gì được cái
Sương. Hắn bị nó đẩy ngã dập đầu vào cạnh bàn choáng váng. Cái Sương mở cửa lao
ra sân.
Ông bảo vệ đã đóng cổng. Ông vừa mở cái
hăng-gô cơm định ăn thì nghe tiếng đập cửa. Ông ta vội lao ra. Nhìn thấy cái
Sương quần áo rách tả tơi, đầu tóc rũ rượi. ông như đoán được mọi việc. Ông vội
vớ cái áo bông cũ khoác lên người nó, mở cổng đẩy nó thoát ra ngoài. Ông kịp
nhét vào tay cái Sương một tờ giấy bạc năm mươi nghìn và dặn cứ chạy thẳng về
phía nhà ga có đồn công an...
- Chuyện là
như vậy!- Anh Thưởng bảo:- Hôm đó, từ lúc nghe cái Sương gọi điện về máy điện
thoại nhà chú Tuấn bên cạnh nhờ nhắn lại là nó được đi Thái Lan một tuần công
tác cùng ông bà chủ tự nhiên tao cứ thấy bất yên trong lòng. Suốt đêm tao cứ
trằn trọc mãi. Gần sáng tao vừa chợp mắt thì mơ thấy cô gái bị chết trôi năm
nào, lại nghe tiếng khóc và tiếng kêu cứu. Tao bật dậy, mồ hôi vã ra đầm đìa
mặc dù đã cuối thu trời bắt đầu lạnh. Tao nằm xuống định ngủ tiếp
nhưng chợt đến lời mẹ dặn không được để người qua sông ban đêm lỡ đò tội
lắm. Tao tìm cây gậy chống lần xuống sông. Con thuyền nhỏ vẫn buộc ở gốc tre
sát mặt nước. Tao chống thuyền ra đến giữa sông. Mặt nước vỡ ra dưới ánh trăng
thượng tuần lờ mờ. Định quay thuyền về thì tao chợt nhác thấy hình như bờ sông
bên có bóng người ngồi gục gần mép nước. Tao vội chống thuyền áp ngay vào. Đúng
là người thật. Tao nhảy xuống gọi. Người ngồi đó vẫn im không động đậy. Khi tao
lay nhẹ người đó mới choàng tỉnh. Cái áo choàng trên người rơi xuống. Tao hốt
hoảng kêu lên: "Sương... Sương mày đấy hả con!". Đúng là cái Sương.
Nhận ra bố nó bật khóc nức nở. Thì ra nó đã đi suốt đêm để về nhà. May có năm
mươi nghìn ông bảo vệ công ty đưa cho mà nó có tiền mua vé tàu về quê. Túi
sách, đồ dùng của nó còn bỏ lại phòng giám đốc công ty.
- Thế bây
giờ nó vẫn tiếp tục đi học chứ?
Tôi hỏi. Anh
Thưởng bảo:
- Phải đến
mấy tuần sau nó mới hoàn hồn. May mà chưa có việc gì xảy ra. Tao đưa nó lên
trường để nó tiếp tục đi học. Cấm nó từ nay không được làm thêm nữa. Tao bán
bớt nửa mảnh đất vỡ hoang ven sông cho họ làm nhà hàng ngắm sông lấy tiền cho
nó ăn học.
- Thế
thì mọi việc tốt rồi!
- Tốt
gì mà tốt! Mày chưa biết đấy thôi...
- Còn
chuyện gì nữa anh?
Tợp một
ngụm rượu, anh nói, giọng khàn đi vì giận:
- Khốn
nạn là ở chỗ đó. Sau khi cái Sương chạy thoát khỏi phòng thằng giám đốc mất dạy
đó thì vợ nó về. Thì ra việc định cưỡng bức cái Sương có sự đồng tình
của vợ nó. Hoá ra cái công ty này là một đường dây chuyên đưa người, nhất
là phụ nữ ra nước ngoài trái phép để gả bán và kể cả làm nghề bán dâm nữa. Vợ
chồng nó lục lọi, kiểm tra cái túi của con bé bỏ lại. Mày biết thế nào không?
Qua giấy tờ trong túi của nó, người đàn bà, vợ thằng giám đốc kia mới nhận ra
cái Sương chính là con đẻ của mình...
Tôi
giật mình sửng sốt trước bất ngờ của câu chuyện. Tôi hỏi:
- Thế
cái Sương đã biết chuyện này chưa! Mà sao anh lại biết?
-
Thì... chính con mẹ nó về đây mà. Cái Sương về nhà được mấy hôm thì mẹ nó cũng
tìm về. May mà hôm ấy cái Sương đi vắng. Mẹ nó đã quỳ ở chỗ này này...- Anh hắt
chén rượu đang uống dở xuống chỗ góc cửa:- Mẹ nó quỳ để xin tao tha thứ. Chuyện
phụ tình thì tao không kể đến làm chi. Thời chiến tranh có đi, không về, tao
chả trách. Chuyện bỏ con là có tội với con, tuy phải gánh chịu nhưng tao
cũng không trách cứ gì. Thôi thì tao vất vả, gian khổ nhưng lại có được
một đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo. Nhưng cái chuyện suýt làm hại con thì tao
không thể tha thứ. Thế mà lại còn dám mở miệng xin nhận con nữa đấy...
Anh
Thưởng đột ngột im lặng. Mãi chả thấy anh nói gì thêm. Tôi sốt ruột quá buột
miệng:
-
Chuyện sau đó thế nào hả anh?
- Thế
nào à? Tao rút con dao lê ném lên bàn bảo: "Nếu cô còn có một chút lòng tự
trọng của con người thì hãy ra Xoáy Vực đâm đầu xuống đấy mà chết. Người làng
Vực sẽ làm ma cho cô, không để cô phải nằm chết thối dưới đáy sông đâu. Còn nếu
cô dám hé miệng ra nhận con thì tôi sẽ đâm cô chết ngay tại đây!". Thấy
tao quyết liệt thế cô ta hoảng sợ vội vã bỏ đi. Nhưng tao vẫn rất lo.
Tao rất muốn cái Sương có mẹ. Nhưng nó không thể có một người mẹ như thế. Nó
phải được sống trong sáng hiểu không!
Giọng anh
Thưởng có vẻ rất xúc động. Anh nói:
- Cuộc
đời đúng là khốn nạn mày ạ! Hôm trước đưa cái Sương xuống trường, tao đã tìm
đến cái công ty nó đã làm thuê...
-
Anh định trả thù cho cái Sương à?
-
Không! Là tao muốn tìm ông bảo vệ để cảm ơn ông ấy một câu. Nhưng tìm đến nơi
hỏi thì mới biết ông ấy đã bị đuổi việc vì đã mở cổng cho cái Sương chạy thoát.
Dò hỏi mãi tao mới tìm được nhà ông ấy. Hoá ra ông ấy cũng từng là một thằng
lính như bọn mình. Ông ấy cùng ở mặt trận B3 với tao. Nhà ông ấy còn mẹ già, vợ
không có việc làm và hai đứa con nhiễm chất độc da cam, người chả ra người,
ngợm chả ra ngợm. Tất cả chỉ trông vào đồng lương của ông ấy. Thế mà... Thấy
tao tỏ ý băn khoăn, xin lỗi mãi ông ấy nổi cáu: "Anh hay nhỉ! Con anh cũng
như con tôi, nó bị hại thì phải cứu chứ. Mất việc thì mất tôi cũng cóc cần! Hôm
đó mà biết thằng giám đốc giở trò khốn với con bé thì tôi đã đạp cửa xông vào
đâm luôn cho nó một nhát rồi!". Ông ấy nói vậy nhưng tao vẫn cứ ái
ngại cho hoàn cảnh của ông ấy quá...
Anh
Thưởng trở nên buồn bã, suy tư. Lại rót. Lại uống.
Câu
chuyện của anh Thưởng khiến tôi cứ trăn trở mãi. Và, phần tiếp theo
của truyện ngắn Đáy vực là thế.
(hết)
Hà Nội, cuối năm 2008
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại- ngày 17/9/2015
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 03.01.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi
Trích Đăng Lại.
__________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét