Home
» Tiểu thuyết - Truyện dài
» Trong vòng lửa – Tiểu thuyết của Trọng Bảo (Phần mở đầu đến hết Chương 14)
Trong vòng lửa – Tiểu thuyết của Trọng Bảo (Phần mở đầu đến hết Chương 14)
Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015
Trong
vòng lửa – Tiểu thuyết của Trọng Bảo (Phần mở đầu đến hết Chương 14)
Thứ
hai - 17/02/2014 15:44
35 năm
trước, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra (2-1979). Là một người lính
có mặt trong trận chiến ác liệt năm ấy tôi đã viết xong một truyện dài về những
người chiến sĩ, những người dân biên giới không sợ hy sinh, dũng cảm ngoan
cường chặn đánh quân thù, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ
quốc Việt Nam thân yêu. Mùa Xuân năm ấy, máu của chiến sĩ, máu của nhân dân ta
đã rơi xuống nhuộm đỏ đất đai của cha ông. Thời gian trôi qua, cuộc chiến tranh
ấy đã đi vào ký ức xa xôi, quên lãng. Nhưng những người lính biên cương đã từng
chiến đấu ở tuyến đầu ngày ấy vẫn sẽ mãi mãi không quên. Tôi xin gửi
VanDanViet.net truyện dài này sau khi đã sửa chữa, bổ sung thêm nhiều sự kiện,
chi tiết của cuộc chiến tranh 35 năm trước ở biên giới phía Bắc (Trọng
Bảo).
Thông
tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác
giả Trọng Bảo
Tên
thật: Hà Trọng Bảo
Sinh
năm: 1956
Quê
quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện
công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa
chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT:
098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
TRONG VÒNG LỬA
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Phần mở đầu
Hai mươi năm sau cuộc
chiến tranh biên giới, mãi đến năm 1999, tôi mới lại có dịp trở lại Cao Bằng.
Thị xã Cao Bằng hai mươi năm trước đầy dấu vết chiến tranh, xác xe tăng quân
giặc vương vãi ở Bế Triều, Hoà An. Hai mươi năm sau, thị xã đầy ăm ắp hàng hoá
mang nhãn hiệu “made in China”. Quá khứ lùi xa, lòng nhân ái vượt lên trên sự
hận thù. Chiến tranh là ý chí, hành động của những người lãnh đạo, của thượng
tầng kiến trúc. Hoà bình là xu hướng, là mong mỏi của nhân dân, của hạ tầng cơ
sở. Ở thị xã vùng biên này tôi lại gặp những người Trung Quốc sang buôn bán, du
lịch, nét mặt họ vui tươi, thân thiện. Hai mươi năm trước, trước khi cuộc chiến
xảy ra tôi cũng đã gặp những người dân của họ sang chợ vùng biên của ta ở Hà
Quảng. Họ mua xôi, thịt, thức ăn ngon của bà con ta rồi ăn luôn tại chợ. Họ chỉ
mua sắn, ngô khoai rồi gùi thồ về đất họ. Hỏi ra mới biết ngày ấy người dân
Trung Quốc cũng rất nghèo, rất đói, ăn không dám ăn ngon, mặc không dám mặc
đẹp. Cũng như ở ta thời bao cấp, để hoà đồng với mọi người, nhà mình có được ăn
no vẫn phải kêu đói, áo lành, áo mới mặc lận vào trong, áo rách khoác ra ngoài
để tránh bị quy kết này nọ.
Cao Bằng ngày đơn vị
chúng tôi lên giữ đất (1979) cũng rất nghèo, dân cũng còn thiếu đói. Nhưng tôi
nhớ mãi một chuyện gặp ở chợ Sóc Giang. Hôm đó đơn vị chúng tôi đi huấn luyện
triển khai mạng thông tin dã ngoại. Được thanh toán tiền ăn, anh em trong tiểu
đội kéo nhau ra chợ mua thêm cân thịt lợn cải thiện thêm bữa ăn. Khi tôi hỏi
giá, bà bán thịt lợn bảo tôi:
- Một cân bán cho dân
hai mươi đồng, bán cho bộ đội chỉ lấy mười tám đồng thôi! (Không biết tôi có
nhớ chính xác trị giá đồng tiền ngày ấy không?)
Tôi ngạc nhiên hỏi
lại:
- Tại sao lại thế ạ?.
Bà bán hàng người dân
tộc cười nói rất tự nhiên:
- Chả tại sao cả! Cái
gì bán cho bộ đội cũng cứ thấp hơn thế đấy!
Thì ra ở chợ có một
quy định không thành văn là hàng hoá bán cho bộ đội đều thấp hơn so với bán cho
người khác từ 15 đến 20%. Mà có điều lạ là chả ai phổ biến, quán triệt nhưng bà
con dân tộc đem hàng ra chợ ai cũng làm như vậy. Và không ai từ chối khi bộ đội
hỏi mua hàng. Quy định bất thành văn đó chính là lòng dân thương yêu bộ đội mà
có. Một lần đi công tác dừng lại nấu cơm dọc đường, thấy vườn đu đủ trên sườn
núi trĩu quả, tôi hỏi mua, ông chủ vườn bảo: “Chú cứ lấy mà ăn! Để lại cái hột
là được”. Thì ra đu đủ chín đầy vườn bộ đội muốn ăn thì cứ lấy, ăn xong để lại
cái hạt cho những cây mới mọc lên. Khi tình hình căng thẳng tôi gặp một cụ già
ngồi vót chông ở bản gần biên giới, tôi hỏi: “Sao ông chưa đi sơ tán?” thì cụ
bảo: “Chúng mày ở tận dưới xuôi còn lên tận đây giữ đất, chúng tao ở đây
lại bỏ đi à! Đất của mình thì mình phải ở, phải giữ bằng được chứ,
sao lại bỏ đi?”. Câu nói của cụ già giản dị nhưng là một chân lý có tự ngàn đời
nay.
Chính nhờ lòng dân như vậy
đã giúp chúng tôi đứng vững và chiến đấu bảo vệ vững vàng biên cương của Tổ
quốc. Trong những trận đánh ác liệt giữ từng tấc đất thiêng liêng nơi biên giới
ấy có bao người dân đã ngã xuống giữa chiến hào cùng người lính. Thời phong
kiến xa xưa, các vua quan Việt Nam từng coi dân bản xứ ở nơi biên thuỳ như là
những người lính tiền tiêu trấn giữ nơi biên ải vì thế. Tôi đã viết các truyện
ngắn Gió núi, Đá dựng, Nước lũ… từ những câu chuyện về tình quân dân ngày ấy.
Tôi cũng đã hoàn thành bản thảo tập truyện dài viết về chiến tranh biên giới
1979 này.
Mong rằng trong tương
lai nền văn học của ta sẽ không còn phải viết về những cuộc chiến tranh mới
nữa. Máu đổ cũng đã nhiều rồi, trên dải đất mong manh này đau thương cũng đã
quá nhiều rồi. Ngay tại mảnh đất Cao Bằng bao nhiêu đồng đội của tôi còn nằm
lại. Nhớ về họ tôi muốn gọi một câu: “Đồng đội ơi! Bao nhiêu năm rồi tôi vẫn
nhớ một vùng đất thân yêu chúng mình từng gắn bó mà bạn đã lên đó không trở
về…”.
Hà Nội, tháng 2-2014
---------------
TRONG VÒNG LỬA
TRONG VÒNG LỬA
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Chương 1
Buổi sinh hoạt chi đoàn
sắp kết thúc.
Đã có nhiều ý kiến
góp ý cho tôi và Lâm. Họ phân tích rất kỹ khuyết điểm của hai chúng tôi. Nhiều
người mong hai người nhận ra khuyết điểm của mình để sửa chữa, tiến bộ. Nhưng
cũng có một số ý kiến phê phán rất gay gắt, đề nghị phải kỷ luật nghiêm khắc,
kể cả khai trừ cả hai ra khỏi đoàn. Khuyết điểm của hai thằng chúng tôi là tính
tự do vô kỷ luật, nhiều lần ra ngoài không báo cáo và để xảy ra sự cố suýt mất
tài liệu là bản mật mã thông tin. May bản mật mã ấy một ông nông dân nhặt được
đem đến trả lại cho chỉ huy đơn vị. Nhiều ý kiến nâng quan điểm lên nếu bản mật
mã ấy mất sẽ làm lộ bí mật quân sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức chiến đấu
của đơn vị.
Nguyễn Tính, bí thư
chi đoàn tiểu đoàn bộ tóm tắt kết luận cuối cùng trước khi biểu quyết xác định
hình thức kỷ luật:
- Chúng ta đang làm
nhiệm vụ ở tuyến trước, nơi khó khăn gian khổ, đòi hỏi sự cảnh giác rất cao. Kẻ
thù đang ở phía trước, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Với tính tự
do, vô kỷ luật như thế, tôi xin hỏi đồng chí Hà và đồng chí Lâm thì khi cuộc
chiến đấu ác liệt xảy ra liệu các đồng chí có trụ vững được không, có giữ được
chốt không! Hay là các đồng chí sẽ hoảng sợ, bỏ chạy?
Tôi và Lâm cúi gằm
mặt im lặng không trả lời. Bí thư chi đoàn Nguyễn Tính được thể lên giọng:
- Các đồng chí không
trả lời được chứ gì! Chiến tranh chưa xảy ra mà các đồng chí đã vô tổ chức, vô
kỷ luật, thiếu ý chí chiến đấu vậy thì còn xứng đáng đứng trong đội ngũ tiền
phong, xứng đáng là những đoàn viên thanh niên nữa không? Các đồng chí đã làm
ảnh hưởng rất nhiều đến thành tích chung của chi đoàn chúng ta…
Có nhiều tiếng ồn ào
hưởng ứng. Bí thư chi đoàn Tính nhìn mọi người. Anh đã đi đến quyết định cuối
cùng để kết thúc buổi sinh hoạt:
- Bây giờ chúng ta sẽ
biểu quyết hình thức kỷ luật của đồng chí Lâm và đồng chí Hà. Tôi đề nghị mọi
người trong chi đoàn cần hết sức nghiêm túc nhìn nhận khuyết điểm của hai đồng
chí ấy. Vẫn biết kỷ luật là để giúp các đồng chí ấy tiến bộ, nhưng cũng không
thể xuê xoa, dĩ hoà vi quý, tốt xấu lẫn lộn, làm suy giảm uy tín của chi đoàn,
của đơn vị…
Mọi người im lặng.
Không khí buổi sinh hoạt nặng nề. Bí thư chi đoàn nói tiếp:
- Có hai hình thức kỷ
luật. Một là khai trừ khỏi đoàn, hai là cảnh cáo trước chi đoàn, ghi vào lý
lịch. Chúng ta sẽ lần lượt biểu quyết từng hình thức một…
Quan sát một lượt các
đoàn viên, bí thư Tính hỏi:
- Ai nhất trí hình
thức khai trừ đoàn đối với hai đồng chí thì giơ tay?
Đến gần một nửa chi
đoàn lập tức giơ tay biểu quyết đồng ý. Một số ngập ngừng giơ tay lên rồi lại
hạ tay xuống. Có lẽ họ chờ nếu quá bán thì cũng giơ lên luôn cho xong. Họ là
những người cả nể, dĩ hoà vi quý, không có chính kiến. Bí thư Nguyễn Tính dọi
đèn pin và bắt đầu đếm. Không khí buổi sinh hoạt càng thêm nặng nề. Hội trường
như lắng hẳn đi…
- Một… hai… ba… bốn…
Trong ánh đèn dầu tù
mù tối lờ mờ âm u tiếng bí thư Tính lầm rầm đếm từng tiếng một vẻ chắc nịch:
- Mười… mười một…
mười hai… mười ba… mười…
Chỉ cần một người
biểu quyết nữa là quá bán. Bí thư Tính dọi đèn về phía cuối hội trường, nơi có
mấy cánh tay lúc thì giơ lên, lúc lại hạ xuống. Đây rồi, có hẳn ba cánh tay nữa
giơ lên. Bí thư Tính vừa cao giọng đếm tiếp:
- Mười… bờ…ôn…
Tiếng của bí thư chi
đoàn Nguyễn Tính chưa dứt câu thì đột ngột có tiếng còi nhịp ba vang lên dồn
dập: “Toét… toét… toét…”.
Báo động chiến đấu.
Cả chi đoàn nhốn
nháo. Nhiều người bật nhỏm dậy. Bí thư Tính chưa biết xử trí ra sao thì đồng
chí trực ban tiểu đoàn xuất hiện ở cửa hội trường gấp gáp thông báo:
- Báo động chiến đấu!
Tất cả mang theo vũ khí trang bị ra vị trí tập trung, nhanh lên…
Tôi kéo thằng Lâm bật
dậy. Hai thằng chúng tôi lao ra khỏi hội trường co giò phóng như bay về nhà ở.
Tôi vớ vội khẩu súng và chiếc ba lô quân tư trang luôn luôn buộc sẵn đầy đủ các
thứ cuốc xẻng, dây thông tin, máy điện thoại. Tôi và Lâm chạy ra địa điểm tập
trung. Khắp các lối ngõ trong bản là tiếng chân chạy rầm rập gấp gáp. Tiếng
súng đạn, xẻng cuốc va chạm vào nhau lách cách.
Dọi đèn pin nhận ra
chúng tôi, tiểu đội trưởng Bùi quát:
- Hai thằng chúng mày
có nhanh lên không! Mà đã mang đầy đủ vũ khí trang bị chưa?
- Đủ hết rồi ạ!
Tôi đáp rồi lập cập
hỏi lại:
- Lại báo động tập để
kiểm tra như mọi lần hả anh?
- Tập gì mà tập… tình
hình khẩn cấp lắm rồi! Tao vừa cùng bộ phận trinh sát đi nắm tình hình từ đường
biên về đây. Bọn giặc đã cắt phá mất hơn ba mươi mét rào và xua đến ba bốn chục
con trâu vượt qua biên giới sang đất ta rồi…
- Chúng nó xua đuổi
trâu bò tràn sang đất ta để làm gì hả anh?
- Sao hỏi ngu thế! Nó
xua đàn trâu tràn qua biên giới sang là để phát hiện các bãi mìn của quân ta
đấy!
Thì ra thế! Tôi linh
cảm thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng lắm rồi. Đến vị trí tập trung ngồi chờ
nhận lệnh triển khai nhiệm vụ chiến đấu, tiểu đội trưởng Bùi quay phía tôi sang
khẽ hỏi nhỏ:
- Buổi sinh hoạt chi
đoàn thế nào?
- Đang biểu quyết thì
có lệnh báo động nên vẫn chưa xác định hình thức kỷ luật thế nào!
Tôi nói nhỏ. Tiểu đội
trưởng Bùi càu nhàu:
- Mẹ kiếp! Đánh nhau
đến nơi rồi kỷ luật, kỷ liệc cái con khỉ gì! Thôi, mọi chuyện trở về trước coi
như bỏ đi hết, không nhắc đến nữa. Từ bây giờ trở đi hai thằng phải chú ý rèn
luyện nhé!
- Vâng… vâng ạ!
Tôi và Lâm cùng đáp.
Tiểu đội trưởng Bùi lại thì thào dặn thêm:
- Chắc chắn chiến
tranh sẽ xảy ra, chả hôm nay thì hôm khác. Tiểu đội có mấy thằng, tình huống
thế nào cũng không được bỏ nhau nhé!
- Vâng… anh cứ yên
tâm!
Tôi đáp nhưng cũng thấy
hơi run. Gió bắc thổi lành lạnh. Phía cửa khẩu bóng đen đè nặng chỉ còn lờ mờ
những ngọn núi , bóng cây với những hình thù quái dị. Tôi chợt thấy rùng mình,
cái lạnh len lỏi vào trong lưng áo. Thoáng sự lo âu, tôi cố nén một hơi thở gấp
vì hồi hộp khi nghe cán bộ tiểu đoàn phổ biến tình hình địch và triển khai
nhiệm vụ. Ngay trong đêm các đơn vị vào vị trí chiến đấu. Cánh lính bộ binh
trải tăng võng ngủ luôn trong hầm, dưới giao thông hào, súng đạn sẵn sàng.
Trung đội công binh thì ngay trong đêm tiến hành đặt thêm mìn chống tăng dọc
con đường độc đạo từ biên giới xuống thị trấn và bố trí thêm một bãi mìn hỗn
hợp ngay trong sân trường cấp 1. Trung đội thông tin của chúng tôi triển khai
ngay các tuyến đường dây, các tổ đài vô tuyến sóng cực ngắn nối thông liên lạc
từ vị trí hang đá của ban chỉ huy tiểu đoàn đến các điểm chốt đơn vị bộ binh và
trận địa hoả lực đi cùng.
Xong xuôi mọi việc
thì đã sang ngày hôm sau.
Chiến tranh đã nổ ra
đúng như chúng tôi đã dự đoán trước.
Tôi vừa chợp mắt được
một lát thì giật mình bởi những tiếng nổ dữ dội. Tôi chạy ra khỏi ngôi nhà sàn
lao về vị trí chỉ huy của tiểu đoàn. Bầu trời sáng rực lên bởi những luồng lửa
đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang. Luồng đạn bay đỏ rực, xé nát cả bầu
trời đêm. Tiếng đạn pháo đinh tai, chói óc, tiếng đạn 12ly7 quét ràn rạt nổ
toang toác trên cánh đồng trống trải. Tiếng người nháo nhác gào gọi nhau thảm
thiết, tiếng kêu khóc hoảng loạn của những người dân chưa kịp đi sơ tán.
Tiếng chó sủa, gà kêu, bò rống tan tác, vỡ đàn. Tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ
những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Mọi thứ âm thanh, ánh
sáng hỗn độn hoà vào nhau trong lửa cháy, đất đá văng, khói bụi
mù mịt. Trong bản Nà Liền mà chúng tôi đóng quân vọng ra nhiều tiếng người gọi
nhau thảm thiết, tiếng kêu khóc hốt hoảng, tiếng chó sủa, lợn kêu, bò rống,
tiếng tre nứa nổ lốp bốp từ những ngôi nhà trúng đạn đang bốc cháy rần rật. Và
tất cả chìm đi trong tiếng trọng pháo, tiếng đạn hoả tiễn của bọn giặc ầm ầm
dội xuống trận địa, làng bản của ta. Đất dưới chân tôi liên tục chao đảo. Ánh
chớp nhoáng nhoàng tựa như một cơn dông bão lớn nhưng dữ dội, khủng khiếp hơn
rất nhiều.
Đó chính là những âm
thanh, hình ảnh mở đầu của một cuộc chiến tranh mà tôi được chứng kiến. Tảng
sáng thì bộ binh địch bắt đầu tấn công lên các diểm chốt của quân ta sau khi
pháo binh tầm xa, hỏa lực tầm gần của chúng cày xới tơi bời nát bét các
trận địa tiền tiêu tiểu đoàn chúng tôi. Đại đội 11 mặc dù bị thương vong một số
do hoả lực của địch nhưng ngày đầu tiên đánh thắng, đẩy lui tất cả các đợt xung
phong của bọn giặc giữ vững được trận địa. Ngày thứ hai cũng vậy. Lúc tình hình
tạm ắng, đi củng cố đường dây tôi mò lên tận vị trí chốt cây đa thứ nhất của
đại đội 1. Phó đại đội trưởng Hoàn chỉ cho tôi thấy xác bọn xâm lược chồng chất
bên cạnh những chiếc xe tăng địch bị bắn cháy dưới chân điểm tựa. Đứng cạnh
người phó đại đội trưởng vốn là lính chiến dày dặn ở mặt trận Tây Nam tôi cảm
thấy yên tâm. Nhưng sang đến ngày thứ ba thì tình hình thay đổi hẳn. Pháo địch
bắn ngày một dữ dội hơn. Trận địa gốc đa của đại đội 11 không còn một cành cây
ngọn cỏ nào tồn tại được. Hầu như tất cả đều bị thiêu rụi hoặc nhồi xuống tầng
đất sâu, trộn lẫn với đất đá. Các tuyến dây điện thoại đều bị băm nát, đứt vụn,
không thể nối được nữa. Việc bảo đảm thông tin liên lạc giữa sở chỉ huy tiểu
đoàn và các bộ phận chỉ còn trông chờ vào mấy cái máy vô tuyến sóng cực ngắn và
chạy chân của tiểu đội truyền đạt. Anh Bùi được liên lạc gọi lên gặp cán bộ
tiểu đoàn. Về đến vị trí tập kết của tiểu đội, anh gọi chúng tôi tập trung tại
chỗ hõm núi bảo:
- Tiểu đội hữu tuyến
của chúng ta sẽ chuyển thành một bộ phận trực tiếp chiến đấu. Tiểu đoàn trưởng
giao cho chúng ta lập một điểm chốt chặn địch ở mỏm núi Đầu Bò phía dưới trường
cấp 1. Ngay bây giờ, đồng chí Tự tiểu đội phó cùng ba đồng chí sang hang quân
khí nhận thêm vũ khí, đạn dược và gửi luôn mấy cái máy điện thoại lại kho. Tôi
và đồng chí Hà, đồng chí Lâm, đồng chí Châu lên chiếm lĩnh mỏm núi Đầu Bò
trước.
- Rõ!- Chúng tôi cùng
đáp.
Chúng tôi lợi dụng
khi pháo địch chuyển làn băng qua một đám ruộng khô tiếp cận mỏm núi Đầu Bò. Đó
là một mô núi thấp sát đường quốc lộ phía dưới trường cấp 1. Không thể đào hầm
hào vì núi đá vôi. Chúng tôi chỉ có thể lợi dụng những khe đá, các hõm núi để
làm công sự tránh mảnh đạn pháo và đánh địch. Từ đỉnh mỏm Đầu Bò tôi nhìn rõ
con đường từ cửa khẩu vòng qua dưới chân chốt của đại đội 11 qua cổng trường
cấp 1 rồi chạy thẳng xuống thị trấn. Khu trường cấp 1 nham nhở những hố đạn
pháo. Ngôi nhà ban giám hiệu không còn một viên ngói nào trên mái. Các dãy lớp
học sập đổ và cháy nham nhở. Sân trường tung toé, trắng xoá những giấy và sách
vở của học sinh. Một hố đạn pháo cày sát chân cột cờ ở sân trường. Nhưng kỳ lạ
thay chiếc cột cờ bằng gỗ vẫn đứng vững. Trên đỉnh cột một lá cờ đỏ tuy bị mảnh
đạn xé rách bươm nhưng vẫn tung bay phần phật trong gió làn bắc thổi mạnh.
Tiểu đội trưởng Bùi đến
đằng sau tôi từ lúc nào. Anh nói:
- Bọn địch muốn xuống
đến đây phải vượt qua được trận địa của đại đội 11. Điều đó không dễ. Mấy ngày
rồi các đợt tấn công của bọn chúng bị chặn đứng. Nhưng nếu qua được thì chỉ sau
mươi phút là nòng pháo xe tăng bọn chúng sẽ chọc thẳng vào tận cằm ta đấy!
Tôi hỏi anh giọng hơi
run run:
- Thế… liệu mình có
giữ nổi trận địa không anh?
- Giữ thế quái nào
được với vài người, vài khẩu súng bộ binh, mấy quả lựu đạn thế này!
- Vậy thì… phải làm
thế nào hả anh? - Tôi lo lắng.
- Nhiệm vụ của chúng
ta không phải là đánh địch để chặn cả một đội quân đông đảo có hàng chục xe
tăng địch dẫn đầu. Nhiệm vụ của tiểu đội ta là nổ súng bắn vỗ thẳng vào mặt
quân địch. Khi chúng ta nổ súng lập tức xe tăng và bộ binh địch sẽ tràn vào sân
trường cấp 1. Mà dưới sân trường có cái gì thì cậu biết rồi đó…
Anh Bùi tránh không
nói rõ nhưng tôi hiểu. Chúng tôi chính là những người làm nhiệm vụ của những
“cảm tử quân”. Khi số anh em đi nhận vũ khí về, chúng tôi tranh thủ bê đá làm
công sự, tìm vị trí đặt súng trung liên và bố trí mấy quả mìn định hướng. Trời
tối dần. Pháo giặc vẫn bắn không ngớt vào các trận địa của ta cũng như các điểm
cao gần biên giới. Riêng mỏm Đầu Bò thì không bị một quả đạn pháo nào cả. Có lẽ
bọn địch không nghĩ là trên một mỏm đá thấp lè tè trơ chọi sát ngay bên đường
quốc lộ không có lực lượng của ta chốt giữ. Chúng tôi tranh thủ trải tăng võng
ra khe đá ẩm ướt nằm ngủ. Trời lạnh đắp cái vỏ chăn mỏng manh tôi mãi không ngủ
nổi.
Gần sáng, tôi vừa
chợp mắt thì có người lay lay gọi:
- Hà ơi! Dậy… dậy…
ngay!
Tôi choàng tỉnh và
nhận ngay ra tiểu đội trưởng Bùi đang ngồi trong hốc đá chỗ tôi đang nằm. Tôi
hỏi:
- Bọn địch bắt đầu
tấn công hả anh?
- Không… Dậy đi làm
nhiệm vụ khẩn cấp ngay!
Tôi nhanh nhẹn vớ
khẩu AK đang để cạnh người, quàng cái túi đựng lựu đạn qua vai theo anh Bùi đi
ngay. Anh Bùi đi phía trước. Tôi tụt theo anh xuống con đường mòn ngay dưới
chân mỏm núi. Vẫn chưa hiểu là đi làm nhiệm vụ gì, tôi thấy hơi run run. Sương
đêm lạnh quá. Anh Bùi cùng tôi nấp sau một mô đá sát ngay cạnh con đường mòn.
Một lát sau thêm một người nữa lò dò đi đến. Tôi nhận ra đó là Lâm. Anh Bùi thì
thào:
- Theo chỉ thị của tiểu
đoàn chúng ta chặn ở đoạn đường này để bắt giữ và tước vũ khí của mấy thằng đào
ngũ, bỏ trận địa chạy về tuyến sau. Khi chúng nó đi đến, hai đứa chúng mày cứ
nằm im để tao ra chặn họ lại. Khi thật cần thiết, có lệnh của tao chúng mày mới
được can thiệp nhé!
- Vâng… vâng…
Tôi chợt thấy hơi lo
lắng nghĩ: “Tại sao lại có người bỏ ngũ lúc này nhỉ. Mới đánh nhau được mấy
ngày đã có người bỏ chạy thế này chắc tình hình ở phía trước căng thẳng lắm!”.
Trời đã tang tảng sáng. Sương mù dày đặc khiến cảnh vật cây cối lờ mờ. Có tiếng
chân người. Phía chỗ ngoặt xuất hiện mấy bóng người đang lùi lũi tiến lại gần.
Tiếng anh Bùi quát:
- Ai! Đứng lại!
Tiếng anh Bùi lên đạn
lách cách. Tiếng một người có vẻ hoảng hốt:
- Tôi… tôi… quân ta…
quân ta đây…
- Các đồng chí ở bộ
phận nào?
- Chúng tôi ở… ở… bộ
phận vận chuyển thương binh…
Lúc này tôi nhận ra
tiếng Nguyễn Tính bí thư chi đoàn cơ quan tiểu đoàn bộ. Anh Tính cũng nhận ra
tiếng người đang quát nên hỏi lại:
- Có phải Bùi ở trung
đội thông tin không? Mình là Tính, y sĩ tiểu đoàn bộ đây!
- Còn những ai nữa?
- Là… mấy… mấy… đồng
chí ở đại… đại đội 11 và của tiểu đoàn đang đi tải thương...
Anh Bùi xách súng
nhảy ra chặn trước mặt mấy bóng người rồi hỏi tiếp:
- Tại sao các ông lại
đi xuống tận đây! Càng thương binh đâu! Bỏ vị trí chiến đấu hả?
Không có tiếng trả
lời. Anh Bùi gằn giọng:
- Tất cả theo tôi về
ban chỉ huy tiểu đoàn ngay!
Lúc này anh Tính và
mấy người kia mới lên tiếng van vỉ:
- Để… để… cho chúng
tôi đi…
- Đi đâu! Các ông lợi
dụng việc chuyển thương định bỏ chạy về phía sau chứ gì. Các ông có biết hôm
nay nếu không gặp chúng tôi thì chỉ cần đi thêm một đoạn nữa về phía mỏ Sắt là
sẽ lọt luôn vào ổ phục kích của bọn giặc đấy, hiểu không?
- Sao lại thế?
Tiếng anh Tính lập
cập. Tiểu đội trưởng Bùi nói tiếp, giọng anh nghe rin rít:
- Bọn tàu khựa đã
chọc thủng tuyến phòng ngự của các đơn vị bạn ở phía Thông Nông từ hôm qua.
Chúng nó đã đánh chiếm các vị trí phía sau lưng ta rồi hiểu không?
Ngừng một lát, anh
Bùi nói tiếp:
- Bây giờ tất cả phải
theo tôi về vị trí… tập trung. Nghỉ ngơi một lát, chờ có cơm đem lên ăn sau đó
trở lại đơn vị chiến đấu hoặc theo sự phân công nhiệm vụ mới của chỉ huy tiểu
đoàn rõ chưa?
Anh Tính và mấy chiến
sĩ đại đội 11 đành nghe theo lệnh của anh Bùi. Lúc này anh Bùi mới gọi tôi và
Lâm ra. Chúng tôi tạm thu giữ vũ khí của anh Tính và mấy người định bỏ chạy về
tuyến sau rồi dẫn họ về vị trí thu dung. Sau khi giao người và vũ khí của họ
cho chỉ huy tiểu đoàn xử lý anh Bùi và hai chúng tôi ngược trở lên mỏm Đầu Bò.
Anh Bùi im lặng suốt dọc đường đi. Lúc về đến vị trí chiến đấu anh đưa cho tôi
và Lâm mỗi thằng một bánh lương khô vừa xin được lúc ở tiểu đoàn bộ rồi nói
giọng bùi ngùi:
- Tao thương anh Tính
và mấy thằng ấy quá. Đã mấy ngày nay rồi họ chịu đựng biết bao nhiêu đợt tấn
công ác liệt của quân thù, chứng kiến bao nhiêu người chết, thịt xương lẫn lộn
cùng đất đá. Cái chết ai chả sợ. Chiến tranh khiến sắt thép còn phải tan chảy
ra thành nước nữa là con người chỉ bằng xương, bằng thịt…
Nghe anh Bùi nói,
những suy nghĩ ác cảm với anh Tính kể từ sau buổi sinh hoạt chi đoàn đêm trước
chiến tranh trong tôi chợt tan biến...
(hết chương 1)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 17.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Chuẩn bị thi đại học thì
nhận lệnh nhập ngũ. Tôi tống luôn những tập sách giáo khoa và những cuốn vở
viết dở cho con em họ đang học lớp dưới. Con bé mừng hú, năm học tới nó có sẵn
sách giáo khoa và tha hồ xé những trang vở tôi viết dở làm giấy kiểm tra 15
phút và làm nháp.
Hôm lên huyện tập trung để làm
lễ giao nhận quân tôi chỉ có một bộ quần áo mặc trên người và cái túi đựng cuốn
sổ ghi lưu bút của bạn bè. Trong khi đó thằng Đan đeo một cái bọc to kềnh càng
sau lưng. Nó cũng học năm cuối cấp 3 nhưng ở trường chuyên của tỉnh. Chúng tôi
quen nhau từ trước đó trong một lần đi hội trại thanh niên. Tôi hỏi:
- Mày mang theo đồ
đạc quái gì mà nhiều thế?
- Tao mang theo sách
vở để lúc nào rỗi thì tranh thủ học thêm! Hoàn thành nghĩa vụ trở về tao lại
thi đại học.
- Mày viển vông quá!
Giống hệt thằng Lam em họ tao. Đang chiến tranh thế này biết bao giờ mới trở về
đi học được?
- Chiến tranh rồi
cũng phải kết thúc chứ!
- Nhưng hành quân
súng đạn gạo củi nặng bỏ mẹ mày còn đeo thêm sách vở thế nào được.
- Tao sẽ cố…
- Thôi mặc xác
mày!
Nhận quân trang xong,
lại được cấp thêm 7 ki-lô-gam gạo nữa nên ba lô của chúng tôi căng phồng. Tôi
cứ tưởng là sẽ leo luôn lên ô tô rầm rập phóng ra mặt trận ngay. Nhưng không,
chúng tôi được biên chế vào một đơn vị thuộc tỉnh đội Vĩnh Phú. Và việc đầu
tiên là hành quân bộ vượt sông Lô sang huyện Lâm Thao. Đoạn đường gần năm mươi
cây số không xa nhưng lần đầu tiên cuốc bộ lại không quen với đôi dép cao su
mới phát nên chân tôi chầy chật rớm máu. Tôi để ý thấy thằng Đan vẫn lặng lẽ
bước đi phía trước. Trong nó vóc dáng đã bé nhỏ cứ như đang bị cái ba lô đè gập
người xuống. Tôi nghĩ: “Cứ đà này thì lúc qua phà nó ném bọc sách vở cho trôi
sông luôn!”.
Nhưng thằng Đan vẫn
đeo được bọc sách vở về đến đơn vị.
Suốt thời gian huấn
luyện chiến sĩ mới những lúc được nghỉ tôi thường thấy Đan chúi đầu vào mấy
cuốn sách. Mặc cho tôi và mấy thằng cùng tiểu đội khích bác nhưng Đan vẫn bỏ
ngoài tai. Nhiều lần gặp tôi nó khoe vừa giải được một bài toán khó trong tuyển
tập đề thi đại học. Tôi bảo:
- Biết bao giờ mới được
ra quân mà thi đại học. Mày học làm gì cho tốn công tốn sức?
- Thì rồi cũng phải
ra quân chứ! Chiến tranh chống Mỹ sắp kết thúc, rồi họ sẽ phải cho tụi mình
xuất ngũ về thôi! Thời bình quân đội đông quá để làm gì?
Nhưng chúng tôi không
được xuất ngũ như thằng Đan nói. Đơn vị chúng tôi nhận lệnh hành quân lên Hà
Giang làm kinh tế. Chúng tôi nhận nhiệm vụ mở con đường lâm nghiệp giữa rừng
sâu. Đó là những ngày gian khổ nhất của cuộc đời chiến sĩ chúng tôi. Sống giữa
rừng sâu ăn uống thiếu thốn, làm việc vất vả. Tôi và thằng Đan mỗi người về một
đơn vị khác nhau. Hôm đi công tác qua tiểu đoàn 1, tạt vào thăm Đan, tôi vẫn
thấy trên giá ba lô chỗ nó nằm những cuốn sách ôn thi địa học đã sờn gáy. Thì
ra nó vẫn không quên việc học tập. Hình như đối với nó học là một niềm vui,
niềm hy vọng của cuộc sống.
Niềm hy vọng vào đại
học của thằng Đan lại có nguy cơ không thể thực hiện được. Chiến tranh biên
giới đang có nguy cơ nổ ra bất cứ lúc nào. Khi đơn vị biên chế lại, từ đội hình
làm kinh tế sang đội hình chiến đấu thì tôi và Đan lại về cùng một trung đội
thông tin. Từ những người lính chuyên cuốc đất, đặt mìn phá đá mở đường, chúng
tôi quay về nghề cũ từ ngày mới nhập ngũ là lính thông tin. Tôi về tiểu đội hữu
tuyến, Đan là chiến sĩ tiểu đội truyền đạt của trung đội thông tin tiểu đoàn 3.
Đơn vị chúng tôi lật
cánh sang hướng Cao Bằng. Hôm gặp nhau ở vùng đồi núi cỏ tranh thuộc huyện Ngân
Sơn để huấn luyện tôi vẫn thấy thằng Đan đeo một cái ba lô đầy sách vở. Sau gần
một tháng huấn luyện, đại đội thông tin chúng tôi được lệnh hành quân bộ lên
biên giới để nhận quân. Vốn toàn là lính cũ nên việc hành quân bộ đường dài đối
với chúng tôi là chuyện bình thường. Chúng tôi vượt qua đèo Mây, đèo Cao Bắc,
dốc Sìn Hồ về Hoà An. Con đường gập ghềnh, dốc núi cao hun hút. Tôi còn nhớ mãi
chuyện anh Lộc, đại đội trưởng vốn là một giáo viên vừa ở trường về có lẽ chưa
quen đi bộ đường dài nên hai chân anh bị phỏng rộp chảy máu ròng ròng, thấm đẫm
ra cả lớp băng trắng. Thế mà anh ấy vẫn luôn luôn đi trước hàng quân. Tôi để ý
thấy thằng Đan vẫn lặng lẽ đi ở phía sau đội hình. Tôi biết trong cái ba lô
nặng trĩu trên vai của nó vẫn có những cuốn sách giáo khoa.
Tới huyện Hoà An, đại
đội huấn luyện của chúng tôi giải thể. Mỗi người về một hướng. Tôi và thằng Đan
cùng nhau lên Hà Quảng. Trung đội thông tin lúc này đang đóng quân trong nhà
dân ở sát biên giới. Chiến tranh chắc chắn sẽ nổ ra. Mọi công tác chuẩn bị cho
cuộc chiến diễn ra rất khẩn trương. Dọc con đường độc đạo từ biên giới xuống
thị trấn huyện lỵ nằm chênh vênh trên miệng vực đơn vị xây dựng các trận địa
chặn giặc. Đơn vị công binh đào các hố tại các vị trí mà có thể đổ hàng trăm
cân thuốc nổ để đánh sập cả đoạn đường xuống vực sâu khi cần thiết nhằm chặn xe
tăng và bộ binh địch.
Một buổi tối, tôi
đang nằm nghỉ sau một ngày đào hầm, củng cố trận địa thì thằng Đan ở đâu về đưa
cho tôi và mọi người, mỗi người một miếng bìa cứng có những ký hiệu bằng chữ và
số, được ép platstic cẩn thận và bảo:
- Đây là mã số riêng
của từng người trong trung đội ta. Mọi người luôn luôn để trong túi ngực, phòng
khi…
Thằng Đan không nói hết câu
nhưng tôi hiểu. Đây là mã số riêng của từng người để khi ai hy sinh thì chôn
theo sau này còn biết danh tính liệt sĩ. (Nếu tôi nhớ không nhầm thì mã số của
tôi ngày ấy là JA-301).
Đưa cho chúng tôi
những miếng mã số để đánh dấu mộ chí của từng người xong thằng Đan ngồi thần
mặt ra. Một lúc sau nó chợt hỏi tôi:
- Không biết sau trận
này mình có được ra quân về đi học tiếp không nhỉ?
- Chắc chắn rồi! Mày
cứ yên tâm…
Động viên nó như vậy nhưng tôi
cũng không tin lời mình lắm. Thằng Đan cũng lặng lẽ không nói gì thêm. Hai đứa
cùng nhìn ra ngoài trời. Ánh trăng mờ nhạt trong hơi sương lạnh lẽo. Rừng núi
âm u. Ám khí của một cuộc chiến tranh vẫn lẩn khuất ở đâu đó phía bên kia biên
giới. Tôi thấy trong lòng luôn thấp thỏm, bất an.
Nhưng, tôi cũng ngạc
nhiên là khi chiến tranh nổ ra mình lại bình tĩnh thế. Chập tối có lệnh triển
khai đưòng dây hữu tuyến và các tổ đài về các vị trí đảm bảo liên lạc. Mãi đến
hơn 12 giờ đêm chúng tôi mới triển khai xong các tuyến đường dây về đến nhà ở
thì hai mắt tôi ríu lại. Tôi vừa chợp mắt thì nghe tiếng súng nổ ầm ầm. Giật
mình tỉnh giấc, tôi nghĩ là bọn địch lại đánh bộc phá lấy đá làm công sự như
mọi bữa. Tôi lẩm bẩm: “Mẹ bố thằng khựa, sao hôm nay chúng mày lao động sớm
thế!”. Kéo chăn kín đầu định ngủ tiếp thì tôi nghe tiếng tiểu đội trưởng Bùi
quát:
- Tất cả ra hang chỉ huy của
tiểu đoàn ngay! Bọn địch bắt đầu tấn công rồi đấy!
Tôi bật ngay dậy vớ khẩu súng
AK, vác cuộn dây hữu tuyến và chiếc ba lô lao ra ngoài sàn nhà. Bầu trời sáng
rực những luồng đạn pháo của bọn giặc từ bên kia biên giới bắn sang. Tôi nhảy
bổ xuống đất. Mấy anh em trong tiểu đội cũng đang gọi nhau chạy ra trận địa.
Chúng tôi men theo chiến hào ra vị trí chỉ huy của tiểu đoàn.
Chạy ra đến giữa cánh
đồng thì từng loạt đạn địch bắt đầu bắn vào bản. Tiếng đạn pháo va vào vách đá
nổ chát chúa, lộng óc. Những ánh lửa bùng lên. Chớp đạn lằng nhằng như sấm sét
bão giông. Đường đạn bay dọc ngang kín trên bầu trời. Khói bụi mù mịt. Ngôi nhà
sàn tôi vừa ở lửa cháy bùng lên. Trong các bản làng tiếng người kêu khóc, trâu
bò rống, tiếng gà vịt, tiếng chó sủa hoảng loạn. Đạn súng 12li7 của bọn địch từ
trên điểm cao quét sàn sạt xuống mặt ruộng. Chúng tôi phải bò ép người sau
những bờ ruộng để tránh đạn.
Đến gần sở chỉ huy của tiểu
đoàn thì tôi gặp thằng Đan. Nó đang hộc tốc chạy ngược trở lại. Nhận ra tôi, nó
bảo:
- Chạy lên hang ngay
đi, pháo địch nó sắp bắn tới đây đấy!
- Thế mày còn đi đâu
đấy hả?
- Tao lên vị trí chỉ
huy đại đội 11 truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của tiểu đoàn trưởng.
Nói xong, nó lao về
phía súng đang nổ dữ dội. Lên đến vị trí chỉ huy của tiểu đoàn, chúng tôi nhanh
chóng mắc dây nối máy điện thoại và kéo ăng-ten cho máy vô tuyến điện, nối
thông liên lạc với các hướng. Mệnh lệnh chiến đấu được truyền đi thông suốt,
chỉ huy tiểu đoàn bớt gào thét, quát mắng. Lúc này tôi mới nghĩ đến chiến
tranh. Thế là nó đã xảy ra thật rồi. Và thế là mình cũng được chứng kiến giờ
phút đầu tiên một cuộc chiến tranh đã nổ ra như thế nào, còn sự ác liệt, sự
chết chóc và nỗi kinh hoàng của nó thì những ngày sau tôi mới hiểu hết.
Tảng sáng, xe tăng và
bộ binh địch bắt đầu tấn công. Cuộc chiến đấu ở điểm tựa cây đa sát cửa khẩu
rất ác liệt. Sau một ngày đánh chặn quân địch, đại đội 11 tổn hao gần hết quân
số, điểm chốt khó có thể trụ thêm một ngày nữa. Sáng ngày thứ hai, tiểu đoàn
trưởng Thêm quyết định chặt đứt đoạn đường phía bên trái chốt cây đa để chặn xe
tăng quân giặc tràn về phía sau. Trung đội thông tin chúng tôi nhận được lệnh
cử một bộ phận lên chi viện cho tổ công binh phá đường. Đã gần sáng. Anh nuôi
vừa đem cơm nắm lên. Đang ăn thì có lệnh, thằng Đan vội đưa cho tôi nắm cơm nó
vừa cắn được một miếng bảo:
- Cầm lấy cất cho tao! Tao nhận
được lệnh dẫn mấy anh em gùi thuốc nổ lên hỗ trợ bộ phận công binh phá đường
chặn địch.
- Nhớ thật cẩn thận nhé!
Thằng Đan đi rồi, tôi nhét nắm
cơm ăn dở vào cóc ba lô để nó về còn có cái mà ăn. Cả ngày chiến đấu có khi chỉ
có mỗi một nắm cơm nhỏ này thôi. Đan đi được một lúc thì tôi cũng nhận được
lệnh đi gùi thuốc nổ cho công binh phá đường. Chúng tôi đeo trên lưng mỗi người
gần ba mươi ki-lô-gam thuốc nổ và mấy hộp kíp mìn. Khi chạy, lúc bò dưới làn
đạn địch tôi cũng hơi hoảng. Lỡ mà đạn địch bắn trúng khối thuốc nổ trên lưng
thì mình sẽ tan thành cát bụi. Tuy vậy, chúng tôi cũng đem được thuốc nổ đến vị
trí ấn định sẽ phá hỏng con đường chặn bước tiến của quân giặc. Hơn hai trăm
cân thuốc nổ mạnh cùng hàng trăm cái kíp kích nổ được nhồi xuống một cái hố đã
đào sẵn. Việc chắp nối dây cháy chậm và khối bộc phá được bộ phận công binh
hoàn thành khá nhanh gọn, chính xác.
Trời đã sáng hẳn. Đạn pháo của
bọn giặc vẫn bắn rất dữ dội. Xe tăng và bộ binh địch đánh lướt qua trận địa của
đại đội 11 tràn xuống phía thị trấn Sóc Giang. Anh Tâm, tiểu đội trưởng tiểu
đội công binh giật chiếc nụ xoè lắp ở đầu một đoạn dây cháy chậm khá dài để
điểm hoả khối thuốc nổ lớn. Chúng tôi nhanh chóng lui về vị trí an toàn.
Nhưng mãi không thấy tiếng nổ,
anh Tâm lấy ông nhòm quan sát rồi kêu lên:
- Hỏng rồi! Có lẽ mảnh pháo
địch cắt đứt mất dây cháy chậm rồi.
Anh Tâm lăn ngay xuống vệ
đường. Anh cố gắng tiến lên phía trước tiếp cận khối bộc phá để kiểm tra. Nhưng
anh vừa nhô lên khỏi rãnh nước ven đường thì gục xuống. Tôi lo lắng nhìn mãi
không thấy anh động đậy gì. Có lẽ anh ấy trúng đạn hy sinh rồi. Thằng Đan đang
nằm ép bên cạnh tôi nói:
- Để tao lên kiểm tra lại khối
thuốc nổ!
Nói xong, nó lăn ngay xuống con
mương toài người lao lên phía trước. Tôi hồi hộp nhìn theo thằng Đan. Một chiếc
xe tăng của địch đã nhô ra ở quãng đường ngoặt, cách khối bộc phá không xa. Đạn
bắn thẳng của bọn địch cày trên mặt đường. Thằng Đan vẫn theo cái rãnh thoát
nước bên đường cúi thấp người lúc bò, lúc chạy lên phía chôn khối thuốc nổ. Khi
nó chỉ còn cách khối bộc phá vài mét thì chới với ngã sấp xuống lòng rãnh nước.
Một quả đạn pháo nổ gần chỗ chúng tôi đang nằm, khói bụi mù mịt. Tôi vẫn cố
căng mắt quan sát, vẫn không thấy thằng Đan động đậy. Khi chúng tôi chuẩn bị cử
người lên tiếp ứng thì lại thấy thằng Đan nhỏm dậy. Nó cố lết lên phía trước.
Qua ống nhòm, tôi thấy rõ bên chân phải của nó đẫm máu và hình như không còn cử
động được nữa.
Chiếc xe tăng của bọn đich chồm
tới rất nhanh trong khi thằng Đan vẫn nhích lên từng đoạn một. Khi thằng Đan
đến được chỗ đặt khối bộc phá thì chiếc xe tăng địch chỉ cách nó một đoạn.
Chiếc xe tăng dừng lại rê nòng
pháo bắn thẳng vào vách đá chỗ chúng tôi đang ẩn nấp. Tôi cúi thấp người xuống
tránh mảnh đạn pháo và đá văng xong lại nhô lên quan sát thằng Đan. Nó đang nằm
nghiêng người rút dao găm ra kê đoạn dây cháy chậm lên báng súng xiết mạnh. Khi
thấy anh gắn nụ xoè vào đoạn dây cháy chậm ngay phía trên khối thuốc nổ hàng
trăm cân, tôi chợt hiểu và thấy lạnh cả xương sống. Thằng Đan định điểm hoả cho
khối bộc phá hàng trăm cân phát nổ tức thì. Đúng như tôi dự đoán. Sau khi lắp
xong nụ xoè, thằng Đan hơi lùi lại rồi nằm im như chết dưới lòng rãnh nước bên
đường.
Khi chiếc xe tăng và bộ binh
địch tiến sát khối thuốc nổ thì thằng Đan nhỏm dậy. Nó nhoài người dậy nằm đè
lên phía trên khối thuốc nổ và giật nụ xoè, điểm hoả. Gần như đồng thời với
hành động của thằng Đan là một tiếng nổ rung trời chuyển đất dội tới. Đất dưới
chân tôi chao đi. Cả một đoạn đường mịt mù cuồn cuộn khói bụi. Đất đá văng rào
rào. Sau tiếng nổ kinh hoàng của khối bộc phá tiếng súng của ta và địch đều
lặng đi. Khi khói lửa dần tan tôi nhìn thấy cả một một đoạn đường đã bị đánh
sập xuống vực. Chiếc xe tăng đi đầu cùng những tên lính giặc hung hăng biến
mất.
Chúng tôi đắp cho thằng Đan một
nấm mộ nhỏ ở ven rừng trước khi rút lui khỏi thị trấn. Nấm mộ không có hài cốt.
Hình hài và hồn phách của nó đã tan hoà cùng sông núi. Tôi đặt xuống xuống lòng
cái hố đào vội nông choèn nắm cơm thằng Đan cắn dở và mấy cuốn sách giáo khoa
mà nó vẫn đem theo từ ngày mới nhập ngũ.
Nấm mộ nơi biên ải ấy không có
mã số nhưng mãi mãi sẽ chẳng bao giờ vô danh.
(hết chương 2)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 18.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Trưa ngày thứ năm của cuộc
chiến tranh thì trận địa tiền tiêu của tiểu đoàn là chốt cây đa do đại đội 11
phòng ngự bị thất thủ hoàn toàn. Bọn địch đánh bật bộ đội ta xuống chân đồi. Số
anh em cán bộ, chiến sĩ đại đội 11 còn sống sót chạy thoát về phía sau tổ chức
phòng ngự ở phía bắc trường cấp 1 thị trấn. Đại đội 10 cũng đã bị tổn thất quá
nhiều sau hai ngày chiến đấu bảo vệ thị trấn. Trận địa phòng ngự trên mỏm Đầu
Bò của chúng tôi cũng được chi viện thêm một tiểu đội nữa chốt ở sườn phía đông
mỏm núi.
Đúng như anh Bùi nhận
định, chỉ chưa đầy hai mươi phút sau khi chọc thủng được trận địa phòng ngự của
đại đội 11 những chiếc xe tăng đi đầu của bọn giặc đã ầm ầm tiến đến sát chân
mỏm Đầu Bò. Bộ binh địch lúc nhúc ở phía sau và hai bên đường. Những chiếc xe
tăng quân địch lăn bánh rầm rầm trên con đường đá nhỏ. Anh Bùi bảo tôi:
- Chập liền mấy quả lựu
đạn lại chờ xe tăng địch đến đoạn đường cua dưới chân mỏm đá quẳng xuống xem nó
có cháy không.
Tôi lập tức làm theo.
Mấy quả lựu đạn ném trúng chiếc xe tăng đi đầu nổ tung nhưng chả bõ gãi ngứa
cho nó. Tất cả tiểu đội tôi lập tức nổ súng. Bọn địch hơi khựng lại khi phát
hiện ổ đề kháng ngay bên đường tiến quân. Các nòng pháo xe tăng lập tức quay
ngang chĩa lên mỏm Đầu Bò. Bộ binh địch nhanh chóng triển khai đội hình chiến
đấu. Đạn địch đủ các loại bắn tối tăm mặt mũi. Pháo trên xe tăng địch bắn thẳng
khiến chúng tôi không thể ngóc đầu lên được. Sợ nhất là những đá núi bị trúng
đạn vỡ ra văng lên vù vù hoặc cả tảng to tướng lăn tồng tộc từ đỉnh núi xuống.
Nó mà lăn trúng người thì có mà nát nhừ xương thịt. Nấp trong hốc núi sau những
mỏm đá lớn chúng tôi tiếp tục nổ súng. Đúng là chúng nó đông cũng có cái hay, chả
cần ngắm bắn không trúng thằng này thì nhất định sẽ trúng thằng khác.
Đúng như chúng tôi dự
đoán, bọn giặc hô hét rồi bắt đầu tràn vào sân trường cấp 1, áp sát chân núi để
tiến đánh lên mỏm Đầu Bò. Anh Bùi gào to gọi chúng tôi: “Chuẩn bị rút lui nhé!”.
Chả ai đáp lời anh. Cũng chẳng biết ai còn sống, ai đã chết rồi nữa. Tôi bò lại
chỗ anh Bùi đang nằm. Đạn súng bộ binh của địch xiết đá vào chiu chíu, toé lửa.
Một quả pháo nổ gần khiến tai tôi ù đặc. Tôi phải cố gắng lắm mới nghe được
tiếng anh quát:
- Mày kiểm tra xem
dây điện nối mấy quả mìn định hướng có còn không hay pháo nó bắn đứt mẹ hết
rồi.
- Hình như vẫn còn
anh ạ!
- Tối rồi! Mày gọi chúng
nó bảo rút ngay đi! Bọn giặc khốn nạn đã lọt vào bãi mìn của ta rồi… ha… ha…
ha…
Nghe anh Bùi nói tôi
nhìn xuống sân trường cấp 1. Quả đúng như anh Bùi nói. Một cảnh tượng khủng
khiếp của chiến tranh. Những chiếc xe tăng địch cái thì bị mìn bật tung xích,
cái thì bốc cháy ngùn ngụt. Xác bộ binh địch tung lên rồi ném xuống nằm ngồn ngang
khắp sân trường. Tiếng kêu khóc rống lên thảm thiết của những thằng bị thương.
Mìn vẫn tiếp tục nổ. Bọn giặc càng hoảng loạn chạy lung tung thì mìn càng nổ
nhiều. Tiếng nổ lan truyền không dứt. Trong đám khói lửa, đất đá tung lên mù
mịt ở sân trường tôi nhìn thấy cả những trang giấy của học trò bay lên trắng cả
khoảnh trời chiều xám xịt.
- Rút… ngay… đi…
Anh Bùi lại quát. Lúc
này tôi mới nhận ra chân trái của anh ướt đẫm máu. Tôi hốt hoảng:
- Anh bị thương rồi,
để em băng cho…
- Không băng bó gì
cả, mày theo anh em rút ngay về phía sau đi. Chỉ lát nữa thôi chúng nó khép
vòng vây, bọc hậu là hết đường lui đấy.
- Nhưng còn anh…
- Mặc mẹ tao! Mày đi
ngay đi, nhanh lên!- Anh gào lên vẻ rất tức giận khi thấy tôi lừng khừng có ý
không chịu chấp hành mệnh lệnh.
Tôi lăn xuống một khe
đá. Trước khi lủi vào một hẻm núi tôi còn thấy anh Bùi chúi mặt gằm xuống đất
nằm im như một người đã chết. Một tay anh cầm quả pin, tay kia cầm một đầu dây
điện nối với chùm mìn định hướng.
Vòng được ra phía sau
mỏm Đầu Bò, khuất làn đạn và pháo của giặc nên tôi phóng nhanh về phía sở chỉ
huy của tiểu đoàn. Đến chân dốc tôi gặp tiểu đội phó Trần Tự và thằng Châu. Anh
Tự hỏi ngay:
- Anh Bùi đâu rồi?
- Anh ấy bị thương
nhưng không chịu rút vẫn còn đang ở trên mỏm Đầu Bò. Thế còn hướng của các anh
thế nào, chúng nó đâu hết rồi?
- Thằng Minh chết
rồi, còn thằng Lâm gọi mãi không thấy, chẳng biết nó có còn sống không. Riêng
tiểu đội vận tải lên chi viện chỉ có hai người bị thương nhẹ đã rút lui an toàn
về phía sau rồi. Tiểu đội ta còn ba người đang ở trên trận địa phòng ngự.
Tôi nhìn về hướng mỏm
Đầu Bò. Tiếng đạn vẫn nổ dữ dội, khói lửa mịt mù không nhìn rõ cái gì. Chúng
tôi ém ở khe đá nằm chờ đến sẩm tối, khi tiếng súng trên mỏm Đầu Bò đã lặng hẳn
mà vẫn không thấy anh Bùi và thằng Lâm đâu. Anh Tự đành bảo chúng tôi rút về vị
trí chỉ huy của tiểu đoàn ở hang đá trên mỏm núi cạnh nhà bưu điện thị trấn
tham gia chiến đấu bảo vệ hang.
Nhiều ngày sau bọn
địch bao vây tấn công vào vị trí chỉ huy của tiểu đoan bộ. Tôi đã chứng kiến
cuộc chiến vô cùng ác liệt ở thị trấn Sóc Giang của những người lính tiểu đoàn
3 anh dũng. Tiểu đoàn tôi được lệnh rút lui sang Nguyên Bình. Con đường dọc bờ
suối xuôi Mỏ Sắt đông đặc những xe pháo và bộ binh của địch. Chúng tôi phải đu
người leo qua vách đá tai mèo dựng đứng để vượt lên Lũng Mật, cắt đường sang
Nguyên Bình. Một cuộc rút lui vô cùng gian khổ và hy sinh không kém gì những
trận đánh giữ chốt.
Tiểu đoàn trưởng Lê
Thêm vốn là một người nóng tính. Anh quê ở Nam Định, nhập ngũ từ những năm sáu
mươi. Lăn lộn ở chiến trường miền Nam bao năm. Có người bảo ông này nóng tính,
hay bạt tai lính nên không mãi không được đề bạt. Khi tôi chuyển về tiểu đoàn 3
lúc còn làm đường ở Hà Giang thì anh đang là tiểu đoàn phó. Lên mặt trận biên
giới anh được bổ nhiệm tiểu đoàn trưởng. Hôm đầu tiên xảy ra cuộc chiến, liên
lạc bị gián đoạn liên tục vì đường dây bị pháo địch băm nát, máy vô tuyến sóng
cực ngắn thì trục trặc do đặt trong hang đá sâu hoặc khuất núi cao, truyền đạt
thì chậm lại í a í ới chả biết có chuẩn xác mệnh lệnh của chỉ huy không. Tôi
nhớ hôm trước, khi thấy tôi đeo súng, vác cuộn dây chạy qua, anh quát:
- Bọn thông tin,
thông tịt chúng mày liệu hồn đấy! Dây máy mà không thông, liên lạc bập bõm như
hôm đầu tiên là chúng mày bịt mồm, bịt miệng chỉ huy đấy hiểu không?
- Vâng… vâng… chúng em sẽ
cố gắng ạ!
Tôi đáp và định co
giò phóng ngay ra ngoài cửa hang đỡ bị thủ trưởng quát tháo thì anh ngăn lại:
- Định đi đâu đấy hả!
Muốn chết à, pháo nó đang bắn ầm ầm thế, để lát hẵng đi.
- Đường dây lên xê 1
hay bị đứt do đạn pháo bắn trúng. Em ra nằm ém sẵn chỗ đầu bản Nà Liền, khi nào
có sự cố hỏng đường dây thì xử lý ngay cho kịp thời ạ!
- Chỗ ấy pháo nó bắn dày
như mưa, mày ra đấy là toi mạng luôn đấy!
- Nhưng…
- Lại gần đây tao
bảo…
Anh ngoắc tay. Tôi
đặt cuộn dây xuống lại gần chỗ anh đang đứng ở bên cửa hang đá. Anh nhìn tôi
một lúc rồi nói nhỏ như muốn chỉ để tôi nghe thấy:
- Đừng đi nữa, trận
địa của xê 11 khả năng không giữ nổi nữa rồi, đường dây đứt thì thôi, không cần
nối nữa. Xê 11 đã phải rút khỏi chốt cây đa… về nói với tiểu đội chuẩn bị sẵn
sàng, có thể sẽ phải tổ chức lập một điểm chốt chặn địch ở gần trường cấp 1 thị
trấn.
Bây giờ thì anh Thêm
đang ngồi trong hang chỉ huy cùng các cán bộ đại đội. Một tấm bản đồ địa hình
trải xuống ngay nền hang đá. Các anh chỉ huy đang bàn kế hoạch rút lui khỏi thị
trấn. Những cái đầu bù xù. Những khuôn mặt hốc hác vì gần cả tuần chiến đấu ác
liệt, đấu trí, đấu sức với quân giặc và chứng kiến bao sự hy sinh rồi mất ngủ,
đói khát. Với một đơn vị đã thiệt hại nặng, gần như kiệt sức chiến đấu với rất
nhiều thương binh nặng việc tìm một phương án rút lui làm sao cho đỡ tổn thất
thêm sinh lực quả là không đơn giản. Vị trí hang chỉ huy của tiểu đoàn đã bị
lộ. Bọn địch bao vây chặt, hoả lực, pháo hạng nặng của chúng đã được đặt ở điểm
cao 505 và mỏm đồi đồn công an vũ trang, ngay phía sau đội hình của tiểu đoàn.
Chúng bắn không tiếc đạn vào cửa chính của hang đá.
Sau một lúc trao đổi,
tiểu đoàn trưởng Thêm đi đến một quyết định táo bạo:
- Chúng ta sẽ rút lui
theo hướng cửa hang chính, băng qua bản Nà Nghiềng sau đó băng sang dãy núi đá
vượt lên trên Lũng Mật. Nếu bị bọn địch phát hiện thì nổ súng mở đường máu…
Có nhiều tiếng xì
xào. Bởi nếu rút lui theo hướng của hang chính thì chính là một cuộc phá vây,
mở đường máu thực sự. Bọn địch đã chiếm bản Nà Nghiềng, xe tăng chúng nằm lổm
ngổm kháp thị trấn Sóc Giang. Con đường rút lui của đơn vị sẽ đi qua giữa
đội hình quân địch. Biết thế nhưng không ai có ý kiến phản đối. Bởi vì ai cũng
hiểu đường rút qua cửa hang phụ rất an toàn vì bọn địch khó phát hiện được.
Nhưng cửa hang phụ vách núi đá dựng đứng, người khoẻ leo lên xuống đã khó đừng
nói là khênh cáng thương binh.
Tiểu đoàn trưởng Lê
Thêm bắt đầu trình bày kế hoạch cụ thể cho tất cả cán bộ, chiến sĩ đang có mặt
trong hang nghe. Theo kế hoạch, các bộ phận sẽ chia nhỏ thành từng tổ ba bốn
người, vũ khí, trang bị, khiêng cáng thương binh thật gọn gàng, để có thể trong
vòng hai đến ba phút, là khoảng cách thời gian giữa hai đợt pháo địch bắn cầm
canh vào cửa hang, phải vượt được một quãng đường gần ba trăm mét từ hang xuống
đến con mương nước bên phải bản Nà Nghiềng, gần nhà bưu điện thị trấn. Tiểu đội
trinh sát đi trước ém quân dọc theo con mương sẽ bảo vệ cho đội hình tiểu đoàn
bộ rút lui. Khi bị địch phát hiện thì từng tổ sẽ tổ chức đánh địch, vừa đánh
vừa rút.
Tôi hiểu, việc chia
nhỏ ra như thế nếu bị trúng đạn pháo hoặc quân địch phát hiện truy kích thì tổn
thất sẽ ít hơn.
Tiểu đoàn trưởng chỉ định
tôi làm tiểu đội trưởng tiểu đội hữu tuyến. Anh Tự tiểu đội phó được giao phụ
trách một trung đội sang chi viện cho xê 10 bảo vệ trận địa phòng ngự chặn con
đường vào thị trấn, chặn địch từ phía Đôn Chương đánh lên. Nói là trung đội
nhưng thực sự bộ phận của anh ấy chỉ có mười bốn người cả thảy. Bộ phận do tôi
phụ trách được lệnh đi trước đội hình rút lui của tiểu đoàn. Cùng đi với bộ
phận mở đường của chúng tôi có một chiến sĩ trinh sát nắm tình hình địch, hai
chiến sĩ công binh để phát hiện mìn, xử lý vật cản. Chỉ huy chung là thượng sĩ
Thọ, trợ lý tham mưu tiểu đoàn.
Đêm đã về khuya. Trời
lạnh buốt da, buốt thịt. Chúng tôi tranh thủ gặm nắm cơm đã khô cong cho đỡ đói
chờ lệnh xuất phát. Trợ lý tham mưu Thọ nhìn đồng hồ. Đã gần một giờ sáng. Đợt
pháo và DKZ của bọn địch bắn vào cửa hang vừa dứt, khói bụi còn mù mịt anh Thọ
đã hạ lệnh:
- Xuất phát!
Chúng tôi lao ra
ngoài cửa hang. Đá núi ở bên ngoài của hang bị pháo băm vụn, nghiền nát, thậm
chí bị sức nóng của lửa đạn nung chín thành vôi bột khiến chúng tôi không thể
bước đi như bình thường được. Tất cả mọi người liền ngồi bệt xuống tụt xuôi dốc
như trẻ con tụt máng trượt trong công viên. Khi chúng tôi đến được đầu nhà bưu
điện thị trấn thì pháo địch bắt đầu bắn loạt tiếp theo. Mọi người nhảy ào xuống
mương nước. Quên cả cái giá lạnh, chúng tôi dìm ngập người trong mương nước bám
sát nhau toài về phía bản Nà Nghiềng. Con đường ngay phía trên con mương bọn
địch đi lại lố nhố. May mà lòng mương sâu đến hai mét so với mặt đường, nước
lại chảy ào ào, lau lách rậm rạp nên bọn địch ở phía trên không phát hiện được.
Đến cuối bản Nà
Nghiềng thì tốp đi đầu của chúng tôi dừng lại lập thành một điểm chốt sẵn sàng
đánh chặn địch và chờ để đón các bộ phận tiếp theo rút qua. Tôi áp ngực vào bờ
mương cho đỡ rét. Tôi vừa căng mắt quan sát, canh chừng con đường từ bản ra vừa
hồi hộp nhẩm đếm các tốp rút qua chỗ mình. Mười ba đợt tất cả. Vậy thể là đủ
đội hình của tiểu đoàn bộ cùng số cán bộ, chiến sĩ đại đội 11 còn sống rút về
tập kết về trong hang chỉ huy. Không ngờ, cuộc rút lui của chúng tôi lại an
toàn tuyệt đối. Bọn địch không phát hiện được khi gần một trăm con người cùng
vũ khí bò qua ngay dưới chân chúng. Có lẽ vì chúng không ngờ ta lại liều lĩnh,
táo bạo đến thế.
Trời đã gần sáng. Khi
bộ phận cuối cùng đã rút qua, tôi cùng anh em trong tiểu đội rút theo luôn.
Chúng tôi băng qua cánh đồng đang cày dở. Những luống cày căn ngang rất khó
chạy. Đến giữa đồng, tôi gặp mấy thương binh nhẹ đang dìu nhau đi. Tôi giục:
- Anh em hãy nhanh nhanh
lên! Trời sắp sáng rồi. Cố gắng đến chân dãy núi bên kia hãy dừng lại nghỉ kẻo
bọn địch phát hiện ra đấy!
- Vâng… vâng…
Vừa định chạy đi cho
kịp anh em trong tiểu đội nhưng thấy mấy thương binh dìu nhau tập tễnh mãi
không qua được một bờ ruộng cao, tôi lại quay lại đỡ từng người vượt qua.
Khi chúng tôi đến
được chân dãy núi thì trời đã tang tảng sáng. Phía cửa hang chỉ huy tiểu đoàn,
nơi chúng tôi vừa rút đi đột nhiên có một tiếng nổ dữ dội. Ánh lửa bùng lên
sáng rực giữa thị trấn đổ nát. Bọn địch đã dùng một khối thuốc nổ rất lớn đánh
sập cả một mảng núi đá lấp kín cửa hang chỉ huy tiểu
đoàn.
(hết chương 3)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 20.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Nép người sau gộp đá, tôi
nhìn xuống thị trấn Sóc Giang đang rừng rực bốc cháy. Cuộc chiến tranh biên
giới đã đi qua được năm ngày. Mới chỉ có năm ngày ngắn ngủi thôi mà bao nhiêu
sự kiện xảy ra, bao nhiêu bạn bè, đồng đội đã ngã xuống, bao nhiêu bản làng nơi
biên ải bị thiêu huỷ. Thị trấn biên giới Sóc Giang nhỏ bé, thân thiết thế bây
giờ trở thành một đống đổ nát hoang tàn. Bản Nà Nghiềng gần thị trấn cũng xác
xơ, những tán cây xanh sém lửa do nhà cháy vàng khè. Hôm nay là ngày cuối cùng
đơn vị chúng tôi chiến đấu ở thị trấn Sóc Giang. Tiểu đoàn của chúng tôi phải
rút lui vì bị cô lập, không có bất cứ sự chi viện nào của cấp trên và không thể
giữ được cái thị trấn đổ nát trong vòng vây, vòng lửa đạn trùng trùng của quân
thù. Nhưng trước khi rút lui, ngày hôm nay chúng tôi đã có một ngày sống chết
với quân thù ở cái thị trấn bé nhỏ này.
Hôm nay tự dưng trời
hửng nắng.
Sau mấy ngày chiến
đấu quyết liệt với quân xâm lược đông đảo, đại đội 11 của tiểu đoàn 3 đã bị
đánh bật khỏi các chốt cây đa số một và cây đa số hai hướng cửa khẩu Bình Mãng.
Trận địa bị phá huỷ nặng nề, cán bộ, chiến sĩ đại đội 11 bị thương vong quá
nhiều phải rút lui về tổ chức phòng ngự ở gần trường cấp 1 Sóc Giang. Đại đội 9
cũng phải bỏ trận địa bên cánh trái cửa khẩu Bình Mãng co cụm về khu vực
uỷ ban nhân dân huyện. Riêng đại đội 10 thì vẫn phòng ngự ở mỏm đồi đất bên
dưới điểm cao 505 án ngữ con đường từ thị xã Cao Bằng, qua Đôn Chương lên thị
trấn huyện lỵ Hà Quảng.
Từ sáng sớm, bọn địch
từ hướng Đôn Chương nống lên chỉ bắn pháo và tổ chức hai đợt tấn công có tính
chất thăm dò vào trận địa của đại đội 10. Đài quan sát báo cáo phát hiện nhiều
xe tăng địch đang tập kết ở khu vực các bản Cốc Sâu, Kép Ké. Từ phía cửa khẩu
bộ binh và xe cơ giới của địch cũng đang rầm rộ tiến xuống. Hướng Mỏ Sắt các
đơn vị bộ binh địch đang hành quân lên. Trinh sát của ta đã phát hiện có bọn
thám báo xuất hiện trên điểm cao 505. Tại sở chỉ huy tiểu đoàn trong hang huyện
uỷ lúc này chỉ còn có thượng uý Hoàng, chính trị viên tiểu đoàn là người chỉ
huy cao nhất. Tiểu đoàn trưởng Thêm từ
tối hôm trước nói là đi kiểm tra các đơn vị đã rời vị trí chỉ huy lên trận địa
của đại đội 12 hoả lực mãi trên lũng Mật. Lũng Mật nằm trên dãy núi đá
cao, vách núi dựng đứng, chỉ có một con đường độc đạo nhỏ đi lên nên bọn địch
chưa thể tấn công lên trên đó ngay được. Từ hôm xảy ra chiến sự, đại đội 12
chưa bị tổn thất gì vì các bộ phận đều ở trên núi đá.
Suốt buổi sáng bọn
địch chỉ bắn pháo dữ dội và trận địa phòng ngự của tiểu đoàn 3 và triển khai
đội hình tạo thế bao vây các đơn vị quân ta. Buổi chiều, bọn địch từ hướng Đôn
Chương bắt đầu tổ chức tấn công trận địa của đại đội 10, mở đường tiến vào đánh
chiếm thị trấn Sóc Giang. Bộ binh và xe tăng địch lúc nhúc trên cánh đồng trồng
cây thuốc lá phía trước thị trấn. Bọn chúng đang ầm ầm tiến quân vào Sóc Giang
bằng chiến thuật biển người. Đại đội 10 xin hoả lực tiểu đoàn bắn mạnh chi viện
làm rối loạn đội hình tấn công của bọn địch đang triển khai trên cánh đồng
trông thuốc lá. Chính trị viên Hoàng bảo tôi:
- Hỏi xem Xê 12 còn
bao nhiêu đạn cối 82?
Tôi lập tức điện hỏi.
Đại đội 12 báo cáo chỉ còn chưa đầy ba mươi quả đạn cối 82. Anh Hoàng lệnh cho
tôi:
- Bảo nó không được
bắn! Khi nào có lệnh mới được bắn hiểu không!
- Vâng ạ! - Tôi đáp.
Chính trị viên Hoàng
đi ra phía cửa chính của hang quan sát. Đại đội 10 đã nổ súng. Trận địa mịt mù
khói lửa. Tiếng quân giặc hô hét ầm ĩ: “Tả… tả… tả…”. Tiếng kèn đồng thúc quân
xung trận của bọn chúng nghe rất rõ trong tiếng đạn nổ râm ran. Đại đội 10 liên
tục xin hoả lực cối 82 của tiểu đoàn bắn vào đội hình tấn công của địch chi
viện cho đơn vị chiến đấu bảo vệ chốt. Tôi báo cáo chính trị viên Hoàng. Anh
lệnh tiếp:
- Lệnh cho Xê 12 bắn năm
quả cối 82 chi viện cho Xê 10! Chỉ bắn đúng năm quả thôi nhé!
Tôi lập tức thông báo
ngay mệnh lệnh của tiểu đoàn cho đại đội 12. Trung uý Bàng, đại đội trưởng đại
đội 12 ngứa mắt thấy quân giặc vào đông lúc nhúc đã cho rót cấp tập liền
mười lăm quả đạn cối 82 vào đội hình xung phong của chúng. Bọn địch đã áp sát
trận địa của đại đội 10. Lũ bành chướng xâm lược này cũng lạ, bộ binh chúng
chết và bị thương nằm la liệt đầy cánh đồng, đầy mặt đường mà xe tăng chúng cứ
nghiến qua xác lính chết và bọn bị thương đang kêu khóc để tiến vào thị trấn.
Xích sắt những chiếc xe tăng nhuộn đỏ màu máu. Gần chục chiếc xe tăng quân giặc
hung hãn đã tiến sát chỗ bụi tre dưới chân chốt đại đội 10, mấy chiếc đã vượt
qua suối sang phía cửa hàng thực phẩm, có ba chiếc đã lao vào khu ruộng ngô
phía trước bản Nà Nghiềng áp sát nhà bưu điện thị trấn hướng thẳng nòng pháo
lên cửa hang huyện uỷ. Chỉ huy đại đội 10 liên tục diện về xin hoả lực tiểu
đoàn chi viện. Chính trị viên Hoàng tiếp tục hạ lệnh. Giọng anh rất kiên quyết:
- Lệnh cho Xê 10 cử
hai tổ xuống bắn xe tăng địch ngay!
Tôi vội điện cho ban
chỉ huy đại đội 10. Anh Hoàng lại bảo:
- Lệnh cho Xê 9 tổ
chức cơ động một trung đội chặn quân địch tiến vào khu vực trụ sở uỷ ban nhân
dân huyện!
Tôi đang truyền đạt
mệnh lệnh thì có nhiều tiếng nổ dữ dội ở phía cửa hang chính. Những chiếc xe
tăng của địch ở đám ruộng ngô phía trước nhà bưu điện thị trấn đã xác định được
cửa hang huyện uỷ. Pháo trên xe tăng của địch căn chỉnh nhằm bắn thẳng vào cửa
hang. Khói bụi xộc vào trong hang mù mịt. Bọn bộ binh địch đã tiến vào khu vực
chợ Sóc Giang. Tiếng anh Hoàng hạ lệnh:
- Thương binh nặng ở
lại còn tất cả ra vị trí chiến đấu bảo vệ hang!
Tôi vội giao tổ hợp
máy VTĐ cho chiến sĩ thông tin 2W rồi xách súng lao ra cửa hang chính. Ở cửa
hang chính tiểu đoàn phó Trần Quang, chính trị viên phó Phạm Đức Hòa và trợ lý
tham mưu Thọ đang tổ chức cho các chiến sĩ cơ quan tiểu đoàn bộ triển khai
phòng ngự bảo vệ hang. Anh Thọ chỉ cho tôi thấy vị trí mấy chiếc xe tăng
địch đang rê chỉnh nòng pháo bắn thẳng vào cửa hang huyện uỷ. Tôi đang nấp sau
một gộp đá tìm vị trí ngắm bắn về phía nhà bưu điện thì có tiếng chính trị
viên Hoàng gọi. Tôi vội chạy quay vào trong hang. Anh Hoàng vừa nhìn thấy tôi đã
gắt:
- Nhiệm vụ của mày là
đảm bảo liên lạc hiểu không! Mất liên lạc với các hướng lúc này là chết hết
đấy!
Thì ra lúc tôi không
có mặt, người chiến sĩ thông tin xử lý không tốt một mệnh lệnh chiến đấu khiến
anh rất bực. Tôi đeo tai nghe nhận điện và bật reo lên:
- Đại đội 10 báo cáo
bắn cháy bốn xe tăng địch!
Gần như cùng lúc với
báo cáo của tôi anh em phía ngoài cửa hang cũng reo lên vui mừng vì họ nhìn rõ
những chiếc xe tăng bốc cháy ngay trên đoạn đường quanh dưới chân chốt của đại
đội 10. Có một chiếc xe tăng cháy và phát nổ rất dữ dội. Có lẽ đạn pháo trong
xe bị kích hoạt. Một lát sau đại đội 10 báo cáo tình hình cụ thể hơn:
"Chiến sĩ Nguyễn Văn Quý bắn cháy ba xe tăng địch, Hạ sĩ, tiểu đội trưởng
Tân bắn cháy một chiếc xe tăng và hy sinh cùng một chiến sĩ. Trung uý Trần Xuân
Tương, chính trị viên đại đội 10 trực tiếp chỉ huy các tổ xuống bắn xe tăng
cũng đã hy sinh anh dũng ngay trên cánh đồng trồng thuốc lá…". Cả sở chỉ
huy tiểu đoàn lặng đi khi nghe thông tin từ đại đội 10. Niềm vui chiến thắng
vụt tắt trước tin nhiều người đã ngã xuống. Cái giá của chiến công thật là quá
đắt. Sự khắc nghiệt của cuộc chiến đấu thật không thể nào hình dung hết. Mấy
chiếc xe tăng địch ở đám ruộng ngô trước bản Nà Nghiềng vẫn liên tục nã pháo
vào cửa hang của chúng tôi. Một chiến sĩ mang súng B41 lao ra tìm cách tiếp cận
xe tăng địch. Anh bị trúng đạn ngã gục xuống giữa ruộng ngô non. Từ vị trí chỉ
huy của tiểu đoàn mấy chiến sĩ thông tin và vận tải nhanh chóng tụt xuống chân
núi. Họ bò lê trên mặt ruộng cố tiếp cận vị trí người lính B41 vừa hy sinh
để lấy súng và bắn xe tăng địch. Giữa lúc đó tôi nhận được điện báo cáo của đại
đội 9: “Trung đội trưởng La Quang Tuyến đã chỉ huy trung đội bắn cháy hai xe
tăng và tiêu diệt nhiều bộ binh quân địch ở phía cửa hàng thực phẩm và trong
sân nhà uỷ ban nhân dân huyện. Tôi vừa báo cáo với chính trị viên Hoàng
xong thì nhận được điện của đại đội 10 đề nghị hoả lực của tiểu đoàn bắn trực
tiếp trùm lên trận địa của đơn vị. Bộ binh địch đã tràn lên, lực lượng tinh
nhuệ của chúng từ điểm cao 505 đã đánh ập xuống trận địa của đại đội 10. Tình
hình đại đội 10 vô cùng nguy cấp. Bộ đội đang đánh giáp la cà với bọn địch, một
trận chiến quyết tử, một mất một còn. Tiếng lựu đạn nổ lục bục trong chiến hào.
Chính trị viên Hoàng bảo tôi lệnh cho đại đội 10 bất cứ giá nào cũng phải “kiên
quyết chiến đấu giữ vững trận địa”.
Tôi vừa truyền đạt
xong mệnh lệnh thì mất liên lạc với đại đội 10. Hướng đại đội 9 và đại đội
11 báo cáo bọn địch từ biên giới hành quân xuống đã áp sát trận địa. Phía con
đường mòn từ Mỏ Sắt lên có rất nhiều tiếng súng nổ. Như vậy là cả ba phía quân
địch đang tiến về thị trấn Sóc Giang hình thành thế bao vây tiêu diệt tiểu
đoàn 3 chúng tôi. Trong khi đó thì cuộc chiến đấu trước cửa ngõ thị trấn Sóc Giang
vẫn vô cùng ác liệt. Trận địa của đại đội 10 mịt mù khói lửa, râm ran tiếng
súng chả còn phân biệt đâu là tiếng súng của quân ta, đâu là tiếng súng của
quân địch nữa. Đạn pháo của địch thì không ngừng nã vào mỏm núi và vị trí cửa
hang của chúng tôi. Hang đá rung chuyển chao đảo như một con thuyền nhỏ trên
sóng lớn. Pháo địch bắn làm những tảng đá lớn từ trên đỉnh núi lăn xuống
ầm ầm rất nguy hiểm cho bộ phận phòng ngự bên ngoài cửa hang. Tiếng súng bộ
binh đã vang lên khắp thị trấn Sóc Giang và cả trong bản Nà Nghiềng. Chính trị
viên Hoàng vẫn bình tĩnh nghe các đơn vị thông báo tình hình của ta và của
địch. Đơn vị nào cũng xin chi viện hoả lực và đạn dược. Nhưng làm gì còn đạn
hoả lực nữa mà chi viện. Anh Hoàng lặng người đi mỗi khi nhận tin cán bộ, chiến
sĩ hy sinh. Quân số thương vong không ngừng tăng lên. Cả sở chỉ huy ai
cũng thấy lo lắng, căng thẳng, nhưng không ai tỏ vẻ hoảng sợ. Anh Hoàng hạ lệnh
cho đại đội 9 và đại đội 11 kiên quyết chiến đấu ngăn chặn quân địch. Có
tiếng hò reo ngoài cửa hang. Thêm hai chiếc xe tăng của quân địch bị bắn cháy
ngay trên đám ruộng phía trước bản Nà Nghiềng.
Đến khoảng hơn ba giờ
chiều thì tất cả các trận địa của tiểu đoàn đều bị bọn địch tấn công dữ dội.
Các bộ phận phòng ngự phải chiến đấu quyết liệt với quân địch không còn chi
viện được cho nhau nữa, thông tin cũng bị gián đoạn. Cả thị trấn Sóc Giang ngập
chìm trong khói lửa. Mùi thuốc súng khét lẹt. Từ các phía xe tăng, bộ binh địch
đánh lướt qua các trận địa của đại đội 10, đại đội 9 ào ào xông đến áp sát
vị trí chỉ huy của tiểu đoàn. Tình hình rất nguy ngập. Anh Hoàng mím môi nhìn
số người ít ỏi đang có mặt trong hang rồi đanh giọng nói:
- Bây giờ đã đến lúc chúng
ta sẽ quyết một trận sống chết với quân thù!
Tôi cùng số anh em
làm nhiệm vụ đảm bảo công tác chỉ huy và anh em thương binh nhẹ trong có
mặt ở trong hang lập tức vớ lấy súng, lựu đạn rồi cùng lao ra phía
cửa hang đang mịt mù khói bụi.
Thị trấn Sóc Giang
vẫn đang ngùn ngụt bốc cháy dữ dội. Khói lửa chiến tranh che khuất cả một khoảng
trời nơi biên giới...
(hết chương 4)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 21.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Đơn vị chúng tôi rút lui
lên Lũng Mật, đây là trận địa của đại đội 12 hoả lực. Lũng Mật là một thung lũng
nhỏ nằm ở lưng chừng dãy núi đá cao vút kéo dài từ biên giới xuống tận Mỏ Sắt.
Dãy núi này cũng là ranh giới giữa hay huyện Hà Quảng và huyện Thông Nông. Từ
Lũng Mật, nơi đại đội 12 đặt trận địa cối 82 và pháo 12ly7 có thể nhìn rất rõ
trận địa gốc đa của đại đội 11, khu trường cấp 1 và vị trí hang chỉ huy của
tiểu đoàn. Bọn địch chưa thể tiến đánh ngay lên khu vực Lũng Mật và truy kích
bộ đội ta rút lui lên trên dãy núi đá cao chập trùng.
Đại đội đội 12 đã bắn
gần hết cơ số đạn cối 82 để chi viện cho các đơn vị chốt giữ ở thị trấn và khu
vực núi đất sát cửa khẩu. Trận địa đại đội 12 chỉ trúng một vài quả pháo của
địch nên không bị tổn thất lớn. Ba chiến sĩ bị thương nhẹ vẫn tiếp tục tham gia
chiến đấu. Khi các đơn vị của tiểu đoàn rút lui lên Lũng Mật, đại đội 12 cử một
số cán bộ, chiến sĩ triển khai lực lượng xuống tận lưng chừng núi giúp khiêng
cáng thương binh, dẫn đường đưa các bộ phận vào các hang hốc, khe núi ẩn nấp.
Tiểu đội tôi chỉ còn
năm người. Tôi và anh em chui vào một cái hốc sát ngay vách núi. Từ vị trí này,
khi mây mù tan, chúng tôi có thể quan sát toàn bộ thị trấn Sóc Giang và con
đường từ cửa khẩu Bình Mãng chạy xuôi phía Mỏ Sắt cũng như con đường từ thị xã
Cao Bằng qua Đôn chương lên Hà Quảng.
Tôi và anh em ổn định chỗ ém quân, ngụy trang cẩn thận. Hai mắt tôi ríu lại vì cả tuần mất ngủ. Vừa ngả lưng nằm xuống tấm tăng định chợp mắt một lát thì có tiếng gọi:
Tôi và anh em ổn định chỗ ém quân, ngụy trang cẩn thận. Hai mắt tôi ríu lại vì cả tuần mất ngủ. Vừa ngả lưng nằm xuống tấm tăng định chợp mắt một lát thì có tiếng gọi:
- Hà ơi! Vẫn còn sống
hả?
Tôi nhỏm dậy. Ai gọi
vậy. Tôi dụi mắt và nhận ngay ra người đang đứng nhe răng cười trước mặt mình.
Đó là trung uý Bàng, đại đội trưởng đại đội 12. Anh xô đến ôm riết lấy tôi chặt
quá khiến tôi phải kêu lên:
- Gãy bố hết xương
của em bây giờ! Đánh nhau không chết, chẳng bị thương, gặp anh khéo lại bị tai
nạn đấy.
Anh Bàng cười hề hề
rồi buông tôi ra. Tôi thấy trong mắt anh có nước. Anh lấy từ trong cái túi đeo
bên hông ra một cái gói to bằng đầu gối đưa cho chúng tôi bảo:
- Ăn đi! Cơm nếp đấy.
Có cả mấy miếng thịt gà ở trong ấy!
- Chà các bố ở trên
này sang quá nhỉ! Bọn em ở dưới thị trấn đánh nhau ầm ĩ cả ngày, hôm nào được
một nắm cơm bằng nắm tay trẻ con là đã sướng lắm rồi…
- Còn ít gạo nếp từ
hôm tết. Hôm nay tiểu đoàn rút lên tao cho nấu “chiêu đãi” anh em. Mà chả nhiều
đâu, mỗi người một miếng cho thơm thôi. Gạo, thực phẩm cũng đã cạn rồi, nước
thì lại càng hiếm. Cả trăm lính với dân và thanh niên xung phong kéo lên đây
thế này chả biết rồi sẽ trụ được mấy bữa.
Anh Bàng rút thêm từ
trong túi ra một cái đùi gà đưa cho tôi và nháy mắt bảo:
- Cho riêng mày đấy!
Tôi cầm cái đùi gà
bóc xé một miếng rồi đưa cho thằng Quý ngồi bên cạnh. Đoạn tôi hỏi anh Bàng:
- Tình hình các anh trên này thế nào?
- Tình hình các anh trên này thế nào?
- Trên này anh em cơ
bản là an toàn. Chỉ buồn là đạn ít quá. Thấy các đơn vị dưới ấy bị bọn chúng
tấn công dữ dội, thương anh em đồng đội lắm nhưng không đủ đạn mà bắn chi viện.
Hôm đầu thấy chúng nó tràn sang đông như kiến cỏ tao lệnh cho các khẩu đội cối
82 bắn liên tục nên gần cạn mẹ nó mất cả cơ số đạn dự trữ. Hôm qua, nó đánh lên
chốt xê 11, chốt Đầu Bò và trận địa của xê 10 chúng tao cũng chỉ bắn chi viện
cầm chừng được thôi. Tiếc quá! Giá mà có nhiều đạn thì bọn giặc xâm
lược khốn kiếp sẽ biết tay.
Đang nói vẻ rất hào
hứng, chợt anh Bàng dừng lại. Anh nhìn chúng tôi rồi nói vẻ ngậm ngùi:
- Tao ở trên núi dùng
ống nhòm thấy hết trận địa của các đơn vị. Thấy cả xe tăng và bộ binh của chúng
tấn công trận địa của ta, nhìn rõ anh bộ đội ta đã chiến đấu như thế nào, thấy
cả cảnh các chiến sĩ trúng đạn giẫy giụa trước khi chết và đau nhất là thấy rõ
cả cảnh bọn nó bắn giết, đâm chết thương binh của bộ đội ta như thế nào. Tao cứ
tưởng là bọn mày đều chết hết cả rồi, may mà mày…
Tôi ngậm ngùi:
- Cũng nhiều người hy
sinh rồi anh ạ!
- Chỉ thương mấy
thằng còn trẻ măng, vợ con chưa có, chưa biết mùi đời là gì…
- Chiến tranh thì
biết làm thế nào được…
Tôi cũng thấy xao
lòng khi chợt nhớ về những thằng bạn vừa mấy hôm trước còn cùng ngồi nghêu ngao
cười đùa với nhau trên bờ công sự, ước mơ ngày trở về thế mà bây giờ mấy đứa
chúng nó đã tan biến vào trời đất, mất hút đi đằng nào rồi.
Anh Bàng ngồi chơi
một lúc thì đứng dậy:
- Thôi chúng mày
tranh thủ ngủ một lúc lấy sức. Chắc cũng chỉ nay mai là chúng nó sẽ tiến đánh
lên đây thôi. Càng ngày sẽ càng khó khăn, ác liệt đấy. Bây giờ tao phải đi gặp
tiểu đoàn trưởng nhận mệnh lệnh mới đây!
Anh Bàng đi rồi,
thằng Quý thắc mắc hỏi tôi:
- Tại sao anh Bàng
lại quan tâm đến tiểu đội ta thế anh nhỉ. Chắc phải có lý do gì chứ… - Nó nhíu
mày: - Anh ấy và anh cũng chả phải là đồng hương, đồng khói gì. Anh ấy quê Cao
Bằng, còn anh quê tận Vĩnh Phú cơ mà?
- Thôi ăn đi mà tranh
thủ ngủ. Thấy chúng mình vừa ở nơi ác liệt còn sống sót trở về, tiện đường lên
gặp chỉ huy tiểu đoàn nên anh ấy ghé vào thăm thôi mà.
Tôi nói vậy để thằng
Quý yên tâm. Thực ra chỉ có tôi mới hiểu vì sao anh Bàng lại quan tâm lo lắng
cho mình đến thế.
Chuyện xảy từ trước
chiến tranh. Buổi tối hôm đó tôi làm nhiệm vụ trực chiến tại vị trí chỉ huy của
tiểu đoàn. Tôi tranh thủ viết một lá thư gửi cho bố mẹ để ngày mai có người
trong trung đội về xuôi mua hạt rau giống nhờ đem về tận nhà. Đang cắm cúi viết
thì thượng uý Hoà, chính trị viên phó tiểu đoàn từ đâu hớt hải về lệnh cho tôi:
- Đồng chí đem theo
vũ khí theo tôi đi làm nhiệm vụ khẩn cấp ngay!
- Báo động chiến đấu
ạ?
- Không hỏi nhiều! Đi
ngay, khẩn trương lên!
Tôi vội buông bút,
xách khẩu AK, vớ cái đèn pin đi theo chính trị viên phó Hoà. Ra tới đường tôi
thấy có mấy người nữa đang đứng đợi. Đó là số cán bộ các bộ phận thuộc cơ quan
tiểu đoàn bộ. Chúng tôi chạy gằn theo chính trị viên phó tiến về phía bản Táp
Ná. Đây là một bản nhỏ hơn chục nóc nhà sàn nằm rải rác sát chân núi đá, gần
con đường mòn ngược lên Lũng Mật. Từ sau tết nguyên đán, tình hình địch căng
thẳng nên bà con dân bản đều đi sơ tán hết. Ban ngày trẻ con, người già cũng
không được về bản, chỉ có những người còn sức lao động về chăm sóc lợn gà và
làm ruộng, vườn. Ban đêm trong bản thì chỉ còn lại lực lượng dân quân làm nhiệm
vụ tuần tra canh gác bảo vệ bản và sẵn sàng chi viện cho bộ đội vận chuyển đạn
dược, đem cơm lên trận địa và khênh cáng thương binh về tuyến sau khi cuộc
chiến tranh nổ ra.
Gió bắc thổi ù ù qua
thung lũng. Lạnh quá khiến tôi chợt run lên.
Chúng tôi lặng lẽ
tiến về hướng một ngôi nhà sàn ở phía sau bản. Tôi thấy rất hồi hộp, trống ngực
đập mạnh. Mới đầu tôi cứ nghĩ là đi vây bắt bọn phản động, chỉ điểm, gián điệp.
Đến nơi mới biết chúng tôi đang đi làm “nhiệm vụ đặc biệt” là bắt “quả tang”
một cán bộ của đơn vị đang ngủ với con gái bản. Rõ chuyện nên khi vào đến sân
nhà cô gái (cô bé này cũng là một dân quân), tôi kiếm cớ xin đứng dưới sân cảnh
giới mà không leo lên sàn, ập vào nhà để bắt quả tang tại chỗ những kẻ “hủ
hoá”, sa đọa theo như mệnh lệnh của chính trị viên phó tiểu đoàn vừa mới thì
thào phổ biến.
Chính trị viên phó
Hoà và mấy cán bộ nhẹ nhàng áp sát cầu thang ngôi nhà sàn. Họ tìm lối leo lên
sàn. Trong nhà có ánh đèn leo lét và hình như có tiếng người rì rầm, tiếng con
gái cười khúc khích. Khi mấy người đi bắt kẻ “hủ hoá” vừa bước lên cầu thang
thì ánh đèn trong nhà vụt tắt. Chắc là những người trong nhà đã nghe tiếng động
bên ngoài. Chính trị viên phó vội nhảy lên đập cửa. Phải một lúc sau chủ nhà
mới ra mở cửa. Đó là một cô gái còn rất trẻ. Những ánh đèn pin đồng loạt bật
lên sáng rực. Đứng dưới sân tôi vẫn nhìn thấy rõ quần áo cô gái xộc xệch. Đó
quả là một người con gái rất đẹp. Cô gái một tay giữ ngực áo, một tay giơ lên
che mắt vì bị chói ánh đèn. Sau này tôi mới biết cô tên là Lê và là tiểu đội
trưởng tiểu đội dân quân của bản.
Đèn trong nhà được
thắp lên. Ánh đèn pin soi khắp nhà. Nghe bập bõm tiếng ông chính trị viên phó
tiểu đoàn và mấy cán bộ trao đổi với nhau, tôi hiểu họ là họ đã phát hiện ra
một đôi giày bộ đội để cạnh đôi dép của cô gái dưới chân giường. Có lẽ họ đang
căn vặn cô dân quân bản. Giữa lúc đó, tôi chợt nghe tiếng động nhẹ trên mái
ngói. Tôi bấm đèn pin dọi lên mái nhà sàn. Qua ánh đèn, tôi thấy một người mình
trần như nhộng đang ngồi thu lu trên mái. Tôi nhận ngay ra đó là trung uý Bàng,
đại đội trưởng đại đội 12 hoả lực. Trung uý Bàng một tay bám vào cành cây mít
sà xuống sát mái nhà, một tay ôm quần áo. Tôi vội tắt ngay đèn pin và hô to:
- Có người… có người…
- Đâu… đâu… đâu...?
Tôi làm ra vẻ
hớt hải:
- Có người… nhanh
lên...
Ông chính trị viên
phó chạy ra cửa quát to:
- Bắt… bắt… lấy…
ngay…
Tôi báo cáo:
- Nhưng... người
ấy... vừa chạy ra phía bờ suối rồi!
- Đuổi... đuổi theo
ngay.... cậu còn đứng đấy làm gì?
Ông chính trị viên
phó cùng mấy cán bộ từ trong nhà lao ra. Họ nhảy lụp bụp từ trên sàn xuống đất
soi đèn hô nhau đuổi ra hướng bờ suối. Tôi cũng vội xách súng co giò phóng
theo. Vừa chạy, tôi vừa cố nén tiếng cười khùng khục trong cổ họng khi nghĩ đến
cảnh anh Bàng đang trần như nhộng ngồi co ro trên nóc nhà hun hút gió bắc lạnh
đến sun vòi. Tôi nghĩ, ông trung uý đẹp trai này khéo chẳng chết vì gái mà lại
chết cóng vì rét mất. Cũng may mà lúc nãy anh ấy thính tai nghe thấy có tiếng
động ở cầu thang nên kịp chui qua cửa sổ đu bám được vào cành mít leo lên mái
nhà.
Chúng tôi đuổi ra đến
bờ suối thì dừng lại. Mấy người nháo nhác soi đèn dọc theo hai bờ con suối nhỏ.
Dòng suối chảy ào ào, xao động như có người vừa mới lội qua sang bên kia bờ...
***
Ngày hôm sau, tôi
được giao đi củng cố đường dây lên đài quan sát. Hoàn thành nhiệm vụ, tôi quay
về đơn vị. Qua thị trấn thì đã quá trưa. Tôi đang ngó nghiêng ở dãy hàng quán
lèo tèo gần cổng chợ tìm mua cái gì cho vào bụng đỡ đói vì cả buổi leo dốc kéo
dây điện thoại thì có ai đó từ phía sau chộp lấy vai mình vặn một cái đau
điếng. Tôi quay lại. Té ra là trung uý Bàng. Anh nhìn tôi chằm chằm một lúc rồi
mới hỏi:
- Tối hôm qua… tại
sao… tại sao ông lại cứu tôi?
Tôi cười cười bảo anh:
- Em chỉ muốn cứu lấy
một tình yêu thôi... hi… hi…
Anh Bàng gật gù:
- Ông… ông đúng là
một người tốt!
- Tốt gì! Chính trị
viên phó tiểu đoàn mà biết chuyện em cố ý đánh lạc hướng trong khi đang “làm
nhiệm vụ đặc biệt” thì em cũng toi luôn! Ông ấy đang rất cáu vì cuộc vây bắt
tối hôm qua thất bại đấy…
- Hì… đúng thế! Thôi vào
đây làm bát phở cho ấm bụng cái đã.
Anh kéo tôi vào quán
phở và kêu ông chủ quán:
- Làm ngay hai bát loại
đặc biệt, cho thêm nhiều nhiều thịt vào nhé!
Nhìn vẻ mặt hứng khởi
của anh Bàng, tôi nháy nháy mắt rồi hỏi:
- Cái cô dân quân ấy
thật là đẹp anh nhỉ?
- Đẹp và còn nóng
bỏng, dữ dội nữa chứ… Hì, ăn đi!
- Lần sau anh nhớ
phải thật cẩn thận đấy!
Anh Bàng gật gật. Ánh
mắt anh nhìn tôi vẻ biết ơn.
Từ đó anh rất quý
tôi, luôn coi tôi như một người bạn. Mặc dù anh hơn tuổi và nhập ngũ trước tôi.
Tôi cũng rất quý anh. Anh là lớp cán bộ trưởng thành từ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Quê anh ở Trùng Khánh, Cao Bằng. Anh có nhiều thành tích trong chiến
đấu nhưng phải cái tính hay hoa lá cành, thấy gái là tít mắt lại nên con đường
công danh hơi lận đận. Mà cũng lạ, con gái vừa mới nhìn thấy cái dáng to cao,
đẹp trai của anh đã mê tít. Chuyện tình của anh khá nhiều. Nghe đâu anh từng
yêu con gái một ông tham mưu phó quân khu. Nhưng rồi giữa hai người xuất hiện
mâu thuẫn nên đã chia tay nhau. Ông cán bộ quân khu ấy rất căm anh vì anh đã
lấy mất cái quý giá nhất của cô con gái cưng mà không chịu cưới. Có lẽ vì đó mà
cái quyết đinh thăng quân hàm và chỉ tiêu đi học Học viện Lục quân định dành
cho anh bị tiêu luôn. Anh được điều động về làm cán bộ tại đơn vị đang làm
nhiệm vụ ở tuyến trước.
Khi đã thân thiết với
nhau rồi một hôm anh hỏi:
- Mày chưa biết con
gái khỏa thân là thế nào phải không?
Tôi lắc đầu. Anh bảo:
- Hôm nào lên núi tao
cho xem mấy cái ảnh con gái khỏa thân tao mang từ miền Nam ra. Đẹp lắm! Nhưng
phải hết sức bí mật nhé, lộ ra là chết cả lũ đấy. Lão chính trị viên phó mà
biết ai tàng trữ văn hoá phẩm đồi trụy thì toi luôn. Hiểu không.
Tôi chưa kịp phản ứng
gì thì anh như chợt nhớ ra dặn thêm:
- Nghe nói mày giỏi
văn chương, chữ nghĩa. Hôm nào mày làm giúp tao một bài thơ để tao tặng cho em
Lê. Em ấy thích văn chương, hay đọc sách, rất mê thơ ca mà khoản này thì tao
lại dốt đặc.
Tôi gật đầu đồng ý.
Mấy hôm sau, tôi đã viết
xong cho anh Bàng một bài thơ tình yêu để anh đem tặng cho cô dân quân xinh
đẹp. Bài thơ ấy như sau:
“Tình yêu từ quả táo của Thị Mầu
Từ ánh mắt Chí Phèo đêm trăng ấy
Tình yêu là ngọn lửa hồng bỏng cháy
Đã đốt thiêu bao nhiêu kiếp người
Tình yêu cũng là một trời tuyết rơi
Làm cho những cuộc đời băng giá lạnh.
Tình yêu còn là niềm tin, sức mạnh
Để những người vượt lên số phận tật nguyền
Nhưng tình yêu khiến bao kẻ cuồng điên
Biến thành thiêu thân trong phút chốc.
Tình yêu là cội nguồn hạnh phúc
Song cũng là khởi điểm của khổ đau.
Bao nhiêu kẻ chỉ biết yêu nhau
Mà không biết đang đi trên miệng vực,
Nhưng khi trong ta con tim rạo rực
Thì cần gì nghĩ lo hậu quả ngày mai…
Định nghĩa tình yêu vẫn mãi nối dài,
Mặc dù tình yêu ai mà chẳng biết?
Nhưng chắc chắn bạn sẽ như là đã chết
Nếu trong lòng nguội lạnh một tình yêu…”.
Đọc
xong bài thơ, anh Bàng cứ xuýt xoa mãi:
- Hay! Hay quá! Mày
đúng là dân văn chương, chữ nghĩa. Giá mà không có cái cuộc chiến tranh chết
tiệt này mày được học hành đến nơi đến chốn chắc chắn sẽ làm nên cơm cháo đấy.
Hì… nhất định là em Lê cũng sẽ thích bài thơ này cho mà xem.
Ngập ngừng một lát
anh nói thêm:
- Này! Giá như mà lão
chính trị viên phó tiểu đoàn đọc được bài thơ này nhỉ?
- Đọc được có mà ông
ấy cạo trọc đầu em à!
- Hì… đúng thế!
Anh Bàng cười hì hì.
Anh xiết chặt tay tôi rồi đi về hướng bản Táp Ná. Đôi chân của anh leo dốc
trông cứ nhẹ lâng lâng, khẩu súng ngắn đập lạch xạch bên hông.
Tôi mỉm cười nhìn
theo một kẻ si tình cho đến lúc bóng anh khuất hẳn sau chỗ ngoặt trên con đường
nhỏ chân núi.
Chưa có dịp gặp lại anh Bàng để
hỏi anh xem cô dân quân xinh đẹp ở bản Táp Ná có thích bài thơ
của tôi không thì chiến tranh nổ ra. Sau này tôi còn được biết là sáng hôm xảy
ra chiến tranh khi súng nổ được một lúc anh Bàng mới từ dưới chân núi hối hả
chạy lên trận địa. Trên người anh mặc độc một cái quần lót. Anh lao ngay vào vị
trí chỉ huy đơn vị chiến đấu luôn…
(hết chương 5)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 22.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Khi ban chỉ huy tiểu
đoàn bắt đầu rút lên Lũng Mật thì các bộ phận thuộc đại đội 10 cùng các đơn vị
phối thuộc vẫn tiếp tục củng cố trận địa ở mỏm đồi đất chìa ra chặn ngang con
đường từ phía thị xã Cao Bằng lên thị trấn Sóc Giang. Họ chưa được lệnh rút
lui.
Qua gần một tuần
chiến đấu, đại đội 10 đã bị thương vong non nửa. Trận địa bị các loại đạn pháo,
hoả lực của quân địch cày sới tan hoang. Không còn một cành cây, ngọn cỏ nào là
nguyên vẹn. Sau mấy ngày chiến đấu bảo vệ cửa ngõ thị trấn Sóc Giang đại đội 10
đã chịu đựng biết bao nhiêu là hỏa lực các loại của địch. Mặt đất cháy đen khét
lẹt. Chúng tôi gọi nơi đây là “TỌA-ĐỘ-LỬA” bởi sự ác liệt của lửa đạn và sự hy
sinh.
Chập tối, tiểu đoàn
bổ sung thêm cho đại đội 10 thêm hai trung đội. Đếm số người mới đến đại đội
trưởng Bổn lẩm bẩm: “Chỉ có chưa đầy hai chục thằng mà cũng gọi là hai trung
đội!”. Tuy thế anh cũng rất mừng vì số này đều là những cán bộ, chiến sĩ rất
dũng cảm. Họ đã từng đánh nhau với bọn bành trướng suốt mấy ngày qua ở chốt cây
đa sát cửa khẩu Bình Mãng và tại mỏm Đầu Bò cạnh sân trường cấp 1 thị trấn. Đại
đội trưởng Bổn phân công các vị trí phòng ngự và phạm vi phòng ngự, phổ biến
các ký, tín hiệu hiệp đồng chiến đấu cho anh em trong bộ phận mới đến. Anh dặn
dò trung đội trưởng Lộc-là người vừa dẫn bộ đội lên bổ sung:
- Ngay trong đêm nay
bộ phận mới đến phải tích cực củng cố trận địa. Nhớ làmv vị trí đặt súng, các
lỗ châu mai hướng bắn ngược lên điểm cao 505. Mẹ kiếp! Phương án tác chiến thì
chỉ tính đến việc đánh địch từ hướng biên giới tràn xuống. Ai ngờ nó chọc thủng
phòng tuyến, chiếm các vị trí ở phía sau trước, rồi từ phía sau nhằm thẳng vào
gáy mình mà nã đạn. Hầm hố chẳng có lỗ châu mai hướng về phía sau, lính tráng
phải chui ra ngoài công sự phơi người nằm bắn nên thương vong mới nhiều đến thế
đấy.
Anh Lộc là trung đội
phó trung đội vận tải bộ của tiểu đoàn. Trung đội trưởng Lộc nhanh chóng đôn
đốc các chiến sĩ củng cố trận địa. Mọi người đều rất mệt mỏi và buồn ngủ nhưng
ai cũng hiểu là ngày mai trận đánh sẽ vô cùng ác liệt, trận địa được củng cố
tốt bao nhiêu thì thương vong sẽ giảm bớt bấy nhiêu. Đang đào bới, xúc đất đá ở
một góc hầm bị sạt lở do những trận đánh trước đó, một chiến sĩ bỗng rú lên
hoảng hốt:
- Có... có... người
chết!
Trung đội trưởng Lộc
và mấy chiến sĩ nữa xúm lại. Đại đội trưởng Bổn nghe tiếng kêu thảng thốt cũng
vội nhào đến. Dưới ánh đèn pin lờ mờ, mọi người thấy một bàn chân người lộ ra.
Người chiến sĩ đang mò mẫm đào bới đã moi trúng bàn chân trong đám đất đá hỗn
độn. Đại đội trưởng Bổn lập tức nhảy xuống chiến hào cùng các chiến sĩ dùng tay
bới đất ở chỗ vừa tìm thấy dấu vết liệt sĩ. Nhưng moi hết cả căn hầm bị pháo
bắn sập họ cũng chỉ tìm thấy một ít phần cơ thể bên dưới của liệt sĩ. Trong
trận đánh ác liệt buổi chiều có một quả pháo hạng nặng của địch đã rơi trúng
chỗ người lính ấy đang đứng bắn.
Các chiến sĩ ngậm
ngùi gói ghém phần thi thể còn lại của liệt sĩ chờ bộ phận vận tải lên đưa đi
mai táng.
Đại
đội trưởng Bổn giọng nghèn nghẹn bảo:
- Còn mấy người hy
sinh nữa chưa tìm thấy thi thể. Đây có thể là thằng Linh ở trung đội 2. Vị trí
này là chỗ nó đặt trung liên mấy ngày nay.
Có một tiếng thở dài
của ai đó.
Anh Bổn nâng gói thi thể
liệt sĩ đặt lên bờ công sự. Mọi người lặng lẽ cúi đầu vĩnh biệt người đồng đội
thân yêu. Ánh lửa từ những đám cháy rần rật phía thị trấn soi loang loáng những
dòng nước mắt chảy dài trên những khuôn mặt nhem nhuốc, hốc hác của những người
lính đang đứng lặng quanh thi thể người đồng đội giữa nơi chiến địa lở lói
hoang tàn.
Tảng sáng trời lạnh
hơn. Sương mù chưa tan đã nghe tiếng gầm rú của xe tăng địch từ phía Đôn
Chương. Tại khu vực các bản Cốc Sâu, Kép Ké phía trước trận địa phòng ngự của
đại đội 10 lố nhố bóng bọn bộ binh địch đang bu đen xung quanh khu lò sấy thuốc
lá của dân bản. Đại đội trưởng Bổn giơ ống nhòm quan sát và lệnh cho tổ đài vô
tuyến sóng cực ngắn yêu cầu chuyển ngay một bức điện cho tiểu đoàn đề nghị hoả
lực bắn mạnh vào khu vực bọn địch đang tập trung quân. Chiến sĩ Định lập tức mã
hoá bức điện và chuyển đi ngay. Nhận được yêu cầu của đại đội 10, tiểu đoàn
trưởng Thêm và chính trị viên tiểu đoàn Hoàng lập tức hội ý. Đạn cối 82 đã sắp
cạn nhưng vẫn phải bắn chi viện cho đại đội 10. Bây giờ bắn là phải tính từng
viên và thật hiệu quả. Mười quả đạn cối 82 của đại đội 12 từ trên Lũng Mật bắn
rất chính xác rơi xuống chỗ địch đang tập trung quân. Những cột khói bốc lên mù
mịt và tiếng kêu hoảng loạn của bọn địch ở khu vực Cốc Sâu, Kép Ké. Các chiến
sĩ trên đài quan sát báo cáo ngắn gọn: “Đạn cối của ta bắn trúng mục tiêu!”.
Trận địa của đại đội
10 vẫn im lìm.
Sương mù bắt đầu tan
dần.
Bọn địch từ khu vực
các bản Cốc Sâu, Kép Ké bắt đầu tổ chức tấn công. Những chiếc xe tăng đi đầu
của địch đã xuất hiện như một đàn bọ hung. Tiếng xe tăng gầm rú, tiếng xích sắt
xoang xoảng ken két nghiến trên mặt đường. Có những tiếng lính bộ binh địch hô
khẩu hiệu. Tiếng kèn đồng cổ vũ quân lính xung trận từ phía bọn giặc vang lên
ầm ĩ. Tiếp sau đó là những loại đạn pháo và hoả lực của bọn chúng bắt đầu gầm
lên dữ dội. Pháo mặt đất, pháo trên xe tăng của chúng thi nhau nhả đạn dìm toàn
bộ quả đồi nhỏ do đại đội 10 phòng ngự chìm trong khói lửa. Đất đá, khói bụi
bốc lên trời cuồn cuộn, mịt mù.
Đạn pháo vừa ngớt,
bọn địch bắt đầu xung phong. Những chiếc xe tăng địch phụt khói lao nhanh vào
thị trấn hung hãn giống như một đàn thú dữ xổng chuồng. Bộ binh địch đông nghẹt
cả mặt đường, tràn cả xuống cánh đồng. Những bàn chân xâm lược đạp nát những
thửa ruộng trông ngô, trồng cây thuốc lá của dân ta. Tiếng kèn sừng dê, tiếng
kèn đồng tiếp tục tru lên từng hồi như những tiếng hú cuồng điên của bầy chó
sói đói. Những tên giặc say máu gào lên những tiếng vô cùng man dại. Bọn chúng
gọi nhau xông lên đánh giết người.
Trận địa của đại đội
10 vẫn im lặng. Sự im lặng khiến quân thù phải ngạc nhiên. Những người chiến sĩ
vệ quốc dũng cảm trong “toạ độ lửa” bình tĩnh hướng nòng súng rê theo bước chân
của bầy sói đang tiến lại gần.
Chờ chúng vào sát
chân chốt, các loại hoả lực của đại đội 10 mới phát hỏa. Các đơn vị xung quanh
lập tức nổ súng chi viện chặn đánh bọn địch, không cho chúng tràn vào thị trấn
Sóc Giang đổ nát. Đạn từ mỏm đồi chỗ cửa hàng thực phẩm của đại đội 11 bắn ra.
Đạn từ mỏm Kéo Nghìn hoả lực của đại đội 9 trút xuống xiên chéo đội hình quân
địch. Ác hiểm nhất và bất ngờ nhất là có một luồng đạn 12ly7 từ trên mỏm núi
cạnh bản Cốc Sâu ngay giữa đội hình xuất phát của quân địch bắn xối xả thẳng
vào lưng, vào gáy bọn xâm lược khiến đội hình xung phong của chúng rối loạn. Đó
là một khẩu đội 12ly7 của đại đội 16 trực thuộc trung đoàn. Các chiến sĩ khẩu
đội 12ly7 này đã bí mật tiếp cận trận đị và dũng cảm nằm im giữa đội hình của
bọn giặc chờ đợi. Bọn giặc sẽ không phát hiện ra nếu họ lặng lẽ trèo lên núi
cao theo đường mòn rút đi. Nhưng các chiến sĩ khẩu đội 12ly7 này chỉ nằm im khi
thấy quân địch tập trung quân xung quanh. Khi bọn giặc bắt đầu tấn công vào thị
trấn thì họ lập tức nhả đạn. Những luồng đạn bắn thẳng vào lưng bọn chúng một
cách quyết liệt.
Bọn địch phải tổ chức
lực lượng quay lại bao vây tiêu diệt khẩu đội 12ly7 của ta đang chốt trên mỏm
núi đá phía sau lưng chúng. Các chiến sĩ khẩu đội 12ly7 đã anh dũng chiến đấu
đến viên đạn cuối cùng. Hết đạn, họ phá hỏng khẩu 12ly7 trước khi bọn địch xông
lên. Ánh lửa bùng lên, một loạt tiếng nổ lục bục trên mỏm núi. Những quả lựu
đạn cuối cùng đã phát nổ ngay trên tay những người lính Việt Nam dũng cảm. Tất
cả các chiến sĩ khẩu đội 12ly7 ấy đã chết cùng những tên địch vừa lao đến. Họ
chính là những cảm tử quân bảo vệ biên cương.
Sau gần hai giờ đồng
hồ, trận chiến trước cửa ngõ thị trấn Sóc Giang kết thúc. Tiếng súng lắng dần.
Từ vị trí chỉ huy của tiểu đoàn trên Lũng Mật chúng tôi lo lắng tìm cách liên
lạc với đại đội 10. Chiếc máy vô tuyến sóng cực ngắn kêu xèn xẹt mãi mới dò
được sóng của chiếc máy đang đặt tại vị trí chỉ huy của đại đội 10. Đại đội 10
báo cáo nhanh: “Bốn xe tăng, hơn hai trăm tên địch bị tiêu diệt, xác chúng nằm
chồng chất trên mặt đường, mặt ruộng. Ta có mười lăm đồng chí hy sinh và bị
thương, trận địa vẫn được giữ vững…”.
Sau này, nghe kể lại tôi mới
biết cụ thể về cuộc chiến đấu của đại đội 10 và cái chết của hạ sĩ Tân-một
người bạn thân của mình. Hôm ấy, anh Tân đã tụt từ tuyến hào phía trên đồi
xuống bờ đất sát mặt đường nhặt khẩu B41 của trung uý Tương vừa hy sinh và bắn
cháy thêm một chiếc xe tăng địch. Anh trụ lại ở bờ đất cạnh bụi tre để tiếp tục
đánh địch. Bọn địch bị bắn ngã như chuối đổ nằm ngổn ngang đầy mặt đường. Nhưng
rồi nhiều tên đã lao lên ép người được vào bờ đất cao, tránh được hỏa lực bắn
thẳng của ta. Chúng ném lựu đạn tới tấp lên phía sau bờ đất. Những quả lựu đạn
xì khói lăn dưới chân Tân. Nhanh như chớp, Tân chụp những quả lựu đạn ném trả
lại bọn địch. Có quả nổ ngay trên không, mảnh lựu đạn xối xuống lưng những tên
đang ép vào bờ đất.
Quả lựu đạn cuối cùng Tân nhặt
dưới chân mình, anh nắm chặt trong tay. Bọn giặc ào tới rất đông. Nhưng chúng
bỗng kinh hoàng há hốc miệng nhìn anh. Tân đứng thẳng dậy. Trong đôi mắt anh
như có lửa căm thù đang rừng rực cháy. Từ bàn tay đỏ máu của anh xoè ra một
bông hoa lửa...
Tân và tôi cùng nhập ngũ
mùa Xuân 1975, trong đợt cả nước tổng viên chuẩn bị cho chiến dịch cuối cùng
của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Anh quê ở vùng lúa Thái Bình. Trước khi xảy ra
chiến tranh mấy ngày, gặp tôi ở thị trấn Sóc Giang anh còn khoe vừa mới nhận
được thư của vợ gửi lên báo tin sinh con trai. Anh lấy vợ đã lâu, hai vợ chồng
mong mãi mới có con. Thế là anh đã ngã xuống, vĩnh viễn không bao giờ còn biết
mặt đứa con vừa chào đời chưa tròn một tháng tuổi.
***
Buổi chiều, bọn địch
chỉ bắn cầm chừng. Hình như chúng đang củng cố lại đội hình chuẩn bị cho một
đợt tấn công quyết liệt hơn. Trung đội trưởng Lộc quan sát phía bản Cốc Sâu cẩn
thận rồi gọi một chiến sĩ trong trung đội đang ôm súng ngồi dưới chiến hào:
- Nam ơi! Tao và mày
xuống chỗ đoạn đường bọn địch nằm chết ngổn ngang kia kiếm một ít đạn và xem
bọn chúng có lương khô, lương khiếc gì không. Đói lắm rồi mà không thấy nuôi
quân đem cơm lên gì cả!
- Vâng! Để em đi
trước.
Nam nhanh nhẹn xách
súng toài xuống chân dốc. Trung đội trưởng Lộc lập tức chuội người theo sát
phía sau. Hai anh em lom khom nhặt mấy khẩu súng, gỡ lấy bao đạn và ba lô của
bọn địch. Anh Lộc vừa kéo cái ba lô trên lưng một tên lính đang nằm úp mặt vào
thành ta-luy đường thì cái “xác” này bất ngờ quay ngoắt lại. Nó vung tay lên.
Anh Lộc hét:
- Lựu đạn đấy! Nằm xuống!
Nhanh như cắt, anh
Lộc nhào người lăn về phía cái rãnh thoát nước ven đường phía ta-luy âm. Trước
khi đổ người xuống, anh còn kịp găm một loạt đạn AK vào tên giặc giả chết. Cánh
tay của thằng giặc vừa vung lên liền rũ xuống. Quả lựu đạn tuột khỏi bàn tay của
tên giặc rơi xuống mặt đường lăn ngược trở lại chỗ nó đang nằm. Một tiếng nổ
vang lên. Khói bụi đất cát văng mù mịt.
Sau khi cát bụi tan
hẳn, anh Lộc lồm cồm nhỏm dậy gọi:
- Nam ơi… Nam…
- Em đây… em vẫn an
toàn, anh có việc gì không?
Nam vừa chui ra từ trong
bụi cây xấu hổ dưới mép đường lên vừa đáp. Anh Lộc bảo:
- Tao không việc gì! Mẹ
cha thằng tàu khựa khốn kiếp… suýt nữa thì toi mạng oan với nó. Thôi, rút ngay!
Trung đội trưởng Lộc
và chiến sĩ Nam vội leo lên trận địa. Vừa chui vào trong hầm, thằng Nam đã vội
mở hai cái ba lô lấy được của bọn địch. Chả có cái gì ngoài mấy bộ quần áo cũ
và cái bi đông cạn khô. Thằng Nam dốc ngược một chiếc ba lô. Hai củ khoai lang
sống từ túi cóc ba lô lăn ra nền đất. Có một củ đang ăn dở. Chắc thằng giặc đói
này vừa mới cướp được ở bản Cốc Sâu. Thằng Nam bực bội chưởi đổng:
- Mẹ kiếp! Cái đồ
nghèo kiết xác, chết đói, chết khát mà cũng đòi đi xâm lược!
Trung đội trưởng Lộc
phì cười bảo:
- Thôi lại đành nhai
gạo sấy vậy!
Anh mở ba lô của mình
lấy ra một túi ni-lông còn chút ít gạo sấy. Từng người lần lượt thò tay vốc một
nhúm ngậm vào trong miệng. Rồi họ chuyền tay nhau cái bi đông đựng nước suối,
mỗi người tợp một ngụm. Họ ngậm nước suối và gạo sấy trong miệng một lúc chờ
cho hạt gạo trương lên, mềm đi rồi bắt đầu nhai cho đỡ đói. (Nếu bạn đọc muốn
biết thứ gạo sấy mà những người lính chúng tôi đã được cấp phát để ăn trong
chiến tranh ngày ấy như thế nào thì có thể tự mình làm thử. Bạn hãy lấy một ít
cơm nguội ném vào nước lạnh cho nó trương lên, hoặc vớt một ít cơm còn lại
trong chậu sau khi rửa bát ăn thử là biết. Gạo sấy của người lính biên cương
ngày ấy giống hệt như vậy).
Gần cuối buổi chiều,
bọn địch tổ chức thêm một đợt tấn công nhưng có vẻ không quyết liệt lắm. Thêm
hai chiếc xe tăng địch bị bắn cháy. Một chiếc nổ dữ dội, chắc là trong xe còn
nhiều đạn pháo nó chưa kịp bắn. Bộ binh địch hình như không phải là sẽ đánh lên
trận địa của ta. Chúng tiến chậm chạp sau xe tăng là để lôi xác đồng bọn bị
chết từ đợt tấn công buổi sáng về phía sau. Phát hiện ra hành động này của bọn
địch, đại đội trưởng Bổn hạ lệnh cho toàn đại đội ngừng bắn. Anh muốn tạo điều
kiện cho lũ giặc đem xác chết đồng bọn ra khỏi trận địa.
Lũ giặc thấy hoả lực của ta
lắng đi vội lao vào lôi xác đồng bọn chạy ra xa. Chúng xếp những xác chết thành
hàng lối như một đội hình thẳng hàng trên con đường phía trước thị trấn. Quan
sát hành động của chúng, các chiến sĩ trên trận ai cũng ngạc nhiên thắc mắc,
không hiểu vì sao. Họ nhao nhao gọi hỏi nhau:
- Chúng nó định làm
cái gì vậy?
Từ nãy đến giờ đại
đội trưởng Bổn vẫn chú ý quan sát địch. Nghe mọi người hỏi, anh thủng thẳng
bảo:
- Chắc bọn chúng nó
quyết tâm tiến vào thị trấn Sóc Giang bằng con đường của những xác chết đấy.
Rồi chúng sẽ được toại nguyện!
Đó là ngày cuối cùng đại đội 10
chiến đấu ở “Tọa độ lửa” Sóc Giang. Đại đội 10 cũng là đơn vị cuối cùng của
tiểu đoàn chúng tôi rút lui khỏi thị trấn.
(hết chương 6)
Cao Bằng, 2-1979
Hà Nội, 2-2014
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 22.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Các đơn vị của trung đoàn
cũng bắt đầu rút lui lên dãy núi vôi mà tiểu đoàn 3 chúng tôi đang đứng chân.
Cơ quan hậu cứ của trung đoàn bị bọn địch đánh tập hậu. Chính uỷ trung đoàn,
thiếu tá Nguyễn Đệ đã chỉ huy bộ các bộ phận của cơ quan trung đoàn bộ cố thủ
trong hang suốt ba ngày. Họ chiến đấu quyết liệt đánh lui nhiều đợt xung phong
của bọn bành trướng. Khi bọn địch chiếm được cửa hang, chúng đã dùng cả tấn
thuốc nổ đánh sập cửa hang, bịt kín lối ra chôn sống hơn chục cán bộ, chiến sĩ
ta ở trong lòng núi đá âm u. Khi nghe tin dữ này mọi người ai cũng rất đau xót,
căm thù quân xâm lược.
Khi được giao nhiệm vụ dẫn
tiểu đội đi đón đội hình của trung đoàn bộ rút lui lên Lũng Mật, tôi thấp thỏm
cả buổi chiều. Không biết ai còn sống, ai đã hy sinh. Tôi quen thân rất nhiều
anh em trên cơ quan trung đoàn bộ. Trời chưa tối, ăn vội nắm cơm, anh Thọ, trợ
lý tham mưu tiểu đoàn đã gọi bộ phận đi đón cơ quan trung đoàn bộ lên đường.
Anh dẫn chúng tôi tụt xuống núi. Theo hiệp đồng, chúng tôi sẽ chờ ở khu vực Mỏ
Nước phía bên chân núi đá vôi. Sương mù bắt đầu buông xuống, không còn nhìn rõ
khu núi đất và điểm cao 505 mà bọn địch đang phòng ngự nữa. Bộ phận cơ quan
trung đoàn bộ sẽ lợi dụng đêm tối và sương mù dày đặc cắt qua dãy núi đất phía
nam cao điểm 505, vượt qua con đường xuôi Mỏ Sắt và cánh đồng hẹp để sang dãy
núi đá. Khu vực cơ quan trung đoàn đi qua đã được trinh sát cẩn thận đề phòng
bọn địch phục kích.
Chúng tôi ém quân tại khu
vực dòng suối nhỏ phía bên này cánh đồng. Bộ đội ẩn nấp sau các mô đá nhấp nhô
không để bọn địch đang đi lại trên con đường đất bên kia cánh đồng phát hiện và
cũng tránh đạn pháo địch thỉnh thoảng lại bắn hú họa từ cao điểm 505 sang sườn
núi đá. Nhìn những ánh đèn và tiếng gầm rú của các phương tiện xe cơ giới của
địch chúng tôi lo lắm. Không biết các cán bộ, chiến sĩ cơ quan trung đoàn bộ có
vượt qua được đường an toàn không.
Càng về khuya, sương càng
lạnh. Con đường bên kia cánh đồng bọn địch đi lại thưa hơn. Không còn thấy
nhiều ánh đèn pha xe cơ giới của bọn chúng nữa. Chúng tôi căng mắt quan sát và
dỏng tai lên nghe động tĩnh. Không nói ra nhưng ai cũng thấy bồn chồn, lo lắng.
Chợt tôi nghe tiếng trợ lý Thọ từ phía sau thì thào thông báo:
- Có tín hiệu bắt liên lạc
rồi! Ông chuẩn bị cho anh em đón và giúp khiêng cáng thương binh, mang vác giúp
họ vũ khí trang bị nhé!
- Vâng! Anh cứ yên tâm,
tôi bố trí đâu vào đó rồi.
Những bóng người lờ mờ
hiện ra trong sương. Đúng là quân ta rồi. Chúng tôi vội rời các mô đá nhào ra.
Không có thương binh nặng phải khiêng cáng, chỉ có một số thương binh nhẹ còn
đi được. Các chiến sĩ đi đón dìu thương binh, dẫn các cán bộ, chiến sĩ cơ quan
trung đoàn lẩn vào ngay khe núi, khuất sau những gộp đá to nhanh chóng ngược
lên đỉnh dốc.
Chợt nhìn thấy một bóng
người nhỏ bé có vẻ lật bật đi cuối đội hình, tôi khẽ hỏi:
- Đồng chí nào chậm chạp
thế! Nhanh lên. Nó bắn pháo sang ngay bây giờ đấy!
- Em… em… là… Ôi! Ai như
anh Hà đấy phải không ạ?
Tôi cũng đã nhận ra người
quen. Tôi liền chạy đến lập bập hỏi:
- Mai… Mai hả?
- Vâng, là em đây anh ơi!
Một ánh lửa đề-pa của pháo
địch sáng loé lên ở phía bên kia núi đất. Tôi vội kéo Mai khuất vào phía sau
gộp đá to. Tôi đưa tay gỡ cái ba lô Mai đang đeo để mang giúp em. Tay tôi chạm
và bờ vai tròn run rẩy vì lạnh của cô gái. Mai để tôi mang giúp cái ba lô của
mình. Tôi không giấu nổi niềm vui:
- Gặp em rồi! Mừng quá…
- Em cũng mừng… nhưng… hu
hu… chị… chị… Nhung hy sinh rồi anh ơi…
Tôi lặng người đi khi nghe
tin Nhung hy sinh. Tôi và Nhung cùng quê Vĩnh Phú, cùng nhập ngũ, lại cùng ở
đơn vị với nhau kể từ ngày vào bộ đội đến giờ. Nhung là văn thư của trung đoàn.
Thỉnh thoảng lên trung đoàn bộ công tác, tôi vẫn ghé thăm Nhung. Nhất là từ khi
Mai về cùng bộ phận với Nhung. Mai vẫn tự nhận là em gái tôi.
Mai quê ở Yên Phong, Hà
Bắc. Tôi quen Mai từ ngày em nhập ngũ. Đó là đầu năm 1978, khi ấy tôi còn ở cơ
quan trung đoàn bộ. Tôi được đi cùng các cán bộ đại đội thông tin về Hà Bắc
tuyển quân. Đơn vị tôi nhận tân binh ở huyện Yên Phong. Trong số các nam nữ
chiến sĩ sẽ biên chế về cơ quan trung đoàn bộ tôi chú ý đến một cô bé nhỏ có
khuôn mặt trái xoan và đôi mắt to rất sáng. Nhận quân trang mới, mặc dù cô bé
này đã phải xắn lên một gấu, ống quần vẫn dài quét đất. Tôi trêu:
- Hay là cho em về để mẹ
cắt bớt nửa ống quần đi cho vừa!
- Đừng coi thường nhé! Vào
bộ đội vài hôm là em sẽ lớn thôi!
Cô bé láu lỉnh cự lại. Lúc
giục mọi người lên xe để hành quân về đơn vị, tôi thấy cô bé này đang đứng với
một chị phụ nữ trẻ. Nhìn hai người rất giống nhau, tôi đoán là hai chị em.
Tôi bảo:
- Đồng chí nữ tân binh
thôi khóc nhè, chùi mũi rồi chào chị gái đi để còn lên đường hành quân về đơn
vị nào!
Cô bé trợn mắt:
- Đây là mẹ em đấy chứ!
Tôi lúng túng vì sự nhầm
lẫn. Người mẹ của cô gái cười dặn:
- Nhờ chú quan tâm giúp đỡ
em Mai với nhé! Tính nó còn trẻ con lắm…
Mai nũng nịu giật giật tay
mẹ. Hai mẹ con cùng lau mắt khi chia tay nhau.
Từ đó tôi và Mai thân
nhau. Mỗi lần gặp nhau Mai thường hay “đe” tôi: “Phải luôn nhớ giúp đỡ em Mai!
Anh đã hứa với mẹ rồi đấy nhé!”. Hết thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, Mai
được điều động về ban hành chính trung đoàn, cùng bộ phận văn thư bảo mật của
Nhung.
Trung đoàn hành quân lên
tuyến trước, các tiểu đoàn đóng quân cách xa trung đoàn bộ. Mỗi lần có việc lên
trung đoàn tôi đều tạt qua thăm Mai. Gặp nhau, Mai khoe đủ chuyện. Nhất là
chuyện quê hương. Mai vẫn bảo: “Khi nào ra quân anh về thăm quê em vào dịp đầu
mùa Xuân, em sẽ đưa anh đi hội Lim nghe hát quan họ!”.
Từ khi cơ quan trung đoàn
bộ rút lui lên Lũng Mật, tình hình lương thực, nước uống càng thêm khó khăn.
Chúng tôi phải vừa củng cố trận địa phòng ngự vừa tổ chức đột nhập xuống chỗ
bọn địch đã chiếm để tìm kiếm lương thực, lấy nước uống.
Một đêm, chúng tôi tổ chức
một bộ phận bí mật xuống một bản dưới chân núi tìm lương thực. Mai và một số
anh chị em cơ quan trung đoàn cũng cùng đi. Trăng đêm mờ đục bởi mây mù dày
đặc. Chúng tôi tổ chức đội hình thành từng tốp nhỏ đi cách nhau một đoạn đề
phòng bị địch phục kích. Khu làng bản cùa đồng bào hoang tàn sau những trận
pháo kích và đốt phá của bọn địch. Trong những căn nhà sập đổ, tìm được thứ gì
chúng tôi lấy thứ nấy, gạo, ngô, đậu tương, lúa của đồng bào bó từng bó để trên
gác bếp. Lúc quay trở về, theo sự phân công của người chỉ huy chung, tôi lùi
lại phía sau chờ mọi người lên dốc mới rút theo. Tôi ôm súng nép vào hòn đá to
bên bờ suối cảnh giới cho mọi người rút lên núi.
Mọi người vượt qua con
suối nhỏ, bắt đầu leo lên dốc. Chờ một lát, ước chừng tất cả đã vượt qua khỏi
đoạn dốc trống trải, tôi mới khoác cái ba lô đựng ngô lên vai rời khỏi vị trí
cảnh giới. Vừa định băng qua suối thì có tiếng gọi nho nhỏ ngay sau mô đá, sát
chỗ tôi đang đứng:
- Anh Hà ơi!
Nhận ra tiếng người gọi,
tôi quay lại:
- Mai hả! Sao tụt lại xa
đội hình thế! Mau vượt lên dốc đi. Ba lô nặng quá đưa anh mang giúp cho!
- Không nặng đâu! Nhưng
anh chờ em một tý nhé!
- Có việc gì vậy! Rút
nhanh kẻo nó bắn pháo sang nguy hiểm lắm!
Tôi vừa nói vừa nhìn về
phía thị trấn, nơi những căn nhà đang cháy rừng rực, thỉnh thoảng ánh lửa đầu
nòng pháo của địch lại lóe lên.
Mai thì thào:
- Anh... cảnh giới cho
em... tắm một tý nhé! Đã mấy ngày rồi... trên núi làm gì có nước?
Đúng là trên núi đá vôi
cằn cỗi nước uống còn chả đủ làm gì có nước mà tắm. Có vị trí tổ chức việc
phòng ngự rất tốt, dễ đánh chặn đánh bọn địch tấn công lên núi nhưng khi mạch
nước cạn mất chúng tôi đành phải rút đi chỗ khác.
Nghe Mai nói vậy, tôi vội
gàn:
- Nước suối lạnh lắm. Đi
thôi em!
- Mặc kệ!
Mai nói và trút hết quần
áo, để trên mô đá rồi lội xuống suối ngay sát chỗ tôi đang đứng. Bất ngờ mặt
trăng ló ra chỗ mây thưa. Cơ thể ngọc ngà của Mai lồ lộ lấp lóa dưới ánh trăng.
Mai đưa hai bàn tay bưng lấy ngực rồi từ từ dìm người xuống dòng nước lạnh. Ánh
trăng sáng ngời trên đôi vai trần của em.
Một lát sau Mai bước lên
đứng cạnh tôi, lặng lẽ mặc quần áo. Xong xuôi cô khẽ hích nhẹ vào vai tôi:
- Chúng mình đi thôi!
Tôi vẫn chưa hết bàng
hoàng trước vẻ đẹp thanh khiết, tròn đầy của cô gái giữa một đêm chiến tranh
nơi góc rừng biên giới.
Tiếng súng bên kia cánh
đồng bỗng rộ lên. Tôi vội kéo Mai hối hả vượt nhanh qua khoảng dốc trống trải,
lẩn ngay vào sau những mô đá nhấp nhô như hình người đang đứng im phăng phắc
thẫn thờ trên sườn núi.
(hết chương 7)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 23.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Tôi và Mai lần theo lối
mòn ngược lên đỉnh núi.
Ánh trăng tuy xuyên qua
làn sương mù dày đặc nhưng vẫn soi rất rõ con đường ngược dốc nên chúng tôi đi
không đến nỗi khó khăn lắm. Chỉ có điều là Mai sức yếu, lại chưa quen leo dốc
núi cao gần như dựng đứng nên em đi rất chậm. Cứ đi được vài bước tôi lại phải
dừng lại đợi. Cái ba lô của Mai chỉ có hơn chục bắp ngô lấy được ở trong bản và
vài thứ nhẹ tênh nhưng em kêu mỏi vai. Tôi phải chuyển dần các thứ của em sang
ba lô của tôi. Lên đến đỉnh dốc thì Mai chỉ còn đeo độc một khẩu súng trên vai.
Về đến gần vị trí trú quân thì Mai giữ tôi lại và bảo:
Về đến gần vị trí trú quân thì Mai giữ tôi lại và bảo:
- Sắp sáng rồi! Chúng mình
vào chỗ nào ngồi với nhau một lát đi anh. Ngày mai bộ phận của chúng em sẽ rút
lui sang Nguyên Bình trước rồi. Từ hôm gặp nhau đến giờ, anh em mình chưa ngồi
nói chuyện với nhau lần nào!
Tôi và Mai tạt vào một hẻm
núi đá gần bên lối đi. Chúng tôi cùng ngồi dựa lưng vào một hòn đá lớn. Gió
lạnh luồn qua từng khe đá, bụi cây. Đêm đã chuyển dần về sáng nên không gian
tĩnh lặng hơn. Tiếng súng của bọn địch cũng lắng đi. Đang thì thầm kể đủ thứ
chuyện thì Mai chợt kêu lên:
- Anh ơi! Em lạnh quá!
- Đã bảo là nước lạnh lắm
lại không nghe! Khéo mà bị nhiễm lạnh, cảm ốm ra trong lúc này thì nguy.
Tôi vừa càu nhàu vừa quờ
chiếc ba lô của mình tìm cái vỏ chăn choàng lên vai Mai. Mai quấn chặt cái vỏ
chăn ngồi thu lu trông nhỏ bé và yếu ớt quá. Hình như Mai vẫn chưa hết lạnh, em
nói giọng run run:
- Vẫn lạnh lắm! Anh…
anh... ôm em đi cho ấm!
Thấy tôi lúng túng chần
chừ, Mai giục:
- Ôm em thật chặt vào… đi
anh…
Tôi lúng túng ngồi sát lại
gần Mai. Mai mở cái vỏ chăn đang quấn quanh người cho tôi cùng trùm lên cho đỡ
lạnh. Rụt rè một lúc tôi mới dám vòng tay trái luồn qua lưng Mai ôm lấy bờ vai
em. Tôi hơi bất ngờ vì Mai không lạnh như em đã nói. Người Mai nóng rực.
Mai ngả đầu vào vai tôi.
Em nói, giọng buồn buồn:
- Chiến tranh ác liệt quá!
Bao nhiêu người ngã xuống rồi! Hôm trước, khi địch tập kích vào hang giữa lúc
em đang đi lấy nước nên còn sống. Bọn chúng đánh sập cửa hang. Cứ nghĩ đến
chuyện chị Nhung và mọi người vẫn còn sống mà bị đá bịt mất cửa hang không ra
được, chết đói, chết khát trong đó là em lại muốn khóc. Thương họ quá anh ơi…
Vai Mai rung rung. Tôi
biết em đang cố nén để khỏi bật ra tiếng khóc. Tôi cũng không biết nói câu gì
để an ủi Mai bây giờ. Không khí như loãng ra. Tôi cảm thấy hụt hơi khi nghĩ về
một ngày mai cuộc chiến đấu sẽ còn rất khốc liệt đầy sự hy sinh, chết chóc.
Tương lai thì càng mù mịt khi các đơn vị tuyến trước bị đánh bật lên núi cao,
không có đường tiến, chẳng có đường lùi và hoàn toàn mất liên lạc và sự chi
viện của tuyến sau.
Chợt Mai lại thủ thỉ:
- Em vẫn nhớ hôm trước anh
và anh Lâm lên trung đoàn công tác đến chỗ em chơi. Em hứa là bao giờ chúng
mình ra quân em sẽ đưa các anh về quê đi trẩy hội Lim…
- Nhất định rồi! Mùa Xuân
sang năm chúng mình sẽ cùng về quê em đi hội Lim nghe hát quan họ nhé!
- Nhưng mà… chiến tranh
chả biết rồi sẽ thế nào!
Nghe giọng nói của Mai sao
mà buồn thế.
Hai chúng tôi cùng im lặng
hồi lâu. Mỗi người thả lòng mình vào sự suy tư khác nhau nhưng chắc chắn rằng
Mai cũng như tôi đang xao động, trăn trở về cuộc chiến này. Mai vẫn ngoẹo đầu
dựa vào vai tôi. Hơi thở của em nhè nhẹ phả vào cổ tôi âm ấm. Tôi nghĩ chắc Mai
mệt quá đã ngủ thiếp đi. Chợt có một tiếng nổ khá lớn dưới thị trấn vọng lên.
Mai hơi giật mình. Bàn tay em lần tìm bàn tay phải của tôi nắm chặt. Tôi thấy
thương Mai quá. Con gái trong chiến tranh sao mà lẻ loi và khốn khổ đến thế.
Mai vẫn giữ chặt tay tôi trong tay mình như sợ tôi đột nhiên biến mất. Bàn tay
nhỏ nhắn của em như có lửa. Bàn tay Mai run rẩy. Và thật bất ngờ, Mai kéo bàn
tay tôi lên áp chặt vào khuôn ngực bên trái của mình. Tôi hốt hoảng khi nhận ra
khuy ngực áo của Mai đã mở từ lúc nào. Bàn tay tôi chạm vào bầu ngực mịn màng,
tròn trịa, ấm nóng của Mai. Tôi run cầm cập, định rụt tay lại. Nhưng Mai kéo
giữ chắc bàn tay tôi áp chặt vào ngực mình. Mai cứ giữ mãi bàn tay tôi như thế.
Khi định thần, bình tĩnh lại, tôi cảm nhận được trong lòng bàn tay của mình con
tim nhỏ bé của Mai đang đập nhoi nhói.
Hai chúng tôi cùng thiếp
đi vì quá mệt mỏi sau bao ngày gian khổ, ác liệt. Khi tôi sực tỉnh thì trời đã
sáng bạch. Mai vẫn ngủ rất ngon. Bàn tay em giữ tay tôi hơi lỏng ra. Tôi khẽ
lựa rút bàn tay ra khỏi ngực Mai. Tôi run lên khi lần đầu nhìn thấy bầu vú tròn
vo, trắng hồng của người trinh nữ. Trên đó còn in hằn dấu bàn tay tôi đã giữ
chặt suốt đêm qua.
Một cơn gió bắc ào vào thung
lũng. Cái lạnh thốc vào hẻm núi làm Mai bừng tỉnh. Em ngước nhìn vào mắt tôi
rồi nhìn xuống ngực mình. Đoạn em khẽ khàng gài lại khuy áo. Sương tan dần. Đôi
mắt Mai lặng lẽ nhìn chăm chăm về phía trước như vô định. Đôi mắt em trân trân
không chớp. Tôi hiểu em đang “nhìn” vào chính mình, nhìn vào thân phận của
những người lính trong chiến tranh khốc liệt này…
Đến lúc chúng tôi phải về
đơn vị. Mai ôm chặt lấy tôi như không muốn rời.
Tối hôm ấy, cơ quan trung
đoàn bộ rút đi. Hai ngày sau tôi nhận được một tin đau xót là Mai và một số
chiến sĩ đã hy sinh trong đêm vượt vòng vây quân địch tại huyện Thông Nông. Bọn
địch phát hiện truy kích quân ta. Mai và mấy người nữa đã chiến đấu đến viên
đạn cuối cùng chặn địch cho đơn vị rút lui an toàn.
Tôi bần thần, ngơ ngác mất
mấy ngày liền. Tôi không tin là sẽ không bao giờ còn được gặp lại Mai nữa. Nhớ
đến Mai từ lần gặp đầu tiên em đứng bên mẹ hôm mới nhập ngũ, những kỷ niệm
chung và nghĩ về cái chết anh dũng của em, tôi viết tặng Mai bài thơ “Tiếng
gọi”.
Tiếng gọi
Trước lúc hy sinh em cố gọi: “Mẹ ơi!”
Tiếng gọi chìm trong tiếng súng.
Tiếng gọi tắt nửa trên môi.
Người em gái tuổi chớm đôi mươi
Chưa một lần hò hẹn
Chưa biết đến nụ hôn
Em mang cả trinh nguyên về với đất.
Trái tim em đạn thù găm nát
Nỗi đau từ đó vỡ ra,
Tình yêu từ đó vỡ oà
Em gửi lại cho những người ở lại.
Chúng tôi đứng sát bên nhau
Nòng súng vươn cao lặng lẽ cúi đầu
Phút cuối cùng tiễn đưa người em gái.
Đặt một cành lá xanh
Trên nấm mộ gió mưa tê tái
Tôi chợt nghe như em vẫn còn gọi mãi:
“Mẹ… mẹ ơi!”.
Sau này, đến khoảng cuối
tháng bảy năm bảy chín, tôi và Lâm có quyết định về tập trung tại trường văn
hoá của quân khu để ôn thi đại học. Sau trận đánh nhử dụ quân địch vào bãi mìn
ở mỏm Đầu Bò, Lâm chạy thoát được về phía nam điểm cao 505. Gặp một đơn vị của tiểu
đoàn 2, Lâm đã theo đơn vị này chiến đấu ở mạn Cao Bình, Hoà An. Khi rút lên
khu vực núi đá vôi Lâm mới tìm được về đơn vị cũ. Lâm và tôi đã có những tháng
ngày chiến đấu gian khổ trong vòng vây quân thù khi bị thất lạc khỏi đội hình
của tiểu đoàn.
Trước khi rời Cao Bằng về
xuôi, tôi và Lâm đến thăm nơi Mai đang yên nghỉ. Quỳ trước nấm mộ của Mai, tôi
đọc bài thơ thứ hai này cho em nghe. “Thôi em ở lại”
Vậy thôi em ở lại,
Bọn anh ngày mai về xuôi.
Hôm lên chúng mình có ba người
Một mình em con gái
Quê em ở bến sông Cầu.
Em nói ngày ra quân năm sau
Đưa bọn anh về làng Lim đi hội
Nghe quan họ hát thâu đêm…
Thế mà bây giờ chỉ một mình em
Ở lại đây với núi rừng biên giới.
Trận đánh ấy vô cùng dữ dội
Giữa vòng vây quân giặc trùng trùng
Quả lựu đạn cuối cùng
Trên tay em chớp lửa
Quân thù kinh hoàng, tơi tả,
Em hoá thân vào trời đất bao la,
Nên ngày về xuôi chẳng còn đủ ba
Khuyết mất người em gái nhỏ.
Hai đứa anh ngồi bên nấm mộ
Bùi ngùi dặn em trước lúc chia tay:
“Thôi em ở lại đây
Với chập trùng núi đá
Với bạt ngàn hoa lau,
Để mùa Xuân trên bến sông Cầu
Thiếu một người đội nón quai thao đi hội…”.
Đọc xong, tôi liền châm
lửa đốt tờ giấy chép bài thơ thay một nén nhang tưởng nhớ người liệt nữ. Bài
thơ cháy bỏng trên tay tôi, tàn tro vương rơi trên mặt đất.
Đúng một năm sau đó, tôi
về học ở một trường sĩ quan tại Bắc Ninh. Lần đầu tiên đi Hội Lim, giữa dòng
người trẩy hội đông nghẹt, tôi lại nhớ đến Mai. Tôi cứ nghĩ là em đang đưa tôi
đi xem hội, nghe hát dân ca. Em vẫn ở đâu đó quanh đây, giấu khuôn mặt xinh đẹp
sau vành nón nhỏ và sẽ bất ngờ xuất hiện ngay bên cạnh tôi với ánh mắt sáng
long lanh, nụ cười tinh nghịch trên môi… Và, tôi đã viết cho em bài thơ thứ ba
này. “Hội Lim tôi lại đi tìm”
Hội Lim tôi lại đi tìm
Mong sao gặp ánh mắt em hôm nào,
Trốn sau vành nón quai thao
Thoảng nghe tiếng gọi ngọt ngào: “Người ơi…”
Hội đông, người chạm vai người
Không em tôi vẫn lẻ loi một mình
Cô đơn khóm trúc đầu đình
Buồn trông liền chị, liền anh dập dìu
Đêm cho câu hát liêu xiêu
Tay nâng vạt áo bao nhiêu hẹn hò.
Riêng tôi mong sự bất ngờ
Biết đâu hội tự bao giờ đã tan...?.
(hết chương 8)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 25.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Đêm đã về khuya. Gió bắc
thổi mạnh. Cái lạnh nơi biên ải như càng lạnh lẽo thê lương, ảm đạm hơn trong
những đêm chiến tranh đầy chết chóc. Tiếng pháo hạng nặng của bọn giặc thỉnh
thoảng lại dội lên. Tiếng nổ oành oành vọng vào vách đá tạo thành âm thanh man
dại nối dài mãi không dứt hẳn. Những đốm lửa bùng lên chỗ đầu đạn rơi tạo nên
những ánh sáng chập chờn, ma quái.
Đã sang đầu tháng ba. Tiểu
đoàn tôi vẫn chiến đấu trong vòng vây của quân địch, chỉ nhận được sự chi viện
ít ỏi của cấp trên. Đó là một số chiến sĩ mới và một ít đạn dược.
Số các chiến sĩ mới được
bổ sung về cơ quan tiểu đoàn bộ đã có mặt tập kết ở tràn ruộng phía sau mỏm núi
đá. Tôi được phân công giúp trợ lý tham mưu Thọ đi nhận quân cho
tiểu đoàn bộ. Tôi và trợ lý tham mưu Thọ phải lần từng bước đi hết hàng
quân để nhận mặt từng chiến sĩ mới. Đến cuối đội hình tôi chợt giật mình ngạc
nhiên nhận ra một người trong số tân binh đang đứng trước mặt mình. Tôi khẽ kêu
lên:
- Thầy Thám! Sao thầy lại
ở đây?
- Ơ...- Thầy Thám cũng rất
ngạc nhiên:- Tôi... tôi hiện đang là quân nhân mà!
- Thầy nhập ngũ từ bao
giờ, mà sao lại lên tận trên này?
- Tôi nhập ngũ ngay sau
khi có lệnh tổng động viên...
Tôi chợt hiểu. Gần tháng
trời nay khi chiến tranh nổ ra, chúng tôi lăn lộn chiến đấu trong vòng vây hãm
của quân thù. Cái sống, cái chết cận kề. Ngày giữ chốt, đêm đi phản kích giành
lại điểm tựa hoặc lần mò xuống các bản làng tìm lương thực, lấy nước, thông tin
chiến sự chúng tôi mù mờ chả rõ ràng gì ngoài mệnh lệnh chiến đấu. Các đơn vị
bị tổn thất, cầm cự mãi nhiều khi tưởng không giữ nổi trận địa nữa. Ở tuyến
trước chúng tôi không biết là ngay sau khi chiến tranh nổ ra đã có lệnh tổng
động viên. Nhưng tôi cứ băn khoăn thắc mắc không hiểu vì sao một người bị cận
thị nặng như thầy Thám lại được gọi nhập ngũ. Tôi đoán chắc là thầy đã có “thủ
thuật” gì đây. Do tình hình cuộc chiến tranh nên nhiều người như thầy Thám được
gọi nhập ngũ, huấn luyện sơ sài rồi được đưa ngay lên tuyến trước bổ sung vào
các đơn vị chiến đấu đã bị hao hụt quân số sau những ngày đọ sức với quân xâm
lược đông gấp nhiều lần. Tôi hỏi:
- Thầy đã biết sử dụng
những loại súng nào?
- Chỉ biết mỗi súng AK, đã
được bắn bài 1, ba viên trúng bia được hai viên, đủ điểm đạt yêu cầu...
Có tiếng cười khùng khục
trong hàng quân. Trợ lý tham mưu Thọ động viên các chiến sĩ mới:
- Các đồng chí yên
tâm, anh em chiến sĩ cũ sẽ hướng dẫn thêm cho các đồng chí sử dụng các loại vũ
khí trang bị khác, nhất là các loại hỏa lực đơn vị ta được trang bị như cối 60,
trung liên, đại liên, B40, B41...
Sau khi trợ lý Thọ đọc
biên chế số anh em chiến sĩ mới về các tiểu đội, tôi gặp lại thầy Thám và dặn:
- Thầy nhớ phải thật cẩn
thận nhé!
- Anh cứ yên
tâm...
Nghe thầy nói như vậy
nhưng tôi vẫn không yên lòng. Nhìn cặp kính cận dày cộp trên mắt thầy tôi cứ
thấy lo lo cho thầy. Đến khi lâm trận rồi tôi đã hiểu, chiến tranh khác hẳn
những miêu tả trong những gì mà văn xuôi, thơ ca viết về nó mà thầy từng giảng
cho chúng tôi ngày còn đi học.
Đó là năm cuối cùng tôi
học cấp 3. Thầy Thám về trường tôi công tác. Thầy còn rất trẻ, có lẽ chỉ hơn
cánh học sinh cuối cấp chúng tôi vài tuổi. Là giáo viên mới ra trường, thầy
Thám được phân công dạy các lớp dưới. Nhưng thầy khi còn là học phổ thông vốn
là một học sinh giỏi văn, từng đoạt giải nhì môn văn toàn miền Bắc. Thầy Thám
được hiệu trưởng phân công kèm cặp, phụ đạo thêm cho nhóm học sinh giỏi môn văn
của khối lớp 10 chúng tôi. Thầy giảng văn rất hay, nhất là văn học về đề tài
chiến tranh cách mạng. Thầy sinh hoạt cùng chi đoàn lớp tôi. Giữa tôi và thầy
có những kỷ niệm vui buồn. Thầy giúp tôi rất nhiều trong quá trình học tập và
tiếp cận với văn học. Nhiều bài văn, bài thơ của tôi được thầy góp ý để sửa
chữa, có bài được đăng báo từ ngày còn đi học ấy. Nhưng cũng có một chuyện buồn
nho nhỏ mà tôi thầm oán trách thầy mãi.
Lần ấy vào khoảng
cuối mùa đông năm 1973. Hôm đó chi đoàn lớp tôi tổ chức lao động lấy tiền mua
sách vở giúp các bạn nghèo và mua sổ tay, giấy pơ-luya, tem thư tặng các bạn
sắp lên đường nhập ngũ. Chúng tôi tiến hành đào đãi sỏi ở dưới sông Phó Đáy đem
lên bán cho công trường khai thác vật liệu xây dựng. Thấy việc đãi cát ở giữa
dòng sông cạn rất vất vả và năng xuất thấp, tôi và mấy bạn nữa vào sát bờ sông
phía bên lở để moi sỏi. Ở những chỗ ấy sỏi nhiều, chả phải đãi lâu mất thời
gian, chỉ việc cào sỏi vào rổ sảo khua khua qua nước cho sạch đất cát là gánh
lên bờ. Giữa lúc chúng tôi đang mải mê làm thì thầy Thám hết tiết dạy buổi
chiều ra sông tham gia cùng lao động với chúng tôi. Thấy cách mà chúng tôi lấy
sỏi thầy hốt hoảng kêu lên:
- Dừng lại ngay! Các bạn
khai thác sỏi kiểu này rất nguy hiểm!
- Không việc gì đâu thầy
ơi!
- Không là thế nào! Nếu cứ
đào moi sâu vào bờ thành một cái hầm ếch như thế này, bờ sông bất ngờ sụp đổ
xuống nguy hiểm lắm!
- Thầy yên tâm! Khi nào bờ
sông sắp sập thì nó phải kêu răng rắc chứ, lúc đó chạy vẫn kịp.
Nhưng đất sập thì làm gì
có chuyện kêu "răng rắc" như cây sắp gãy, nhà sắp đổ. Giữa lúc tôi và
thầy còn đang tranh luận thì bờ sông sụp xuống thật. Thấy đất vụn đột
nhiên rơi lả tả tôi hét to:
- Đất sập đấy...
chạy... chạy... ngay...
Tôi và mấy bạn nữa vội lao
ra ngoài hầm ếch khai thác sỏi. Riêng Lương đang mải mê moi sỏi
thì không để ý. Thầy Thám vội lao vào kéo Lương ra khỏi hầm ếch. Một tảng đất
to ụp xuống. Lương bị đất đè chẹn ngang người, mặt úp xuống mặt sông cạn. Tôi
nhào đến cố nâng đầu Lương lên cho khỏi bị ngạt nước. Trong khi đó thì thầy
Thám và các bạn khác ra sức moi đất để lôi cô bé ra khỏi nơi nguy hiểm. Khi
chúng tôi đưa được cô bé Lương chạy ra xa thì cả một đoạn bờ sông đổ sập xuống.
Thật hú vía. Không ai việc gì nhưng tất cả bị một phen sợ hãi. Buổi lao động
phải bỏ dở chừng vì gần như toàn bộ quang gánh, cuốc xẻng của chúng tôi đều bị
đất sập vùi lấp hết.
Buổi sinh hoạt chi đoàn
sau đó tôi bị thầy Thám phê bình rất gay gắt vì tổ chức cho đoàn viên lao động
mất an tòan. Cũng kể từ đó tôi không ưa gì thầy Thám nữa.
Khi
tôi lên đường nhập ngũ thì thầy cũng được chuyển về trường chuyên của tỉnh.
Không ngờ hôm nay tôi gặp lại thầy ở nơi biên giới xa xôi này.
***
Nhận chiến sĩ
mới xong, một số được bổ sung ngay vào các bộ phận chiến đấu. Tình
hình chiến sự ngày càng thêm ác liệt. Bọn địch tràn ngập khu vực Sóc Giang. Các
hướng biên giới khác cũng đều bị quân địch chọc thủng tuyến phòng ngự. Tiểu
đoàn chúng tôi tiếp tục cuộc chiến đấu trong vòng vây quân thù. Trong số chiến
sĩ mới bổ sung về đơn vị có người chưa đủ một ngày có tên trong biên chế của
trung đội thì đã hy sinh. May mà thầy Thám qua mấy trận vẫn bình yên. Một lần
gặp tôi thầy khoe:
- Tôi đã biết cách sử dụng
súng phóng lựu M79 và súng chống tăng B41 rồi đấy!
Tôi bảo thầy:
- Trong chiến đấu thầy
phải thật cẩn thận. Thầy nhớ lấy đoạn dây dù buộc cặp kính cận đeo vào cổ
cho chắc kẻo đạn pháo nổ gần văng mất kính là coi như bị mù đấy!
- Anh cứ yên tâm!
Thầy Thám cười bắt tay tôi
rồi rẽ vào một ngách chiến hào. Nhìn theo hút thầy tôi chợt nghĩ: "Sau
trận này trở lại trường, thầy mà giảng về văn học chiến tranh chắc là sẽ còn
hay hơn nữa...".
Các đơn vị thiệt hại nặng
nhận được lệnh rời bỏ các điểm chốt dọc con đường xuôi Mỏ Sắt rút lui lên núi
đá khi mà không thể giữ vững được trận địa trước lực lượng đông đảo và sức tấn
công rất mạnh mẽ, ác liệt của bọn giặc. Để rút lui được sang dãy núi bên kia
cánh đồng cũng là cả một sự cam go, khó khăn, nguy hiểm. Chúng tôi tổ chức cho
một bộ phận đưa anh em thương binh đi trước. Một bộ phận ở lại hôm sau mới rút
đi gồm những người còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Họ có nhiệm vụ đánh chặn bọn giặc
và chờ khi đơn vị đã lên dãy núi đá vôi thật an toàn mới rút lui theo. Lúc điểm
danh những người ở lại chợt nhìn thấy thầy Thám đang đứng cuối hàng quân tôi
bảo:
- Tôi sẽ đề nghị tiểu đoàn
cho thầy đi cùng bộ phận anh em thương binh nhẹ rút sang bên kia sườn núi đá
vôi trước!
Thầy Thám nói ngay:
- Tôi xin được ở lại đấy!
- Thầy nên đi trước, ở lại
chặn giặc rút sau đội hình nguy hiểm lắm...
- Anh đừng lo cho tôi! Tôi
sẽ không sao đâu!
Tôi định cố khuyên thầy
thì chiến sĩ liên lạc của tiểu đoàn gọi tôi lên gặp tiểu đoàn trưởng Thêm nhận
mệnh lệnh mới.
Thêm nhiều chiến sĩ nữa hy
sinh khi rút lui. Nhưng đơn vị chúng tôi cũng đã vượt qua được cánh đồng bám
trụ được vào chân núi đá để chuẩn bị vượt lên trên đỉnh núi. Hình như đã
phát hiện ra được việc lui quân của đơn vị chúng tôi bọn địch lập tức tập trung
hỏa lực bắn chặn và tổ chức bộ binh đuổi theo. Bộ phận ở lại triển khai trận
địa ở ngay chân núi đá đánh chặn kìm chân địch cho đơn vị rút lên trên núi cao.
Trong số người ở lại phía sau chặn quân địch ấy có thầy Thám.
Khi chúng tôi đã rút lên
được lưng chừng dãy núi đá khá an toàn rồi thì trận đánh của các chiến sĩ rút
theo phía sau chặn quân giặc truy kích vẫn diễn ra vô cùng ác liệt. Địch tập
trung xe tăng, bộ binh tràn qua cánh đồng áp sát trận địa phòng ngự của những
người ở lại. Từ trên sườn núi đá cao chúng tôi nhìn rất rõ những người lính
không có công sự, họ nằm phơi trên mặt đất, nấp sau những mô đá chiến đấu với
kẻ thù đông gấp bội. Trận dánh cuối cùng của họ diễn ra ngay trước mắt những
người vừa rút lên núi trước đó. Chúng tôi nhìn thấy những người chiến sĩ đã bị
trúng đạn và hy sinh như thế nào. Nhìn thấy cả người lính bị thương giẫy giụa
vì đau đớn. Người lính ấy đã rút chốt quả lựu đạn cuối cùng chết cùng bọn giặc
khi chúng ập đến.
Nghe tiếng súng thưa dần,
tiếng reo hò của bọn giặc ầm ĩ chúng tôi biết những đồng đội của mình đã hết
đạn và tàn kiệt sức chiến đấu. Khi chuẩn bị rời vị trí để tiếp tục rút lên cao
trên dãy núi thì tôi nghe tiếng một chiến sĩ nằm bên cạnh kêu lên:
- Thầy Thám...
Tôi vội nhìn xuống chân
dốc. Đúng là thầy Thám rồi. Thầy Thám đang bò lết ở phía sau một mô đá. Phía
trước mô đá ấy là một chiếc xe tăng và lúc nhúc bộ binh địch đang hò hét tiến
vào. Tôi chăm chú theo dõi hành động của thầy. Thầy Thám cố thu người nép vào
mô đá để tránh bọn địch phát hiện. Đột nhiên thầy nhổm dậy. Thầy quỳ sau mô đá
và đặt khẩu súng chống tăng B41 lên vai. Tôi hốt hoảng thốt lên: "Không
được! Không được bắn thầy ơi!". Thầy không được bắn bởi lẽ đuôi khẩu súng
B41 của thầy đang kề sát vào vách núi đá dựng đứng. Khi thầy bắn luồng lửa phụt
ra ở đuôi khẩu súng chống tăng sẽ không có đường thoát. Với luồng lửa nóng bỏng
cả ngàn độ ấy bật trở lại thầy sẽ chết cháy trước khi viên đạn của thầy
bắn ra bay tới mục tiêu.
Tôi cố hét thật to:
- Thầy không được bắn!
Từ trên sườn núi đá cũng
có nhiều tiếng kêu lên thảng thốt như thế. Tiếng gọi của chúng tôi chìm trong
tiếng súng, không biết thầy có nghe được không? Thầy đã biết cách sử dụng súng
chống tăng B41 rồi sao lại định bắn trong tư thế ấy. Chúng tôi nín thở nhìn
thấy, lòng đầy lo lắng, sợ hãi. Thầy Thám vẫn lặng lẽ điều chỉnh đường ngắm vào
chiếc xe tăng quân giặc đang chồm tới rất gần. Tôi thấy thầy đưa tay lau mặt và
sửa lại cặp kính cận.
Một vầng lửa bùng lên ở
khe núi trước khi một vầng lửa khác bùng lên trên chiếc xe tăng quân giặc. Thầy
Thám đã bắn quả đạn B41 trong tư thế quyết tử ấy. Thầy đã hy sinh trước khi
nhìn thấy mục tiêu bị tiêu diệt. Chắc chắn thầy đã hiểu điều này trước khi bình
tĩnh xiết cò.
Nhìn quầng lửa vẫn còn
đang bùng lên nơi thầy vừa bắn quả đạn B41, tôi bật lên tiếng gọi: "Thầy
ơi!".
(hết chương 9)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 26.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
TRONG VÒNG LỬA
Những ngày chúng tôi ở
Lũng Mật thật là khốn khổ. Thiếu lương thực, thiếu nước, bộ đội đói khát tả
tơi. Vách núi đá vôi khô khốc. Chỗ khe đá có nhiều cây nhất ở Lũng Mật nước hơi
ri rỉ ra cả ngày cũng chỉ được độ vài xô nước. Bà con ở Lũng Mật thường dùng
nước mưa là chủ yếu. Nước mưa được hứng cho chảy vào các bể chứa xây bằng xi
măng. Bể nào to cũng chỉ độ một hai mét khối. Bây giờ bộ đội và dân các bản
dưới chân núi chạy loạn kéo lên cả trăm người thì lượng nước dự trữ ở Lũng Mật
cũng cạn dần.
Buổi tối chúng tôi phải
tụt xuống tận dòng suối dưới chân núi để lấy nước. Từ hôm bọn thám báo địch
phát hiện phục kích bắn chết mấy chiến sĩ và một cô thanh niên xung phong thì
việc đi lấy nước phải tạm dừng lại.
Bộ đội phân tán ẩn náu
trong các khe đá, hoặc giữa các mô đá mồ côi nhấp nhô khắp thung lũng. Ngoài các
bộ phận đi cảnh giới, trinh sát tuyệt đối không đi lại lộn xộn tránh bị bọn
địch phát hiện. Biết là đói, là khát chúng tôi cũng phải chấp hành mệnh lệnh
nằm yên một chỗ chờ đến khi trời tối mới triển khai các hoạt động. Có một anh
thương binh nằm trong khe núi tỷ mẩn quan sát những cây dương xỉ bám trên đá.
Anh thấy những cái rễ loà xoà trùm lên hòn đá có những nốt phồng to như hạt
lạc. Anh bứt một hạt nhấm thử, thấy có nước và vị ngòn ngọt. Thì ra những cây
dương xỉ trên núi đá vôi khác hẳn những cây dương xỉ sống ở khu vực núi đất và
trong khe suối ẩm ướt. Những nốt sần treo lủng lẳng trên rễ của cây dương xỉ
mọc trên núi đá vôi quanh năm cằn cỗi chính là những cái túi dự trữ nước của
cây qua mùa khô hạn. Thiên nhiên khắc nghiệt đã bắt buộc cỏ cây, sinh vật phải
có cách thích nghi để tồn tại.
Người lính ấy đã gào lên:
- Nước… có nước rồi chúng
bay ơi… ha… ha… ha…!
- Thôi chết! Thằng này đau
quá mê sảng rồi!
Mọi người xúm lại vì ai
cũng nghĩ anh ta mệt và khát quá nên mê sảng. Anh thương binh đưa ra một nắm
những cái hạt sùi của cây dương xỉ bảo mọi người nếm thử. Và, thế là thật tình
cờ, chúng tôi phát hiện ra một nguồn nước tuy không thể nấu cơm, rửa vết thương
cho thương binh nhưng lại có thể giải khát bất cứ lúc nào. Chúng tôi bứt những
cái nốt sần của cây dương sỉ nhai cho đỡ cơn khát. Quả là một nguồn nước vô tận
cho người lính trong vòng vây quân thù. Một nguồn nước nhỏ nhoi nhưng thật là
vô cùng quý giá.
Những ngày ở Lũng Mật,
chúng tôi chủ yếu là ăn gạo sấy. Đó là loại gạo đã được rang chín đóng trong
túi ni-lông. Giá mà có nước sôi đổ vào thì ăn sẽ ngon hơn. Nhưng chúng tôi
không nấu được nước sôi vì khói bốc lên dễ để lộ vị trí giấu quân. Vì thế, gạo
sấy chủ yếu ngâm bằng nước lã. Ăn thứ gạo sấy này giống hệt như cơm nguội ném
vào nước lạnh cho trương lên, hoặc tựa như những hạt cơm còn sót lại trong chậu
sau khi rửa bát. Nó nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng trong vòng vây của kẻ thù có được
một chút gạo sấy để ăn cho đỡ đói là đã may lắm rồi. Nhiều bộ phận không còn
một gói gạo sấy nào nữa. Bộ đội cả ngày cũng chỉ có vài hạt ngô rang khô khốc.
Một sáng, tôi đang chìm
trong giấc ngủ sau một đêm đi bám địch thì chợt tỉnh vì nghe tiếng quát, tiếng
khóc ở ngay hốc đá bên cạnh. Tôi bật dậy xách súng trèo qua gộp đá nhảy sang
xem có chuyện gì.
Anh Thành, trung đội phó
trung đội vận tải đang quát hai cô gái:
- Các cô là ai! Tại sao
các cô lại chui vào đây?
- Chúng em là thanh niên
xung phong… lạnh quá nên…
Hai cô gái ôm vai co ro
ngồi gục đầu khóc nức nở.
Tôi nhận ra đó là hai nữ
thanh niên xung phong mà bộ phận bám địch tối hôm qua tìm thấy dẫn theo về cùng
một số bà con các bản làng bị bọn địch truy đuổi đang tìm được chạy lên núi tìm
theo bộ đội. Tôi liền nói để trung đội phó Thành hiểu. Nét mặt trung đội phó
Thành dịu đi. Các chiến sĩ xúm lại hỏi chuyện. Thì ra, khi lên tới Lũng Mật đã
gần sáng, hai cô bé này mệt và buồn ngủ quá liền chui luôn vào một hốc đá chỗ
có nhiều chiến sĩ đang nằm định ngồi nhờ cho đỡ rét. Thấy có mấy người đang
trùm chăn nằm ngủ hai cô bé liền ôm nhau nằm kế bên cạnh. Đêm lạnh quá hai cô
bé này liền kéo cái chăn của những người lính đang nằm trong hốc đá để đắp ké
cho đỡ rét. Khi trời sáng, khi trung đội phó Thành và mấy chiến sĩ vận tải đến
để chuẩn bị việc mai táng liệt sĩ thì hai cô bé mới bàng hoàng biết là suốt đêm
qua họ đã đắp chăn và nằm cùng những người lính đã chết. Hai cô bé thanh niên
xung phong sợ hãi tái nhợt cả mặt mũi. Đến bây giờ các cô cũng mới hiểu vì sao
mà suốt cả đêm nằm sát các anh ấy mà vẫn cứ lạnh ngắt và lạ nhất suốt đêm chả
thấy ai trở mình cục cựa một lần nào. Cả hai lại cứ nghĩ là do các anh ấy mệt
quá nên ngủ chìm đi.
Nhìn nét mặt tái nhợt,
thẫn thờ vì còn đang rất hoảng sợ của hai cô bé, tôi tìm cách lựa lời an ủi:
- Đừng sợ! Họ đều là những
người đồng đội, những người lính chiến đấu thân thiết của chúng ta cả thôi. Các
anh đã vì tổ quốc mà hy sinh quên mình. Các anh ấy chết rồi nhưng vẫn như đang
sống mãi cùng chúng ta đấy. Chẳng có gì phải sợ cả.
Một chiến sĩ tiếp lời:
- Đúng vậy! Hôm qua, tôi
cõng các anh ấy từ dưới cánh đồng leo lên núi. Chắc là nhờ các anh ấy phù hộ
cho nên tôi bị bọn địch bắn xối xả mà vẫn chạy thoát được đấy!
Mỗi người một câu, động
viên an ủi. Hai cô bé thanh niên xung phong mới có vẻ hơi hoàn hồn. Nhìn hai cô
bé nét mặt bơ phờ, đầu tóc rối tung, quần áo mong manh rách tả tơi tôi thấy
thương quá. Có lẽ hai cô gái thanh niên xung phong này cũng chỉ trạc tuổi em
Mai thôi. Tôi liền lên tiếng đề nghị:
- Ai còn mang theo được
hai bộ quần áo thì san sẻ bớt cho hai cô thanh niên xung phong này một chiếc.
- Có… có…
Mấy chiến sĩ vội lục ba
lô. Người cho cái quần, người thì cho cái áo, chiếc khăn mặt. Hai cô bé mỗi
người có thêm một bộ quần áo nữa. Họ mặc vào bớt rét nên đỡ run rẩy hơn. Nét mặt
hai cô bé có vẻ tươi tỉnh lại một đôi chút. Tôi đưa cho hai cô một cái vỏ chăn
và bảo:
- Cầm lấy! Buổi tối ngủ
hai người đắp chung cho đỡ rét. Trên núi này nhiều sương mù nên lạnh lắm...
- Nhưng anh cho chúng em
rồi thì trời lạnh anh lấy cái gì để đắp…
- Yên trí! Đã có cái này
rồi…
Tôi nói và rút từ trong ba
lô ra một cuộn vải còn mới tinh lòng thòng những cái đai may sẵn rồi giải
thích:
- Đây là một tấm vải liệm
đã may sẵn dùng để khâm liệm người hy sinh, bộ đội bọn anh được cấp phát để
dùng trong chiến đấu. Khi chưa phải dùng đến thì cứ đem ra đắp tạm cho đỡ rét.
Mong rằng mình sẽ được sự dụng nó để đắp cho đến hết cuộc chiến tranh mà không
phải dùng đến nữa.
- Ôi trời…
Hai cô bé tròn mắt nhìn
tấm vải liệm tôi đang cầm trên tay. Đúng là nó giống hệt những tấm vải liệm mà
các chiến sĩ trung đội vận tải đem đến đang trải ra để chuẩn bị khâm liệm cho
các liệt sĩ.
Mọi người bắt tay vào việc
gói ghém liệt sĩ. Hai cô thanh niên xung phong cũng có vẻ đỡ hoảng sợ hơn sau
một đêm đã nằm cùng những người đã chết. Hai cô bé giúp các chiến sĩ trung đội
vận tải khâm liệm các liệt sĩ để đưa đi mai táng.
Qua trò chuyện chúng tôi
biết tên hai cô bé thanh niên xung phong. Một người tên là Ngọc, một cô tên là
Thuỳ. Cả hai đều là sinh viên một trường cao đẳng sư phạm ở thành phố Thái
Nguyên. Hai cô bé cùng rất nhiều bạn bè hăng hái xung phong lên phục vụ chiến
đấu ở biên giới. Đơn vị thanh niên xung phong của các cô đóng ở mãi phía sau.
Mấy ngày đầu cuộc chiến các cô đã vác đạn lên trận địa cho bộ đội, khênh cáng
thương binh về tuyến sau. Nhưng rồi tuyến sau lại bị quân địch tập kích tấn
công trước. Chúng tràn vào doanh trại của đội thanh niên xung phong bắt hàng
chục cô gái lột hết quần áo, cưỡng hiếp rồi dùng lưỡi lê đâm chết, mổ bụng,
chặt chân tay, quăng xác xuống giếng, xuống ao. Một số bị tra tấn rất rã man và
bị đưa đi đâu không rõ... May hôm bọn địch xông vào doanh trại Ngọc và Thuỳ
đang đi cáng thương binh về chậm nên mới thoát được. THấy trong doanh trại có
nhiều tiếng kêu khóc thảm thiết hai cô biết có chuyện xảy ra. Hai người nấp ở
trên đồi nhìn bọn giặc làm nhục và giết hại các bạn mình cắn môi đến bật máu mà
không dám khóc. Chờ đến tối, hai cô bé này chui ra khỏi chỗ ẩn nấp dắt nhau
chạy về hướng dãy núi đá tìm bộ đội ta. Hai người gặp được một số người dân và
được bộ phận đi trinh sát nắm tình hình địch của tiểu đoàn chúng tôi đưa lên
Lũng Mật.
Hai cô bé vừa kể lại mọi
chuyện vừa khóc. Họ khóc khi nói về đồng đội và khóc cho cả những người lính
chiến vừa được vùi dưới lớp đất mỏng không có một nén nhang, không một bông hoa
trên nấm mộ, chỉ có một cành lá xanh ướt đẫm sương cắm vội trên nấm đất. Những
giọt sương đêm từ cành lá nhỏ xuống như những giọt lệ đang rơi.
Sau khi mai táng các liệt
sĩ về, Ngọc và Thuỳ được chỉ huy tiểu đoàn gọi lên bổ sung vào bộ phận hậu cần
của đơn vị. Hai cô bé này đã theo đơn vị chúng tôi cho đến hết cuộc chiến
tranh. Trên đường hành quân gặp hai cô bé, thắt lưng gài lựu đạn, vai đeo ba lô
tự tạo làm bằng cái quần dài hai ống buộc túm lại giống hệt các chiến sĩ khi
phá vòng vây rút lui khỏi trận địa phòng ngự, tôi cười bảo:
- Hai em đã trở thành
những người chiến sĩ thực sự rồi đấy. Cố gắng lên nhé!
- Chúng em sẽ cố gắng anh
ạ!
Tôi dặn thêm:
- Trong tình huống nào
cũng phải cố mà bám bằng được đội hình hành quân của bộ đội nhé. Bị thất lạc
trên dãy núi mênh mông thế này là nguy hiểm lắm. Bọn địch ở khắp mọi nơi, nếu
không bị chúng giết hại thì cũng chết đói, chết khát đấy!
Cả hai cùng gật đầu. Nhớ
đến Mai, tôi lại cầu mong cho hai cô bé sẽ bình an để được trở về với mẹ, tiếp
tục học hành.
Mấy ngày sau, trong đêm
vượt vây Ngọc và Thuỳ đã cứu được một em bé. Đó là hôm đơn vị rút sang Nguyên
Bình, Ngọc và Thuỳ đi phía sau đội hình hành quân cùng nhiều bà con đồng bào
các bản. Đoàn người gồng gánh, dắt ríu bế bồng con cái bám theo bộ đội vượt
đường quốc lộ. Giữa lúc tất cả đang âm thầm len lỏi đi dưới chân một điểm chốt
của địch thì xảy ra sự cố. Một đứa trẻ chưa đầy tháng mà người mẹ trẻ đang ôm trên
tay bỗng giật mình bật lên tiếng khóc. Tiếng khóc của một sinh linh vừa mới
chào đời chưa biết chiến tranh và sự hiểm nguy là gì. Người mẹ có đứa trẻ ấy sợ
bọn địch phát hiện ra đội hình đang vượt vây sẽ dẫn đến cái chết của hàng trăm
người nên vội vàng lấy khăn bịt chặt miệng con lại không cho nó khóc nữa. Lúc
sang đến bên kia cánh đồng thì đứa bé ngừng thở. Tưởng đứa con đã chết, người
mẹ ấy vội đặt con vào hốc đá rồi dắt đứa lớn chạy theo đoàn người.
Số đứa trẻ ấy không chết.
Khi được đặt xuống đất lạnh, nó dần tỉnh lại. Ngọc và Thuỳ đi gần cuối đội hình
chợt nghe có tiếng trẻ con khóc bèn quay lại tìm. Ngọc liền cởi áo bọc đứa trẻ
ôm chạy theo bộ đội. Sáng hôm sau, khi nhận lại đứa con từ tay hai nữ thanh
niên xung phong, người mẹ ấy cứ khóc mãi.
(hết chương 10)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 27.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Sương mù chưa tan hẳn thì
tiếng súng nổ chát chúa khắp Lũng Mật. Đó là tiếng súng 12ly7 và tiếng cối 60.
Thung lũng mù mịt lửa khói. Tiếng kêu hoảng loạn của nhiều người dân vang lên.
Khi xác định được hướng
bắn của bọn địch chúng tôi càng sợ. Bọn địch đã vác được súng 12ly7, đại liên
và cối 60 lên một mỏm núi cheo leo dốc đứng đầu Lũng Mật mà từ đây chúng có thể
khống chế toàn bộ thung lũng. Bọn này chắc chắn là lực lượng đặc nhiệm tinh
nhuệ của quân địch mà chúng tôi thường gọi là bọn thám báo. Bọn chúng leo núi
rất giỏi như một lũ tắc kè, kỳ nhông hoang dã trên vách đá.
Các chiến sĩ đơn vị tôi
vội ép người sau các mô đá chống trả quân địch. Nhưng có nhiều người nấp sau mô
đá vẫn bị trúng đạn của bọn địch đang ở trên cao. Những viên đạn bắn tỉa của
chúng xỉa xuống khá chính xác. Tiểu đoàn trưởng Thêm và chính trị viên Hoàng
lệnh cho các đơn vị nhanh chóng vượt qua đoạn dốc yên ngựa rút đi. Nhưng nếu
không khống chế được hoả lực của địch trên mỏm núi đầu Lũng Mật thì đội hình
quân ta leo lên dốc sẽ làm những tấm bia sống cho bọn giặc thử súng.
Trong lúc tình hình vô
cùng nguy ngập ấy, đại đội trưởng Bàng đi đến một quyết định táo bạo. Anh lệnh
cho một khẩu đội 12ly7 vòng ra phía sau lưng địch. Họ leo lên một mô đá trống
trải phơi mình ra cho bọn bắn tỉa. Nhưng từ đây họ có thể dùng hỏa lực mạnh bắn
thẳng lên mỏm núi bọn địch đang đặt đại liên và cối 60 để khống chế bộ đội ta ở
dưới Lũng Mật.
Khẩu 12ly7 do đại đội
trưởng Bàng chỉ huy bắt đầu lên tiếng. Đạn 12ly7 nổ choang choác xối xả vào các
vị trí của bọn địch. Bị bất ngờ, bọn địch trên mỏm núi lúng túng. Chúng phải
quay súng về mô đá phía sau. Lợi dụng cơ hội đó, tiểu đoàn trưởng Thêm lệnh cho
các bộ phận nhanh chóng vượt qua dốc yên ngựa rút sang thung lũng bên cạnh.
Chúng tôi chạy gằn trên đoạn dốc trống trải, vừa chạy vừa tránh đạn địch. Đó là
một cuộc chạy đua với cái chết thực sự. Cứ chạy một đoạn chúng tôi lại nằm sấp
xuống mặt đường tránh đạn. Đạn địch vẫn bắn xối xả, khói bụi mù mịt, lá cây
rừng rụng xuống rào rào tơi tả. Vẫn có những người bị trúng đạn chới với gục
ngã xuống mặt đường hoặc lăn nhào xuống khe núi. Tôi chạy giữa đội hình. Linh
tính hình như giúp tôi thoát khỏi những loạt đạn bắn đuổi của bọn địch.
Tôi đeo ba lô, xách súng,
chạy ngược dốc. Cứ chạy được một đoạn khi tôi vừa đổ người nằm ép xuống mặt
đường thì đạn lại bắn chiu chíu ngay sát trên lưng, lá cây ven đường rụng lả
tả. Thật may, lần nào cũng thoát cả. Đến giữa con dốc tôi chưa kịp đổ người nằm
xuống thì đạn địch cày mù mịt xung quanh, đất đá văng rào rào. Tôi nằm ép ngay
xuống mặt đường. Chợt thấy ươn ướt dưới bụng. Tôi liền luồn bàn tay xuống bụng
rồi đưa lên xem thấy màu nâu đỏ nhoè nhoẹt. Tôi hoảng quá nghĩ: "Thôi
chết! Mình bị trúng đạn rồi!". Nhưng tại sao bị trúng đạn mà lại không
thấy đau nhỉ? Tôi nhìn kỹ lại hóa ra đó là màu đất đỏ mặt đường. Thì ra một
viên đạn địch đã xuyên trúng thủng cái bi-đông đựng nước uống ở cóc cái ba lô
tôi đang đeo trên lưng. Nước trong bi-đông chảy qua lưng áo ướt mặt đường đất
đỏ làm tôi hoảng hồn tưởng mình bị trúng đạn. Trong tình hình hiện nay không
may trúng đạn bị thương thì cũng coi như đã chết vì không thể theo đơn vị suốt
chặng hành quân trèo đèo, leo vách đá chiến đấu cũng như rút lui khi bị bọn
địch truy đuổi. Thằng Hoài, trợ lý chính trị tiểu đoàn chạy phía trước tôi. Khi
nấp được sau một mô đá khá an toàn, nhìn thấy tôi lúc chạy gằn, lúc nằm bẹp
xuống mặt đường để tránh đạn nó bèn gọi to:
- Hà ơi! Cứ bình tĩnh mà
chạy lên đây, tao sẽ yểm hộ cho…
Nó cầm khẩu M79 giơ giơ
lên để động viên tôi. Tôi nghe tiếng nó gọi vừa ngước lên nhìn thì nghe
"oành" một tiếng lọng cả óc. Quả đạn cối 60 nổ ngay trên vách núi gần
chỗ nó đang nấp. Khói bụi mù mịt, lá cây bay tả tơi. Tôi hốt hoảng nghĩ: “Thôi
chết! Không khéo thằng này tan tành thành từng mảnh mất rồi!”. Lợi dụng khi bọn
địch vừa ngừng bắn, tôi nhỏm ngay dậy lao lên. Lúc tôi lăn được sang phía bên
kia dốc yên ngựa, khuất hẳn tầm bắn của bọn địch thì gặp thằng Hoài đang ôm
súng ngồi thu lu trong một hẻm đá bên lối mòn. Thấy nó không bị sây sát gì tôi
mừng lắm. Tôi bảo:
- Chờ mày yểm hộ thì tao
toi mạng từ tám hoánh nào rồi…
Nó cười hề hề tuy mặt thì
vẫn còn tái đi:
- Nói thế để cho mày yên
tâm thôi! Khẩu M79 của tao chỉ còn mỗi hai viên đạn thì yểm hộ cái cóc khô gì
được nữa chứ!.
- Thảo nào nó mới choang
cho một quả cối mày đã chuồn nhanh thế!
Thằng Hoài cười:
- Hì… suýt nữa thì tao tan
xác với nó đấy! Mà này, đói chưa?
- Từ sáng đến giờ nó
choảng cho tối mắt, tối mũi đã kiếm được cái gì cho vào bụng đâu!
Thằng Hoài lục cóc ba lô
lôi ra nửa con gà luộc. Nó xé đưa cho tôi cái đùi và bảo:
- Hôm qua xuống bản, bà
con cho đấy! Mày ăn lấy một miếng đi.
Thịt gà ăn vã, không muối,
nhạt bã ra trong miệng.
Đến gần trưa thì các bộ
phận đều rút ra khỏi được Lũng Mật. Cũng chẳng biết ai hy sinh, ai bị thương
nữa. Tôi kiểm tra bộ phận của mình thấy còn đủ là biết an toàn thôi. Chúng tôi
tiếp tục đi tìm vị trí ẩn náu mới tìm thời cơ phá vòng vây rút lui sang hướng
Nguyên Bình theo mệnh lệnh của trung đoàn.
Buổi chiều, tôi và thằng
Quý đang đi tìm kiếm mạch nước thì gặp anh Bàng trong một khe núi. Tay trái anh
băng kín treo lên cổ. Tôi liền nhao đến hỏi:
- Anh bị thương à?
- Gãy mẹ nó một tay rồi
mày ạ!
- Trúng đạn à?
- Đạn nào bắn trúng tao
được. Lúc đánh nhau bên Lũng Mật tao lăn từ mô đá xuống nên bị đấy!
- Anh phải cố định thật
cẩn thận đấy!
- Mẹ kiếp! Kiểu này thì
leo vách đá thế quái nào được nữa. Mà tao cũng đếch cần rút lui đi đâu nữa. Bọn
chúng truy đuổi đến đây tao thí mạng với chúng luôn. Tay phải tao vẫn bắn súng
ngắn tốt, mày yên tâm…
Tôi định chào anh để đi
thì nhác thấy bóng cô bé tiểu đội trưởng dân quân bản Táp Ná đang lúi húi mắc
võng trong khe đá. A! Ông này số vẫn đào hoa ghê, chiến trường đầy khói lửa,
súng đạn vẫn có một bông hoa rừng xinh đẹp bên mình. Tôi nháy mắt khẽ nói:
- Bây giờ chắc không lo bị
bắt quả tang nữa anh nhỉ?
- Dân quân bản Táp Ná và
các bản khác cũng đã chạy hết lên núi cùng bộ đội, họ ở gần đây thôi. Cô ấy đến
giúp đại đội tao khoản hậu cần ấy mà…
- Và giúp đại đội trưởng
cả cái khoản X-Y-Z nữa chứ?
- Thôi mày biến ngay đi!
Đánh nhau mệt bỏ mẹ còn XYZ gì được nữa!
Tôi bữu môi:
- Mỡ đến miệng mèo còn
kiêng làm sao được… hi…hi…
Tôi vừa quay đi thì anh
gọi giật lại:
- Khoan đã, quay lại tao
bảo.
Tôi dừng lại. Anh Bàng rút
từ cái túi đeo bên người đưa cho tôi một cái gói nhỏ và dặn:
- Ruốc bông trộn mỳ chính
đấy! Lúc nào đói khát, mệt và kiệt sức quá thì ngậm một nhúm vào miệng cho lại
sức. Nhìn mày ốm yếu thế tao thấy lo lắm!
- Vâng… anh cũng phải cẩn
thận nhé!
- Mày cũng phải hết sức
cẩn thận đấy! Nghe nói mày hay liều lĩnh lắm phải không?
- Em có liều gì đâu?
- Bọn nó nói hôm nọ mấy
thằng chúng mày xuống bản tìm lương thực, chạm địch bị một trận hút chết hả?
- Hì… tại hôm ấy đói quá…
- Đói thì đói cũng không
được chủ quan nhá!
Nghe anh Bàng dặn, tôi ậm
ừ để anh yên tâm. Nhớ lại hôm ở Nà Liền tôi cũng thấy sởn gai ốc. Hôm đó khi
trời vừa mới nhá nhem tối, tôi, thằng Quý và hai chiến sĩ đã tụt xuống núi.
Nhiệm vụ của chúng tôi là tìm cách trở lại vị trí kho quân khí của tiểu đoàn để
tìm đạn súng bộ binh và lựu đạn chuẩn bị cho cuộc phá vây. Chúng tôi lần mò
theo con mương nước mà hôm trước đã theo nó để rút ra. Bọn địch đã chiếm được
thị trấn đổ nát không còn quân ta. Lực lượng của bọn giặc để lại phòng ngự thưa
hơn. Chúng tập trung quân để tiếp tục tiến đánh sâu nữa vào đất ta.
Sau khi tìm được mấy hòm
đạn AK, tôi bảo:
- Vào bản kiếm cái gì ăn
đã, đói lắm rồi!
- Nhưng lỡ chạm phải bọn
địch thì sao?
Thằng Quý gàn. Tôi nói:
- Đừng sợ! Bọn chúng tưởng
quân ta đã rút hết rồi nên để lại rất ít lực lượng ở thị trấn. Ta vào bản Nà
Liền xem kiếm được cái gì ăn rồi rút ngày.
Đúng như tôi nghĩ, bản
chẳng có một bóng người. Bầu trời sáng lờ mờ. Ánh trăng xuyên qua làn sương mù
dày đặc. Các lối đi trong bản cây cối bị đạn bắn gãy đổ ngổn ngang. Chúng tôi
phải lách người len lỏi đi trong đống đổ nát, hoang tàn. Trong cảnh hoang vắng
chết chóc, sương rơi ướt vai áo làm cho chúng tôi càng thấy lạnh lẽo, cô quạnh.
Vừa thận trọng bước đi tôi vừa chú ý quan sát, nghe ngóng. Chúng tôi leo lên
một ngôi nhà sàn và kiếm được một ít bắp ngô thì nghe tiếng chạy huỳnh huỵch
dưới gầm sàn. Tôi hỏi:
- Thằng nào chạy đi đâu
đấy?
- Không… không… phải quân
ta. Bọn… bọn… địch đấy! - Thằng Quý líu cả lưỡi đi vì sợ.
Tôi vội nhô ra nhìn xuống
gầm sàn. Đúng là bọn bành trướng rồi. Tôi cũng bất ngờ thảng thốt. Mấy tên lính
địch đang vác súng cối chạy qua vườn chuối chui vào ngay gầm ngôi nhà sàn mà
bọn chúng tôi đang ở trên. Bỏ mẹ rồi, tôi càng hoảng, thấy lạnh cả sống lưng.
Không hiểu bọn này từ đâu bất ngờ xông vào bản vậy. Dừng lại dưới gầm ngôi nhà
sàn, chúng dừng lại soi đèn pin loang loáng. Hình như chúng còn định nghỉ đêm
dưới gầm nhà. Một thằng đặt bịch khẩu súng cối 60 xuống nền đất. Có ánh đèn
chiếu ngược lên sàn nhà loang loáng. Chúng tôi vội nằm ép người xuống sạp nứa
không dám thở mạnh. Tôi nghĩ, nếu mà mấy thằng này leo lên sàn nhà thì mình toi
mạng hết. Tôi lần thắt lưng tìm quả lựu đạn mỏ vịt. Tôi đã tính đến tình huống
xấu nhất là sẽ thả quả lựu đạn xuống đầu bọn địch rồi nhảy xuống đất tháo chạy
thoát thân. Tôi khe khẽ sờ tay thằng Quý vỗ vỗ ra hiệu cho nó. Thằng quý hơi
gật gật đầu vẻ hiểu ý định của tôi.
Tôi và mấy chiến sĩ vẫn
nằm im thin thít trên sàn nhà. Không thể bò ra cửa để chạy thoát được vì dễ gây
ra tiếng động khiến bọn địch chú ý. Dưới gầm nhà sàn tiếng bọn địch trao đổi
với nhau rì rầm. Không hiểu bọn chúng nói với nhau cái gì. Đột nhiên có một
tiếng hô khẩu lệnh. Chắc là tiếng của thằng chỉ huy khẩu đội. Mấy thằng lính
giặc đang nằm ngồi vội bật ngay dậy. Bọn chúng nhanh chóng thu khẩu súng cối và
các trang bị vác lên vai. Hình như bọn này lại chuẩn bị cơ động. Đúng là như
vậy. Bọn chúng chui ra phía bên trái ngôi nhà lao xuống con dốc lối dẫn ra phía
thị trấn. Chúng tôi cũng nhanh chóng kéo nhau tụt xuống đất tuồn ra nằm ép mình
cạnh bụi chuối sau nhà. Tôi khẽ giật giật tay áo thằng Quý thì thào:
- Mày và hai thằng nhanh
chóng rút ngay ra phía mương nước để tao xử lý mấy tên địch này nhé!
- Nguy hiểm lắm! Đi ngay
thôi anh ơi!
Mặc cho thằng Quý gàn, tôi
nhỏm dậy lao ra phía đầu nhà. Mấy tên địch đang lui cui vác súng cối chạy xuống
cuối con dốc dựng ngược. Tôi rút chốt quả lựu đạn tung theo. Một tiếng nổ vang
lên dưới chân dốc. Tôi lao luôn về phía mương nước hướng Quý và anh em vừa rút
đi.
Sau tiếng nổ, từ các vị
trí phòng ngự tiếng súng của bọn địch bắn rầm rầm vào bản Nà Liền. Tôi chạy hút
cả hơi theo con mương ra cánh đồng để vượt lên núi. Cũng may là không vấp phải
toán lính địch nào chặn ngang đường. Bọn địch chỉ từ các điểm cao xung quanh
cũng đổ đạn vào bản và bắn bừa sang phía núi đá.
Đến điểm hẹn ở chân dãy
núi đá tôi đã thấy Quý và hai chiến sĩ đang chờ ở đó. Thằng Quý hổn hển hỏi:
- Mấy thằng giặc ấy chắc
toi hết cả chứ anh?
- Ném theo một quả hú họa.
Tao cũng chả biết có thằng nào chết hay không! Chạy một phen hết cả hơi mới ra
đến đây đấy.
- Anh liều lĩnh quá!
Một chiến sĩ nói. Tôi bảo:
- Thôi rút lên núi ngay.
Cấm không được thằng nào báo cáo việc này với chỉ huy tiểu đoàn nhé!
Cũng may hôm ấy không xảy
ra thương vong gì. Việc chúng tôi mang về được mấy hòm đạn súng bộ binh còn
được tiểu đoàn trưởng biểu dương nữa…
Ấy thế mà anh Bàng lại
biết chuyện. Chắc là anh lại nghe thằng Quý bép xép.
Gói ruốc của anh Bàng tôi
đã tằn tiện suốt thời gian trong vòng vây. Khi nào thật cần thiết chúng tôi mới
chia nhau một nhúm lấy chất muối để đánh lừa cái lưỡi. Cuộc hành quân trên dãy
núi đá thật gian khổ. Đôi chân rã rời vì leo núi suốt ngày đêm. Cái đói, cái
khát rồi những lần giặc đuổi chạy đến hết hơi, kiệt sức tôi càng thấy giá trị
của gối ruốc bông ấy.
(hết chương 11)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 28.02.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Tôi và Nam cùng nhập ngũ,
lại là người cùng làng.
Nam kém tôi một tuổi. Nếu
xét về họ hàng xa bắn “ba tầm súng đại bác” mới tới thì Nam còn phải gọi tôi là
anh họ. Nhưng vì cùng lớn lên chung ngõ, học với nhau từ lớp một cho đến hết
cấp ba nên chúng tôi cứ mày tao quen rồi. Khi cùng học phổ thông, Nam học môn
toán rất giỏi. Nhiều lần nếu không có nó cho nhìn chép bài thì chỉ còn nước nộp
giấy trắng.
Tôi chỉ bực tính tình Nam
nhút nhát, hay sợ ma. Ngày xưa ở làng quê không có điện. Đêm đến quanh năm ánh
đèn dầu lù mù. Buổi tối ngồi học chúng tôi cũng chỉ có ánh sáng của những cái
đèn dầu nhỏ như hạt đỗ. Đêm đến xóm làng âm u, đường làng, ngõ xóm tối tăm,
vắng vẻ. Tối nào học nhóm nếu tôi đi qua cổng không gọi thì Nam không dám đi.
Con đường sang xóm bên với các bạn cùng nhóm phải đi qua một bãi tha ma chi
chít mả cũ, mả mới đầy những con đom đóm to bằng hạt ngô bay chập chờn xanh lét
thì có cho vàng thằng Nam cũng chả dám một mình đi qua. Ban ngày vắng người nếu
không có tôi đi cùng nó cũng thường phải đi vòng xa thêm cả cây số để đến lớp.
Vào bộ đội tôi và thằng
Nam vẫn ở cùng tiểu đội. Sau thời gian huấn luyện chiến sĩ mới, nhờ năng nổ,
xông xáo, xung phong nhận các nhiệm vụ nên tôi được bổ nhiệm giữ chức vụ tiểu
đội phó. Còn thằng Nam đã là quân nhân rồi mà mãi cũng không bớt được cái tính
nhút nhát. Những ca gác đêm một mình một vị trí, hay đi chuyển công văn khẩn
qua cánh rừng hoang vắng là nó rất ngại. Nhiều lần tôi phải đổi phiên gác cho
nó, tránh bớt những thời điểm đêm khuya thanh vắng hay các vị trí đứng gác gần
bãi tha ma hoặc chỗ gố đa cạnh ngôi miếu cổ cạnh doanh trại.
Khi đơn vị hành quân lên
tuyến trước, tôi và Nam đều được biên chế vào tiểu đội thông tin hữu tuyến do
anh Bùi làm tiểu đội trường.
Thằng Nam vẫn có ước mơ
làm sinh viên đại học. Nó bảo với tôi: “Khi nào ra quân nhất định sẽ thi vào
đại học. Em sẽ học ngành nông nghiệp để tìm ra một giống lúa mới có năng xuất
thật cao phù hợp với vùng đất phèn chua, lầy thụt quê mình”. Tôi bảo nó: “Mày
chỉ viển vông, chiến tranh, đánh nhau đến nơi rồi còn học hành gì nữa! Vứt mẹ
mấy cuốn sách đi mà đeo thêm vài cân gạo…”. Thằng Nam im lặng không tranh cãi
với tôi nữa. Nó và thằng Đan gặp nhau lúc nào là cũng thấy bàn về các định luật
Niu-tơn và bài toán của Ga-loa chưa giải được…
Tình hình biên giới căng
thẳng, chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Mọi sự chuẩn bị cho cuộc chiến
đều rất khẩn trương. Để phòng tình huống xấu xảy ra trong chiến đấu, mỗi người
chúng tôi đều có một mã số riêng thêu trên nắp túi áo bên trái và in vào mảnh
giấy nhỏ bằng ba đầu ngón tay ép plastic để sẵn trong túi quần, túi áo. Một hôm
nhận quân trang chiến đấu gồm các loại tăng, võng, bi đông đem về, tiểu đội
trưởng Bùi tập trung cả tiểu đội lại cấp phát cho mọi người. Còn một cuộn vải cuối
cùng anh bảo:
- Đây là hai tấm vải dùng
để khâm liệm liệt sĩ! Tiểu đội giao cho đồng chí Nam và đồng chí Hà mỗi người
giữ một cái.
Nghe vậy cả tiểu đội đều
lặng đi. Thằng Nam mặt mày tái mét cắt không còn giọt máu. Tôi cũng hơi thảng
thốt nhưng định thần được ngay. Chiến tranh là như vậy. Khi nó chưa nổ ra thì
công tác chuẩn bị phải thật chu đáo, tỷ mỷ đến mức tối đa để người chiến sĩ khi
vào trận có thể chiến đấu tốt nhất và xử lý tốt nhất mọi tình huống sẽ xảy ra.
Vừa nghe tiểu đội trưởng
Bùi nói, thằng Nam chối đây đẩy:
- Em không… không giữ cái
đấy đâu…
Nhìn mặt nó tái dại, đôi
mắt hoảng hốt và như sắp phát khóc tôi thấy thương nó quá. Các anh em khác
trong tiểu đội cũng ngại phải giữ tấm vải liệm sợ gặp chuyện không hay nên tìm
cách lảng đi. Tôi ngần ngừ một lát rồi nói:
- Thôi được! Không ai muốn
giữ tấm vải liệm thì để tôi giữ cho!
Tuy nói cứng nhưng giọng
tôi cũng hơi run run. Anh Bùi bảo:
- Thôi được! Đồng chí Tự,
tiểu đội phó sẽ nhận bảo quản một cái, một cái giao cho đồng chí Hà.
Tôi nhận một tấm vải liệm.
Tôi trải tấm vải ra để gấp lại cho gọn. Đó là một tấm vải mỏng gần giống cái vỏ
chăn đơn nhưng người ta chỉ may kín hai cạnh, để hở hai cạnh. Tấm vải có đính
sẵn ba giải dây vải ở giữa và ở hai đầu. Khi dùng khâm liệm chỉ cần đặt xác
người vào gấp lại và dùng ba giải dây đó để buộc ngang lưng, buộc cổ và buộc
chân, rất nhanh, gọn.
Tôi nhét tấm vải liệm vào
ba lô đeo về nhà ở.
Từ lúc tôi mang cái ba lô
về nhà ở, thằng Nam ôm chăn chiếu chuyển ra một góc nhà sàn nằm. Lâu nay nó vẫn
nằm cạnh tôi. Cũng từ ấy không bao giờ thấy nó lục ba lô của tôi tìm lương khô
hay lấy kem đánh răng nữa.
Chiến tranh biên giới nổ
ra. Những trận đánh vô cùng ác liệt. Quân địch bị tiêu diệt nhiều sinh lực
nhưng đơn vị chúng tôi cũng bị nhiều tổn thất, kiệt quệ. Sau một tuần bị bao
vây trong thị trấn Sóc Giang, tiểu đoàn chúng tôi gần cạn hết đạn dược, lương
thực, nước uống, quân số bị tiêu hao. Đêm hôm trước khi xảy ra trận đánh ở mỏm
Đầu Bò anh Bùi căn dặn chúng tôi:
- Ngày mai sau khi dụ bọn
địch vào bãi mìn chúng ta sẽ rút đi. Nhớ là cố gắng đem hết súng đạn, lương
thực. Cái gì không cần thiết thì bỏ lại vì khi vượt vòng vây chúng ta sẽ phải
lội qua suối và leo lên một vách núi dựng đứng rất khó đi và nguy hiểm.
Chúng tôi khẩn trương
chuẩn bị chiến đấu và chuẩn bị rút lui. Quần áo ngoài bộ đang mặc trên người
thì thêm một bộ để thay đổi, chỉ đem theo tăng võng, chăn màn vứt bớt, hai cái
khăn mặt, hai đôi tất vừa mới phát cũng vứt một, giữ một cho đỡ nặng. Giấy tờ,
nhật ký, sổ sách ghi chép chúng tôi đốt hết đi để đề phòng khi phá vây bị bắt
lọt vào tay bọn địch. Trong túi quần, túi áo, trong ba lô chỉ còn có những mảnh
giấy ghi mã số riêng của từng người để lỡ ai hy sinh thì chôn theo đánh dấu mộ
phần.
Nhưng sau trận đánh ở mỏm
Đầu Bò anh Bùi ở lại chặn giặc cho chúng tôi rút đi. Sau trận huyết chiến ở
hang chỉ huy tiểu đoàn phải rút chạy lên Lũng Mật, tôi và Nam vẫn gặp nhau. Còn
nhớ đêm rút lui tôi được giao giao nhiệm vụ chỉ huy bộ phận đi cuối cùng khoá
đuôi đơn vị, sẵn sàng lập thành một chốt đánh chặn địch truy kích cho đơn vị
rút lui an toàn. Tôi dặn anh em trong bộ phận:
- Nhớ bám sát nhau! Lúc
qua bản Nà Nghiềng phải hết sức nhẹ nhàng tránh gây tiếng động chó sủa, bọn địch
phát hiện.
Tôi kéo tay thằng Nam khẽ
dặn:
- Đi sát ngay sau tao nhé!
- Vâng! A… n…h… cứ… yên…
tâm.
- Sao mày có vẻ run lập
cập thế?
- Em thấy hơi sợ…
- Không việc gì đâu, đừng
lo.
Tôi động viên thằng Nam.
Suốt gần tuần vừa rồi nó được phân công trực máy thông tin ở trong hang đá sở
chỉ huy của tiểu đoàn, chưa phải trực tiếp tham gia đánh trận nào.
Đúng như chỉ huy tiểu đoàn
đã tính toán. Đơn vị chúng tôi bí mật vượt qua vòng vây của địch một cách an
toàn. Chúng tôi phải mất gần như suốt đêm mới vượt qua được vách núi cheo leo,
đá tai mèo sắc như dao để lên lũng Mật. Trời sáng rõ. Sương mù tan. Nhìn xuống
dưới cánh đồng thấy rõ cả xe tăng và bộ binh địch đang lúc nhúc hành quân. Hình
như bọn chúng tăng thêm quân sang để đánh chiếm đất đại của ta. Bọn chúng đã
làm chủ nhiều vị trí quan trọng, các điểm cao ở khu vực thị trấn. Chúng cũng
không ngừng bành trướng, tấn công ra các bản làng xung quanh Sóc Giang. Tiếng
trọng pháo từ bên kia biên giới không ngớt bắn sang đất ta. Những tiếng nổ chói
tai vì bắn vào vách đá và gây nên những vọng âm mãi mới tan làm màng nhĩ tai u
u rất khó chịu.
Trên đường rút lui chúng
tôi được lệnh dừng lại nghỉ. Trời rét lắm lại ở núi đá nên càng thêm lạnh buốt.
Chúng tôi tìm những khe đá hơi bằng phẳng rải tăng võng ra để nằm tranh thủ ngủ
ngay vì có thể lại phải hành quân hoặc đi chốt chặn địch, hoặc xuốngbản tìm
kiếm lương thực bất cứ lúc nào nếu có lệnh của cấp trên. Chợt thấy thằng Nam
vẫn còn ngồi co ro ở một góc khe đá tôi hỏi:
- Mày tìm chỗ phẳng nằm mà
ngủ một lát đi chứ! Ngày mai còn phải đi tiếp đấy.
- Lúc vượt qua suối vì đỡ
anh thương binh trượt ngã, cái ba lô của em bị trôi mất rồi.
- Thế thì nằm vào đây với
tao cho khỏi rét mà ngủ.
Thằng Nam vừa chui vào nằm
xuống cạnh tôi đã bật dậy hốt hoảng:
- Anh… anh… đắp bằng tấm
vải liệm à?
Thì ra nó vừa nằm xuống
thì cái dây buộc của tấm vải liệm loằng ngoằng vướng ngay vào cổ. Tôi phì cười:
- Đó chỉ là một tấm vải
thôi, việc gì mà phải sợ! Nằm xuống đi cho ấm!
Nam lùi ra ngồi dựa vào
một mô đá và chối đây đẩy:
- Thôi… thôi… anh cứ ngủ
đi… em chịu thôi…
Tôi cáu vì cái tính nhút
nhát của nó:
- Thế thì mặc xác mày!
Nói vậy nhưng tôi cũng
không ngủ được. Tôi ngồi dậy lột cái võng đang rải ném cho nó. Đoạn tôi chui
hẳn vào trong tấm vải liệm, nửa rải, nửa đắp rồi ngủ thiếp đi vì mệt.
Đơn vị chúng tôi cứ ban
ngày thì ẩn nấp trong các thung lũng, khe đá, buổi tối thì chuyển quân sang vị
trí khác tránh sự truy kích của bọn địch và tổ chức cho các bộ phận đột nhập
xuống bản tìm lương thực. Nhiều hôm chạm địch không lấy được lương thực mà còn
tổn thất thêm lực lượng. Quân số của đơn vị cứ vơi dần sau những chặng hành
quân gian khổ trên vách đá núi cao đói rét và bị địch đuổi đánh. Một số anh em
lực lượng thanh niên xung phong bị thất lạc chạy lên núi cũng nhập luôn vào đội
hình đơn vị chúng tôi.
Sau bận đơn vị bị lực
lượng tinh nhuệ của địch tập kích vào đội hình trú quân thì cả hai tấm vải liệm
của tiểu đội tôi đều được sử dụng hết. Cũng từ sau hôm ấy thằng Nam mới dám nằm
gần tôi. Hai đứa đắp chung một cái võng mỏng manh. Lúc tạnh thì tăng rải làm
chiếu, võng làm chăn cho ấm. Lúc mưa thì rải võng làm chiếu, tăng làm chăn đắp
cho khỏi ướt. Mùa Xuân năm ấy sao mà mưa rét đến thế. Cái rét, cái đói hành hạ
chúng tôi ngày càng khốn khổ. Rồi cả cái võng hai đứa đắp chung ấy cũng không
còn. Chúng tôi không nỡ để một cô thanh niên xung phong nằm xuống không có cái
gì bó buộc.
Một buổi sáng còn sương
muối còn mù mịt khắp các khe núi tiểu đội phó Tự đã gọi tôi:
- Hà ơi đi ngay!
- Đi đâu!
- Đi xuống bản Nà Sác! Bộ
phận của thằng Nam tối hôm qua xuống bản đón thương bình và tìm kiếm lương thực
đến bây giờ vẫn chưa thấy về. Chắc là có chuyện gì không hay rồi!
Tôi vội vàng xách súng
cùng tiểu đội phó Tự và một chiến sĩ trinh sát tiểu đoàn tụt xuống dốc núi.
Chúng tôi tìm được chiến sĩ Lai nằm gục ở chân dốc. Cái ba lô gạo đeo trên lưng
thấm máu. Lai bị thương nhẹ vào đùi nhưng vì đói quá nên lả đi không leo lên
núi được. Lai thều thào cho chúng tôi biết hai người vào bản lấy được gạo, ngô
quay ra thì gặp địch. Thằng Nam đã quay chặn địch và bảo Lai rút lui. Thằng Nam
đã dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Nam bị bọn địch bắn chết bên bờ
suối.
Mãi đến tối chúng tôi mới
tiếp cận được chỗ thằng Nam hy sinh. Chúng tôi đưa Nam qua suối, rửa mặt cho
nó. Chúng tôi dùng dây võng buộc chặt thằng Nam vào người thay nhau cõng xác nó
lên núi.
Chúng tôi dùng xẻng bộ
binh đào một cái huyệt chỉ sâu như một rãnh trong khe đá đặt thằng Nam xuống.
Không còn một tấm vải liệm nào để bó buộc cho nó nữa. Trước khi lấp đất, tôi
rút cái khăn mặt duy nhất của mình trong ba lô ra phủ lên mặt cho Nam để cát
bụi khỏi rơi vào mắt nó.
Sau này, thằng Nam đã được
đưa về quê hương. Hài cốt của nó được gói trong tấm vải liệm bằng lụa đặt trong
hộp gỗ sạ hương phủ quân kỳ và mai táng trong nghĩa trang liệt sĩ của huyện.
Nhưng câu chuyện về Nam và tấm vải liệm thì chỉ có tôi là biết rõ.
(hết chương 12)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 01.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Chính trị viên Hoàng là
một người điềm tĩnh. Sự điềm tĩnh của anh khiến những người bình tĩnh nhất
nhiều khi cũng hoang mang. Những lúc tình hình gấp gáp, tình huống lâm nguy
nhất anh vẫn không rối trí, nét mặt không thay đổi. Tôi còn nhớ hôm sở chỉ huy
của tiểu đoàn bị bao vây vòng trong, vòng ngoài, bộ binh địch bu đen như kiến,
xe tăng của chúng châu nòng pháo bắn liên tục vào cửa hang. Khói bụi xộc vào
cái hang núi thẳng đuột từ cửa chính phun ra phía cửa phụ, cuồn cuộn như khói
trong ống khói. Nhiều người tưởng ngạt thở đến nơi rồi. Bộ binh địch bắt đầu
đeo bám vào vách đá leo lên gần cửa hang. Trong hang có người đã buột miệng kêu
lên những tiếng tuyệt vọng.
Trong khi đó chính trị
viên Hoàng vẫn bình tĩnh như không. Lúc này anh là người chỉ huy cao nhất tại
sở chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng Thêm đêm hôm trước đi kiểm tra trận địa
của đại đội 12 chưa thấy trở về. Có lẽ anh bị mắc kẹt trên núi do mũi tiến quân
của bọn địch lên mỏm Đầu Bò cắt ngang con đường độc đạo từ hang chỉ huy tiểu
đoàn lên vị trí triển khai hoả lực của đại đội 12.
Chính trị viên Hoàng hỏi
bộ phận thông tin của chúng tôi:
- Vẫn giữ được liên lạc
bằng vô tuyến với các đơn vị chứ?
- Vâng ạ!- Tôi đáp.
Chính trị viên có vẻ yên
tâm. Từ khi giao cho tôi phụ trách bộ phận thông tin trong hang chỉ huy tiểu
đoàn, đều đảm bảo liên lạc thông suốt với các hướng, các đơn vị nên anh có vẻ
tin tưởng tôi. Tuy vậy anh vẫn căn dặn tôi:
- Mày phải cố gắng giữ
liên lạc với các bộ phận nhé! Mất liên lạc lúc này là mất luôn trận địa đấy.
- Vâng ạ! Chính trị viên
cứ yên tâm.
Tôi đáp và báo cáo luôn vì
lại vừa nhận được thông tin mới qua máy vô tuyến sóng cực ngắn-là phương tiện
liên lạc duy nhất lúc này:
- Báo cáo! Đại đội 10 xin
hoả lực bắn mạnh vào toạ độ M. ạ!
- Hả! Hỏi lại ngay, bắn
vào đấy tức là bắn thẳng vào trận địa của đại đội 10 đang phòng ngự à?
Anh Hoàng lệnh cho bộ phận
thông tin điện hỏi lại. Chiến sĩ thông tin vô tuyến sau khi kiểm tra lại thông tin từ đại đội 10 lập tức báo cáo:
- Bọn địch đã tràn lên
trận địa phòng ngự của đại đội 10 rồi. Đại đội trưỏng Bổn xin pháo bắn trùm lên
trận địa của đơn vị ạ!
Chính trị viên Hoàng hơi
nhíu mày. Tình hình thật là nguy ngập. Cả hang chỉ huy tiểu đoàn ắng hẳn đi.
Theo lệnh của chính trị viên tiểu đoàn, số anh em thông tin chúng tôi chỉ để
lại một chiến sĩ vô tuyến còn thì tất cả ra cửa hang chính tham gia chặn địch
cùng các chiến sĩ đang phòng ngự ở đây. Tôi và mấy thằng nữa lựa lúc bọn địch
ngớt bắn một chút nhao ra tụt ngay xuống gộp đá to bên trái cửa hang. Trợ lý
tham mưu Thọ đang chỉ huy bộ phận chiến đấu ở đây. Vừa nhìn thấy tôi, anh Thọ
đã quát:
- Thâm thấp cái đầu xuống
kẻo bọn nó mượn mất cái đội nón bây giờ!
Tôi vừa thở hổn hển vừa
hỏi anh:
- Tình hình thế nào hả
anh?
- Bọn nó đông bỏ mẹ, bắn
mãi chả xuể, chết thằng này thằng khác lại nhâu nhâu xông lên. Đạn sắp hết rồi.
Cứ đà này không biết có giữ được đến tối không! Mày nhìn mà xem kìa!
Tôi hơi nhô người lên nhìn
theo tay anh chỉ. Phía trước trận địa của đại đội 10 hàng chục chiếc xe tăng
của địch đang lổm ngổm bò vào. Hai chiếc xe tăng đang sục đầu xuống dòng suối
cạn vượt sang thị trấn tiến về phía trụ sở ủy ban nhân dân huyện. Còn trên cánh
đồng dưới chân đồn công an vũ trang hơn chục chiếc xe tăng địch chĩa thẳng nòng
pháo hướng lên chỗ cửa hang chúng tôi đang phòng ngự. Bộ binh địch vừa đánh lên
trận địa của đại đội 10, vừa tổ chức bắn vào khu đồi cửa hàng thực phẩm đại đội
9 đang phòng ngự. Đội hình tiến công của bọn chúng đã tạo thế hướng về phía
hang chỉ huy của tiểu đoàn.
Trợ lý Thọ chợt hỏi tôi:
- Mày kiểm tra xem có viên
đạn lửa nào không đưa cho tao. Có mấy thằng địch đang nấp sau cái cây rơm dưới
chân núi kia. Tao bắn cháy cái cây rơm, dọa cho chúng nó một phen…
Tôi lại định nhô lên để
quan sát thì bị anh Thọ kéo ngồi thụp xuống:
- Mày muốn chết à. Chúng
nó bắn tỉa lợi hại lắm.
Tôi nghiêng người tìm băng
đạn trong bao-xe đưa cho anh Thọ. Trong băng có mấy viên đạn vạch sơn màu đỏ.
Anh Thọ thay băng đạn mới vào khẩu AK. Anh bò sang bên trái gộp đá tìm vị trí
thuận lợi điểm xạ liền mấy loạt vào cái cây rơm ở dưới chân dốc núi. Rơm khô
bốc cháy rần rật. Mấy tên lính đặc nhiệm của địch vội chạy toé ra, rạt về phía
sau.
Tôi và anh Thọ đang khoái
trí cười ngặt nghẽo thì một trận pháo kích dữ dội của địch trùm lên cả quả núi
có hang chỉ huy tiểu đoàn. Khói bụi, đất đá văng mù mịt. Anh Thọ quát:
- Tất cả rút vào trong
hang tránh pháo ngay!
Các chiến sĩ ở hai bên cửa
hang vội nhào vào trong hang. Tôi vừa lao lên thì đạp luôn vào một hòn đá đã bị
đạn địch bắn lỏng chân. Hòn đá trượt xuôi kéo tôi tụt theo xuống dốc một đoạn.
Tôi cố toài người bò lên. Đạn pháo làm cho những tảng từ trên đỉnh núi lăn tồng
tộc xuống như một cái bẫy đá tuột dây. Anh Thọ gào lên:
- Hà ơi! Cố leo lên hang
ngay. Nhanh lên.
Tôi cố miết mũi giày vào
vách đá nhoài người bò lên. Chật vật mãi tôi cũng bám vào được một mô đá sát
cửa hang. Anh Thọ giơ tay cho tôi bám rồi kéo vào hang. Tôi vừa nhào người lăn
được vào trong hang thì một quả đạn pháo địch choảng đúng ngay bên trên cửa
hang. Khó bụi mù mịt cuồn cuộn xộc vào trong hang. Hú vía. “Mẹ kiếp! Chỉ chậm
vài giây thì mình tan xác với chúng nó!”. Tôi lẩm bẩm.
Anh Thọ bảo:
- Cố giữ được đến tối là
yên tâm.
- Sao lại chỉ cần giữ đến
tối hả anh?
- Đó là mệnh lệnh của
chính trị viên.
Tôi nhìn vào giữa hang.
Chính trị viên Hoàng tay chắp sau lưng đi đi lại lại có vẻ anh đang phải suy
tính điều gì đó rất căng thẳng.
Có điện từ xê 10. Bọn địch
tổ chức tấn công vào trận địa rất ác liệt. Khả năng không giữ nổi nữa. Đại đội
hoả lực đã cạn kiệt đạn cối 82 nên cũng chả chi viện cho đại đội 10 được nữa.
Chính trị viên Hoàng quyết định thành lập thêm một tiểu đội cơ động chiến đấu
chi viện cho đại đội 10. Đó là các chiến sĩ thông tin, trinh sát, vận tải đang
có mặt trong hang. Thằng Trọng, tiểu đội phó truyền đạt được chỉ định chỉ huy.
Trọng dẫn năm chiến sĩ tụt cửa hang phụ vòng phía sườn trái mỏm núi tụt xuống
núi đánh địch chi viện chia lửa cho đại đội 10. Bộ phận chiến đấu nhỏ nhoi của
Trọng ôm B41 vận động dọc theo con mương nhỏ phía trước nhà bưu điện thị trấn.
Họ lợi dụng các bờ ruộng bò ra giữa cánh đồng để chặn bắn những chiếc xe tăng
của bọn địch đang vượt qua con suối cạn đánh tạt sườn bên trái đại đội 10.
Với hai khẩu B41 và vài
quả đạn năm chiến sĩ cảm tử ấy đã bắn cháy, bắn đứt xích ba chiếc xe tăng của
bọn địch khi chúng vừa nhô lên khỏi dòng suối cạn. Tuy nhiên, thấy hoả lực của
ta bất ngờ giữa cánh đồng, bọn bộ binh giặc từ các ngõ ngách trong thị trấn lao
ra bắn xối xả. Từ trên cửa hang chúng tôi nhìn rất rõ từng chiến sĩ trong tiểu
đội cảm tử ngã gục giữa cánh đồng. Cảnh những người lính đau đớn giãy giụa
trước khi chết trông thật xót thương và đau nhói trong tim. Có một người bị
thương, cánh tay đỏ máu cứ giơ lên hướng lên phía cửa hang vẫy vẫy vừa như là
vĩnh biệt, vừa như có vẻ cầu cứu nhưng chúng tôi không thể xuống ứng cứu được.
Cái chết đến với người lính ấy thật chậm chạp. Anh chết ngay trước mắt chúng
tôi.
Trên mỏm đồi đại đội 10
chốt giữ súng vẫn nổ. Như thế là đại đội 10 vẫn giữ vững được trận địa. Sau này
tôi mới biết để giữ vững trận địa trong vòng hai tiếng đồng hồ chờ trời tối gần
một nửa đại đội 10 đã hy sinh. Trong đó có Nguyễn Công Tân, người bạn thân cùng
nhập ngũ với tôi. Gần một nửa đại đội hy sinh, cái giá thật đắt, thật đau. Vị
trí chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi được bảo vệ đến tối là nhờ một nửa đại đội
10 và những chiến sĩ tiểu đội cảm tử hy sinh như thế.
Chính trị viên Hoàng căn
dặn một cán bộ trung đội vận tải:
- Bằng mọi giá tối nay
cũng phải lấy cho được thi hài năm đồng chí đưa đi mai táng nhé!
Trung đội trưởng vận tải
hứa nhất định sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Anh Hoàng cũng dặn tôi điện ngay cho chỉ
huy đại đội 10 bằng mọi cách phải chôn cất hoặc đem các liệt sĩ, đưa thương
binh ra khỏi trận địa. Những ngày sau, đại đội 10 là đơn vị cuối cùng của tiểu
đoàn rút lui ra khỏi thị trấn Sóc Giang. Họ đã chiến đấu kiên cường nơi cửa ngõ
thị trấn cho các tiểu đoàn bộ và các đơn vị khác rút lên núi an toàn.
Cuộc rút lui của đại đội
10 ra khỏi "Toạ độ lửa" thật vô cùng gian khổ. Bởi gần như trên lưng
tất cả những người lính đại đội chạy thoát được ra khỏi trận địa là xác một
người đồng đội của họ đã hy sinh hoặc là một thương binh nặng. Những cái xác
được cột chặt trên lưng người lính chiến. Họ phải vừa cõng đồng đội vừa đánh
địch trên đường máu rút lui. Có nhiều viên đạn, mảnh pháo giặc đã không găm
được vào thân thể người còn sống là nhờ những người đã chết vẫn chở che cho họ
trong một cuộc phá vây vượt ra khỏi cái thị trấn biên giới hoang tàn nhung nhúc
những tên xâm lược bành trướng khát máu.
Khi đón các chiến sĩ của
đại đội 10 ở chân núi đá lối lên Lũng Mật. Nhìn đội hình những người từ trong
vòng lửa vượt ra tơi tả, trên lưng cõng theo các liệt sĩ, chính trị viên Hoàng
ngậm ngùi nói với chúng tôi:
- Họ đã chết cho chúng ta
sống và rút lui an toàn đấy! Không được một ai quên điều này...
Những ngày bị bọn giặc
truy đuổi trên núi thật gian khổ, cùng cực. Đó là những đêm hành quân không
ngủ. Những bước chân rã rời vì đói và mệt. Nhưng chúng tôi vẫn lầm lũi đi trong
đêm đầy gió bấc. Cái lạnh lùng của sương gió, cái chết chóc của chiến tranh vây
bủa xung quanh. Cái chết luôn đồng hành cùng chúng tôi suốt chặng đường chinh
chiến gian lao. Lời căn dặn của chính trị viên Hoàng khiến tôi cứ thấy nao nao
trong lòng. Nhìn những thi thể đồng đội tả tơi đẫm máu và lấm láp đầy bùn đất,
khói súng tôi cứ nghĩ mãi về số phận của con người trong chiến tranh. Nó nhỏ
nhoi và mong manh quá, nó tang thương nhưng cũng thật là bi hùng, vĩ đại quá.
Cái chết chẳng còn là gì so với những con người đã dám đối mặt với cái chết ấy
trong từng ngày, từng trận đánh giữa vòng đạn lửa tơi bời, khốc liệt.
Tôi chợt nhớ tới Mai. Thế
là em cũng đã hoá thân vào trời đất bao la trong một trận đánh không cân sức.
Em đã đi rất xa, rất xa rồi. Nhưng hơi thở của em vẫn đang ấm nóng ở trên vai
tôi. Em như đang ở đâu đây cùng những người lính chiến. Đôi mắt mở to sáng
trong của em như vẫn dõi theo tiếp sức cho tôi suốt chặng đường hành quân thăm
thẳm đầy gian khổ hy sinh. Cuộc hành quân của những người lính chiến chúng tôi
đi giữa cái ranh giới rất mỏng manh, đó là sự sống và cái chết, vinh quang
nhưng cũng thật mờ mịt khốn khổ, đầy thương yêu nhưng cũng tàn nhẫn vô cùng.
Con đường hành quân chiến
đấu ấy trên sườn dãy núi đá vôi chập trùng tôi cứ bị ám ảnh như đang đi trên bờ
vực thẳm. Có lúc lại cảm thấy mình như đang đi trong một cái nghĩa trang rộng
mênh mông. Những mô đá lô nhô trong đêm trăng sương mù mờ ảo trông tựa như
những nấm mồ liệt sĩ vô danh lạnh lẽo. Nhưng nhiều lúc tôi lại thấy nó giống
như những cột mốc chủ quyền điềm đĩnh, kiên gan trấn trạch ở nơi biên ải…
(hết chương 13)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 02.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Bọn địch bám theo dấu vết
của tiểu đoàn chúng tôi dai như đỉa đói.
Kể từ khi phát hiện ra và
tập kích vào đội hình tiểu đoàn ở Lũng Mật thì hình như bọn địch bám theo sát
bước chân chúng tôi từng ngày. Đó là lực lượng đặc nhiệm được tranh bị vũ khí
hạng nhẹ nhưng có uy lực cao, rất thiện chiến và liều lĩnh. Có khi chỉ với một
lực lượng nhỏ mà bọn chúng dám đánh thẳng vào giữa đội hình phòng ngự quân của
tiểu đoàn. Với một đội hình đói khát, mỏi mệt và nhiều người bị thương, chúng
tôi phải rất khó khăn mới ngăn chặn được sức tiến công mạnh mẽ của bọn chúng để
bảo vệ an toàn cho thương binh, nhân dân và các bộ phận có thời gian rút đi.
Sau trận đánh ở Lũng Mật đơn vị tôi cứ phải rút lui liên tục. Địch đánh chỗ này
chạy sang chỗ kia. Có lúc ta và địch chỉ ở cách nhau có một sườn núi, một cánh
rừng, hoặc ở đầu thung, cuối thung lũng.
Chúng tôi lang thang trên
các triền núi, tránh thế giặc mạnh để bảo toàn lực lượng. Thỉnh thoảng tiểu
đoàn lại tổ chức lực lượng tập kích khi bọn địch chủ quan sơ hở. Trong vòng vây
dày đặc của quân thù điều quan trọng nhất là phải bảo vệ được đơn vị, không để
bị địch “xóa sổ” phiên hiệu đơn vị. Con đường hành quân của chúng tôi đi là
những lối mòn chênh vênh trên lưng chừng núi đá, qua những thung lũng nhỏ hẹp
có những bản làng người Mông lưa thưa vài nóc nhà trình tường thấp lè tè, ám
khói và ướt sũng trong màn sương mù.
Một buổi tối, chúng tôi
đến một thung nhỏ có mấy ngôi nhà đất của người Mông. Các chiến sĩ trong bộ
tiểu đội tôi chui vào một ngôi nhà lẻ loi ở tận cuối bản. Chủ nhà là một người
đàn ông bé nhỏ khoảng hơn ba mươi tuổi. Anh ta có đôi mắt sùm sụp luôn luôn
nhìn xuống đất. Có lẽ là do người Mông suốt ngày phải trèo núi leo dốc nên con
mắt thường quen nhìn xuống chân như thế. Tôi vừa đặt cái ba lô cạnh gốc cây đào
ngoài góc sân thì thằng Lâm chạy đến thì thào bảo:
- Tên chủ nhà này hai mắt
trông có vẻ gian xảo lắm! Có khi nó là gián điệp. Nó mà báo cho bọn giặc ta trú
quân ở đây thì nguy anh ạ!
- Đừng có nghi ngờ bậy bạ!
Tôi nhắc nó nhưng trong
lòng cũng băn khoăn suy nghĩ. Việc kẻ thù luôn nhanh chóng phát hiện ra nơi đơn
vị vừa dừng chân khiến chúng tôi phải hết sức cảnh giác. Tôi xách khẩu súng
bước vào nhà. Trời đã tối hẳn. Anh chủ nhà đang lúi húi nhóm bếp, đun nồi nước
khá to. Tôi tìm cách lân la hỏi chuyện. Theo anh ta cho biết vợ và hai đứa con
đã theo bà con trốn vào trong hang đá khuất nẻo, xa bản làng tránh giặc, chỉ có
một mình anh ta ở lại trông coi nhà cửa. Thấy không có gì nghi ngờ, tôi bảo anh
em trong bộ phận tranh thủ nghỉ ngơi, dặn thằng Lâm canh gác ca đầu tiên. Thằng
Lâm gật đầu. Nó vẫn chưa hết nghi ngờ anh chủ nhà nên vẫn chú ý theo dõi.
Khi bếp lửa vừa nhen lên
thì anh ta lặng lẽ rút con dao nhọn gài trên vách lẻn ra máng nước phía sau nhà
ngồi mài. Thằng Lâm lập tức bám theo ngay.
Giữa lúc tôi đang tìm chỗ
mắc võng ngoài vườn thì lại nghe tiếng ồn ào trong nhà. Tôi vội chạy vào xem
chuyện gì xảy ra. Thằng Lâm đang lôi tay chủ nhà ra gian giữa. Giọng nó vẻ gay
gắt, đầy vẻ nghi ngờ:
- Tại sao mày dám làm như
vậy?
- Tại tao không biết thôi
mà!
Anh chủ nhà gãi đầu. Trông
anh ta nhỏ bé gầy gò. Nét mặt anh ta vẻ mệt mỏi, khắc khổ. Bộ quần áo đen anh
đang mặc cũ rách bạc phếch. Tay phải anh ta vẫn còn đang cầm con dao chọc tiết
lợn nhọn hoắt, sáng loáng.
- Mày không biết hay là
nói dối hả?
- Đúng mà! Tao không biết
chữ thật mà!
Lúc này tôi mới để ý nhìn
theo tay thằng Lâm đang chỉ. Dưới ánh đèn dầu tù mù tôi thấy một bức tranh đang
treo trên tường. Bức tranh có in dòng chữ màu đỏ đậm nét “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”. Bức tranh được dán trên tường rất cẩn thận. Chỉ có điều khác
thường là nó bị lộn ngược.
Thằng Lâm nói vẻ hằn học:
- Mày đúng là một thằng
việt gian phản động nên mới treo dòng chữ lời dạy của Bác Hồ lộn ngược như thế
này?
- Ô… ô… tao không biết cái
chữ đâu! Tao đi chợ thấy nó đẹp thì mua về treo trong nhà thôi mà.
Thằng Lâm tiếp tục cật
vấn:
- Có đúng là mày không
biết chữ chứ?
- Đúng mà! Nhà tao nghèo
lắm, tao có được đi học bao giờ đâu mà biết chứ!
Thằng Lâm lại hỏi tiếp:
- Thế mày không nhìn thấy
cái gì đây à? Đây là bông hoa sen. Mày không biết chữ thì cũng phải biết đó
bông hoa sen chứ. Mày treo bông hoa sen ngược cuống lên thế này hả?
- Ô! Tao… tao… cũng không
biết đó là bông hoa… hoa… Tao chưa nhìn thấy loại hoa này bao giờ đâu!
Tôi gạt thằng Lâm ra và
bảo:
- Thôi đi! Nó quanh năm
sống trên đỉnh núi cao, xuống đến chợ thị trấn là cùng. Nó có đi về xuôi bao
giờ đâu mà biết hoa sen là thế nào mà mày bảo nó treo ngược cuống hoa lên trời!
Đừng nghi oan cho đồng bào, hiểu không?
Thằng Lâm vẫn chưa chịu.
Nó tiếp tục vặn vẹo:
- Thế đang đêm mày lấy dao
đi mài để làm gì hả! Định chờ chúng tao ngủ say để ra tay à?
- Hầy! Không… không phải
đâu! Tao mài dao để mổ con lợn, lấy cái thịt cho bộ đội ăn đấy mà!
- Chuồng lợn nhà mày trống
trơn làm gì có con lợn nào mà thịt! Đừng có mà trí trá.
- Thật mà… cái bộ đội theo
tao!
Anh ta nói rồi vớ một mảnh
gỗ nghiến đang cháy rừng rực ở bếp làm đuốc soi đường dẫn chúng tôi ra phía bìa
rừng. Mấy thằng chúng tôi xách súng bám theo sát anh ta. Đến chỗ lùm cây trong
một hốc đá thì nghe có tiếng ủn ỉn. Tôi dọi đèn pin. Một chú lợn béo múp độ ba
chục cân được buộc ở gốc cây. Anh chủ nhà bảo:
- Tao giấu nó ở đây mấy
ngày rồi đấy! Cả nhà tao chỉ có mỗi một con lợn này nuôi để bán lấy tiền mua
quần áo cho con thôi!
Nói xong, anh ta liền túm
hai chân sau con lợn nhỏ vác lên vai quay về nhà. Trở lại bếp, anh chủ nhà chọc
tiết con lợn. Nồi nước trên bếp cũng đã sôi. Anh chủ nhà cùng mấy chiến sĩ
nhanh chóng cạo lông con lợn.
Bữa tối hôm ấy thật ngon.
Có ít gạo nấu một nồi cơm vơi mỗi người được hai sét bát. Lại có nồi thịt lợn
tươi của chủ nhà thật hấp dẫn. Khi cắn miếng thịt lợn ngọt, ngậy mỡ tôi chợt
nhớ đến anh chủ nhà. Từ lúc làm thịt xong con lợn thì không nhìn thấy anh ta
đâu. Tôi vội đặt bát xuống đảo ra phía sau nhà. Bên đống lửa đã tàn anh chủ nhà
đang ngồi ăn. Trên cái loa mẻ chỉ có một chút mèn mén đồ bằng bột ngô rời rạc,
khô cứng.
Tôi ngồi xuống bên anh ta
và hỏi:
- Sao anh không vào nhà ăn
cùng với các bộ đội?
Anh chủ nhà xua tay:
- Bộ đội ăn nhiều đi mà
lấy sức mà đánh nhau với bọn giặc. Nhất định đừng để chúng nó cướp mất nước ta
nhé! Mình ăn thế này là được rồi, tốt rồi!
Tôi nhúm một chút mèn mén
đưa lên miệng. Miếng mèn mén bột ngô khô khốc ăn như nhai bột và nhạt thếch,
tắc nghẹn trong cổ họng. Tôi kéo anh chủ nhà đứng dậy mời anh vào nhà cùng ăn
cơm với bộ đội. Anh dứt khoát không chịu. Giữa lúc hai chúng tôi còn đang co
kéo thì có mệnh lệnh tiếp tục hành quân. Mọi người nhanh chóng đeo ba lô rời
khỏi ngôi nhà. Nồi cơm, nồi thịt ăn dở khênh đi theo luôn. Tôi gọi thằng Quý
lại bảo nó lục ba lô đưa cho tôi gói muối dự trữ của tiểu đội. Tôi vốc một vốc
muối gói vào mảnh lá chuối đưa cho anh chủ nhà. Anh chủ nhà chụm cả hai bàn tay
chìa ra nhận món quà quý giá mà tôi cho.
Chúng tôi nhanh chóng nhập
vào đội hình hành quân của tiểu đoàn. Ngảnh lại nhìn ngôi nhà mình vừa trú
quân, trong ánh sáng chập chờn của ngọn lửa tôi thấy bóng anh chủ nhà vẫn đứng
ở cửa bếp trông theo đoàn quân. Con dao anh ta đang cầm trên tay nhọn hoắt…
Đơn vị tiếp tục hành quân.
Chúng tôi đi suốt đêm trên những lối mòn ngang lưng chừng núi ướt đẫm sương
đêm. Mọi người cứ lần theo hút nhau mà đi trong đêm. Gần sáng, chúng tôi mới
được lệnh tạm dừng lại nghỉ. Nằm vật xuống hốc đá bên lối đi, tôi duỗi thẳng
hai chân mỏi rã vì leo núi. Đang nắn đôi chân cho đỡ mỏi thì chiến sĩ liên lạc
tiểu đoàn chạy đến gọi:
- Anh lên gặp chỉ huy tiểu
đoàn ngay!
- Có việc gì thế?
- Em không rõ! Anh đi luôn
đi, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên đang đợi!
Tôi vội xách súng đi theo
chiến sĩ liên lạc. Vòng qua một gộp đá to chúng tôi đến một khe núi. Tiểu đoàn
trưởng Thêm và chính trị viên Hoàng đang ngồi chụm đầu trong hốc đá ẩm ướt.
Nhìn thấy tôi, chính trị viên Hoàng vẫy vẫy tay chỉ vào một mô đá ý bảo tôi
ngồi chờ. Chỉ huy tiểu đoàn đang hội ý. Tôi vừa ngồi xuống mô đá thì trợ lý
tham mưu Thọ cũng đến. Anh Thọ túm ghé tai tôi thì thào:
- Tao với mày và tổ trinh
sát sẽ xuống núi trước. Bọn mình sẽ trinh sát tìm đường để tối hôm nay đón đơn
vị và nhân dân vượt qua quốc lộ rút về hướng Nguyên Bình đấy!
Tôi hồi hộp hỏi lại:
- Đây là đâu hả anh?
- Vị trí mình đang ém quân
ở đây là dãy núi sát con đường quốc lộ chạy thẳng lên huyện lỵ Thông Nông. Lát
nữa sương mù tan sẽ nhìn rất rõ con đường dưới chân núi. Bọn địch chốt chặn dày
đặc hai bên đường. Tao với mày và bộ phận trinh sát phải tìm cho được chỗ nào
bọn địch sơ hở để đêm nay đưa đơn vị bí mật vượt qua đường an toàn nhất…
Chỉ huy tiểu đoàn đã hội ý
xong. Tiểu đoàn trưởng Thêm gọi anh Thọ, tôi và hai chiến sĩ trinh sát đến giao
nhiệm vụ đi trinh sát. Anh căn dặn cẩn thận khi có tình huống xấu nhất xảy ra.
Tóm lại, bộ phận chúng tôi xuống núi nếu bị lộ, bọn địch truy sát thì dứt khoát
không được chạy ngược trở lại vị trí đang ém quân của tiểu đoàn, cũng không
được để lọt vào tay bọn địch. Và, tóm lại một lần nữa là chúng tôi sẽ phải tự
sát không để bọn địch bắt sống. Tôi hiểu, tính mạng của mấy trăm cán bộ, chiến
sĩ, thương binh, thanh niên xung phong và nhân dân đang ẩn nấp ở trên sườn núi
rất mong manh, mọi sự sơ xuất có thể dẫn tới sự tổn thất lớn hơn. Anh Thọ thay
mặt toán trinh sát hứa với tiểu đoàn trưởng và chính trị viên là sẽ quyết tâm
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Khi chúng tôi chuẩn bị lên
đường thì chính trị viên Hoàng kéo tay tôi lại khẽ dặn:
- Phải thật cẩn thận Hà
nhé!
- Anh cứ yên tâm! Em không
việc gì đâu!
- Mày là rất hay liều lĩnh
đấy!
Tôi gãi đầu. Trong chiến
đấu sự dũng cảm hay liều lĩnh nhiều khi cũng chả phân biệt rõ ràng. Mấy lần tôi
bị anh nhắc nhở vì cái tội chủ quan, liều lĩnh. Tôi biết anh lo lắng cho tôi.
Tôi với anh là đồng hương Vĩnh Phú, lại ở cùng với nhau từ thời đào đất, phá đá
làm đường ở rừng Hà Giang. Ngần ngừ một lát, chính trị viên Hoàng ngậm ngùi bảo
tôi:
- Anh Bính hy sinh rồi mày
biết chưa?
Tôi sững sờ trước tin anh
Bính hy sinh. Anh Bính là người cùng xã với tôi. Anh Bính nhập ngũ từ những năm
chiến tranh chống Mỹ. Anh là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 chốt chặn ở hướng Pác
Bó, Đôn Chương. Tôi biết anh Bính từ khi còn ở nhà. Tôi cùng học cấp 3 với bé
Hoà, em gái út anh ấy. Một lần lên nhà Hoà chơi, gặp anh ấy về phép. Khi nhập
ngũ, bất ngờ tôi gặp anh trong một lần tập trung phát động thi đua toàn trung đoàn.
Anh Bính lấy vợ muộn. Mãi sau chiến tranh chống Mỹ anh mới về phép cưới vợ. Con
gái anh ấy còn rất nhỏ…
Chính trị viên Hoàng nói
tiếp:
- Hôm qua, mấy thằng ở
tiểu đoàn 1 vượt vòng vây chạy sang hướng tiểu đoàn ta nói anh Bính hy sinh anh
dũng lắm. À! Mấy thằng tiểu đoàn 1 tìm để nhờ mày giữ cái cái áo anh Bính mua
cho con gái. Anh ấy dặn lại hết chiến tranh nhờ mày cầm về đưa cho con anh ấy.
Cái áo ấy hiện tao đang giữ đây, lúc nào mày đi trinh sát về thì cầm giúp anh
ấy nhé!
- Vâng ạ!
Tôi đáp và chào anh để lên
đường đi làm nhiệm vụ. Chúng tôi lợi dụng sương mù tụt xuống núi, vượt qua
những mỏm đồi trồng sắn trống trải. Khi sương mù tan hẳn thì chúng tôi đã tiếp
cận được sát mép đường quốc lộ. Tôi và anh Thọ nằm ém trong một bụi cây xấu hổ
chỉ cách mặt đường vài mét. Trên đường bọn địch đi lại ồn ào, nhốn nháo. Đoàn
quân xâm lược đang hối hả tiến sâu vào nội địa nước ta. Cũng có nhiều chuyến xe
phủ bạt kín mít chạy ngược lên phía biên giới. Có lẽ là chúng nó chở đồ ăn cướp
được hoặc người bị thương và xác chết về nước. Nghe tiếng gầm rú, tiếng xích xe
tăng nghiến ken két xiết trên đất đai của ta khiến lòng tôi cứ thấy quặn lên…
(hết chương 14)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 03.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét