Trong vòng lửa – Tiểu thuyết của Trọng Bảo (tiếp theo và hết)
Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015
Thứ ba - 04/03/2014 15:44
35 năm trước, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc đã nổ ra (2-1979). Là một người lính có mặt trong trận chiến ác liệt năm ấy tôi đã viết xong một truyện dài về những người chiến sĩ, những người dân biên giới không sợ hy sinh, dũng cảm ngoan cường chặn đánh quân thù, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Mùa Xuân năm ấy, máu của chiến sĩ, máu của nhân dân ta đã rơi xuống nhuộm đỏ đất đai của cha ông. Thời gian trôi qua, cuộc chiến tranh ấy đã đi vào ký ức xa xôi, quên lãng. Nhưng những người lính biên cương đã từng chiến đấu ở tuyến đầu ngày ấy vẫn sẽ mãi mãi không quên. Tôi xin gửi VanDanViet.net truyện dài này sau khi đã sửa chữa, bổ sung thêm nhiều sự kiện, chi tiết của cuộc chiến tranh 35 năm trước ở biên giới phía Bắc (Trọng Bảo).
Thông tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác giả Trọng Bảo
Tên thật: Hà Trọng Bảo
Sinh năm: 1956
Quê quán: Thị trấn Hoa Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc
Hiện công tác tại: Phòng Thông tấn-Báo chí quân đội
Địa chỉ: 61- Cửa Đông-Hà Nội,
ĐT: 098.6676547
Email: trongbao.56@gmail.com
_____
TRONG VÒNG LỬA
Tiểu thuyết của Trọng Bảo
Chương 15
Sương mù loãng dần rồi tan
hẳn.
Từ trong bụi cây xấu hổ
trên gò đất thấp sát bên đường chúng tôi tiến hành quan sát, theo dõi nắm quy
luật đi lại của bọn địch. Trên quả đồi bên phải chỗ chúng tôi ẩn nấp, hướng từ
biên giới xuống là một điểm chốt của bọn địch. Chúng tôi nhìn thấy rất rõ những
cái mũ vải sùm sụp với ngôi sao màu đỏ của bọn chúng nhấp nhô bên cạnh những
họng súng đen sì chốc chốc lại khạc lửa về hướng chân núi đá và phía bờ suối.
Anh Thọ bảo tôi toài người lùi lại một chút nằm ép sau gờ đất cao để đề phòng
bọn địch bắn bừa bãi lỡ dính phải một viên đạn lạc.
Chúng tôi nằm im theo dõi
mặt đường. Bọn kiến làm tổ trong bụi cây xấu hổ bắt đầu hoạt động. Thỉnh thoảng
chúng lại nổi hứng chích vào người tôi một phát đau nhói giật nảy mình mà không
dám cục cựa mạnh. Trên con đường bọn địch vẫn hành quân rất đông. Bộ binh, xe
tăng, xe vận tải rầm rập chạy vào đất ta. Chiến sự hình như đã tiến sâu xuống
phía Hoà An nên tiếng súng nghe vọng lên xa xôi quá. Bọn địch tin chắc đã đẩy
lùi quân ta xa đường biên giới sâu vào nội địa nên chúng có vẻ chủ quan. Chúng
đi lại nghênh ngang trên đường cứ như là đang đi trên lãnh thổ của chúng vậy.
Đang ngoái đầu quan sát
cái lối mòn nhỏ chạy dưới chân điểm chốt của địch ước lượng khoảng cách từ
đường đến chân núi để xem có thể đưa đơn vị vượt qua được hay không thì anh Thọ
chợt thì thào:
- Hà ơi! Nhìn kìa, có rất
đông người đang đi ngược lên hướng biên giới…
Tôi vội quay lại nhìn ra
mặt đường. Một đoàn người đang đi ngược dòng quân lính địch hướng lên biên
giới. Khi đoàn người rã rượi ấy tiến đến gần thì cả tôi và anh Thọ đều run lên
bàng hoàng, kinh hãi. Anh Thọ khe khẽ thốt lên đau đớn: “Bọn thú vật, chúng nó
dã man quá!”.
Một đoàn người khoảng hơn
một trăm cô gái tả tơi đang bị bọn lính giặc dẫn giải về hướng biên giới. Đó là
các nữ thanh niên xung phong của ta. Cả trăm cô gái bị lột trần, không quần,
không áo bị áp giải đi trong tiếng cười khả ố của bọn xâm lược. Tiếng kêu khóc
rên rỉ gọi mẹ, gọi cha thê thảm của những người em gái bị bọn địch làm nhục
khiến tôi thấy tim mình đau nhói như đang bị bóp chặt, xiết mạnh. Tôi cắn môi
đặt tay lên cò súng. Anh Thọ vội giữ tay tôi lại. Anh nghiến răng kèn kẹt nói:
- Không được! Nổ súng bây
giờ giết các cô ấy đấy. Bọn chúng sẽ bắn chết hết các cô ấy ngay, hiểu không?
Tôi buông khẩu súng ôm
mặt. Tôi không dám nhìn ra đường nữa. Nhưng dù tôi có nhắm mắt lại thì hình ảnh
những cô gái trên người không còn một mảnh vải giữa vòng vây của bầy sói man rợ
vừa đi vừa kêu khóc cứ hiện ra trong tôi. Tiếng khóc của các cô gái thanh niên
xung phong thê thảm cứ văng vẳng mãi mặc dù họ đã bị dẫn đi xa dần, khuất hẳn
sau mỏm đồi đất. Đầu óc tôi ong ong hết sức căng thẳng. Tôi chợt thấy vô cùng
chản nản, bất lực. Cơ thể tôi rã rời như sắp bị tan rữa ra thành đất bụi. Tự
dưng tôi thấy sợ hãi và căm hận chiến tranh đến thế. Chiến tranh đã biến con
người thành sắt thép, thành sỏi đá vô tri nhưng cũng biến con người thành một
bầy dã thú như thế. Có lẽ tất cả những tên lính giặc đã gí lưỡi lê, lột xé quần
áo hãm hiếp những người con gái tay không yếu ớt, tay không tấc sắt kia cũng có
em gái, cũng có mẹ, cũng có một tình yêu đẹp. Nhưng chiến tranh đã làm cho
chúng nó mất hết tính người, trở lại cái bản năng của loài cầm thú man dại. Không
hiểu rồi sau chiến tranh chúng nó sẽ sống tiếp như thế nào khi bản tính con
người đã biến mất. Chắc chắn là chúng nó sẽ yên tâm sống như những con thú thực
sự cho đến hết cuộc đời. Nếu lương tâm hồi phục trở lại làm người thì nỗi ám
ảnh của chiến tranh, sự ô nhục sẽ đi theo suốt cuộc đời chúng nó. Và, sự ám ảnh
ấy rồi cũng sẽ theo suốt cuộc đời chúng tôi khi chứng kiến cảnh cả trăm người
gái nước Việt bị lột hết quần áo tả tơi thê thảm đi giữa vòng vây quân thù như
thế này. Sau này, tôi còn được biết đơn vị nữ thanh niên xung phong ấy bị bọn
địch tập kích bất ngờ. Gần như tất cả đều bị bắt, bị làm nhục, bị tra tấn hết
sức dã man. Một người con gái trong đơn vị có khẩu súng để canh gác đã chiến
đấu đến viên đạn cuối cùng. Hết đạn cô sa vào tay giặc. Bọn địch thay nhau
cưỡng hiếp cô bé đến chết đi sống lại. Dã man hơn chúng đã lột trần trói cô bé
ấy ôm chặt lấy nòng pháo để làm mát súng khi bắn. Cô bé thanh niên xung phong
đã chết một cách rất thê thảm. Xác cô co quắp cháy đen trên nòng khẩu lựu pháo
122ly của bọn giặc.
Đã quá trưa. Tôi chợt thấy
đói. Cái đói quằn lên trong bụng. Nhưng khi anh Thọ đưa cho nắm gạo sấy thì tôi
lại không muốn ăn. Có cái gì đó đầy ứ anh ách trong bụng. Đó có lẽ là sự đau
đớn, sự căm thù đã chứa chất đầy trong tôi sau khi nhìn thấy cảnh những người
con gái Việt Nam bị bọn giặc hành hạ tả tơi, co rúm, rét mướt kêu khóc thảm
thiết ở nơi biên ải này mà mình đành bất lực không làm gì được.
Lại có tiếng ồn ào rậm
rịch trên đường. Tôi giật thót người lo lắng vạch lá cây nhìn ra mặt đường.
Nhưng lần này thì là một toán người lôi thôi, lếch thếch cũng đang đi ngược về
hướng biên giới. Họ là dân thường. Nhưng không phải là dân ta mà là dân bên
phía quân xâm lược. Họ bị bắt đi vận chuyển xăng dầu, đạn dược vượt qua biên
giới sang đất ta phục vụ quân đội của họ sang xâm lược Việt Nam. Lúc quay trở
về họ tranh thủ nhổ sắn, bẻ ngô và bắt trộm trâu bò gà lợn của dân ta. Những
toán dân binh người Tàu đói khát bẩn thỉu, lôi thôi lếch thếch. Trên lưng họ
gùi vác đủ thứ lấy được lôi kéo theo những con trâu, con lợn ăn cướp của dân
ta. Tôi nghe anh Thọ lẩm bẩm: “Mẹ kiếp! Đồ ăn cướp…”.
Có tiếng lịch bịch. Tôi
ngẩng đầu nhìn lên. Một con trâu mẹ và một con nghé chạy xuống sát chỗ tôi và
anh Thọ đang nằm. Con trâu mẹ vừa cúi đầu xuống gặm cỏ thì giật mình ngóc đầu
lên nhìn. Nó đã trông thấy hai chúng tôi đang nằm ép mình trong bụi cây xấu hổ.
Tôi nhìn chằm chằm vào mắt con trâu mẹ như muốn bảo nó hãy đi đi. Tôi khẽ:
“Xùy… xùy… xùy…” để xua đuổi nó. Nhưng hai mẹ con con trâu vẫn không hiểu cứ
đứng sững ngơ ngác nhìn chúng tôi nằm trong bụi cây gai quên cả gặm cỏ. Có lẽ
lũ trâu đang ngạc nhiên không hiểu vì sao có lúc con người lại phải bò lê dưới
đất, ẩn mình như những con thú như thế này. Hai chúng tôi đều rất lo lắng. Bọn
địch trông thấy hai con trâu mà ngứa mắt lia cho một loạt đạn thì nguy to. Tôi
vừa định thọc nòng súng ra dọa con trâu mẹ để nó dẫn con chạy đi thì bỗng đất
đá tới tấp ném đến. Một dân binh người Tàu đang đứng trên đường ném xuống để
lùa hai con trâu vừa ăn cướp được về nước. Một hòn đá ném trúng lưng anh Thọ.
Chắc là đau nên tôi thấy anh khẽ vặn người. May quá, hai con trâu lồng lên chạy
đuổi theo đàn đang đi về hướng biên giới.
Đến cuối chiều sương mù
lại buông xuống mù mịt. Bộ phận trinh sát của chúng tôi co cụm về ở chân núi
đá. Sau khi nghe các chiến sĩ trinh sát báo cáo và cùng bàn bạc tình hình, anh
Thọ thống nhất sẽ chọn lối mòn ngay dưới chân điểm chốt của địch để đến đêm đưa
đơn vị vượt qua đường. Đây là một lối đi bất ngờ và có thể giữ được bí mật. Vì
chỗ vượt đường quốc lộ sát ngay vị trí chốt chặn của địch nên bọn chúng không
thể ngờ, hai nữa lại gần suối nước chảy ào ào sẽ át tiếng động của đoàn người
vượt vây. Hơn nữa, trong đội hình đêm nay bí mật vượt vây còn có gần một trăm
người dân trẻ già, ốm yếu đủ cả.
Sau khi thống nhất ý kiến
về phương án đưa đơn vị vượt đường quốc lộ, anh Thọ bảo tôi:
- Bây giờ tao và một chiến
sĩ trinh sát sẽ lên núi báo cáo tình hình với chỉ huy tiểu đoàn. Mày và thằng
Tuất cùng tổ trinh sát của đại đội 11 tiếp tục bám đường. Khi đơn vị rút qua
mày sẽ tiếp tục ở lại bên này đường chốt giữ, yểm hộ và rút theo phía sau cùng
đội hình nhé!
- Rõ rồi! Anh cứ đi đi!
- Nhớ ám hiệu liên lạc là
tiếng tắc kè kêu chẵn ba lần nhé!
- Vâng! Anh cứ yên tâm…
Anh Thọ và chiến sĩ trinh
sát đi rồi tôi và thằng Tuất chui vào một khe đá tranh thủ chợp mắt. Khoảng nửa
đêm chúng tôi sẽ trinh sát lại lối thoát một lần nữa để gần sáng đưa đơn vị
vượt đường. Mệt bã người và cả ngày căng thẳng nhưng tôi không sao ngủ được. Cứ
nhắm mắt lại là tôi lại thấy hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong không
quần, không áo tả tơi đang lết đi trên con đường chiến tranh chất chồng bao nỗi
khổ ải, tủi nhục, đầy máu và nước mắt.
Nửa đêm, tôi và thằng Tuất
lại lần ra sát con đường quốc lộ. Tổ trinh sát của đại đội 11 do thằng Thứ phụ
trách cũng đã ra bám mặt đường chuẩn bị đón bộ đội, nhân dân. Chúng tôi đi dưới
chân điểm chốt của bọn giặc. Hình như bọn chúng cũng đã nghỉ ngơi nên không
thấy bắn bừa bãi ra xung quanh nữa. Mặt đường quốc lộ cũng không còn bóng lính
tráng hay xe cộ của bọn địch qua lại. Gần sáng đơn vị khi vượt qua đường sẽ giữ
được bí mật, an toàn. Tôi hy vọng là như vậy. Nhưng chúng tôi đã không phát
hiện ra ngay từ lúc chập tối có một chiếc xe vận tải của bọn địch bị chết máy ở
giữa đoạn đường ngầm qua suối khuất ở phía sau quả đồi gần nơi bộ phận trinh
sát chọn đưa bộ đội, nhân dân vượt qua đường.
Khi đội hình tiểu đoàn và
nhân dân vượt qua đường gần hết thì chiếc xe vận tải của địch bất ngờ rú máy từ
dưới con suối đang chảy ào ào vọt lên. Chỉ qua một đoạn cua ngắn ánh đèn pha
sáng rực của chiếc xe vận tải đầy những tên lính giặc ngồi trên đã dọi thẳng
vào đoàn người đang chạy ngang sang đường. Đó là tốp cuối cùng do trung uý
Tuấn, đại đội trưởng đại đội 11 chỉ huy. Tiếng súng, tiếng bọn địch hò hét rộ
lên. Đạn địch từ trên quả đồi bên đường cũng lập tức đổ xuống mặt đường như
mưa. Có mấy người ngã sấp ngay trên mặt đường. Một số chiến sĩ đại đội 11 và
đại đội trưởng Tuấn bị hỏa lực địch bắn rát phải bật chạy quay trở lại mé bên
này đường. Đang đi khóa đuôi cuối đội hình, tôi vội nhao lên xem sao. Tôi gặp
đại đội trưởng Tuấn đang nấp sau một mô đất. Không thể vượt qua đường được nữa
vì bọn địch từ trên đồi đang lao xuống phối hợp với bọn ngồi trên xe vận tải
chặn đường rút của quân ta. Đường đạn của địch đan dày ngang dọc vây bủa khắp
mặt đường. Tiếng xích xe tăng địch xoang xoảng. Tôi và đại đội trưởng Tuấn
quyết định dẫn số anh em chưa vượt được qua đường chạy ngược trở lại chân núi
đá. Cũng may là đại bộ phận tiểu đoàn và nhân dân đã vượt qua đường sang bên
kia bờ suối lên được sườn núi bên kia an toàn.
Bọn địch tập trung hoả lực
hướng về phía chúng tôi. Chúng tôi vừa nổ súng thu hút hoả lực địch vừa lùi dần
về phía chân dãy núi đá nơi đơn vị vừa ém quân lúc nãy trước khi vượt sang phía
bên kia đường. Chúng tôi nhanh chóng vượt lên sườn núi lẩn khuất vào các hang
hốc tránh hỏa lực địch. Bọn địch không thể tấn công lên sườn núi giữa đêm.
Quá nửa đêm thì tổ trinh
sát bám mặt đường của đại đội 11 cũng quay trở lại. Số anh em này cũng không
thể vượt sang phía bên kia được vì họ là bộ phận chốt lại cuối cùng khóa đuôi
đội hình. Thằng Thứ vốn là chiến sĩ cùng đơn vị với tôi thời còn ở Hà Giang.
Hiện nó đang là lính đại đội 11 được cử đi trinh sát bám đường như tôi. Khi vừa
gặp tôi trên sườn núi nó bảo:
- Thằng Hào chết rồi mày
ạ!
Thằng Hào là đồng cùng
hương huyện, cũng là lính cùng tiểu đội với tôi ngày còn làm đường ở Hà Giang.
Khi chuyển lên Cao Bằng, thằng Hào là tiểu đội phó bộ binh ở đại đội 11. Tôi
hỏi lại thằng Thứ:
- Nó… nó chết thế nào?
- Tổ trinh sát của bọn tao chốt ở sát mép đường bên này. Khi các bộ phận cuối
cùng đang vượt sang đường thì bị địch phát hiện. Thằng Hào liền nhào sang phía
bên kia đường rồi nổ súng dụ bọn địch đuổi theo một hướng khác. Tao và thằng
Sùng Mí De còn nằm dưới rãnh nước sát ngay đường nhờ thế mà không bị bọn địch
phát hiện. Một hồi lâu khi tiếng súng lắng đi thì thấy bọn địch rọi đèn lôi
thằng Hào từ mương nước ra giữa mặt đường. Hình như lúc ấy nó đã chết rồi. Bọn
chúng soi đèn vào mặt thằng Hào. Mặt nó đẫm máu, nó nằm thẳng đơ không thấy
nhúc nhích cựa quậy gì nữa!
Tôi rùng mình thấy lạnh
buốt trong lòng. Thằng Thứ bảo tôi:
- Tao sẽ quay trở lại chỗ
thằng Hào hy sinh. Phải tìm cách lấy xác nó đưa lên trên núi chôn cất mày ạ!
- Phải hết sức cẩn thận.
Đề phòng bọn địch phục kích và gài mìn, lựu đạn để bẫy ta đến lấy xác đồng đội.
Nhớ là phải có ít nhất hai thằng, cảnh giới bảo vệ, chi viện cho nhau thật cẩn
thận hẵng hành động nhé!
- Ừ! Bọn tao đi đây!
Dặn thằng Thứ xong tôi
trèo lên phía bên kia dốc núi, nơi có vị trí ém quân của chỉ huy đại đội 11 để
gặp đại đội trưởng Tuấn nhận nhiệm vụ. Theo điều lệnh chiến đấu của quân đội,
trong tình huống chiến đấu này anh Tuấn quân hàm cao nhất sẽ là người chỉ huy
chung, tôi sẽ là cấp dưới phụ trách các chiến sĩ thuộc cơ quan tiểu đoàn bộ.
Nhìn xuống con đường dưới thung lũng, bọn địch đã bớt đi lại, thôi bắn bừa bãi.
Ánh đèn tiếng gầm rú của xe cơ giới đã lắng hẳn.
Khi tôi quay trở lại đã
gần sáng. Trời đã tan bớt mây mù, ánh trăng sáng lờ mờ. Thằng Thứ đón tôi ở
ngay lối mòn. Nó bảo:
- Đưa được xác thằng Hào
lên sườn núi rồi! Nhưng…
- Thế thì ổn rồi! Chúng ta
phải khẩn trương chôn cất cho nó rồi chuẩn bị rút lui lên núi ngay!
Thằng Thứ im lặng. Nó dẫn
tôi đến chỗ hốc đá đang để xác thằng Hào. Thằng Hào đã được gói trong một tấm
tăng rách. Thằng Thứ kể nó và thằng Sùng Mí De phải cột thằng Hào lên lưng để
vừa bò lên dốc núi vừa sẵn sàng đánh trả bọn địch. Thằng Sùng Mí De quê ở Hà
Giang, là người dân tộc Mông. Nó có tài leo núi nhanh nhẹn như con sóc. Nó mới
nhập ngũ cuối năm 1978 nhưng trong những trận đánh vừa qua là một người chiến
đấu rất dũng cảm.
Tôi rờ rẫm sờ tay kiểm tra
thi thể của thằng Hào. Chợt tôi giật mình thảng thốt hỏi:
- Đầu của thằng Hào đâu
rồi?
Thằng Thứ hổn hển nói,
giọng nó nghẹn ngào xúc động:
- Bọn giặc chặt đầu nó ném
đi đâu mất rồi!
Tôi băn khoăn:
- Vậy làm thế nào bây giờ?
Thằng Thứ trấn tĩnh lại
rồi quả quyết:
- Phải quay lại tìm đầu nó
mày ạ!
- Nhưng chúng ta chỉ còn
có gần hai tiếng nữa là phải rời chỗ này tìm vị trí ẩn náu rồi. Sáng sớm mai
nhất định bọn địch sẽ truy quét, đánh ác liệt vào khu vực này đấy!
- Hai tiếng vẫn kịp! Không
thể để nó chết mà không có đầu được!
- Thôi được!- Tôi quyết
định:- Tao với mày sẽ cùng xuống chân núi một lần nữa!
Nghe tôi nói vậy, thằng
Sùng Mí De liền đề nghị:
- An cho en cùn xuốn tìn
an Hao vơi nhe! (Anh cho em cùng xuống tìm anh Hào với nhé!).
Thằng Sùng Mí De nói tiếng
Kinh chưa sõi. Tôi đồng ý vì nó nhanh nhẹn và dũng cảm. Ba chúng tôi lại lần
xuống chân núi. Tôi phán đoán chỗ thằng Hào bị địch giết phía ta-luy dương là
vách núi dốc, bọn chúng không thể ném đầu nó lên phía trên. Nhất định bọn giặc
sẽ ném đầu thằng Hào xuống phía ta-luy âm, nơi có dòng suối cạn. Điều khó khăn
là ban đêm, ánh trăng lờ mờ không soi rõ mọi vật, hơn nữa là việc tìm kiếm dưới
lòng con suối cạn phía bên kia đường rất dễ bị địch phát hiện. Tuy vậy, chúng
tôi vẫn tìm cách vượt qua đường quốc lộ sang phía bên kia. Tôi bảo thằng Sùng
Mí De nằm lại ở trên lề đường cảnh giới rồi cùng thằng Thứ tụt xuống suối. Con
suối cạn dưới ánh trăng lổn nhổn những hòn đã tròn tròn rất khó phân biệt. Mò
mẫm mãi hai chúng tôi vẫn không tìm được đầu của thằng Hào. Trời đã sắp sáng.
Có tiếng gà gáy eo óc trong một bản gần đấy vọng ra. Thằng Thứ thì thào bảo
tôi: “Làm thế nào bây giờ! Nếu không tìm thấy đầu của nó thì sau này về gặp bố
mẹ nó thì biết ăn nói thế nào!”. Tôi định động viên nó là chiến tranh biết làm
sao được thì chợt nhớ đến câu chuyện mình đã từng nghe ở ngã ba Đồng Lộc có cô
thanh niên xung phong bị bom Mỹ vùi mất tích sau nhờ một anh đọc lên bài
thơ gọi hồn mà đã tìm thấy xác. Tôi liền lẩm bẩm khẽ gọi:
“Hào ơi Hào!
Đầu mày đang ở chỗ nào?
Hãy gọi cho tao một
tiếng!”.
Thế là vừa tiếp tục rờ rẫm
dưới lòng con suối cạn tôi vừa lẩm bẩm mãi cái câu mình chợt nghĩ ra ấy: “Hào
ơi Hào/ Đầu mày đang ở chỗ nào/ Hãy gọi cho tao một tiếng!”…
Thật bất ngờ, khi tôi quờ
tay vào một vũng nước giữa hai hòn đá to thì chạm luôn vào mái tóc của thằng
Hào. Lời khấn gọi bạn của tôi quả là đã có linh nghiệm. Tôi khẽ kêu lên: “Thấy
rồi!”. Thằng Thứ liền nhào đến. Nó đỡ cái đầu của thằng Hào lên vuốt mái tóc
xuôi về phía sau rồi thốt lên: “Hào ơi! Sao mà mày lại khốn khổ thế này!”. Đoạn
nó để đầu thằng Hào vào cái ba lô lép kẹp rồi đeo trên lưng. Tôi và thằng Thứ
bò qua mặt đường khều thằng Sùng Mí De cùng rút nhanh lên núi. Đã có tiếng
xe tăng quân giặc gầm rú ở hướng biên giới.
Bộ phận ở lại dùng xẻng bộ
binh đã đào xong một cái hố nông choèn giữa hai gộp đá và đặt phần thân thể của
thằng Hào xuống. Trên sườn núi mà khoét được một cái hố như thế này cũng thật
khó khăn. Thằng Thứ cẩn thận đặt cái ba lô xuống. Nó nhẹ nhàng nhấc cái đầu của
thằng Hào ra. Một thằng đỡ lấy đặt vào phần thân thể của nó rồi định gấp tấm
tăng gói lại. Thằng Thứ vội ngăn:
- Khoan, để rửa mặt cho nó
đã!
Thằng Thứ lấy ra cái khăn
mặt và cái bi-đông đựng đầy nước suối vừa múc lúc nãy. Nó đưa cái bi-đông cho
một thằng bảo đổ nước ra để dấp ướt chiếc khăn rồi lau rửa mặt cho thằng Hào
rất cẩn thận.
Chúng tôi vun đất xuống
cái hố. Phải moi đất ở xung quanh đem lại mới đắp được cho thằng Hào một nấm mộ
nhỏ, đánh dấu cẩn thận. Cũng không có hương nhang, không có hoa như mọi lần.
Thế là thằng Hào và bao chiến sĩ trẻ nữa, có người chưa đủ một tuổi quân đã
thành liệt sĩ.
Gần sáng, tôi ngồi dựa vào
một gộp đá vừa cố chợp mắt lấy một lát. Đang lơ mơ tôi chợt trông thấy thằng
Hào đứng lù lù ngay bên cạnh. Người nó đầy máu. Nó vừa khóc vừa dặn dò tôi:
“Khi nào hết chiến tranh mày nhớ lên đây đưa tao về quê với nhé!”. Tôi bảo nó:
“Nhưng biết rồi tao cũng có còn sống hay không mà đưa mày về?”. Thằng Hào lại
nói: “Mày sẽ không làm sao đâu!”. Tôi lắc đầu: “Chiến tranh ác liệt thì biết
thế quái nào mà nói trước được chứ?”. Thằng Hào quả quyết: “Nhất định mày sẽ
sống và vượt qua được cuộc chiến này. Tao biết mà…”. Tôi im lặng. Thằng Hào nói
tiếp, giọng nó bùi ngùi: “Chỉ có tao là dương số hết rồi. Sau chiến tranh mày
về nói với mẹ tao là tao thương mẹ lắm. Nhà tao chỉ có mình tao là con trai,
thế mà tao lại không trở về chắc là mẹ tao sẽ đau buồn lắm, sẽ khóc hết nước
mắt…”. Tôi đang định lựa lời an ủi thằng Hào thì nó bảo: “Thôi, tao phải đi
đây. Mày nhớ chỗ tao nằm nhé!”. Tôi vội nói: “Khoan hãy đi, chờ tao chút đã…”.
Tôi nói và vội nhoài người túm lấy cánh tay cuốn băng trắng toát của thằng Hào.
Sao cánh tay của nó lại cứng queo giống như một gióng xương và lạnh ngăn ngắt
thế này. “Thôi chết! Thằng này đúng là đã biến thành ma thật rồi!”. Tôi giật
mình choàng tỉnh và thấy tay mình đang nắm chặt nòng khẩu súng AK lạnh lẽo, ướt
đẫm sương đêm.
Đến giờ tiếp tục hành
quân. Các chiến sĩ lục tục trèo qua gộp đá lên con đường mòn vắt ngang lưng
chừng dãy núi. Những người lính chiến cùng những khẩu súng đã gần hết đạn, ai
nấy quần áo tả tơi, người còn ba-lô, người thì buộc túm cái quần dài lại đeo
sau lưng để đựng đạn và lương thực thay cho ba-lô. Hai ống quần căng ra trông
giống như một nửa thân người. Trời đã sáng nhưng trên núi cao sương mù vẫn bay
mù mịt, che khuất bóng người đi. Chúng tôi lặng lẽ bám sát theo nhau trên con
đường dài thăm thẳm của cuộc chiến tranh khốc liệt, gian khổ.
Khi đã đến lưng chừng lối
mòn ngược lên đỉnh núi tôi dừng lại chờ đại đội trưởng Tuấn và các chiến sĩ đại
đội 11. Bọn địch không truy đuổi mà chỉ bắn theo. Chúng tôi co cụm ở một hốc đá
bên lối mòn. Điểm lại quân số còn đúng mười bốn người, đủ các thành phần lính
trinh sát, thông tin, vận tải của tiểu đoàn và mấy chiến sĩ thuộc đại đội 11.
Kể từ đây, bộ phận của
chúng tôi hoàn toàn bị tách khỏi đội hình của tiểu đoàn, độc lập chiến đấu. Và
cũng kể từ đây chúng tôi bắt đầu những ngày gian khổ nhất trong vòng vây mỗi
lúc một thêm khép chặt của quân thù.
(hết chương 15)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 04.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Mười bốn người chúng tôi
quay ngược lên đỉnh núi.
Con đường ngược dốc trơn
tuột. Bầu trời u ám càng thêm vẩn đục bởi khói đạn và khói bụi từ những căn nhà
bị quân giặc đốt cháy dưới thung lũng bốc lên. Đại đội trưởng Tuấn lầm lũi đi
phía trước. Tôi và thằng Tuất, thằng Lâm đi sau cùng. Không khí nặng nề, không
ai nói với ai câu nào sau cuộc đối thoại gay gắt giữa tôi và đại đội trưởng
Tuấn. Anh Tuấn đã chỉ trích, mạt sát tôi rất nặng nề về việc tổ trinh sát bám
đường của chúng tôi chủ quan, không phát hiện ra chiếc xe vận tải của địch bị
chết máy giữa suối phía sau mỏm đồi. Dẫn đến đơn vị bị bất ngờ, bị bọn giặc
đánh cắt ngang đội hình rút quân khiến bộ phận đi sau không thoát ra ngoài vòng
vây được.
Sự sơ xuất trong chiến
tranh nhiều khi khó mà tránh khỏi. Tình huống chiến đấu bất ngờ luôn luôn xảy
ra. Người lính chiến phải luôn luôn bình tĩnh, sẵn sàng đối phó với bất cứ tình
huống nào khi nó xuất hiện, kể cả tình huống xấu nhất, bất lợi nhất. Bộ phận
trinh sát của chúng tôi rất mỏng, chỉ có bốn người lại chia làm hai hướng tìm
đường đưa đơn vị rút ra. Chúng tôi đã không cử người nằm lại bám đường nên
không biết có một chiếc xe tải chở một trung đội địch chạy qua bị chết máy ở
giữa suối nên mới xảy ra tình huống bị chúng phát hiện lao lên cắt ngang đội
hình rút quân của ta. Bị đại đội trưởng Tuấn phê bình, chỉ trích tôi không tự
ái. Tôi chỉ thấy bực tức vì anh nghĩ là bộ phận trinh sát chúng tôi hèn nhát,
sợ chết, trinh sát nắm địch không cẩn thận nên để xảy ra sự cố đáng tiếc trên.
Đúng là tôi có sợ chết. Ai chả sợ cái chết. Nhưng trong chiến tranh có nhiều
điều còn khủng khiếp, kinh hãi hơn rất nhiều cái chết. Điều quan trọng là ai sẽ
đứng vững được trong chiến tranh và trước bom đạn của kẻ thù. Có một điều là
tôi không hèn nhát. Từ lúc chiến tranh xảy ra được giao nhiệm vụ gì tôi cũng
đều cố gắng hoàn thành. Có những lúc tưởng không còn có thể chịu đựng nổi sự ác
liệt của chiến tranh nữa tôi vẫn cắn răng chịu đựng, không rút lui, bỏ vị trí
khi chưa có lệnh.
Trung uý Tuấn là người Hà
Nội. Trong chiến tranh chống Mỹ anh thường ở khung A chuyên huấn luyện tân binh
rồi bàn giao cho chiến trường. Lần anh vào sâu nhất cũng chỉ là đến Quảng Bình
giao quân. Một lần đi giao quân anh bị một trận B52 suýt chết. Lên biên giới
phía Bắc, đại đội 11 của anh bố trí ở điểm chốt là hai quả đồi nối tiếp nhau
sát cửa khẩu. Trên mỗi quả đồi có một cây đa nên còn gọi là chốt cây đa thứ
nhất và chốt cây đa thứ hai. Khi chiến tranh nổ ra trận địa của đại đội 11 bị
quân địch tấn công liên tục. Cuộc chiến đấu ở đây rất ác liệt. Chỉ sau vài ngày
chiến đấu có đến hai phần ba quân số của đại đội 11 bị thương vong. Gần như
toàn bộ ban chỉ huy của đại đội 11 bị hy sinh và bị thương. Riêng anh Tuấn vẫn
bình an vô sự vì khi tác chiến xảy ra anh chủ yếu ở vị trí chỉ huy là một mỏm
núi đá nhô lên phía sau mỏm đồ thứ hai. Tại mỏm đá này có một cái hang nhỏ như
một căn hầm lớn, bom tấn có ném vào cũng chả việc gì. Tôi nhớ hôm đang chuẩn bị
trận địa ở mỏm Đầu Bò gần trường cấp 1 thị trấn gặp bộ phận còn lại của đại đội
11 rút qua. Nhìn thấy đại đội phó Hoàn đầu quấn băng kín vẫn đi lại nhanh nhẹn
bình thường, tôi hỏi:
- Anh bị thương có nặng lắm
không mà băng bó kín cả đầu trông ghê thế?
- Nặng quái gì đâu! Sướt
da vớ vẩn ấy mà!
- Sao vậy?
- Tao đang chỉ huy chiến
đấu ở chốt cây đa phía trước thì thấy bỏng rát bên má phải, máu chảy ròng ròng.
Sờ tay lên thấy bay đâu mất mẹ nó một mẩu tai bên phải rồi. Mẹ kiếp, thằng giặc
chỉ cần nhích mũi súng sang bên trái vài li thì viên đạn cắm thẳng vào giữa mặt
tao rồi. Mấy đứa chúng nó thấy mặt mũi tao be bét máu liền băng bó ngang dọc
thế này chứ tao có bị thương gì nặng đâu.
Tôi bảo:
- Anh đừng chủ quan.Nó
nhiễm trùng thì khốn…
- Đúng… đúng… nguy quá rồi
mày ơi!
- Sao thế?
- Thì… sau trận này vác
cái tai cụt về làng, người yêu tao nhìn thấy khéo nó bỏ chạy thẳng một mạch mất
tiêu luôn mày ạ!
- Không việc gì đâu anh ạ!
Sau chiến tranh vào thẩm mỹ viện họ lắp cho một cái tai giả. Tai vẫn vẫy được,
vẫn đẹp trai như thường…
- Mày chỉ được cái khéo
động viên!
Tôi hỏi tiếp:
- Anh em đại đội 11 thế
nào hả anh?
Đang tếu táo, anh Hoàn sầm
ngay mặt lại ngậm ngùi:
- Gần như toàn bộ cả hai
ban chỉ huy đại đội đều đã hy sinh cả rồi.
- Tại sao lại những hai
ban chỉ huy?
- Thì mày tính, chiến đấu
được hai ngày ban chỉ huy đại đội hy sinh gần hết. Chính trị viên Toàn, chính
trị viên phó Lân chết ở chốt cây đa thứ nhất. Trên bổ sung về anh Phương, học
viên trường sĩ quan Chính trị làm chính trị viên, đôn thằng Ngọc trung đội
trưởng lên làm đại đội phó cũng chỉ được thêm vài ngày thì người thì trúng đạn
pháo hy sinh, người đánh giáp la cà bị thương nặng đưa về chết ở trạm phẫu tiền
phương. Còn mỗi tao sống sót thì lại bị cụt mẹ nó mất một tai, thật chả ra làm
sao.
- Thế còn anh Tuấn, đại
đội trưởng?
- À… à… ông ấy á! Bom
nguyên tử có ném trúng cũng chả việc gì!
- Tại sao vậy?
- Thì… ông ấy cứ ở lì
trong hang đá thì việc quái gì chứ?
Thiếu uý Hoàn trả lời một
cách quấy quá rồi lừ lừ đi mất. Anh Hoàn là một người lính chiến ở mặt trận
phía Tây Nam. Thành tích chiến đấu của anh khá dày dặn. Anh là một người chỉ
huy gan lỳ. Hầu như suốt thời gian đại đội 11 chống chọi với các đợt tấn công
ác liệt của địch, anh luôn luôn có mặt ở chốt cây đa thứ nhất trực tiếp chỉ huy
bộ đội và trực tiếp bẻ gãy các đợt tấn công liên tiếp của chúng. Trong khi đó
thì đại đội trưởng Tuấn ở trong hang đá chỉ huy bằng điện thoại và qua liên lạc
truyền đạt. Mệnh lệnh lúc thì tới được các trung đội, lúc thì không và không
thật đúng với tình huống đang xảy ra...
Bây giờ khi bị thất lạc
khỏi đội hình của tiểu đoàn, còn mười bốn người, tôi đang là cấp dưới của anh
Tuấn. Tôi không nề hà gì việc ai là người chỉ huy mình. Tôi chỉ sợ khi tình
huống chiến đấu khẩn cấp xảy ra phải chấp hành những mệnh lệnh thiếu chính xác.
Chúng tôi tiếp tục rút sâu
vào trong dãy núi đá. Chúng tôi đi qua những thung lũng hoang vắng không một
bóng người. Bản làng mờ ảo trong sương. Những cánh hoa đào, hoa mận rơi đầy
trên mặt đất. Mười bốn người chia làm hai bộ phận. Tôi dẫn hai chiến sĩ đi
trước trinh sát địch và dò đường, tìm vị trí tạm trú quân khi đêm đến và quan
trọng nhất là tìm được dân để xin chi viện lương thực, thực phẩm. Bộ phận còn
lại do trung uý Tuấn chỉ huy hành quân ở phía sau. Bộ phận này chỉ cơ động sau
khi chắc chắn phía trước không có địch vì trong đội hình có mấy anh em bị
thương, ốm yếu. Bọn địch cũng đã bắt đầu lùng sục để tìm và tiêu diệt các đơn
vị của ta đang rút lui, ẩn náu lẩn khuất trên núi đá.
Đến đầu bản Kép Ké, thằng
Lâm đi ở phía trước chợt dừng lại bảo tôi:
- Anh và thằng Tuất cứ chờ
tại đầu bản để tôi mò vào trước xem sao. Lỡ có bọn địch phục kích trong bản.
- Mày phải thật cẩn thận
đấy!
- Bản này tôi đã đến một
lần rồi, em thông thạo địa hình.
Thằng Lâm nói rồi lẩn
nhanh vào mấy bụi cây lúp xúp đầu bản. Trời đã sâm sẩm tối. Suốt một ngày lần
mò leo trèo vật vã trên vách núi chân tay tôi mỏi nhừ. Tôi ngồi dựa vào một mô
đá. Thằng Tuất cảnh giác quan sát xung quanh. Bản Kép Ké nằm trong một thung
lũng khá rộng và bằng phẳng. Đây cũng là trung tâm hành chính của xã. Có một
con đường đá nhỏ chạy ngang qua giữa thung và vắt ngược lên vách núi ở phía
cuối thung lũng. Nếu tình hình không có gì đặc biệt, bọn địch chưa đánh đến đây
thì cả bộ phận của chúng tôi sẽ ở lại bản Kép Ké vài ngày để tìm cách tiếp cận
con đường chạy dọc lên thị trấn Nông Nông để rút sang Nguyên Bình. Chúng tôi ai
cũng mong sớm tìm về với đội hình của tiểu đoàn.
Thằng Lâm đi một hồi lâu
thì quay lại, nó dẫn theo một nam một nữ, họ là những dân quân của bản. Nó chỉ
người đàn ông trung tuổi giới thiệu:
- Đây là anh Phủng, trung
đội trưởng dân quân. Còn đây là em Hoa dân quân của bản Kép Ké.
Chúng tôi nắm chặt tay
nhau. Anh Phủng thông báo cho tôi biết tình hình địch. Bọn địch chỉ bắn pháo và
đưa trinh sát thăm dò chứ chưa đánh vào khu vực thung lũng và bản Kép Ké. Hiện
trung đội dân quân của xã vẫn chốt chặn ở đầu lối vào thung lũng. Có một số
chiến sĩ các đơn vị quân đội rút lui về đây cũng đang tham gia chốt chặn chờ
đánh địch. Anh đề nghị bộ phận của chúng tôi ở lại giúp dân quân bản Kép Ké
chặn giặc. Tôi đồng ý nhưng nói với anh là việc này cần phải xin ý kiến của đại
đội trưởng Tuấn vì tôi không thể quyết định được. Tôi bảo thằng Tuất quay lại
phía sau thông báo cho bộ phận của trung uý Tuấn di chuyển vào bản Kép Ké. Đến
khoảng tám giờ tối thì tất cả chúng tôi đã tập trung đầy đủ ở Kép ké, một bản
nhỏ ở cuối thung lũng.
Anh Phủng, trung đội
trưởng dân quân xã mời chúng tôi đi ăn cơm. Hai mâm cơm khá thịnh soạn. Cơm gạo
trắng. Có một ít thịt lợn luộc, bí ngô nấu canh, rau cải núi xào và cả một chai
rượu ngô nữa. Chúng tôi mỗi người làm một chén rượu nhỏ cho khí thế. Bao nhiêu
ngày rồi chúng tôi mới lại được ăn một bữa tương đối no và ngon đến thế. Ánh
lửa bập bùng soi không rõ mâm cơm. Nhưng tôi vẫn nhận thấy rõ những khuôn mặt
bộ đội, dân quân hốc hác vì đói ăn, đói ngủ bao ngày. Đêm bản nhỏ nơi biên giới
âm u. Những người lính, người dân ngồi sát bên nhau bên mâm cơm trước giờ nổ
súng, chia nhau từng miếng cháy đáy nồi. Chúng tôi vừa ăn vừa trao đổi về tình
hình chiến sự. Bọn xâm lược đã tràn ngập khắp nơi, tin tức phía sau thì mất
hẳn. Tôi chợt thấy một cảm giác khó tả, nó bâng khuâng và bơ vơ. Đó là cảm giác
của người lính bị cô lập ở nơi mặt trận không có hậu phương phía sau chi viện.
Tôi nhìn anh em bộ đội và dân quân đang ngồi xung quanh. Trong cuộc chiến đấu
ngày mai ai trong số những người đang ngồi quanh mâm cơm tối hôm nay đây sẽ nằm
xuống. Ôi chiến tranh thật là không thể biết trước điều gì. Tôi thấy nghèn
nghẹn trong cổ họng khi nhớ lại những người đồng đội đã hy sinh. Thân xác họ
vùi tạm đâu đó rải rác dọc con đường hành quân chiến đấu của đơn vị…
Ăn xong, chúng tôi tranh
thủ bàn việc phòng ngự chặn quân giặc tấn công vào Kép Ké. Trung uý Tuân có vẻ
hơi bực. Anh không bằng lòng vì tôi đã vượt quyền khi tỏ ý nhận lời ở lại chiến
đấu với dân quân Kép Ké. Anh chỉ muốn tiếp tục hành quân đi tìm đội hình của
tiểu đoàn ngay mặc dù biết con đường sang Nguyên Bình bây giờ không thể đi được
vì bọn địch đã chốt chặn rất kín khắp các lối mòn. Anh Tuấn đành cùng với chúng
tôi và dân quân bàn phương án chiến đấu. Đường vào bản Kép Ké rất dễ phòng thủ
nhưng cũng lại rất khó rút lui. Nếu để bọn địch chiếm được vị trí chốt phòng
ngự đầu bản Kép Ké thì chúng có thể khống chế toàn bộ thung lũng và dùng hoả
lực bắn thẳng chặn bịt ngay con đường rút lên núi ở phía cuối bản. Lúc ấy bộ
đội và dân quân sẽ như là nằm trong lòng bàn tay quân giặc.
Bàn bạc xong phương án
chiến đấu, cắt cử người phối hợp với dân quân tuần tra canh gác, bộ phận chúng
tôi phân tán chia nhau về trú quân trong các nhà dân. Tôi, Tuất và Lâm theo cô
Hoa về nhà. Tổ tiền trạm của chúng tôi sẽ ở nhà của cô Hoa sát chân núi đá. Leo
lên sàn nhà, tôi nhìn thấy bên bếp lửa bập bùng một ông già đen đúa đang ngồi
vót chông. Cô Hoa giới thiệu:
- Đây là ông nội của em!
Tôi vội chào ông và ngạc
nhiên hỏi:
- Ông vẫn chưa đi sơ tán
ạ?
Ông già lắc đầu:
- Sao tao phải đi sơ tán
hả? Mà sơ tán đi đâu, bỏ đi đâu! Đất của mình đây thì mình phải ở đây chứ.
Chúng mày ở mãi tận dưới xuôi còn kéo nhau lên đây để giữ đất. Chúng tao ở đây
lại bỏ đi à?
Cô Hoa bảo:
- Đấy! Ai khuyên nhủ thì
ông em cũng cứ nói như thế đấy! Em bảo ông sơ tán lên hang đá trên núi cho an
toàn khi bọn địch tấn công vào bản nhưng ông không chịu. Ông bảo là ở lại giúp
đỡ bộ đội và dân quân đánh giặc. Anh khuyên ông giúp em với nhé!
Tôi im lặng. Tôi đang suy
nghĩ về câu nói của ông già. Một câu nói mộc mạc giản dị nhưng đó lại chính là
một chân lý bất di bất dịch mà có lẽ cả ngàn đời nay rồi mỗi người dân đất Việt
đều hiểu, đều ghi tạc trong lòng.
(hết chương 16)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 05.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Ông già ấy đang ngồi bên
bếp lửa. Tay phải ông cặp chặt con dao quắm vuốt dài trên thanh tre đực già.
Những cây chông nhọn sắc từ bàn tay ông sau khi được hơ qua lửa cho cứng được
xếp cẩn thận cạnh bếp.
Sương mù tạt qua cửa sổ
bay vào trong nhà lành lạnh. Ông già chỉ mặc độc cái quần cộc nhuộm chàm, người
ông đen bóng tựa cái cột nhà.
Ánh lửa bập bùng. Trên
vách nứa in hình ông sù sì, gân guốc với cây chông trên tay nhọn hoắt, rung
rung. Tiếng dao vuốt trên thanh tre sàn sạt. Trong đêm vắng, âm thanh đó tạo
nên những cảm giác nhòn nhọn, gai gai...
Dân bản Kép Ké quen gọi
ông là Đăm. Tên thật của ông hình như không ai còn nhớ. Đăm- tiếng Tày
nghĩa là đen. Đã từ lâu rồi dân bản quen thấy ông quanh năm chỉ mặc độc một
chiếc quần cộc chàm, đầu không mũ, không nón nên người ông đen nhẻm. Mùa đông
lạnh giá, ông mới khoác thêm cái chăn sui rách lua tua. Ông đi cày cuốc thuê,
đẵn gỗ thuê, kiếm từng bát gạo về nuôi vợ, nuôi con. Nhưng vợ ông chết từ khi
thằng con độc nhất chưa đầy mười tuổi. Ông ở vậy nuôi con cho đến khi cách mạng
thành công. Lớn lên, anh con trai ông theo du kích rồi vào bộ đội. Anh đi hết
chiến dịch biên giới lại xuôi đồng bằng. Anh bị thương nặng, điều trị tận dưới
xuôi. Mấy năm sau hoà bình, ông xuống tận nơi điều dưỡng đón con về. Ông lấy vợ
cho anh. Được vài năm vết thương tái phát, anh mất khi đang là phó chủ
nhiệm hợp tác xã. Ông phải khuyên giải mãi, cô con dâu mới chịu đi bước nữa.
Đứa cháu gái ở với ông. Thế là bao nhiêu vụ ngô làm hạt trên nương, bao mùa lúa
chín dưới đồng, ông vẫn cô độc nuôi con, nay lại nuôi cháu. Nhưng đời ông không
phải cuốc mướn, cày thuê nữa. Ông đã có cơm ăn, áo mặc. Ông sống trọn lòng với
dân, với bản. Ai dựng nhà mới, ông cũng vác rìu đến đẽo gỗ, chặt cây. Ai đau
ốm, ông lên rừng tìm giúp cái lá thuốc...
Đêm đã về khuya. Tôi tôi
gấp cuốn sổ ghi chép những việc xảy ra trong ngày lại rồi lăn ra góc sàn cố chợp
mắt lấy một lúc. Ngày mai sẽ lại là một ngày ác liệt đây. Lâm và Tuất đều đã
ngủ ngon. Đứa nào đó còn tóp tép miệng như trẻ con.
Chợt có tiếng kẹt cửa nhè
nhẹ, tiếng chân bước nhón khẽ trên sàn nhà. Tôi quay lại nhận ra cô Hoa. Chắc
cô vừa đi tuần tra về. Hoa mới mười tám tuổi, là một cô gái xinh đẹp. Khẩu súng
vẫn khoác trên vai, cô đến bên ông ngồi xuống. Hai ông cháu thì thào với nhau
bằng tiếng dân tộc. Tôi không rõ cô gái nói gì, chỉ thấy ông ngước nhìn về phía
mấy chiến sĩ đang nằm ngủ, rồi ông rút bớt củi trong bếp ra. ánh lửa chập chờn
yếu đi. Đêm càng về khuya, chỉ còn tiếng dao vẫn miết dài trên thanh tre tạo
nên những âm thanh nhòn nhọn, gai gai.
Tôi cũng không thể nào ngủ
được nhớ lại câu chuyện trung đội trưởng Phủng kể lúc chập tối về người ông nội
của cô Hoa.
Cách đây gần một năm, vào
một buổi sáng khi người dân bản Nà Sao ở gần cửa khẩu thức dậy thì đã thấy cột
mốc biên giới từ giữa cánh đồng bỗng nhiên lù lù đến đứng ở ngay đầu bản. Bọn
lấn chiếm lợi dụng đêm qua trời mưa đã rời cột mốc vào sâu đất ta hơn một răm
mét. Dân bản nhìn nhau: “Nó định chiếm cả cánh đồng của ta à?”. Người bàn Kép
Ké chưa kịp ăn bữa sáng nghe tin cũng vội kéo nhau lên. Một toán dân binh đêm
qua làm cái nhiệm vụ mở rộng bờ cõi vẫn còn lố nhố ở đó. Thấy dân ta kéo đến,
chúng khua cao lá cờ của chúng ý muốn nói đây là lãnh thổ nước chúng. Một tên
côn đồ có bộ mặt hung hãn đứng cạnh cột mốc gườm gườm nhìn mọi người. Mấy người
dân bản Nà Sao xông vào định đào cột mốc lên đưa về chỗ cũ, nó xô ngã và giật xẻng
cuốc trên tay họ vứt đi. Giữa lúc đó thì ông già Đăm từ phía sau rẽ mọi người
tiến lên.
Tên giặc nhìn ông già chăm
chú. Nó không hiểu một ông già nhỏ bé, đen đúa thế kia thì sẽ làm gì được nó.
Dẫu vậy cũng phải đề phòng, nó xuống tấn. Người lúc dân hai bản lo lắng cho ông
mặc dù họ biết ông là người giỏi võ. Giữa lúc đó thì nghe “hự” một tiếng. Sau
đó là tiếng rú lên. Những người đứng phía sau xôn xao:
- Ông Đăm bị nó đánh chết
rồi! - Nhưng người đúng phía sau kêu lên. Còn những người đứng phía trước thì ồ
lên khoái chí. Tên giặc bị một cú đấm bất ngờ như trời giáng vào giữa mặt. Nó
bật ngã ngửa, máu mũi, máu miệng nó trào ra. Dân các bản hò reo vung cuốc xẻng
lên. Những tên lấn chiếm hoảng hốt tháo chạy. Cái cột mốc biên giới được đưa về
đúng vị trí cũ. Tên giặc bị đánh đang còn choáng váng cũng được khênh đặt về
phía bên kia cột mốc. Dân các bản hể hả nói:
- Chỗ của nó phái giữ là ở
đây!
Tôi nằm thao thức mãi với
câu chuyện của trung đội trưởng Phủng kể lại. Đêm lành lạnh. Trăng nhô lên. Ánh
trăng lọt qua khe liếp rơi trên sàn nhà những giọt sáng long lanh.
***
Sáng sớm, sương mù còn dày
đặc khắp thung lũng, cách ba mét nhìn chẳng rõ người, trung đội trưởng Phủng đã
tìm đến. Anh gọi tôi cùng đi ra chỗ đầu dốc lối vào bản Kép Ké kiểm tra việc bố
trí trận địa phòng ngự chặn địch. Tôi để yên cho hai thằng Tuất và Lâm ngủ thêm
rồi lặng lẽ khoác súng theo anh Phủng. Chúng tôi không đi đường lớn mà men theo
con đường mòn ven suối đi ra dầu bản để tránh pháo. Vừa đi, anh Phủng vừa bảo:
- Đêm hôm qua bộ phận tuần
tra canh gác của bộ đội và dân quân bắt được hai tên thám báo!
- Thế đã khai thác được
thông tin gì không?
- Chưa! Bọn này không biết
tiếng Tày, tiếng Mông mà chúng tôi lại không ai biết tiếng Tàu…
- Thế hiện nay để bọn này
ở đâu?
- Đang trói để trên hang
đá sau bản.
- Phải rất cẩn thận đấy!
Bọn thám báo đã mò vào trinh sát tức là bộ binh của chúng đang áp sát chuẩn bị
tấn công vào đây. Phải hết sức đề phòng, không được để bọn tù binh trốn thoát
chúng dẫn quân đánh vào thì nguy to anh ạ!
- Anh yên tâm! Tôi đã căn
dặn anh em cẩn thận rồi.
- Sau khi kiểm tra trận
địa xong quay về tôi sẽ hỏi chuyện bọn tù binh này xem có khai thác được thông
tin gì không!
- Anh biết tiếng của bọn
chúng à?
- Cũng biết võ vẽ từ hồi
còn đi học, vừa rồi lại được bồi dưỡng thêm mấy tuần ở lớp tập huấn công tác
binh địch vận của trung đoàn.
- Thế thì tốt quá! Nếu mà
nắm được ý định của bọn địch thì hay quá anh ạ! Biết rõ địch thì trăm trận trăm
thắng mà…
Tôi mỉm cười vì vẻ tự tin
của trung đội trưởng Phủng. Anh cũng là một người lính chống Mỹ về phục viên.
Anh đã có những ngày chiến đấu ở mặt trận Bình Trị Thiên. Do bị sức ép do bom,
suy giảm sức khoẻ nên anh được ra quân ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải
phóng. Trở về quê sau bao năm xa nhà, lấy vợ ra ở riêng chưa kịp làm lấy một
căn nhà tử tế thì chiến tranh biên giới xảy ra anh liền xung phong vào dân
quân. Anh cũng không ngờ là mình được cầm lại khẩu súng nhanh đến như thế. Từng
là một người lính chiến nên anh được bổ nhiệm ngay chức vụ trung đội trưởng dân
quân. Có tin xã đang định rút anh lên làm xã đội trưởng.
Anh Phủng dẫn tôi đến các
vị trí bố trí lực lượng, nơi đặt hoả lực trên đầu con dốc. Bọn địch muốn tiến
vào thung lũng Kép Ké chỉ có một con đường độc đạo duy nhất này. Ta chỉ cần một
lực lượng nhỏ nhưng vẫn có thể chặn được bọn địch vì con đường độc đạo một bên
là vách đá, một bên là vực sâu rất khó đi. Nhớ đến bài học bị địch tập kích khi
còn ở Lũng Mật tôi bàn với anh Phủng bố trí thêm một tổ chặn địch ở vách núi
bên phải đề phòng bọn lính đặc nhiệm bám vách núi leo lên. Anh Phủng đồng ý
ngay. Anh lập tức cho điều lực lượng lên ngay. Bộ phận tổ ba người của cô Hoa
được giao nhiệm vụ chặn địch ở khu vực vách đá dựng đứng. Nhận mệnh lệnh xong
cô Hoa cố nán lại đưa cho tôi một cái gói lá dong bảo:
- Anh đi sớm quá chưa kịp
ăn gì! Cơm em vừa nắm đấy anh cầm đi.
- Cám ơn em…
Chẳng kịp nghe lời cám ơn
của tôi Hoa đã chạy vụt theo đồng đội. Trận địa phòng ngự đầu dốc đã sẵn sàng.
Mấy chục dân quân, bộ đội và cả thanh niên xung phong nữa. Mọi người đều bình
tĩnh chờ trận đánh nổ ra. Trong những người ở đây phần lớn chưa trực tiếp giáp
mặt với kẻ thù trừ mấy chiến sĩ ở các đơn vị quân đội thất lạc về đây. Mọi
người đều có vẻ hồi hộp nhưng tin tưởng chờ quân giặc tới.
Tôi và anh Phủng cùng ngồi
nghỉ trên một hòn đá bằng phẳng. Tôi bẻ đôi nắm cơm của cô Hoa đưa cho anh một
nửa. Hai chúng tôi tranh thủ vừa ăn vừa bàn tiếp việc phòng ngự. Do dự mãi tôi
mới nói với anh Phủng về tình huống sẽ không giữ được trận địa phòng ngự, bọn
địch sẽ tràn vào thung lũng Kép Ké và phương án ta phải rút chạy thế nào để đỡ
tổn thất nhất. Anh Phủng tỏ vẻ rất ngạc nhiên nhìn tôi. Anh ngừng ăn cau mày.
Có lẽ anh nghĩ tôi là một kẻ hèn nhát, chưa đánh mà đã bàn lui. Lặng đi một
lát, anh mới nói:
- Theo anh liệu mình có
thể giữ được bao lâu?
- Theo cách đánh và thế
của địch bây giờ so sánh với lực lượng của ta thì sẽ không giữ được lâu lắm!
- Vậy theo anh thì…
- Mình phải có một phương
án rút lui lên núi. Hiện nay cũng không hiểu tình hình toàn bộ mặt trận thế
nào, địch đã tiến đến đâu rồi, quân ta liệu có tổ chức phản công hay vẫn đang
rút lui… Tất cả thông tin đều mù mịt. Do đó chúng ta vừa đánh vừa phải có
phương án bảo vệ lực lượng, bảo vệ dân, tránh hy sinh quá nhiều…
Anh Phủng im lặng suy
nghĩ. Nét mặt anh đăm chiêu. Hồi lâu anh nhìn thẳng vào mặt tôi gật gật đầu tỏ
vẻ đồng ý. Chắc anh đã hiểu vì sao tôi bàn với anh như vậy. Bọn địch chưa tiến quân
vào thung lũng Kép Ké nhưng chúng đã chiếm hết các khu vực xung quanh rồi. Kép
Ké chỉ là một ốc đảo giữa bốn bề lửa đạn. Là một người lính chiến, anh hiểu tại
sao những đơn vị tương đối tinh nhuệ của quân khu như tiểu đoàn 3 của chúng tôi
mà cũng không giữ nổi trận địa phòng ngự phải rút lui sang huyện Nguyên Bình,
có nhiều bộ phận còn bị đánh bật lại giạt về đây.
Hồi lâu, anh lặng lẽ nắm
chặt bàn tay tôi hỏi:
- Như thế này thì liệu rồi
chúng ta có bảo vệ được đất nước mình không anh?
Tôi xiết chặt tay anh gật
đầu:
- Nhất định chúng ta sẽ
giành lại từng tấc đất bị mất. Lịch sử ngàn năm đã chứng minh chưa bao giờ cha
ông chúng ta lại chịu thua chúng nó cả anh ạ!
Anh Phủng cũng xiết chặt
tay tôi.
Sương mù đã tan hẳn. Thung
lũng Kép Ké sáng dần. Tiếng pháo địch vẫn ầm ầm đâu đó không dứt. Phía cuối con
đường trước mặt có tiếng xe tăng và tiếng bộ binh rộ lên. Tôi đứng cạnh trung
đội trưởng Phủng bình tĩnh chờ quân giặc tới. Bên tôi, nhưng người chiến sĩ dân
quân áo chàm, đầu trần chân đất nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với quân xâm lược
hung bạo...
(hết chương 17)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 07.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Suốt một ngày bọn địch chỉ tổ chức tấn công thăm dò vào thung lũng Kép Ké. Chắc
chúng chưa rõ lực lượng của ta ở đây thế nào. Tốp biệt kích thám báo tung vào
hôm trước bị dân quân phát hiện bắn chết một tên, bắt sống hai tên nên có lẽ
bọn chúng chưa có đầy đủ thông tin về lực lượng và các vị trí phòng ngự của
quân ta ở Kép Ké. Chúng đâu có biết là ở đây chỉ có một trung đội dân quân và
hơn chục chiến sĩ đang tổ chức trận địa phòng ngự trên đầu con dốc núi lối dẫn
vào thung lũng.
Anh Phủng quả là một người
chỉ huy thông minh, dũng cảm. Anh bình tĩnh chỉ huy dân quân bộ đội đánh trả
các đợt tấn công của bọn địch. Đoán được ý định tấn công thăm dò của bọn chúng
nên anh tìm cách sử dụng hoả lực và lực lượng một cách khéo léo để đánh lừa bọn
địch. Với một khẩu 12ly7, hai khẩu cối 60 và cơ số đạn ít ỏi nhưng trung đội
dân quân vẫn tạo được sự khống chế mạnh mẽ, áp đảo bọn địch làm như lực lượng
của ta rất mạnh. Chập tối, khi bọn địch đã ngừng tấn công và pháo kích thưa
thớt vào thung lũng, đại đội trưởng Tuấn mới ra chỗ đầu dốc để quan sát trận
địa. Anh kéo tôi ra một khe đá khuất và nói:
- Bộ phận đi trinh sát đã
xác định được khu vực đóng quân của tiểu đoàn rồi, chúng ta phải nhanh chóng
rời khỏi Kép Ké tìm cách vượt vòng vây trở về với đội hình của đơn vị.
Tôi bảo anh:
- Chắc chắn Kép Ké cũng
không thể giữ được lâu. Chờ đến khi đồng bào và dân quân rút hết sang bên kia
núi thì chúng ta cũng sẽ rút theo luôn rồi lên đường đi tìm đơn vị…
- Nhưng…- Đại đội trưởng
Tuấn cau mày: - Nhưng… liệu đến lúc đó chúng ta còn có thể chạy thoát ra được
khỏi thung lũng này nữa hay không mà đi tìm đơn vị?
- Trong lúc này chúng ta
cũng không thể bỏ đi vì anh chị em dân quân Kép Ké đang rất cần sự có mặt cùng
chiến đấu của bộ đội!
Đại đội trưởng Tuấn càu
nhàu:
- Biết không giữ được thì
còn ở lại làm gì, còn cố giữ làm gì, chỉ thêm tổn thất lực lượng?
- Nhưng hiện nay nhân dân,
bộ đội, thanh niên xung phong và thương binh chưa rút hết đi được. Các hướng
đều vướng phải vòng vây của địch nên cứ phải loanh quanh tìm con đường tương
đối an toàn, ít bị thương vong nhất. Mình cố giữ vững trận địa thêm vài hôm
nữa, càng lâu càng tốt anh ạ!
- Đây không phải là nhiệm
vụ của ta…
Đại đội trưởng Tuấn đang
định nói tiếp thì anh Phủng lách người qua khe đá đi đến chỗ chúng tôi. Anh
muốn bàn với chúng tôi về kế hoạch ngày mai. Đại đội trưởng Tuấn bảo tôi ở lại
trao đổi với trung đội trưởng Phủng rồi cùng chiến sĩ liên lạc đi về phía hang
núi sau bản Kép Ké. Một cơn gió lạnh từ dưới chân dốc thổi thốc ngược lên xộc
vào mũi chúng tôi cái mùi khen khét của thuốc súng. Tôi khẽ rùng mình vì lạnh.
Anh Phủng kéo tôi ngồi xuống khuất sau gộp đá to tránh gió. Anh mở cái túi đeo
bên mình lôi ra một tấm bản đồ địa hình khu vực. Ánh đèn pin che bằng chiếc
khăn tay chỉ đủ soi sáng một góc tấm bản đồ. Chúng tôi cùng nhau trao đổi về
một phương án xấu nhất cho ngày hôm sau.
Anh Phủng kéo tôi cùng đi
kiểm tra các vị trí của bộ đội và dân quân. Gặp thằng Lâm đang ôm súng ngồi co
ro trong một hốc đá, tôi hỏi nó:
- Số anh em chiến sĩ bộ
đội mình thế nào rồi?
- Tất cả anh em trung đội
thông tin và trung đội vận tải của tiểu đoàn đều ở cả đây. Mấy người ở đại đội
11 thì đại đội trưởng Tuấn gọi về bản Kép Ké hết rồi!
- Mấy thằng ấy đều ốm yếu
hoặc bị thương để chúng nó về phía sau cho yên tâm. Nhớ là dặn anh em khi tình
huống chiến đấu xảy ra nhất nhất phải chấp hành mệnh lệnh và sự chỉ huy chung
của trung đội trưởng Phủng nhé!
- Rõ rồi ạ!
- Bảo thằng Tuất lấy khăn
quấn cái cổ cho ấm. Nó ho khù khụ mấy ngày rồi đấy. Gió lạnh thế này đừng chủ
quan.
- Vâng! Nó vừa về bản lấy
cơm cho anh em.
Anh Phủng bảo:
- Ngày mai anh trực tiếp
chỉ huy anh em bộ đội ở phía bên phải đường, tôi cùng anh em dân quân ở hướng
chính diện. Nhớ là chi viện cho nhau thật tốt nhé!
- Để anh em bộ đội chúng
tôi tham gia ở hướng chính diện anh ạ!
- Không được! Các anh ở
bên phải sát vách núi tránh được hoả lực địch kh cơ động. Chúng tôi thông thạo
địa hình, ở hướng chính diện khi có tình huống phải rút về phía sau thì thuộc địa
hình cơ động hơn. Chúng ta sẽ gặp nhau ở hẻm núi phía sau bản Kép Ké như phương
án đã bàn.
Anh Phủng và tôi đến vị
trí chốt chặn chỗ vách đá của bộ phận do cô Hoa đảm nhiệm. Anh Phủng gọi cô Hoa
cùng tôi ra phía sau một gộp đá nói:
- Con bé này đang học
trường cao đẳng sư phạm ở Thái Nguyên. Ngày nghỉ nó về thăm ông. Chiến tranh nổ
ra, nó không thể về trường được nên tham gia dân quân chiến đấu bảo vệ bản.
Ngày mai khi bộ phận của anh Hà rút đi nhờ các anh cho nó đi theo. Chỉ cần nó
sang đến Nguyên Bình thì sẽ có đường để về Thái Nguyên tiếp tục học tập.
Cô Hoa vội chối đây đẩy:
- Em không về trường đâu!
Cho em ở lại chiến đấu với trung đội dân quân của bản!
Anh Phủng gạt đi:
- Không phải việc của mày!
Mày phải về trường ngay hiểu không!
- Em không đi đâu…
- Phải đi!- Anh Phủng
nói:- Ngày mai bàn giao súng lại cho cái Liên rõ chưa?
- Nhưng còn ông em…
- Ông khắc có dân quân và
bà con dân bản lo. Còn mày phải về trường ngay.
Cô Hoa lắc đầu vẻ không
đồng ý nhưng anh Phủng tỏ vẻ dứt khoát:
- Nhiệm vụ của mày là phải
về trường tiếp tục học tập cho thật tốt! Sáng mai bàn giao súng lại cho cái
Liên về bản chuẩn bị rồi rút theo bộ đội sang Nguyên Bình tìm đường về trường!
Nói xong anh Phủng kéo tôi
đi tiếp lên kiểm tra vị trí đặt khẩu cối 60. Vừa đi anh vừa nói về hoàn cảnh
của hai ông cháu cô Hoa. Anh lo lắng cho bé Hoa - đứa con duy nhất còn
lại của một người lính chiến đã mất.
***
Đúng như chúng tôi đã dự
đoán. Hôm sau bọn địch tấn công ác liệt hơn. Hoả lực địch dội xuống trận địa
phòng ngự của bộ đội và dân quân. Tuy nhiên đến cuối chiều chúng mới phá vỡ
được tuyến phòng ngự mỏng manh của bộ đội và dân quân. Cũng không còn biết rõ
ai còn ai mất nữa. Phương tiện thông tin không có chỉ nghe tiếng súng ở các
hướng mà đoán tình hình địch ta. Khi ở hướng chính diện của trung đội trưởng
Phủng tiếng súng lịm dần thì tôi hiểu đã đến tình huống phải rời bỏ vị trí
chiến đấu để rút lui. Tôi cố gào to gọi thằng Lâm và mấy chiến sĩ vận tải. Không
thấy ai đáp lại. Thằng Tuất và một anh dân quân bò đến bảo:
- Rút thôi anh ơi!
- Anh Phủng và trung đội
dân quân thế nào?
- Anh ấy lệnh cho chúng
tôi rút lui và gọi các anh rút ngay. Anh ấy thì vẫn ở trên trận địa.
Tôi chợt nhớ:
- Thế bộ phận của cô Hoa
đã rút chưa?
- Cũng không rõ anh ạ!
Tôi cố nhìn về phía anh
Phủng ở trên mỏm đồi chính diện chắn ngang con đường vào thung lũng. Khói lửa
mù mịt. Tiếng kèn sừng dê, tiếng la hét “tả… tả… tả…” của bọn địch ầm ĩ. Hình
như không còn nghe thấy tiếng súng kháng cự của quân ta nữa.
Thế là hết! - Tôi nghĩ!
Không còn thời gian nữa, tôi vội xách súng chạy theo thằng Tuất và anh dân quân
lẩn nhanh vào khe đá chạy dọc mương nước về phía bản Kép Ké.
(hết chương 18)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 07.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Ba chúng tôi chạy về đến
bản Kép Ké. Tôi và thằng Tuất phóng ngay về nhà cô Hoa. Có mấy anh em thương
binh đang ở đó để ông nội cô Hoa bawnnnnng bó, chữa trị vết thương bằng lá
thuốc. Ông già Đăm đang ngồi cẩn thận nhặt từng cái lá thuốc vừa hái trên núi
về. Mấy ngày nay nhờ những thứ thuốc lá cây của ông nên anh em thương binh
nhiều người đã thấy đỡ đau, vết thương nhanh lành hơn.
Khi tôi đang giục ông già
Đăm và anh em thương binh thu dọn để cơ động lên núi thì cô Hoa rồi cả thằng
Lâm từ phía trận địa vừa thất thủ chạy về. Quần áo đầu tóc cô Hoa tả tơi. Mặt
cô gái hơi tái đi, giọng hổn hển:
- Ông ơi, các anh bộ đội
ơi! Bọn giặc đã... đến đầu bản rồi!
Ông già đứng phắt dậy,
trợn mắt:
- Thật không Hoa?
- Thật mà! Chúng nó đông
lắm. Thằng Phù, thợ sửa chữa đồng hồ ở thị trấn dẫn đường. Cháu nhìn rõ mặt nó
lắm!
- A... a... a... - Ông già
Đăm kêu lên.
Thấy ông già có vẻ cuống,
tôi chụp khẩu AK. Nhưng ông nói như quát:
- Ra ngườm (1) đá sau nhà
mau lên!
Ông già giục Hoa dìu
thương binh đi ngay. Anh em thương binh đã ngồi hết cả dậy. Theo phản xạ của
người lính, ai cũng hiểu tình hình rất gấp. Phía đầu bản có tiếng lựu đạn nổ,
rồi tiếng súng ran lên. Đạn súng bộ binh chiu chíu bay vào trong bản.
Ông già vừa cõng vừa dìu
hai đồng chí thương binh nặng nhất. Một đồng chí thương binh băng kín mắt được
thằng Tuất dắt chạy theo. Tôi kiểm tra băng đạn rồi mở khoá nòng lên đạn. Hoa
cũng tháo khẩu súng ra khỏi vai. Cô vừa chạy theo tôi vừa nói:
- Bọn địch bám được vào
vách đá bất ngờ đánh thốc lên. Bộ phận của em chỉ có mình em chạy thoát về đây
thôi!
- Bên này bọn anh không
sao nhưng chỗ anh Phủng thì chắc là mọi người đều hy sinh hết rồi!
- Bọn chúng nó đông quá
anh ạ…
Hoa vừa nói chưa dứt câu
thì một quả đạn cối nổ gần. Cả hai chúng tôi vội đổ người nằm bẹp xuống lối đi.
Đất đá, mảnh đạn bay rào rào, khói bụi mù mịt. Bọn địch bắn cấp tập vào bản.
Tiếng đạn cối oành oành dội vào vách núi. Địch đang bắn vào bản. Cũng may, ông
già và anh em thương binh đã chạy tới gần chân núi um tùm những dây leo.
Tôi và Hoa đang len lỏi
qua những mỏm đá thì thấy ông đi ngược lại. Ông già Đăm vội vã nói với cháu gái
một câu gì đó bằng tiếng dân tộc. Hình như hai ông cháu đang giành nhau làm một
việc gì đó. Rồi cô gái quả quyết xách súng quay lại. Tôi cũng vội quay phắt lại
định chạy theo thì bàn tay cứng như kìm của ông lão đã chụp lấy vai tôi:
- Bộ đội! Mày định đi đâu?
- Cháu quay lại với cô Hoa
chặn bọn chúng!
- Không được! Lên hang
đi...
Ông vừa nói, vừa dứt khoát
kéo tôi lên hang đá.
Hang thực ra là một hốc đá
khuất sau những đám dây leo um tùm. Ông kê mấy mảnh ván và lót rơm dạ nằm. Góc
hang để ít đồ đạc và một bồ lúa nhỏ. Tôi vừa lên tới cửa hang thì thằng Tuất
chạy ra, miệng nó méo đi:
- Cô Hoa nguy mất! Cô ấy
chạy ra cánh đồng để đánh lạc hướng bọn địch đấy, thằng Nông nghe thấy tiếng
hai ông cháu nói với nhau như vậy.
Thằng Nông là người Tày
nên tôi tin ngay. Tôi quay ra ngoài cửa hang. Ông già đang đứng sau một hòn đá
to nhìn xuống bản. Bọn địch đã vào đến giữa bản, thằng nào thằng ấy súng lăm
lăm trên tay. Nhưng, chúng không vấp phải sự đánh trả nào khác ngoài một quả
lựu đạn gài làm ba thằng toi mạng và một tên bị thương đang kêu la ầm rĩ. Một
thằng mặc quần áo trắng mốc có vẻ là chỉ huy. Đứng cạnh nó là một tên thấp bé.
Tên này đang chỉ tay về phía chân núi, nơi chúng tôi đang ẩn nấp. Ông già Đăm
nghiến răng: “Thằng Phù!”.
Cách đây hơn chục năm, có
đôi vợ chồng người Hoa ăn mặc rách rưới chạy qua biên giới. Họ nói phải trốn
sang Việt Nam để nương nhờ, tránh cuộc đại cách mạng văn hoá. Dân thị trấn đã
giúp họ làm một căn nhà nhỏ. Người chồng là thợ sửa chữa đồng hồ, người vợ buôn
bán nhỏ. Anh ta tên là Phù. Rồi sau nhiều năm làm ăn, buôn bán, đôi vợ chồng ấy
xây dựng một ngôi nhà to hơn cả cái cửa hàng bách hoa thị trấn. Năm ngoái, họ
kéo nhau chạy về nước...
Bây giờ, thằng Phù dẫn quân
trở lại chém giết những người đã từng che chở, đùm bọc gia đình nó khi hoạn
nạn. Nó biết các lối mòn qua núi nên đưa đường dẫn quân định leo lên vách đá
định tập kích vào phía sau trận địa phòng ngự của quân ta. Bị bộ phận của cô
Hoa phát hiện tổ chức đánh trả quyết liệt, nhiều tên bỏ mạng khiến bọn chúng
thêm điên cuồng. Theo chỉ dẫn của tên chỉ điểm, bọn giặc bắt đầu tràn vào các
ngôi nhà sát chân núi. Tiếng đập phá loảng xoảng, tiếng tre nứa từ những ngôi
nhà bị đốt cháy nổ lốp bốp. Tôi lo lắng cho tính mạng của các thương binh và
nhiều bà con dân bản đang ẩn nấp trên sườn núi phía sau bản. Chúng tôi gom tất
cả số lựu đạn của anh em thương binh lại. Nếu cần, chúng tôi sẽ quyết tử.
Ông già Đăm vẫn đứng cạnh
tôi. Mắt ông chăm chú nhìn ra phía cánh đồng phía trước bản. Từ phía ấy, tiếng
súng AK bỗng vang lên từng loạt. Bọn giặc trong bản nhốn nháo. Rồi, theo lệnh
của chỉ huy, chúng hò hét gọi nhau ùa hết cả ra phía cánh đồng. Bụng tôi như
lửa đốt. Bọn chúng đông như vậy nên ai cũng rất lo lắng cho cô Hoa. Nhìn thấy
những tên giặc chới với ngã gục ngay bãi cỏ trước bản, tôi đoán cô gái đã ra
tới bờ suối.
Nhìn tên chỉ huy mặc áo
trắng đang đứng trên mỏm đá quay lưng về phía chúng tôi đang hò hét xua bọn
lính ào ra phía cánh đồng, bất giác tôi nâng khẩu súng kê lên tảng đá trước
mặt. Ông già Đăm chộp lấy tay tôi gằn giọng:
- Không được bắn!
Tiếng súng chìm dần trong
sương loãng cuối chiều. Ông già vẫn đứng lặng yên. Nghe hướng súng nổ, tôi bỗng
giật mình. Cô gái đang dẫn địch về phía bãi mìn của công binh mới gài. Tôi thấy
tim mình thắt lại. Thời gian vẫn chậm chạp trôi đi. Có tiếng nổ lục bục ở cuối
cánh đồng.
Trời tối dần. Tôi dặn
thằng Tuất ở lại với anh em thương binh rồi xách súng nhảy qua lèn đá lần xuống
bản. Tôi vượt qua bãi trống lổm ngổm những mô đá như những hình người đang đứng
sát nhau trong đội ngũ. Đi làm gì tôi cũng chưa rõ. Tôi cứ đi như người vô
thức. Hình ảnh ông già và cô cháu gái rồi cả hình ảnh những tên giặc hung hãn
cứ hiện lên trong đầu tôi.
Tới gần ngôi nhà chân núi,
trong chớp lửa loàng nhoàng của một quả pháo bắn vào vách đá, tôi thoáng thấy
một bóng người con gái nhỏ bé đang lảo đảo tiến lại.
- Hoa! - Tôi kêu lên.
Cô gái một vai khoác súng,
một cánh tay bị thương thõng xuống được buộc tạm bằng một chiếc khăn. Tôi vội
khoác súng qua vai đỡ cô. Nhận ra tôi, Hoa gái khẽ kêu lên:
- Chúng nó vướng mìn chết
nhiều lắm anh ạ!
- Thế hả! Để anh băng vết
thương cho!
- Ông và các anh thương
binh hiện sao rồi anh?
- Đang ở trên hang, an
toàn cả...
Bất giác, tôi và Hoa đều
cùng quay người lại. Ông già đang đứng trên một mỏm đá phía ở sau chúng tôi.
Hình như ông đang mỉm cười. Bóng ông sừng sững như tạc vào vách núi đá dựng
thành lũy trùng trùng, điệp điệp nơi biên ải...
(hết chương 19)
----
(1)-
Tiếng Tày nghĩa là hang đá.
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 08.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Chúng tôi rút lên sườn núi
đá. Bộ đội và dân quân nhanh chóng phân tán lẩn khuất trong các hang hốc, khe
đá để tìm cách rút đi. Toàn bộ số chiến sĩ đại đội 11 do đại đội trưởng Tuấn
chỉ huy đã vượt được qua dốc yên ngựa sang bên kia dãy núi an toàn từ chiều hôm
trước khi bọn địch đang tấn công vào trận địa của dân quân đầu thung lũng Kép
Ké. Sau khi chiếm được thung lũng bọn địch dùng bộ binh và hoả lực mạnh khống
chế bịt chặt con đường duy nhất thoát ra khỏi thung lũng. Bộ phận do tôi chỉ
huy và số anh em dân quân không thể vượt qua được dốc yên ngựa để rút đi. Chúng
tôi đành lẩn trốn trong các hang hốc trên sườn núi đá phía sau bản Kép Ké để
chờ đêm đến. Nhưng cũng may là phần lớn bà con dân bản và thương binh đã thoát
ra khỏi thung lũng Kép Ké. Số anh em bộ đội và dân quân còn lại co cụm trên
sườn núi không để bọn địch phát hiện truy đuổi. Nhờ có nhiều hang hốc nên chúng
tôi dễ ẩn náu.
Mãi đến cuối buổi chiều
tôi mới gặp được anh Chấn và mấy dân quân ở trận địa phòng ngự đầu dốc con
đường vào thung lũng chạy thoát lên núi. Anh Chấn kể lại cho chúng tôi mới biết
cụ thể về sự hy sinh oanh liệt của trung đội trưởng Phủng. Cái chết của anh
Phủng khiến tôi cảm thấy xót xa và lạnh buốt trong lòng.
Bắn đến viên đạn cuối cùng
anh Phủng sa vào tay giặc. Anh không thể rút lui như chúng tôi vì đã quá muộn.
Bọn địch đã tràn lên trận địa. Một bên đùi anh lại bị gãy nát do trúng mảnh đạn
pháo. Hai tên lính địch xô vào giằng khẩu súng hết đạn của anh ném đi. Chúng
túm lấy chân anh lôi tuồn tuột lên khỏi công sự kéo xuống mặt đường. Thân hình
anh tả tơi rách nát. Máu từ vết thương trên đùi anh chảy thành vệt trên sườn
đồi. Lôi anh Phủng xuống tới mặt đường bọn chúng để anh ngồi dựa vào thành
ta-luy chờ thằng chỉ huy đến. Mấy tên giặc xúm xít xung quanh anh. Chúng thi
nhau đá mạnh vào vết thương của anh đang rỉ máu. Máu trong người anh đã chảy ra
gần hết. Anh Phủng cố nghiến răng chịu đau. Đôi mắt anh căm hờn nhìn bọn cướp
nước. Có lẽ anh đang ao ước giá như mà mình còn một quả lựu đạn khi bọn chúng
xông đến.
Bọn giặc đã làm chủ toàn
bộ trận địa của ta ở đầu thung lũng Kép Ké. Chúng lùng sục từng ngách chiến
hào, các khe kẽ đá xung quanh để tìm những bộ đội và dân quân của ta bị thương
không kịp rút đi. Chúng dùng lưỡi lên đâm nát các xác bộ đội, dân quân. Thêm
một nữ dân quân bị chúng bắt sống lôi xuống mặt đường. Thằng chỉ huy thấp lùn
mặc cái áo trắng mốc từ phía chân dốc đi lên. Nó đưa mắt nhìn anh Phủng và
người nữ dân quân. Một khẩu lệnh ngắn “lảo xảo” từ cái mồm ám khói thuốc lá của
nó phát ra. Mấy tên giặc liền lôi cô dân quân ra giữa đường. Mặc cô giãy giụa
kêu khóc, chúng lột hết quần áo của cô rồi thay nhau hãm hiếp. Anh Phủng hét
lên căm phẫn:
- Quân lang sói, đồ mặt
người dạ thú…
Tên chỉ huy nhếch mép
cười. Chắc chắn không biết tiếng Việt nhưng nó hiểu là anh đang mắng chửi nó.
Nó rút con dao găm đang đeo bên hông ra tiến lại phía anh. Một tên lính giặc
hiểu ngay ý định của chỉ huy. Hoặc việc này nó đã quen làm từ khi tấn công vào
đất ta. Nó lao vào giật tung mấy chiếc cúc áo còn sót lại của anh Phủng. Thằng
giặc cúi người xuống sát mặt anh Phủng. Hơi thối từ mồm nó phả ra khiến anh
ngộp thở phải cố nghiêng mặt đi. Rất từ từ nó thọc sâu mũi dao vào giữa bụng
anh Phủng rồi ấn mạnh xuống. Lưỡi dao sắc của thằng chỉ huy rạch một đường mổ
phanh bụng người trung đội trưởng dân quân. Anh Phủng vẫn không kêu rên. Anh nghiến
răng cố hét lên:
- Lũ cướp nước dã man, rồi
chúng mày sẽ biết…
Anh không nói thêm được
nữa. Hai tên giặc đã kéo rộng vết rạch trên bụng anh lôi ruột ra rải trên mặt
đường. Cô gái dân quân cũng bị bọn địch mổ bụng sau khi chúng thay nhau hãm hiếp.
Chúng moi ruột gan của hai chiến sĩ dân quân ném ra mặt đường. Máu của những
người dân quân nhuộm đỏ mảnh đất quê hương thân yêu mà họ đã quên thân mình
chiến đấu bảo vệ.
Từ chỗ ẩn nấp, anh Chấn đã
chứng kiến toàn bộ về cái chết của anh Phủng và người nữ dân quân. Anh Chấn vừa
kể lại cho chúng tôi nghe vừa khóc. Nghe xong câu chuyện, tôi lặng người đi
trước cái chết bi hùng của những người dân quân vệ quốc. Mãi sau tôi mới nói
được một câu, giọng đứt quãng:
- Chúng ta… phải… phải tìm
cách nào để lấy bằng được thi hài hai người về mai táng anh ạ!
- Rất khó anh ạ! Nhưng tối
nay chúng tôi sẽ tìm cách tiếp cận nơi chúng nó giết hai người xem có đưa được
họ ra không.
- Để mấy anh em bộ đội
chúng tôi đi cùng hỗ trợ nhé!
- Không nên! Các anh không
quen thuộc địa hình ở đây, có tình huống xảy ra không biết lối nào mà rút chạy.
Nếu thoát ra được thì tối nay các anh cứ vượt qua núi rút ngay đi. Ngày mai bọn
địch sẽ lùng sục đánh phá rất gắt gao để tiêu diệt hết lực lượng của ta còn đang
lẩn trốn ẩn náu ở xung quanh thung lũng Kép Ké đấy.
Nghe anh Chấn nói tôi cũng
đành gật đầu đồng ý. Đến gần sáng hôm sau khi nghe anh Chấn thông báo là anh em
dân quân và bà con dân bản đã đưa được hai thi thể đem về giấu trong một ngách
hang sâu trên sườn núi tôi cảm thấy trong lòng mình như có sự an ủi phần nào.
Tôi đã hiểu chiến tranh với sự dã man ác liệt, khủng khiếp của nó. Nhưng mỗi
lần chứng kiến hoặc nghe kể về những điều tồi tệ đã xảy ra trong cuộc chiến tôi
vẫn thấy thấp thỏm trong lòng. Bất giác tôi nhớ đến em Mai. Tôi ngẩng mặt nhìn
lên bầu trời. Một khoảng mây tan ra để lộ những ngôi sao đang nhấp nháy. Một
ngôi sao rất sáng hiếm hoi trên bầu trời đầy mây đen và khói đạn như mắt em Mai
mở to đang tinh nghịch nhìn tôi.
Dựa khẩu súng vào mô đá
tôi đứng thẳng người dậy che mắt nhìn về phía phương trời xa. Trong ánh lửa của
những luồng đạn pháo quân thù đan trên bầu trời soi rõ một vùng núi tiếp núi
chập trùng. Cuộc hành quân của chúng tôi chắc chắn sẽ còn rất nhiều gian khổ,
chết chóc chưa lường hết được. Phía hướng dốc yên ngựa chợt có nhiều tiếng súng
rộ lên. Chắc là có bộ phận nào đó cố vượt vây đã chạm địch.
Bộ phận của chúng tôi chưa
thể vượt ra khỏi thung lũng Kép Ké. Trung đội dân quân cũng vậy. Một số anh chị
em dân quân được lệnh giấu súng để tìm cách đưa vợ con gia đình vượt ra ngoài
vòng vây chạy về dưới xuôi tránh sự giết chóc của kẻ thù.
Ngày hôm sau khi đã tiến
vào chiếm được toàn bộ thung lũng Kép Ké bọn địch bắt đầu đốt phá làng bản.
Chúng nổ mìn triệt hạ các công trình dân sinh của ta. Chúng ép thuốc nổ đánh
gãy từng cây cột điện, phá hủy từng cái guồng kéo nước ngoài bờ suối, đốt từng
ngôi nhà, đuổi bắt từng con trâu, con bò của dân bản. Để tránh chạm trán với
quân địch, chúng tôi vẫn khéo léo di chuyển trên sườn núi đá phía sau bản Kép
Ké.
Giữa trưa, lợi dụng khi
bọn địch co cụm ở đầu bản ăn uống, anh Chấn và một dân quân tìm đến gặp chúng
tôi trao đổi công việc. Anh nói:
- Hai thằng tù binh thì
giải quyết thế nào anh nhỉ? Không thể đưa chúng đi theo đội hình của ta vượt
vây tối nay được!
Tôi đắn đo rồi bảo:
- Hay là thả cho chúng đi?
- Không được!- Anh dân
quân đi cùng anh Chấn phản đối:- Thả ra chúng nó sẽ dẫn bọn địch truy đuổi theo
chúng ta ngay.
- Trói lại rồi bỏ chúng nó
ở lại có được không?
- Cũng không ổn! Bọn địch
sẽ tìm thấy chúng. Chúng nó cũng sẽ dẫn quân giặc lần theo dấu vết của quân ta
ngay.
- Vậy thì…
Anh Chấn quyết định:
- Đập chết luôn chúng nó
đi là ổn nhất…
- Không được! Giết tù binh
là vi phạm công ước quốc tế về tù, hàng binh đấy!
Thằng Lâm vốn là người hay
đọc sách hiểu về luật vội lên tiếng. Anh Chấn có vẻ hơi cáu, anh nói vẻ gay
gắt:
- Vi phạm cái con mẹ gì!
Bọn chúng nó vô cớ tấn công sang xâm lược nước ta, bắn giết nhân dân ta là còn
vi phạm cả luật pháp, hiến chương của Liên hợp quốc rồi đấy. Công ước, công iếc
là cái quái gì… Mà chúng nó cũng đã giết hại một cách rất dã man các anh em,
đồng chí của ta khi chúng bắt được rồi đấy!
Ngừng một lát nhìn chúng
tôi rồi anh nói vẻ cương quyết:
- Giết hết chúng nó đi để
trả thù cho anh Phủng và các anh em bộ đội, dân quân. Đừng bắn tốn đạn. Đập cho
mỗi thằng mấy báng súng là xong…
Giữa lúc chúng tôi còn
đang tranh luận thì địch bắn pháo dữ dội lên sườn núi đá. Hoả lực từ xe tăng và
pháo lựu bắn thẳng của chúng nhằm vào những chỗ nào nghi ngờ là có quân ta đang
ẩn náu. Khói lửa mù mịt. Mảnh đá vỡ văng tung toé. Chúng tôi vội phân tán nấp
vào sau những gộp đá to và các hang hốc tránh hoả lực của địch.
Sau đợt pháo kích của bọn
địch thì có một dân quân đến báo cho chúng tôi biết một quả pháo bắn thẳng
trúng vào hốc đá chỗ giấu tù binh. Hai tên giặc đều đã chết cả rồi.
***
Cuối buổi chiều vừa nhai
một miếng cơm nắm xong thì bụng tôi bỗng đau dữ dội. Sau đó tôi bị Tào Tháo
đuổi đi lỏng ra toàn nước. Chắc chắn là do ăn cơm thiu, uống nước đọng ở những
hốc đá lâu ngày nên cái bụng không chịu nổi mãi. Tôi bị đi ngoài liên tục không
ngừng lại được. Người tôi mệt bã ra vì đau và mất nước. May mà bọn địch đã
ngừng bắn nên tôi không phải di chuyển nhiều để tránh đạn. Tôi nằm rũ người
trong một hẻm đá. Mệt đến nỗi tay chân không nhấc lên nổi nữa. Cứ thế này thì
nguy hiểm quá. Đêm đến bộ đội và dân quân sẽ leo qua vách đá gần như dựng đứng
sang phía bên kia dãy núi. Con đường nhỏ qua dốc yên ngựa không thể đi được nữa
rồi vì bọn giặc đã đưa lực lượng tinh nhuệ leo vách đá lên đó bố trí hoả lực
mạnh chốt chặn. Bọn chúng định khoá chặt con đường duy nhất này như đậy cái hom
giỏ lại nhốt quân dân ta còn ở trong thung lũng để truy tìm, tiêu diệt sạch.
Muốn thoát khỏi vòng vây quân thù chúng tôi sẽ phải leo qua vách đá tai mèo
vượt ra ngoài bằng một con đường khác. Ông già Đăm nhận đưa chúng tôi đi. Với
sức lực suy kiệt thế này chắc là tôi không thể nào đi theo đội hình được. Thằng
Lâm và thằng Tuất đang rất lo lắng thì anh Chấn cùng một người đàn ông vẻ gầy
gò là dân trong bản Kép Ké đến. Sau khi hỏi han tình hình sức khoẻ của tôi,
người đàn ông gầy gò này ngập ngừng nói:
- Chú cứ uống một liều
thuốc phiện là sẽ khỏi ngay thôi!
- Không được! Lỡ anh ấy bị
sốc hay bị dính nghiện thuốc phiện thì làm thế nào?
Thằng Lâm lập tức phản
đối. Nó lo lắng cho tôi. Anh Chấn cũng đắn đo mãi rồi mới nói thêm:
- Có lẽ không việc gì đâu!
Tôi vừa nghe họ bàn đến
đấy đã phải ngồi dậy ôm bụng lần ra phía sau gộp đá. Cơn đau vẫn âm ỉ không
dứt. Người tôi hình như đã bị rút kiệt hết nước rồi. Mệt quá, tôi phải bám vào
vách đá mới đứng vững. Lần quay về đến chỗ mọi người đang ngồi, tôi quyết định
luôn:
- Đưa thuốc phiện cho tôi!
Thằng Lâm càng lo lắng. Nó
cứ năn nỉ can ngăn tôi không nên uống thuốc phiện. Tôi nói với nó cũng là tự
trấn an mình:
- Điều quan trọng nhất bây
giờ là khỏi bệnh thật nhanh để còn đi theo anh em vượt qua núi. Sống sót, thoát
được ra khỏi vòng vây của bọn giặc rồi mọi chuyện tính sau!
Người đàn ông gầy gò- vừa
trông đã biết ngay là một con nghiện nặng- thò tay vào túi lôi ra cái gói nhỏ.
Ông ta mở gói lấy ra mộtcục nhựa đen đen. Ông véo một mẩu bằng hạt đậu vê
vê một lát rồi đưa cho anh Chấn. Anh Chấn xiên mẩu thuốc phiện vào một cái que
rồi bật lửa đốt. Mẩu thuốc phiện nhỏ bằng hạt đậu xanh bắt đầu cháy, khói xanh
tỏa ra có mùi thơm rất lạ. Khi mẩu thuốc phiện cháy đã phồng nở to bằng hạt ngô
anh Chấn thả nó vào bát nước còn nóng vừa rót từ trong bi-đông ra. Anh dùng que
khoắng cho mẩu thuốc phiện tan hết rồi đưa bát nước cho tôi. Tôi run run bưng
bát nước thuốc phiện đưa lên miệng ngửa cổ cố gắng gượng uống hết. Quả là một
bài thuốc công hiệu. Tôi ngừng hẳn việc tiêu chảy. Bụng tôi sôi lên ùng ục
nhưng giảm dần và hết đau.
Không biết bằng cách nào
mà chập tối anh Chấn gửi đến cho tôi một bi-đông cháo còn nóng ấm. Ăn được chút
cháo nóng tôi thấy mình như khỏe lại. Đến nửa đêm tuy còn rất mệt nhưng tôi vẫn
có thể đeo khẩu súng đi theo đội hình hành quân. Thằng Lâm và thằng Tuất thay
nhau dìu tôi chậm chạp ngược lên dốc núi cheo leo dựng đứng, vượt qua từng lèn
đá chênh vênh sang phía bên kia.
Những ngày sau, mỗi khi
hành quân qua những triền núi gặp những dải đất hẹp trồng cây anh túc đang trổ
hoa lung linh huyền ảo tôi lại nhớ đến bát nước pha thuốc phiện mà mình đã uống
buổi chiều hôm còn ở bản Kép Ké giữa vòng vây của quân thù.
(hết chương 20)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 03.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Nhờ ông già Đăm mà chúng
tôi vượt qua được dãy núi một cách an toàn để rút lui khỏi thung lũng Kép Ké.
Ông già biểt có một khe đá vòng tránh điểm chốt của bọn địch trên đỉnh dốc yên
ngựa để đưa bộ đội và dân quân rút đi.
Lại một cuộc rút chạy.
Chúng tôi đã rút chạy khỏi thị trấn Sóc Giang, khỏi Lũng Mật và bây giờ là rút
chạy khỏi thung lũng bản Kép Ké. Sau khi thoát khỏi vòng vây xiết chặt của quân
thù, mấy anh em bộ đội chúng tôi chia tay với tốp dân quân bản Kép Ké. Anh Chấn
nắm chặt tay tôi dặn:
- Các anh hết sức cẩn thận
nhé!
- Vâng! Các anh chị cũng
phải cẩn thận nhé!
- Hẹn gặp lại
- Hẹn gặp lại…
Bộ đội và dân quân tạm
biệt nhau. Trước khi tiếp tục con đường hành quân tìm về đơn vị cũ, chúng tôi
san xẻ cho anh em dân quân hai quả lựu đạn và ba băng đạn. Anh Chấn và cô Hoa
chia cho chúng tôi ít ngô hạt và đậu tương rang chín làm lương khô. Tôi dặn cô
Hoa hết chiến tranh là nhớ phải về trường tiếp tục học ngay. Cô bé gật đầu. Cô
Hoa và anh Chấn tiễn chúng tôi một đoạn rồi quay lại. Anh em dân quân sẽ lẩn
khuất trốn trên dãy núi đá. Họ thông thạo địa hình hang hốc ở đây nên dễ lẩn
tránh bọn địch. Chúng tôi đã thoát ra khỏi vòng vây nhỏ của địch ở Kép Kế nhưng
vẫn nằm trong vòng vây lớn của bọn chúng.
Chúng tôi gặp bộ phận của
đại đội trưởng Tuấn ở một hẻm núi. Cũng chẳng biết đây là đâu nữa. Tình hình
cũng chưa rõ thế nào. Đại đội trưởng Tuấn cho biết vẫn chưa bắt liên lạc được
với chỉ huy tiểu đoàn. Một số chiến sĩ được cử đi tìm đường là mất hút luôn,
không thấy ai quay lại. Có thể họ bị bọn địch phát hiện bắn chết. Cũng có người
khi đã ra đến bên ngoài vòng vây, an toàn rồi thì sợ hãi không dám quay lại
vùng địch đang chốt giữ để tìm bộ phận của chúng tôi. Chúng tôi không tìm được
đường để thoát ra. Lối nào cũng chạm địch. Có lần xảy ra nổ súng, thêm hai
người hy sinh.
Vậy là bộ phận của chúng
tôi chỉ còn có mười người. Đại đội trưởng Tuấn vẫn là chỉ huy chung. Tôi với
anh ít đi gần nhau. Khi nào cảm thấy phía trước có thể có địch phục kích nguy
hiểm thì anh cử tôi dẫn một vài chiến sĩ đi trước trinh sát, tìm đường. Khi bị
bọn địch truy đuổi phía sau thì anh cử tôi ở lại cùng vài chiến sĩ chặn địch.
Tôi cũng không tranh cãi với anh nữa mà lầm lũi chấp hành mệnh lệnh được giao.
Anh em đã kiệt sức và đói khát lắm rồi. Cơn đói hành hạ làm những cơ thể chiến
sĩ tả tơi. Có ngày mỗi chúng tôi chỉ có một nắm ngô hoặc vài chục hạt đậu tương
rang chín nhai khô không khốc trong miệng. Chúng tôi vẫn lặng lẽ đi trong cái
rét cái đói tưởng như không thể lê bước chân được thêm nữa.
Một hôm, đến gần một bản
nhỏ chân núi thằng Lâm bảo tôi:
- Anh cho em xuống kiếm
cái gì ăn nhé! Đói quá không chịu nổi nữa rồi.
- Lỡ có bọn địch phục kích
thì sao?
- Thì đánh nhau một trận,
chết thôi chứ cứ chịu đói thế này thì cũng đến chết khổ chết sở anh ạ!
- Thôi được! Chiều tối nay
tao với mày cùng xuống bản.
- Có báo cáo với đại đội
trưởng Tuấn không hả anh?
- Thôi khỏi! Ông ấy đang ở
tít phía trên đỉnh núi, bây giờ mà leo lên báo cáo ông ấy có mà hết hơi chả còn
sức đâu mà xuống bản nữa. Lấy được lương thực chúng mình sẽ đưa lên cho bộ phận
trên núi!
Trời chưa tối, tôi và
thằng Lâm đã lần xuống bản. Bản không có một bóng người. Bà con đã chạy hết lên
rừng tránh bọn địch ngay từ ngày đầu chiến tranh nổ ra. Bản lại bị bọn địch
cướp bóc nên chúng tôi lần mò qua mấy nhà mà chỉ kiếm được vài bắp ngô và một
bó lúa. Tôi và thằng Lâm đành quay ra phía chân núi. Qua ngôi nhà sàn sát chân
núi chợt thằng Lâm khẽ kêu lên:
- Anh Hà ơi có nhiều cá
quá!
- Cá ở đâu?
- Cá ở cái vũng nước dưới
sàn nhà ấy!
Chúng tôi cùng lẩn nhanh
vào căn nhà sàn. Bà con dân tộc thường đào một cái ao nhỏ dưới gầm sàn rửa rau,
đãi gạo để thả cá. Những con cá chép núi đỏ au lớn rất nhanh nhờ ăn cơm canh
rau thừa đổ xuống. Nhìn đàn cá lượn lờ dưới vũng nước thằng Lâm bảo:
- Anh cảnh giới để tôi
xuống bắt cá!
- Ừ! Nhanh lên, cố bắt lấy
vài con nấu cháo thì tốt.
Thằng Lâm nhảy luôn xuống
vũng nước. Nó dùng tay không lùa đàn cá vào góc ao để bắt. Nhưng mãi nó chẳng
tóm được một con cá nào cả. Trong khi đó thì những con cá cứ nhảy loạn cả lên
trong vũng nước. Tôi sốt ruột khi nghe tiếng súng rộ lên ở phía đầu bản. Tôi
bảo:
- Mày lên đi, để tao quăng
cho nó một quả lựu đạn rồi muốn nhặt con nào thì nhặt chứ mò mẫm mãi thế này
làm sao bắt được cá!
Thằng Lâm vội vọt lên bờ.
Nó ngăn tôi:
- Đừng đừng, tốn mất một
quả lựu đạn. Chỉ cần bắn một loạt đạn là lũ cá sẽ chết thôi. Hồi làm đường ở Hà
Giang chúng tôi vẫn dùng AK bắn được cả cá ở suối đấy.
Nói xong nó mở khoá nòng.
Chờ khi có một tiếng pháo của địch nổ vang lên nó liền xả một loạt đạn xuống
vũng nước, chỗ những con cá đang lượn lờ túm tụm lại ở gần tảng đá. Quả đúng
như nó nói. Mấy con cá chép to bị những viên đạn đập vào đá làm điếng óc nhao
lên ngửa bụng bơi lờ đờ. Tôi và Lâm tóm được năm sáu con cá chép đỏ bằng bàn
tay xâu vào dây rừng xách lên núi. Tôi hôm ấy còn một ít gạo chúng tôi nấu nồi
cháo cá. Mọi người được một bữa tuy không đủ no nhưng quả là ngon nhất kể từ
sau khi rời khỏi thung lũng Kép Ké.
Ăn xong, đại đội trưởng
Tuấn gọi tôi ra một hẻm đá phê bình gay gắt về tội tự ý xuống bản, nhất là
chuyện dùng súng bắn cá trong ao của dân. Tôi không cãi lại nhưng trong lòng cứ
ấm ức mãi.
Sáng hôm sau, đại đội
trưởng Tuấn quyết định chia số chiến sĩ làm hai bộ phận. Bộ phận của đại đội
trưởng Tuấn sẽ ở lại ém trên hang đá ở sườn núi. Bộ phận của tôi gồm hai chiến
sĩ sẽ tìm mọi cách vượt bằng được con đường bọn địch đang khống chế về Nguyên
Bình tìm chỉ huy tiểu đoàn sau đó sẽ quay lại đón bộ phận còn đang ở trong vòng
vây. Như vậy là đã đến lúc tôi độc lập chỉ huy một bộ phận đi làm nhiệm vụ.
Biết là sẽ rất nguy hiểm nhưng tự dưng tôi thấy phấn chấn hẳn lên. Để lại hết
số ngô hạt và đậu tương rang cho bộ phận ở lại, tôi dẫn thằng Lâm và thằng Tuất
lên đường. Tôi thấy lo lắng cho hai chiến sĩ bị thương. Mấy chiến sĩ phải ở lại
đều rất muốn đi theo tôi. Những ánh mắt nhìn tôi như thầm trách vì tôi đã không
chọn họ cùng đi.
Ba chúng tôi tụt xuống núi
bám con đường quốc lộ để tìm cách vượt sang phía bên kia. Bọn địch đang đi lại
dày đặc trên đường. Vì lo lắng việc vượt đường mà tôi không chú ý hướng hành
quân của bọn địch. Chúng đang hành quân về phía biên giới. Lần mò cả đêm, gần
sáng hôm sau, chúng tôi vượt qua được con đường một cách khá dễ
dàng.
Khi trời sáng hẳn thì
chúng tôi đã leo lên được dãy núi ngăn cách giữa hai huyện Thông Nông và Nguyên
Bình. Vậy là chúng tôi sắp gặp lại đơn vị cũ rồi. Khi lên đến đỉnh dốc của con
đường mòn, tôi nằm lăn ra đất cho đỡ mệt và để thở. Bầu trời trong trẻo. Nắng
lấp loá trên những gộp đá xám lạnh. Cái rét cũng đã giảm hẳn rồi tuy những cơn
gió vẫn còn se se lạnh.
Giữa lúc tôi đang mơ màng
thì thằng Lâm đang làm nhiệm vụ cảnh giới kêu lên:
- Có một đoàn người đông
lắm từ phía Nguyên Bình đang đi lên dốc!
Tôi quờ khẩu súng ngồi bật
ngay dậy. Nếu đúng là bọn địch kéo lên dốc thì chúng tôi sẽ phải lộn lại vào
trong vòng vây của chúng mất.
Chúng tôi nằm bẹp xuống
bên lối mòn hồi hộp quan sát đoàn quân đang chậm chạp theo con đường mòn tiến
lên đỉnh núi. Thằng Tuất chợt reo lên vui mừng:
- Quân ta! Quân ta…
Đúng là quân ta rồi. Tôi
nhận ra cái dáng đi luôn chúi người về phía trước của trợ lý tham mưu Thọ và
dáng bước đi khoan thai của chính trị viên Hoàng ở tốp đầu hàng quân. Ba chúng
tôi cùng đứng bật dậy giơ súng lên trời khua khua làm hiệu. Các chiến sĩ trinh
sát đi phía trước đội hình của tiểu đoàn cũng đã nhận ra chúng tôi. Họ ào lên
ôm lấy chúng tôi, tay bắt, mặt mừng. Tôi vội hỏi:
- Tiểu đoàn ta hành quân
về đánh chiếm lại Sóc Giang hả?
Một chiến sĩ ngạc nhiên:
- Thế bọn mày không biết
à! Bọn Tàu đã tuyên bố rút khỏi nước ta từ mấy hôm trước rồi. Tiểu đoàn ta được
lệnh quay về chiếm lĩnh lại thị trấn Sóc Giang đấy!
Tôi cũng ngạc nhiên nhưng
vui mừng:
- Thế à! Bọn tao ở trong
vòng vây không có đài điện, thông tin thì mù mịt, biết gì đâu. Khổ quá! Bọn
địch nó đang rút lui thế mà mấy hôm trước gặp chúng hành quân, bọn tao còn tổ
chức đánh một trận làm mấy thằng trong bộ phận bị chết. Biết thế thôi đừng cố
đánh nữa có phải chúng nó bây giờ vẫn còn sống không!
Tôi nói vẻ ngậm ngùi. Anh
Thọ cũng đã lên đến nơi. Anh vỗ vỗ vào vai tôi an ủi:
- Chiến tranh ai biết thế
nào mà nói trước…
Anh nắm chặt tay tôi. Tiểu
đoàn trưởng Thêm, chính trị viên Hoàng cũng đã lên tới đỉnh dốc. Mọi người xúm
lại xung quanh ba chúng tôi hỏi han. Tôi cũng nhớn nhác nhìn mọi người. Vắng
bóng mấy thằng bạn thân. Tiểu đoàn rút sang Nguyên Bình tiếp tục tham gia chiến
đấu bảo vệ khu mỏ thiếc Tĩnh Túc. Vì thế có thêm nhiều đồng đội của tôi đã ngã
xuống ở Minh Tâm, Hoàng Tung để chặn mũi tiến công của quân giặc vào khu mỏ
thiếc.
Sau vài phút nghỉ chân, ba
chúng tôi nhận lệnh đi trước dẫn đường cho tiểu đoàn quay trở lại. Thế là, suốt
ba mươi ngày chiến tranh tôi chỉ loanh quanh ở khu vực rừng núi trong vòng vây
quân thù…
(hết chương 21)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 11.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Thị trấn Sóc Giang sau
chiến tranh đổ nát hoang tàn.
Một tháng trước, nơi đây
chính là “tọa độ lửa”, là nơi bao nhiêu đồng đội của chúng tôi đã ngã xuống.
Máu của họ vẫn đọng trên mặt đất rưng rưng. Cũng chính tại nơi đây tiểu đoàn 3
chúng tôi đã bẻ gãy bao nhiêu đợt tấn công vô cùng ác liệt của kẻ thù xâm lược,
tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn cháy hàng chục xe tăng của chúng. Nhưng rồi,
đơn vị chúng tôi đã phải rút lui để không bị tiêu diệt hoàn toàn trước sức tấn
công ác liệt của quân xâm lược với chiến thuật "biển người". Một cuộc
rút lui còn gian lao, nguy hiểm hơn là một trận đánh mặt đối mặt với quân thù.
Bây giờ chúng tôi, những người còn sống quay trở lại Sóc Giang. Song hình như
mọi người chúng tôi ai cũng có chung một tâm trạng bùi ngùi. Kẻ thù đã bị đánh
lui, những tên bành trướng đã phải tháo chạy về nước. Nhưng cái cảm giác chiến
thắng, cảm giác tự hào trong những người lính chúng tôi rất mờ nhạt, hầu như
không có. Không có cái niềm vui háo hức, tưng bừng của ngày 30-4 năm nào, chỉ
có nỗi bàng hoàng, xót xa về sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Một vùng
biên cương hoang tàn. Chẳng còn một bóng người dân nào trong thị trấn, chẳng
còn một tiếng gà gáy, chó sủa trong những bản làng dọc đường hành quân. Chúng
tôi là những người đầu tiên trở về thị trấn Sóc Giang. Đoàn quân súng cầm trong
tay cảnh giác, lầm lũi bước đi trong sự hoang vắng đến lạnh lẽo, thê lương sau
trận chiến. Một đội hình cán binh quần áo tả tơi, bẩn thỉu. Nhiều người băng
còn quấn trên đầu loang lổ màu máu, cánh tay gãy còn treo lên cổ.
Dọc con đường từ Quý Quân
qua bản Nà Nghiềng vào thị trấn Sóc Giang in đậm những dấu vết của cuộc chiến
tranh. Tất cả những căn nhà trong thị trấn đều bị đánh sập hoặc bị đốt cháy.
Cây cối, cột điện gãy đổ ngổn ngang. Mùi xác chết của người và động vật thối
rữa khăn khẳn khắp nơi. Chỗ nào cũng gặp những quả mìn bọn địch gài lại trước
khi rút đi. Bộ phận công binh đi trước mở đường. Chúng tôi phải rất cẩn thận
đặt bước chân theo dấu đã vạch sẵn trên đường của công binh. Người đi sau bước
đúng dấu chân của người đi trước để tránh dẫm vào bẫy mìn.
Đội hình hành quân một
hàng dọc chậm chạp vừa đi vừa quan sát xung quanh. Không ai nói một câu nào chỉ
nghe tiếng thở dốc của những người mang vác nặng ở bộ phận hoả lực, tiếng thì
thào truyền đạt mệnh lệnh dọc hàng quân.
Đang đi bỗng nghe một
tiếng nổ “oành” ở phía sau đội hình. Đất cát bay mù mịt. Tất cả chúng tôi vội
ngồi thụp xuống chĩa súng ra xung quanh, sẵn sàng chiến đấu. Những tiếng mở
khoá nòng lách cách. Mọi người đều tưởng là bị bọn địch phục kích. Hoá ra không
phải. Một quả mìn bọn giặc gài lại ngay bên cạnh lối đội hình đang hành tiến đi
đã phát nổ. Người hy sinh là một chiến sĩ còn rất trẻ thuộc trung đội vận tải.
Người lính này vừa mới được bổ sung về tiểu đoàn, chưa đầy hai tháng tuổi quân.
Nguyên nhân là cậu ta đi giữa đội hình, lại có mấy cô bé ở đơn vị thanh niên
xung phong đi ngay phía sau. Đang đi buồn tiểu tiện, cậu ta chỉ mới bước chệch
có một bước định đứng khuất vào phía sau mô đá thế là đạp trúng luôn một quả
mìn chống bộ binh của địch.
Sau vụ này, tiểu đoàn
trưởng Thêm nổi cáu. Anh đi dọc hàng quân quát tháo ầm ĩ:
- Đánh nhau không chết,
lại chết vì sĩ diện… ngu… ngu quá…
Quát tháo một lúc anh ra
lệnh giọng vẫn còn cáu gắt:
- Kể từ bây giờ cho đến
lúc vào vị trí trú quân trong thị trấn, thằng nào buồn đái cứ đứng ngay giữa
đường mà đái. Con gái cũng vậy. Ai xấu hổ thì nhắm mắt lại…
Tiểu
đoàn trưởng Thêm nóng tính thì quát vậy thôi chứ tôi biết anh thương lính lắm.
Cái chết của người chiến sĩ trẻ làm anh rất đau đớn. Sau một tháng chiến đấu,
đơn vị tổn hao quá lớn, chỉ còn lại một nhúm người. Hôm tập trung đội hình toàn
tiểu đoàn trên sườn núi để quán triệt nhiệm vụ lúc chuẩn bị xuống núi để chiếm
lĩnh lại thị trấn Sóc Giang trông thưa thớt, thiếu vắng quá nhiều vị trí chiến
sĩ, vị trí chỉ huy. Vậy nên sau chiến tranh lại vẫn có người phải ngã xuống như
vậy khiến ai cũng đau xót.
Đơn vị về đến vị trí đóng
quân. Đó là đám ruộng ngay dưới chân mỏm núi có hang chỉ huy tiểu đoàn mà một
tháng trước chúng tôi đã chiến đấu đánh lui bao đợt tấn công của bọn địch.
Chúng tôi nhặt nhạnh những gì còn sót lại trong khu nhà vốn là trụ sở làm việc
của uỷ ban nhân dân huyện về dựng tạm những căn nhà một mái trông giống như
những cái chuồng lợn để trú quân tạm thời để bảo vệ thị trấn và giải quyết hậu
quả của cuộc chiến tranh. Các bộ phận lần mò lên các vị trí chiến đấu đào bới
tìm kiếm liệt sĩ. Khắp nơi mùi thối rữa của tử thi, xác động vật bốc lên thật
là kinh khủng. Việc xác định, phân biệt hài cốt đâu là quân ta, đâu là địch,
đâu là dân cũng thật khó khăn. Mặc dù đã được chuẩn bị trước khi chiến tranh
xảy ra, các bộ phận đều được cấp phát những tấm vải liệm may sẵn, mỗi người đều
có mã số riêng của mình ghi trong một mảnh bìa cứng ép plastic để sẵn trong túi
áo phòng khi hy sinh chôn theo sau này còn biết danh tính. Nhưng đánh nhau cả
tháng trời nhiều người đã không giữ nổi mảnh bìa ghi mã số riêng của mình. Mà
chớ trêu là người còn giữ được thì vẫn sống, người hy sinh thì lại chẳng còn
giữ được mã số để đánh dấu mộ chí của mình.
Một buổi chiều, thằng Lợi
ở trung đội thông tin đi tìm kiếm liệt sĩ ở khu vực sát biên giới về gặp tôi
ngậm ngùi bảo:
- Tìm thấy hài cốt thằng
Đan rồi!
Tôi vô cùng kinh ngạc:
- Nó nằm đè lên khối bộc
phá hàng mấy trăm cân, điểm hoả tức thì đánh sập cả một đoạn đường rơi xuống
vực làm sao mà còn gì nữa chứ?
Thằng Lợi kể:
- Chuyện là thế này. Sáng
nay, bọn tao đi tìm ở khu vực bờ suối dước chân chốt cây đa của đại đội 11. Lúc
cả bọn ngồi nghỉ giải lao thì thằng Lâm chợt phát hiện ra có một con chó đang
lúi húi cào cào bới đất ở bờ suối. Nó bàn với tao bắn hạ con chó lấy thịt ăn.
Đã bao nhiêu ngày nay rồi ăn uống kham khổ nên tao đồng ý ngay. Bọn tao liền tiếp
cận con chó. Thấy động, nó liền bỏ chạy miệng cố càm theo một vật gì đó. Tao
liền nổ súng. Con chó trúng đạn ngã gục ngay bên bờ ruộng. Mọi người chạy đến.
Hoá ra vật mà nó đang ngoạm trong miệng một bàn tay người đã khô đen. Trên bàn
tay ấy vẫn còn có một chiếc nhẫn vàng vướng ở khốc ngón tay. Tao cầm lên xem.
Mặt chiếc nhẫn có khắc một chữ “Đ”. Có một vết xước sâu rạch ngang chữ
"Đ". Tao nhận ngay ra đó chính là chiếc nhẫn của thằng Đan. Vết xước
ấy là do một lần tao với nó vật nhau. Tay nó bị tao miết vào vách đá cứng làm
cái nhẫn xước một vết gạch ngang chữ Đ. ấy. Cũng vì vết xước ấy mà nó giận tao
mấy ngày đấy. Khi tìm thấy bàn tay đeo nhẫn của nó tao đã bật khóc vì thương nó
quá.
- Thế chúng mày xử lý thế
nào? - Tôi hỏi.
- Tao lập tức báo cáo với
chỉ huy tiểu đoàn. Sau khi nghe báo cáo, tiểu đoàn trưởng lệnh cho bộ phận của
tao đặt bàn tay ấy vào một cái hộp gỗ rồi mai táng trong ngôi mộ giả mà bọn mày
đã đắp cho nó ở bìa rừng bữa trước, vẽ lại sơ đồ cẩn thận. Chính trị viên và
tiểu đoàn trưởng nói sẽ đưa vào nghĩa trang liệt sĩ của thị trấn.
Tôi và Lợi cùng lặng đi
một lát. Thằng Lợi nói thêm:
- Chúng tao cũng đắp cho
con chó một nấm mộ. Khốn nạn, nó gầy trơ xương. Chiến tranh xảy ra nó chạy khỏi
nhà lang thang ngoài rừng cả tháng rồi còn gì.
Nghe thằng Lợi nói, tôi
càng thấy ngậm ngùi. Mấy ngày rồi chúng tôi đã tìm kiếm, đào bới ở khu vực mỏm
Đầu Bò vẫn không tìm thấy gì. Hay là anh Bùi bị địch bắt. Điều đó khó có thể
xảy ra vì chúng tôi ai cũng dành cho mình một quả lựu đạn cuối cùng để lỡ khi
sa vào tay giặc thì quyết liều chết với chúng nó luôn.
Con đường xuôi về phía Đôn
Chương, Hoà An ra thị xã Cao Bằng đã khai thông. Chuyến xe chở hàng đầu tiên đã
lên tới thị trấn Sóc Giang. Đơn vị chúng tôi được tiếp tế lương thực, thực
phẩm. Có một chút thịt lợn kho ướp muối. Mỗi chúng tôi còn được phát một bộ
quần áo mới, một đôi giày vải mới. Thằng nào cũng diện ngay quần áo, giày mới.
Ăn uống cũng no hơn nên trông dáng vẻ lính tráng khoẻ khoắn hơn. Nhiều thằng
trông hai má đỡ hóp hơn, mặt mũi đỡ hốc hác như hôm đầu về thị trấn nhưng chưa
hết vẻ nhợt nhạt, hậu quả của dài ngày đói khát, gian khổ.
Song chúng tôi chưa kịp
mừng thì xảy ra một chuyện. Hôm đó, tôi vừa lên sát đường biên giới để triển
khai đường dây hữu tuyến về thì nghe tiếng người quát to, dọa bắn ở nhà chỉ huy
tiểu đoàn. Tôi vội chạy lên xem có chuyện gì. Tới nơi, tôi thấy y sĩ Tính đang
run cầm cập đứng trước mặt tiểu đoàn trưởng Thêm. Tiểu đoàn trưởng tay đang cầm
khẩu súng ngắn mặt hằm hằm giận dữ. Tôi len vào kéo tay trợ lý tham mưu Thọ
hỏi:
- Có chuyện gì thế hả anh?
- Chuyện nghiêm trọng lắm!
Thôi tý nữa nói, tao với mày phải vào can tiểu đoàn trưởng ngay đã kẻo ông ấy
cáu tiết bắn chết tay y sĩ Tính thật đấy!
Chúng tôi cố lựa lời can tiểu
đoàn trưởng nhưng cũng hoảng. Ông này tính nóng như lửa, lỡ mà vạ lây. Giữa lúc
đó thì chính trị viên Hoàng đi họp trên trung đoàn về. Anh Thọ vội báo cáo ngay
tình hình với chính trị viên Hoàng để khuyên tiểu đoàn trưởng Thêm.
Thì ra nguyên do chuyện là
do y sĩ Tính. Đó là từ hôm đơn vị mới chuyển về vị trí bản Táp Ná này trú quân,
tiểu đoàn trưởng Thêm giao cho y sĩ Tính nhiệm vụ phải kiểm tra kỹ nguồn nước.
Nguồn nước mà các máng dẫn về bản từ rất xa trên núi. Dân bản thường đắp các
đập trên núi rồi bắc máng dẫn nước tự chảy về bản. Y sĩ Tính chỉ đi đến chân
núi rồi quay lại vì sợ lên núi vướng phải mìn hoặc gặp bọn thám báo của địch.
Ngay ở chân núi có đoạn máng từ dẫn nước xuống vẫn đang có nước chảy nên y sĩ
Tính bảo anh em nuôi quân làm đường ống dẫn tiếp đưa nước về nhà bếp sử dụng.
Do không đến tận nơi nguồn nước chảy ra nên anh Tính không phát hiện là ngay
trên bờ đập nước có mấy xác người chết đang bắt đầu thối rữa. Khi trời mưa
xuống đã gây ô nhiễm nguồn nước. Thế là cả đơn vị chúng tôi gần một tháng nay
nấu ăn, lấy uống đã dùng nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thảo nào mà nước
cứ có mùi hôi hôi. Bọn lính tráng chúng tôi lại toàn uống nước lã mới ghê chứ.
Một số anh em trong đơn vị vì thế nên ngã nước, mặt sưng phù thũng lên chứ không
phải là do sau chiến tranh bộ đội được ăn no nên béo khoẻ.
Khi thấy nguồn nước có mùi
hôi, tiểu đoàn trưởng đã đích thân cùng một chiến sĩ trinh sát đi kiểm tra lại.
Phát hiện ra xác người chết thối rữa trong đập nước anh nổi điên lên dọa bắn y
sĩ Tính, may mà anh Thọ kịp can ngăn. Biết rõ mọi chuyện, chính trị viên Hoàng
nghiêm khắc bảo y sĩ Tính về làm bản kiểm điểm nhận hình thức kỷ luật. Y sĩ
Tính cúi gằm mặt đi ra. Nhìn anh, tôi không thấy cái dáng vẻ hùng hồn như hôm
trước chiến tranh anh duy trì buổi sinh hoạt kiểm điểm để khai trừ tôi và thằng
Lâm ra khỏi đoàn.
(hết chương 22)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 12.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Tiểu đoàn 3 bắt đầu khôi
phục, củng cố trận địa phòng ngự như trước khi xảy ra chiến tranh. Các điểm
chốt, hầm hào, công sự, căn cứ hậu cần, quân y của tiểu đoàn bây giờ chỉ là
những đống đất đã lổn nhổn. Trước khi rút lui về nước bọn giặc đã dung thuốc nổ
phá huỷ tất cả các công trình quân sự, kinh tế, văn hoá của ta. Bọn giặc cẩn
thận tỷ mỷ đánh gãy gục từng cột điện cao thế, điện thoại, mỗi căn nhà nếu
không đốt được thì chúng dùng mìn đánh sập. Chúng phá huỷ, đánh sập các hang
đá, hốc núi nơi ta có thể dấu quân, làm nơi trú ẩn, phòng thủ. Chúng còn đang tâm
đánh sập hang Pác Bó nơi Bác Hồ đã ở khi mới về nước lãnh đạo cách mạng, phá
nát tượng Các Mác ở trong hang. Các công trình quân sự do ta xây dựng ở khu vực
Sóc Giang và các điểm chốt đều bị phá tan tành hết.
Các đại đội về lại vị trí
phòng ngự của mình trước chiến tranh sửa sang lại hầm hào, công sự và tiến hành
việc tuần tra canh gác. Việc đi lại đều phải bí mật, tránh để lộ liễu mục tiêu
vì bọn địch thỉnh thoảng vẫn bắn bừa bãi hoặc tung thám báo sang đất ta. Đã có
bộ phận chạm súng với bọn lính trinh sát, thám báo của địch.
Tôi dẫn mấy anh em trèo
lên mỏm Đầu Bò vừa nạo vét lại công sự vừa cố gắng tìm kiếm hài cốt liệt sĩ.
Buổi trưa nghỉ, tôi và thằng Lâm xuống khu trường cấp 1. Lính công binh đã rà
phá, gỡ hết các quả mìn gài trong sân trường còn sót lại. Gần như tất cả các
lớp học đều bị phá sập. Sách vở học sinh rơi tung toé khắp các lớp. Tôi nhặt
được một cuốn sách ở trong ngôi nhà đổ nát. Lần giở từng trang sách của cuốn
sách giáo khoa cháy dở trong lòng tôi dâng dâng lên một nỗi buồn da diết. Nỗi
buồn chiến tranh của những người cầm súng sau một trận chiến quyết liệt,
đã bắn đến những viên đạn cuối cùng vẫn không bảo vệ được các em
bé đang cắp sách đến trường...
Bài thơ này tôi đã viết
ngay buổi tối hôm ấy.
TRƯỜNG
CÁC EM BỊ CHÁY!
Truy kích địch qua đây
Chúng tôi cùng sững lại
Trường các em bị cháy
Giặc vừa đốt hôm qua
Một quyển sách lớp ba
Ám khỏi đen nham nhở
Tôi nhặt lên lần mở
Từng trang sách, từng trang
Những phép tính trẻ con
Bốn cộng ba bằng bảy
Lửa cháy quằn trang giấy
Con số cuối mờ đi.
Ôi quyển sách nói gì
Bên ngôi trường đổ nát?
Hàng cây non lửa táp
Vết đạn cày sân chơi.
Tôi đứng lặng cắn môi
Nghe đâu đây trong gió
Nghe từ trang sách nhỏ
Tiếng các em gọi mình!
***
Báo động!
Mệnh lệnh chiến đấu được
thông báo rất nhanh.
Bộ phận chúng tôi được
lệnh tiếp cận bọn thám báo vì chúng tôi đang ở gần bờ suối nhất. Tôi nhét cuốn
sách giáo khoa lớp 3 vào cóc ba lô vớ khẩu súng lao ra khỏi lán. Trời đã gần
tối. Ra đến gần bờ suối bản Nà Sác, tôi gặp chính trị viên Hoàng, anh Thọ và
các chiến sĩ tiểu đội trinh sát. Anh Thọ nói nhanh:
- Trinh sát vừa phát hiện
có bóng người lạ ở gần bờ suối bản Nà Sác gần đường biên. Dân bản Nà Sác chưa
trở về nên chỉ có thể là bọn thám báo mò sang trinh sát trận địa của ta.
Chính trị viên Hoàng lệnh
cho chúng tôi triển khai đội hình chiến đấu.
Các chiến sĩ trinh sát dẫn
chúng tôi nhanh chóng tiếp cận bờ suối. Chúng tôi phát hiện ra một người mặc bộ
quần áo rách rưới đang đi lom khom dọc theo bờ ruộng sát con suối. Nó đang đi
về hướng biên giới. Nhìn vẻ tả tơi của nó tôi biết đó chắc chắn chỉ là một tên
tàn quân địch. Tên giặc đã chạy đến gần đoạn suối nông nước chảy rào rào. Đây
là đường biên giới giữa hai nước. Lội qua sang bên kia bờ suối đã là đất của chúng
nó rồi. Tôi liền đề nghị:
- Để chúng tôi xông ra
chặn đầu bắt sống nó!
- Không được!- Chính trị
viên Hoàng vội ngăn lại:- Vượt qua khoảng ruộng trống trải bọn địch bên kia
biên giới sẽ phát hiện. Chúng sẽ lập tức bắn sang ngay. Hơn nữa đám ruộng bỏ
hoang này vốn là bãi mìn chống bộ binh chưa nổ hết, nguy hiểm lắm!
- Vậy thì nó sẽ chạy thoát
mất anh ạ!
Tôi nói và nâng khẩu AK
lên lấy đường ngắm. Bóng tên giặc cướp tả tơi chập chờn trên đầu ruồi khẩu
súng. Chính trị viên Hoàng vội đưa tay đè nòng súng của tôi chúc xuống đất. Anh
nói nhỏ:
- Thôi! Cứ để cho nó vượt
qua suối.
Tôi ngạc nhiên nhìn chính
trị viên Hoàng. Hình như tên giặc cũng đã phát hiện ra chúng tôi. Nó nhớn nhác
quay đầu lại nhìn. Chúng tôi đang ở rất gần nó, chỉ cách một mặt ruộng rất hẹp.
Tên giặc gần như sụp hẳn người quỳ xuống mặt ruộng khi nhìn thấy những nòng
súng kê trên bờ ruộng phía sau đang rê rê theo từng cử động của nó. Nó giơ hai
tay lên trời như cầu xin chúng tôi đừng bắn, hãy tha chết cho nó, tha tội cho
nó và đồng bọn đã sang xâm lược, cướp bóc Việt Nam.
Chúng tôi vẫn im lặng
không hành động theo mệnh lệnh của chính trị viên Hoàng. Những đôi mắt chỉ dõi
mắt theo từng cử động của tên giặc. Hồi lâu vẫn không thấy chúng tôi xông ra
bắt sống hoặc nổ súng, song thằng giặc cứ nhìn chằm chằm về phía những nòng
súng đang chĩa vào nó không dám nhúc nhích. Anh Thọ khoát tay ra hiệu. Rồi anh
khẽ: “Xuỳ… xuỳ…” như đang xua đuổi một con chó. Tiếng Việt “xuỳ… xuỳ…” gần
giống với tiếng Tàu phát âm hai từ “đi… đi…”. Thằng tàn binh hiểu đối phương đã
tha chết và để cho nó chạy về nước. Nó vội lồm cồm nhỏm dậy cuống cuồng nhao
người bò lên bờ ruộng rồi lăn ngay xuống dòng suối.
Sang đến bên kia bờ suối
rồi thằng giặc còn ngoái lại như vẫn chưa tin là nó đã được chúng tôi tha chết.
Trước khi lẩn vào bụi cây rậm nó còn quay lại hướng về phía chúng tôi gập người
xuống vái dài một cái.
Trời tối hẳn. Thằng giặc
đã mất hút trong bụi cây và bóng tối đang tràn đến. Chính trị viên Hoàng lệnh
chúng tôi quay trở về nơi trú quân. Trên đường về biết chúng tôi còn ấm ức,
thắc mắc, chưa thông về việc đã tha chết cho thằng giặc xâm lược, anh Hoàng
thủng thẳng bảo:
- Cha ông ta ngày xưa có
lúc còn tha chết cho hàng vạn tên xâm lược lại còn cấp lương ăn để chúng nó tìm
đường trở về quê hương đấy!
(hết chương 23)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 13.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Một buổi trưa đi đào công
sự về mệt, ăn cơm xong tôi lăn ra ngủ. Vừa chợp mắt được một lát thì có người
lay gọi:
- Dậy… dậy… ngay…
- Dậy làm gì, đào công sự
cả buổi mệt đứt hơi chưa kịp ngủ đã gọi gọi cái gì… - Tôi càu nhàu.
- Dậy đi có việc gấp
đây!
Nghe rõ tiếng chính trị
viên Hoàng, tôi ngồi bật dậy. Vốn là lính chiến, quen những tình huống chiến
đấu bất ngờ nên nghe tiếng của cấp trên gọi là tôi tỉnh ngay. Tôi quờ tay vớ
luôn khẩu súng dựa cạnh chỗ ngủ nhảy xuống đất. Anh Hoàng phì cười:
- Mày định đi đâu đấy?
Tôi vội hỏi:
- Lại có bọn thám báo nó
mò sang ạ?
- Thám báo nào! Cất súng
đi ra đây tao bảo.
Lúc này tôi mới nhìn kỹ
chính trị viên Hoàng. Anh ăn mặc chỉnh tề, tay đang cầm một cuộn giấy, nét mặt
vui vẻ. Anh bật cười vì cái tính hấp tấp của tôi, cứ có ai gọi việc đầu tiên là
tìm ngay khẩu súng. Âu đó cũng là tác phong của người lính nơi đối diện với
quân thù hàng ngày. Chúng tôi đã có mặt ở biên giới từ những ngày còn kéo nhau
mặc quần áo dân thường đi rào biên giới, giành lại từng tấc đất, ném đá, đánh
nhau bằng tay không và gậy gộc với bọn lấn chiếm đất, cho đến lúc đấu súng, đấu
pháo thật sự với quân xâm lược cho nên ai cũng có cái tác phong luôn sẵn sàng
ấy.
Anh Hoàng bảo:
- Đem cuốn sổ ghi chép của
mày ra đây!
- Cuốn sổ nào ạ?
- Cuốn nhật ký mà mày vẫn ghi
chép tình hình chiến sự hàng ngày trong thời gian đánh nhau ấy!
- Cuốn sổ ấy em đốt nó
theo lệnh của tiểu đoàn hôm trước khi phá vây rồi còn đâu nữa ạ!
- Mày đừng có nói dối! Hôm
ấy mày chỉ đốt cuốn sổ ghi chép thơ và truyện thôi, còn cuốn nhật ký ghi tình
hình chiến sự thì mày vẫn giấu trong người đem đi. Đem ra đây ngay…
Tôi cười hì hì:
- Làm sao anh lại biết ạ?
- Tao biết mày không bao
giờ đốt cuốn sổ ấy đâu. Đem nó ra đây có việc cần đấy!
- Việc gì mà lại liên quan
đến cuốn nhật ký của em ạ?
Chính trị viên Hoàng vừa
đặt tập giấy xuống cái bàn ghép bằng mấy miếng ván giữa nhà vừa nói:
- Tiểu đoàn mình được đề
nghị nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng. Do đó, phải chuẩn bị một bản báo
cáo thành tích trong cuộc chiến đấu vừa qua. Mày văn hay, chữ tốt, lại nắm được
toàn bộ diễn biến của các trận đánh nên chiều nay không phải đi đào công sự nữa
mà ở nhà giúp chỉ huy tiểu đoàn viết một bản báo cáo thành tích chiến đấu, hiểu
không.
Tôi hiểu. Tôi rút trong
túi cóc ba lô ra một cuốn sổ nhỏ tự đóng bằng loại giấy đen một mặt nhẵn, một
mặt thô ráp lấm lem bùn đất. Ngồi xuống bên cạnh anh Hoàng, tôi đặt lên bàn
trước mặt anh cuốn nhật ký của mình. Tay tôi run run lật từng trang nhật ký ghi
trong chiến đấu.
Anh
Hoàng cùng tôi đọc lại những trang ghi chép nguệch ngoạc trong những ngày gian
khổ ác liệt ấy.
Ngày 17-2-79:
- Hướng cửa khẩu Bình
Mãng: Bọn địch tấn công đợt 1 lúc 5 giờ sáng. Đợt 2 lúc 8 giờ sáng, chúng chiếm
mất 1/2 chốt cây đa thứ nhất. Đợt 3 chúng tấn công vào khoảng 11 giờ chiếm toàn
bộ mỏm 1, chốt cây đa thứ nhất.
- Ta: Đại đội 11 chỉ còn
giữ được mỏm 2 chốt cây đa thứ nhất. Đại đội 11 diệt được 2 xe tăng, khoảng 300
tên địch.
- Lúc 22 giờ đêm, đại đội
11 phản kích tái chiếm lại được toàn bộ chốt cây đa thứ nhất, đẩy lui bọn địch
xuống chân đồi.
- Các đồng chí hy sinh
trong ngày gồm: Thượng sĩ Trần Văn Ngọc, trung đội phó bắn cháy một xe tăng và
diệt nhiều tên địch, hy sinh khi chuẩn bị bắn chiếc xe tăng thứ hai. Binh nhất
Nguyễn Văn Nền bắn hết đạn đánh nhau bằng lưỡi lê bị địch đâm chết ở chốt cây
đa thứ nhất. Chuẩn uý Dương Đình Hà, chính trị viên phó đại đội và trung đội
trưởng Nguyễn Văn Lượng hy sinh khi phản kích chiếm lại chốt cây đa thứ nhất
đêm 17-2…
Ngày 18-2-79:
- Hướng cửa khẩu: Địch tấn
công 8 đợt cả ngày, bắt đầu từ 5 giờ sáng. Chúng chia làm 3 mũi: Một mũi từ
trên sườn núi đá đánh xuống, một mũi từ từ phía bản Nà Sác đánh lên, một mũi từ
bờ suối đánh vòng lên bên trái chốt cây đa thứ hai. Rút kinh nghiệm ngày đầu
tiên, địch tấn công liên tục để phá vỡ tuyến phòng thủ của ta.
- Ta: Đại đội 11 cùng một
trung đội của đại đội 10 tăng cường đã dũng cảm chiến đấu giữ vững chốt, tiêu
diệt 2 xe tăng, hơn 150 tên địch, bẻ gãy cả 8 đợt tấn công của quân địch. Chuẩn
uý Lê Hồng Giang (đại đội 10) bắn hai quả đạn B41 diệt một xe tăng địch, bị
thương mù một mắt, gãy một tay còn dùng AK bắn địch ngã tơi tả. Đồng chí Giang
đã một mình, một súng lên đánh chiếm lại chốt cây đa thứ nhất.
- Hy sinh ngày 18-2: Đại
đội 11 có 8 đồng chí hy sinh, nhiều người khác bị thương, có 2 cán bộ hy sinh
là đại đội phó Diệp Văn Năm và chính trị viên phó Nguyễn Mộng Lân. Đại đội 11
bị thiệt hại nặng nhưng vẫn kiên cường chiến đấu giữ vững trận địa.
Ngày 19-2-79:
- Địch tấn công liên tục
cả ngày không thành đợt rõ ràng. 5 giờ sáng, chúng chiếm mỏm ĐK và mỏm chốt cây
đa thứ nhất. 1 giờ chiều chúng chiếm mỏm chốt cây đa thứ hai. Đại đội 11 bị
đánh bật ra khỏi trận địa. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 11 chiến đấu rất dũng cảm,
diệt khoảng 100 tên địch. Tối 19-2, đại đội 11 tạm thời rút về khu vực trường
cấp 1 Sóc Giang xây dựng trận địa.
- Đại đội 12 hoả lực dùng
cối và 12ly7 chi viện cho các đơn vị chiến đấu, tiêu diệt sinh lực địch khi
chúng triển khai tấn công ở khu vực phòng ngự của đại đội 10 và đại đội 11.
Theo đại đội 12 báo cáo, đơn vị đã dùng cối 82 bắn sang trận địa của địch ở bên
kia biên giới, đạn rơi trúng một kho xăng của địch cháy liên tục hai ngày liền.
Ngày 20-2-79:
- Địch: có khoảng 2 tiểu
đoàn đánh từ phía Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang. Chúng chia làm 2 đợt tấn
công. Buổi sáng từ 9 đến 10 giờ, chiều từ 3 đến 5 giờ, có 16 xe tăng trong đội
hình tấn công của chúng.
- Ta: Đại đội 10 cùng 1
tiểu đội của đại đội 11 tăng cường chiến đấu giữ vững chốt, bẻ gãy các đợt tấn
công của địch, tiêu diệt 400 tên địch, 6 xe tăng. Bộ phận của đại đội 9 ở hướng
UBND huyện chiến đấu diệt 2 xe tăng và 50 tên địch.
- Sơ đồ trận đánh ngày
20-2-79.
- Một số gương chiến đấu
dũng cảm trong ngày 20-2:
Binh nhất Trần Xuân Quý,
20 tuổi, bắn 5 viên đạn B41 tiêu diệt 4 xe tăng và diệt nhiều tên địch.
Hạ sĩ, tiểu đội trưởng
Nguyễn Công Tân dũng cảm xuống tận bụi tre sát mặt đường quốc lộ để bắn thẳng,
tiêu diệt nhiều bộ binh địch, hy sinh cuối buổi sáng 20-2.
Trung uý Trần Văn Tương,
học viên Trường sĩ quan Chính trị thực tập tại đại đội 10, vừa chỉ huy bộ đội
vừa trực tiếp chiến đấu, bị thương gãy một tay, một chân vẫn kiên quyết ở lại
trận địa, hy sinh sáng 20-2.
Thượng uý La Quang Tuyến,
trung đội trưởng thuộc đại đội 9, bắn cháy 1 xe tăng địch. Binh nhất Hồ Sào
Liền, dân tộc Mèo, quê Hà Giang tiêu diệt được 12 tên địch, khi đi lấy cơm gặp
địch còn diệt được 2 tên…
- Ngày 20-2-79, ta có 20
người chết, số bị thương là…
- Ngày 21-2-79, ta chết và
bị thương là…
- Ngày 22-2-79, ta
chết…
- Ngày 24-2-79, ta chết…
- Ngày 26-2-79, ta chết…
........
Chính trị viên Hoàng lặng
đi khi đọc những con số ghi chép trần trụi trong cuốn nhật ký của tôi. Những
thông tin này trong khi chỉ huy chiến đấu anh và tôi đều đã biết rất rõ nhưng
bây giờ sau hơn một tháng đọc lại vẫn thấy nhói lên trong tim.
Chúng tôi hoàn thành bản
báo cáo thành tích trong cuộc chiến đấu để gửi lên cấp trên đề nghị xét phong
tặng danh hiệu đơn vị anh hùng cho tiểu đoàn. Nhất định rồi đây tiểu đoàn tôi
trở thành một đơn vị anh hùng, nhưng tự dưng tôi lại không thấy vui mừng mà chỉ
thấy man mác một nỗi buồn, một nỗi buồn day dứt khi bao anh em, động đội đã
không còn nữa để đón nhận sự vinh quang này. Chính trị vên Hoàng đi rồi, anh em
trong tiểu đội vẫn chưa đi đào công sự về, chỉ còn một mình tôi, tự dưng nỗi
buồn ấy cứ dâng dâng lên mãi trong lòng.
Tôi bước ra khỏi lán ngước
nhìn lên bầu trời.
Có một cơn giông lớn đang
hình thành cuồn cuộn từ phía Bắc. Mây đen vần vũ u ám trên những đỉnh núi lởm
chởm chốn biên thuỳ. Nơi mảnh đất tiền tiêu của tổ quốc này tiếng súng vẫn chưa
lắng im…
(hết chương 24)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 14.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Sau chiến tranh nhiều việc
phải làm. Tình hình biên giới vẫn căng như sợi dây đàn. Bọn địch vẫn liên tục
tung thám báo sang đất ta trinh sát. Thỉnh thoảng hai bên lại xảy ra những vụ
nổ súng lẻ tẻ. Vẫn có những người ngã xuống vì chạm súng hoặc vướng phải mìn
của bọn địch gài lại. Phía biên giới Hà Giang, Lạng Sơn vẫn còn xảy ra những
trận đánh lớn nữa.
Tiểu đoàn 3 dần ổn định vị
trí đóng quân. Những ngôi nhà nửa chìm nửa nổi trên chốt vừa là chỗ ăn nghỉ,
vừa làm công sự chiến đấu khi cần thiết. Cùng với việc xây dựng trận địa, ổn
định nơi ăn ở, các đơn vị bắt đầu việc bình xét, khen thưởng những người có
thành tích trong chiến đấu. Nhiều người được tặng huân chương chiến công, được
thăng quân hàm vượt cấp nhờ những chiến công, thành tích đã lập được trong
chiến đấu. Một số anh em cán bộ cũng được bổ nhiệm chức vụ mới. Phần lớn là lên
một chức. Bạn bè tôi đều được thăng quân hàm, bổ nhiệm chức vụ, được xem xét
bồi dưỡng để kết nạp vào đảng. Mọi người ai cũng phấn khởi. Duy chỉ có mình tôi
là không được phong quân hàm và khen thưởng gì.
Thằng Lợi được bổ nhiệm
làm đại đội phó. Buổi sáng hôm lên đường đi nhận nhiệm vụ nó tìm đến chia tay
tôi. Nó cứ băn khoăn mãi:
- Tại sao mày trong chiến
đấu nhiệm vụ nào cũng hoàn thành mà lại chả được khen thưởng, thăng quân hàm,
cất nhắc chức vụ gì nhỉ?
Tôi tặc lưỡi:
- Thì ngay trong lúc chiến
đấu tao đã được bổ nhiệm làm tiểu đội trưởng còn gì!
Nghe tôi giải thích, thằng
Lợi gạt đi:
- Lúc đánh nhau cấp trên
bị hy sinh thì đôn cấp dưới lên. Chết thằng này thì thằng khác thay thế. Lúc
cần người dẫn đầu đội hình đi mở đường, đi trinh sát thì mày được giao chỉ huy.
Việc chỉ định mày làm tiểu đội trưởng là do tình huống lúc đó cần chứ có quyết
định quái gì đâu.
- Nhưng bây giờ tao vẫn là
tiểu đội trưởng cơ mà!
- Tiểu đội trưởng cái tiểu
đội có ba bốn người chuyên đi bới tìm hài cốt liệt sĩ, đào hầm hào, vài hôm nữa
xong là giải tán. Trung đội thông tin tiểu đoàn đã có trung đội trưởng mới và
cán bộ khung tiểu đội chuẩn bị nhận chiến sĩ mới về huấn luyện rồi đấy!
- Thì kệ họ, tao cần quái
gì cấp chức, qua chiến tranh còn giữ được cái chỗ đội nón là tốt lắm rồi.
Thằng Lợi lắc đầu:
- Tao cũng không hiểu vì sao
tất cả đều được tặng huân chương, phong quân hàm, bổ nhiệm chức vụ riêng mày
thì chả được cái gì cả… mà không ai giải thích vì sao, tức thật!
- Có nguyên nhân cả đấy!-
Trợ lý tham mưu Thọ vừa đi đến cửa nghe rõ câu chuyện của hai chúng tôi nên lên
tiếng. Chúng tôi cùng quay ra cửa. Anh Thọ đeo ba lô bước vào nhà. Anh được bổ
nhiệm làm đại đội trưởng một đại đội thuộc tiểu đoàn 2. Anh cũng đến chia tay
với tôi để đi nhận nhiệm vụ tại đơn vị mới. Đặt cái ba lô xuống sạp, anh chìa
tay nắm tay tôi bóp chặt khiến tôi nhăn mặt. Ngần ngừ mãi anh mới bảo:
- Mày bị tố cáo là trong
lúc thất lạc khỏi đội hình của tiểu đoàn rất vô kỷ luật, không chấp hành mệnh
lệnh của chỉ huy, tự ý đưa bộ đội đi chặn đánh địch ở Kép Ké, rồi vào bản bắt
cá trộm, lấy ngô, lúa của dân…
- Ơ…
Tôi há hốc mồm ngỡ ngàng
vì những điều mà anh Thọ vừa nói. Trong lúc bị thất lạc, lang thang trong vòng
vây của quân thù bộ phận nào chả phải xuống các bản làng để kiếm tìm lương
thực, nhặt củ khoai, củ sắn, bắp ngô của dân để ăn có sức mà chiến đấu, mà tìm
về đơn vị cũ. Nhưng nếu nói như thế này thì quả tôi vi phạm kỷ luật nghiêm
trọng thật rồi. Tôi chợt thấy lo lo… Anh Thọ ngần ngừ rồi nói tiếp:
- Mày còn bị tố cáo là
trong lúc đang bị quân địch bao vây còn sử dụng cả… thuốc phiện nữa đấy!
Tôi càng thêm kinh ngạc khi anh Thọ cho biết là những sai phạm của tôi đã được đưa ra thảo luận tại một cuộc họp của đảng uỷ tiểu đoàn và trong buổi họp để bình xét công lao, thành tích cuộc chiến đấu vừa qua. Người nêu ra những khuyết điểm của tôi không ai khác chính là đại đội trưởng Tuấn. Tôi khẽ thở dài và chợt hiểu vì sao mọi chuyện anh ấy đều đổ hết cho tôi.
Tôi càng thêm kinh ngạc khi anh Thọ cho biết là những sai phạm của tôi đã được đưa ra thảo luận tại một cuộc họp của đảng uỷ tiểu đoàn và trong buổi họp để bình xét công lao, thành tích cuộc chiến đấu vừa qua. Người nêu ra những khuyết điểm của tôi không ai khác chính là đại đội trưởng Tuấn. Tôi khẽ thở dài và chợt hiểu vì sao mọi chuyện anh ấy đều đổ hết cho tôi.
Khi họp nghe những chuyện
này anh Thọ thấy bất bình cho tôi. Anh tin tôi. Nhưng anh Thọ chả thanh minh
được cho tôi vì anh không đi cùng tôi trong thời gian bị thất lạc xa đội hình
của đơn vị. Tôi cũng không thể giải thích được vì có ai hỏi lại mình xem những
chuyện ấy sai đúng thế nào đâu mà phân bua. Mọi việc cứ âm thầm diễn ra ở đâu
đó thế thôi. Đại đội trưởng Tuấn cũng đã được thăng quân hàm thượng uý và bổ
nhiệm giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Hiện giờ thì anh đã đi nhận nhiệm vụ tại một
đơn vị huấn luyện ở tuyến sau, mãi dưới tận Hoà An, gần thị xã Cao Bằng.
Khi tạm biệt để lên đường
anh Thọ và thằng Lợi vẫn có vẻ còn ái ngại và băn khoăn cho tôi. Tôi cười cười
động viên hai người:
- Thôi, chuyện đã qua rồi,
chả việc gì phải suy nghĩ mãi. Chúc các vị lên đường nhận nhiệm vụ mới công
thành danh toại, thăng quan tiến chức đều đều.
Anh Thọ và thằng Lợi đi
rồi tôi chợt thấy trống trải và buồn quá. Tôi thả bộ ra thị trấn. Bản Nà
Nghiềng lác đác đã có người về xem xét, thu dọn nhà cửa. Tôi bất ngờ gặp anh
Bàng ở gần nhà bưu điện cũ lối vào thị trấn. Anh mới đi quân khu công tác về.
Vừa nhìn thấy tôi anh đã hằm hằm bảo:
- Tao vừa đi công tác về
đã nghe chuyện của mày! Đúng là… là… cái đồ… đồ…
Tôi chặn họng anh:
- Anh lại chuẩn bị phát
ngôn bừa bãi vô tổ chức đấy!
- Vô tổ chức cái gì! Có tổ
chức hẳn hoi mà lại chỉ nghe một phía, nhận xét không đúng về một con người.
Hôm ấy tao đi vắng, ở nhà thì tao cho cái đồ sợ chết ấy một trận.
- Thôi anh ạ! Mà anh cũng
hãy lo cho mình ấy! Cô Lê thế nào rồi anh nhỉ?
- Chậc! Thì vẫn khoẻ,
chúng tao sắp cưới rồi…
- Tốt quá! Chắc là cưới
chạy… đẻ chứ gì?
- Mày chỉ được cái lắm
chuyện. Thôi vào bản xem có kiếm được cái gì để kin lẩu không rồi lên chỗ tao
ăn cơm!
Kin lẩu tiếng Tày là uống
rượu. Tôi từ chối lời mời của anh Bàng và quay về nhà ở. Vừa về đến chỗ ở thì
liên lạc xuống gọi lên ngay nhà chỉ huy tiểu đoàn có việc gấp. Tôi vội vã theo
chiến sĩ liên lạc đi ngay. Đến cửa nhà chỉ huy tiểu đoàn tôi thấy chính trị
viên Hoàng đang ngồi tiếp chuyện một người đàn ông và một cô gái. Hai người này
ngồi quay lưng ra cửa. Tôi đứng nghiêm báo cáo:
- Tôi, hạ sĩ Lê Trọng Hà
có mặt!
Chính trị viên Hoàng và
hai người khách quay nhìn ra. Tôi sửng sốt và vui mừng nhận ra anh Chấn và cô
Hoa, dân quân bản Kép Ké. Anh Chấn và cô Hoa cũng rất vui mừng vì nhận ra tôi.
Anh Chấn xiết chặt tay tôi. Cô Hoa cũng vui lắm. Chúng tôi rối rít hỏi chuyện
nhau về sau lần chia tay trong vòng vây lửa đạn của quân giặc ấy đã rút chạy đi
đâu, làm sao mà thoát được sự truy đuổi ráo riết của bọn lính sơn cước xâm
lược.
Rối rít một lúc, tôi mới
chợt nhớ ra và hỏi:
- Thế anh Chấn và cô Hoa
đến tận đơn vị chúng tôi có việc gì thế?
- Chuyện là thế này!-
Chính trị viên Hoàng từ nãy giờ vẫn im lặng để ba chúng tôi nói chuyện giờ mới
lên tiếng:- Anh Chấn bây giờ là phó chủ tịch, kiêm xã đội trưởng Kép Ké và cô
Hoa tìm đến tận đơn vị ta để nhờ cậu “chứng nhận” cho đấy!
- Chứng nhận cái gì ạ?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại và
nhìn hai vị khách và cũng là hai người đồng đội trong chiến đấu. Anh Chấn cười
vui vẻ:
- Là thế này! Đơn vị dân
quân Kép Ké được đề nghị cấp trên tặng cho cái huân chương chiến công. Bọn mình
làm bản báo cáo thành tích, anh Hà là người đã cùng phối hợp chiến đấu, chứng
kiến những người trong trung đội dân quân chiến đấu hy sinh dũng cảm như anh
Phủng, chị Láy… Đề nghị anh viết cho một cái giấy chứng nhận để bổ sung vào hồ
sơ khen thưởng cho đầy đủ, thế thôi.
Tôi vội chối ngay:
- Việc này tôi không giúp
được đâu! Lúc phối hợp cùng dân quân Kép Ké chiến đấu chặn bọn giặc còn có đại
đội trưởng Tuấn. Anh ấy là sĩ quan chỉ huy cao nhất của bộ phận chúng tôi khi
ấy. Đề nghị phó chủ tịch xã nên tìm gặp để anh ấy chứng nhận cho.
Anh Chấn vội xua tay:
- Bộ đội Hà “chứng nhận”
thì được, mình không lấy chứng nhận của chỉ huy Tuấn đâu. Ông ấy có tham gia
trận đánh ở dốc núi đường vào thung lũng Kép Ké đâu mà biết.
Tôi lúng túng không biết
xử trí ra sao. Anh Chấn và cô Hoa nhìn tôi chờ đợi. Chính trị viên Hoàng suy
nghĩ rồi quyết định. Anh đưa giấy bút cho tôi bảo:
- Thôi thế này! Cậu cứ
viết rõ mọi việc đã chứng kiến khi phối hợp chiến đấu với dân quân bản Kép Ké
sau đó để anh Chấn và cô Hoa xem lại. Nếu hai người thấy đúng, đồng ý thì tôi
sẽ thay mặt tiểu đoàn ký giấy xác nhận cho họ. Nhớ là phải viết cho thật chính
xác đấy!
Tôi cắm cúi viết. Tôi viết
về những tấm gương chiến đấu, hy sinh dũng cảm của dân quân Kép Ké mà mình đã
được chứng kiến, nêu qua sự phối hợp của các anh em bộ đội chúng tôi nữa. Anh
Hoàng xem kỹ nội dung tôi đã viết xong đưa cho anh Chấn đọc lại.
Anh Chấn đọc xong kêu lên:
- Không đúng rồi!
Tôi và chính trị viên
Hoàng đều ngạc nhiên. Anh Hoàng nhăn mặt hỏi lại tôi:
- Cậu viết sai hả?
Anh Chấn bảo:
- Ô… không sai nhưng không
đúng, anh Hà và các đồng chí bộ đội đã dũng cảm chiến đấu chi viện dân quân
chúng tôi nhiều thế, đánh địch chết nhiều thế mà trong này lại không viết gì
cả. Thế là không thật đúng rồi…
Anh Hoàng thở phào nhẹ
nhõm. Tôi giải thích:
- Đây là phần để chứng
nhận sự chiến đấu hy sinh của dân quân Kép Ké nên chỉ cần viết về dân quân thôi
anh ạ!
Tôi phải nói một hồi anh
Chấn mới chịu. Chính trị viên Hoàng ký xác nhận đưa văn thư đóng dấu rồi giao
tờ giấy tôi viết cho anh phó chủ tịch xã Kép Ké. Mọi việc xong xuôi tôi mới
chợt nhớ ra:
- Ơ… thế cô Hoa không về
trường đi học lại à?
- Em về rồi! Nhà trường
nghỉ hè nên em về quê thăm ông. Nghe tin chú Chấn đi Hà Quảng tìm các anh để
hoàn chỉnh hồ sơ em liền xin đi cùng đấy!
Hoa nói có vẻ ấp úng.
Chúng tôi ngồi nói chuyện, cùng nhau ôn lại những ngày ác liệt đã qua. Bữa
trưa, chiến sĩ liên lạc lấy cơm về, chính trị viên Hoàng bảo tôi ở lại cùng ăn
cơm với hai người khách đặc biệt. Đầu giờ chiều có xe ô tô của trung đoàn lên
cấp phát lương thực, đạn dược, chính trị viên Hoàng dặn chiến sĩ lái xe cho phó
chủ tịch Chấn và cô Hoa đi nhờ xuôi Mỏ Sắt để hai người về Kép Ké.
Tôi chia tay với anh Chấn và cô Hoa, những người gặp nhau trong chiến tranh, chiến đấu bên nhau chỉ một thời gian rất ngắn nhưng sao mà tôi thấy thân thiết thế.
Tôi chia tay với anh Chấn và cô Hoa, những người gặp nhau trong chiến tranh, chiến đấu bên nhau chỉ một thời gian rất ngắn nhưng sao mà tôi thấy thân thiết thế.
(hết chương 25)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 15.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
- Anh Hà!- Tôi giật mình
vì có tiếng con gái gọi ngay sau lưng.
Tôi vội quay lại và nhận
ra Thư- nữ chiến sĩ đại đội 17 thông tin của trung đoàn. Tôi biết Thư qua những
lần lên trung đoàn bộ nhận vật tư thông tin và phối hợp xây dựng, bảo vệ, sửa
chữa tuyến đường dây lên trận địa của tiểu đoàn 3. Thư cũng là lính thông tin
hữu tuyến như tôi. Tôi hỏi:
- Thư cũng đi chợ à?
- Vâng, em đi mua thực
phẩm cho đơn vị! Thế còn anh sao lại xuống tận đây!
- Anh về trung đoàn nhận
vật tư, máy móc thông tin, qua chợ mua chút thức ăn, trưa nay tự nấu nướng lấy,
chiều mới vào kho nhận hàng.
Thư bảo:
- Hay là anh vào chỗ chúng
em, trưa nay để tụi em nấu giúp cơm cho. Ăn xong, anh vào chỗ kho trung đoàn
nhận vật tư cũng gần…
Tôi hơi ngần ngừ vì ngại.
Nhưng Thư cứ nài nỉ mãi nên tôi đành đồng ý. Tôi và Thư cùng vào chợ. Phiên chợ
Nà Giàng sau chiến tranh lèo tèo vài thứ hàng hóa, mấy gánh rau và một bàn bán
thịt lợn. Thư mua bán rất nhanh vài thứ rau quả và một miếng thịt lợn. Tổ đảm
bảo đường dây của Thư trú quân xa đơn vị nên tự nấu ăn. Buổi trưa, tôi ăn cơm
cùng tổ đảm bảo đường dây thông tin của Thư. Và, câu chuyện của Thư có lẽ tôi
cũng nên chép lại.
***
Gió bắc thổi hun hút qua
vách đá.
Họ ngồi bên nhau. Cái lạnh
làm cho họ sát lại gần nhau hơn. Họ đều là những người lính. Đơn vị họ mới lật
cánh từ Hà Giang sang hướng Cao bằng khi tình hình biên giới ngày càng căng
thẳng, nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra. Chàng trai ở đại đội công binh còn cô
gái là nữ chiến sĩ thông tin trung đoàn. Màu áo của họ lẫn vào màu cỏ dại và đá
núi.
Chàng trai ngồi im lúng
túng. Cô gái vặt trụi lá một cành sim mọc ven suối. Mãi sau chàng lính công
binh mới ấp úng nói:
- Anh vừa nhận được thư
nhà…
- Nhà có chuyện gì mới
không anh?
- Mẹ anh giục về…
Chàng lính trẻ bỏ lửng câu
nói. Cô gái cười khúc khích:
- Giục về cưới vợ để mẹ
chóng có cháu bồng chứ gì?
- Nhưng… anh không thích
cái cô bé nhà bên cạnh mà mẹ bảo về để hỏi cưới ấy… đanh đá lại còn hay mách
lẻo nữa…
- Hi… nhưng người ta xinh…
- Xinh gì… hồi bé thò lò
mũi suốt…
Cô gái bật cười thành
tiếng:
- Hồi bé ai chả thò lò mũi
chứ?
Chàng lính im lặng. Cô gái
vân vê vạt áo:
- Em cũng mới nhận được
thư mẹ!
- Chắc mẹ cũng giục…?
- Không, mẹ em lo…
- Lo gì… lo chiến tranh
sắp nổ ra à?
- Không… mẹ lo con gái có
thì…
Hai người lại im lặng. Chỉ
có tiếng suối chảy rì rào qua khe đá. Họ nghe rõ cả tiếng thở của nhau. Cô gái
lại chợt hỏi:
- Liệu chiến tranh có xảy
ra không anh nhỉ?
- Không biết! Nhưng tình
hình ngày càng căng thẳng thế này thì không rõ sẽ thế nào? Bọn anh hôm nay về
kho trung đoàn lấy vật tư để chuẩn bị sẵn sàng đấy!
- Vật tư gì quan trọng
thế?
- Bí mật nhé!
- Vâng…
- Toàn là kíp nổ mạnh… Khi
chiến tranh xảy ra, bọn anh sẽ dùng cả tấn thuốc nổ đánh sập một đoạn đường qua
vách đá cheo leo để chặn xe cơ giới của bọn địch tràn sang. Thôi chết! Thằng
Chiến cùng đi lĩnh vật tư với anh đang ngồi chờ ở ngã ba Đôn Chương. Chắc là nó
đang sốt ruột lắm!
- Thế thì anh đi… đi…
Cô gái làm bộ giục. Anh
chàng lính công binh tặc lưỡi:
- Thôi, cứ để nó chờ thêm
một tý nữa. Anh em mình ngồi với nhau thêm một lát nữa, chả mấy khi gặp được
nhau…
Cô gái nhích lại sát anh
lính. Cô cố nén tiếng thở dài lo âu nói:
- Mong sao cho chiến tranh
không xảy ra. Em sợ lắm. Nhà có một mình em là con gái út, lại ở tít tận trên
biên giới này.
- Mẹ anh cũng lo. Mẹ chỉ
có một mình anh thôi. Mẹ thương anh lắm. Bố anh hy sinh trong đợt đơn vị đi
tiễu giặc phỉ ở Hà Giang, mẹ ở vậy nuôi anh. Mà bố anh ngày xưa cũng là lính ở
trung đoàn 246 của mình đấy! Bao giờ đơn vị ổn định, mở lại nhà truyền thống,
anh sẽ dẫn em vào xem. Trong nhà truyền thống trung đoàn có ảnh bố anh đấy!
Cô gái thở dài nhè nhẹ:
- Ước gì không có chiến
tranh anh nhỉ!
- Anh cũng mong thế! Không
có chiến tranh chúng mình sẽ được ra quân, anh sẽ đưa em về quê anh thăm Đền
Hùng.
- Em cũng sẽ dẫn anh về
quê em…
Chàng lính trẻ nhìn vào
mắt cô gái. Anh nhận thấy sự lo âu không dấu nổi trong ánh mắt của cô gái.
Chàng lính công binh nhìn đồng hồ. Chắc giờ này thằng Chiến đang nóng lòng chờ
anh ra để cùng đem số vật tư đã nhận ngược lên biên giới. Lúc nãy lĩnh vật tư ở
kho xong anh dặn Chiến đeo ba lô ra chỗ ngã ba ngồi chờ còn mình tranh thủ tạt
qua đại đội thông tin thăm cô bạn gái. Thằng Chiến nhìn anh nháy mắt bảo: “Mày
làm gì thì làm nhanh nhanh rồi ra ngay kẻo về đến đơn vị tối mất đấy!”.
Cô gái thấy anh lính công
binh nhìn đồng hồ liền cúi mặt nói khẽ:
- Anh… anh… ôm em đi!
-…
Chàng lính công binh lúng
túng. Anh choàng tay qua vai cô gái. Đôi vai tròn của cô gái run lên. Hơi thở
của cả hai người dồn dập, đứt quãng không đều. Họ như nghe thấy cả tiếng trống
ngực của nhau. Cô gái thì thào. Hơi thở của cô nóng hổi bên tai anh: “Ôm em
thật chặt vào…”. Cô kéo cánh tay của anh xuống ngang ngực mình. Chàng lính công
binh như đang bị lên cơn sốt. Lần đầu tiên cánh tay anh chạm vào ngực một người
con gái. Họ ngồi im lặng không ai nói gì thêm. Cô gái lặng lẽ mở khuy áo rồi
ngoặt tay ra phía sau lưng tháo cái móc. Chàng lính trẻ bàng hoàng khi nhìn
thấy khuôn ngực trẻ trung và tròn căng của cô gái. Anh sợ hãi không dám đặt tay
lên. Một làn gió lạnh làm cô gái rùng mình. Khuôn ngực trẻ trung như hai ngọn
măng đang mọc. Cô gái nắm lấy bàn tay thô ráp vì đào hầm hào công sự của người
lính công binh đặt lên ngực mình ép chặt, thật chặt. Hai người như lả đi. Trời
đất quay cuồng. Không gian chao đảo. Lạ lẫm và mê hoặc. Khi đã hồi tĩnh lại anh
lính công binh trở nên mạnh dạn hơn. Anh hạ thấp một bàn tay luồn xuống phía
dưới. Cô gái vội giữ bàn tay anh lại hốt hoảng:
- Đừng… đừng…
- Sao thế?
- Không được… không được
đâu! Hôm… hôm nay em đang bị… ngày mai mới hết cơ…
Chàng lính trẻ vội rụt tay
lại. Anh hiểu ý cô gái nói. Hôm nay cô đang bị chuyện phụ nữ, “kéo cờ trắng”
như cánh con trai vẫn thường nói với nhau về phụ nữ. Cô gái vừa cài lại khuy áo
vừa nhìn vẻ mặt thất vọng của chàng trai mỉm cười nói:
- Thôi… anh đi đi… ngày
mai em sẽ đến tìm anh… ngày mai anh nhé!
Anh lính công binh nắm
chặt tay cô gái:
- Thư ơi! Ngày mai anh sẽ
đợi em ở đầu thị trấn nhé!
Họ cùng chạy về hướng ngã
ba Đôn Chương nơi một người đồng đội của họ đang chờ. Ra khỏi cánh rừng chàng
lính trẻ bảo cô gái quay lại. Dùng dằng mãi rồi họ mới chia tay nhau. Đặt một
cái hôn nhẹ lên má chàng lính công binh, cô gái thì thầm: “Nhất định ngày mai
chủ nhật được nghỉ em sẽ đến tìm anh! Ngày mai anh Tâm nhé...”.
Thư về đến gần đơn vị thì
gặp đám bạn gái đang kéo nhau ra suối giặt giũ. Vừa nhìn thấy Thư lũ con gái
nhau nhau xô đến cật vấn. Lúc nãy bọn chúng đã thấy anh lính công binh vào đơn
vị tìm Thư rồi hai người cùng đi vào cánh rừng ven suối.
- Thế nào đã… làm gì nhau
chưa?
Cái Liên vừa xoa xoa má
Thư vừa hỏi. Cái Thủy thì nghi ngờ:
- Chắc chắn là đã làm gì
rồi phải không?
- Làm gì… là làm sao!
Chúng mày chỉ được cái hay nghĩ vớ vẩn!
- Vớ vẩn cái gì! Anh chàng
đẹp trai thế cơ mà… Chả lẽ hai người chỉ ngồi suông bên bờ suối thả lá xuống
dòng nước cho trôi về biển cả à?
- Thì nói toàn chuyện linh
tinh thôi!
- Bọn tao không tin… nhìn
hai má rưng rưng đỏ lựng thế kia mà nói không làm gì thì vô lý quá!
Cả bọn đang ồn ào nói cười
nghiêng ngả thì một nữ chiến sĩ xuất hiện gọi to:
- Báo động! Tất cả về đơn
vị tập hợp ngay!
Đám con gái vội bưng chậu
quần áo, xách súng chạy về vị trí đóng quân của đơn vị. Trời đã sụp tối. Ở miền
núi đá âm u thường tối sớm. Thư vừa đeo ba-lô, khoác súng, vớ cái máy điện
thoại và cuộn dây chạy ra bãi cỏ đầu doanh trại. Cô hơi lo lắng hồi hộp, trống
ngực đập mạnh. Thư mong rằng cũng chỉ là báo động luyện tập như những lần
trước. Ngày mai chủ nhật Thư đã hẹn sẽ đến tìm Tâm. Anh hứa sẽ đưa Thư đi
thăm một cái hang đá có nhiều thạch nhũ rất đẹp mà anh đã phát hiện trong một
lần đi tìm nơi trú quân và cất giấu vật tư chiến tranh cho đơn vị. Thư đỏ mặt
khi hình dung chuyện của hai người sẽ xảy ra trong cái hang vắng vẻ ấy.
Đơn vị tập trung đầy đủ.
Đại đội trưởng phổ biến mệnh lệnh chiến đấu rồi tất cả hành quân về các vị trí
đảm bảo thông tin liên lạc cho trung đoàn. Bộ phận thông tin hữu tuyến của Thư
đảm bảo tuyến đường dây hướng tiểu đoàn 3 và đơn vị công binh. Tiểu đội trú
quân trong một hang đá nhỏ nằm trên con đường lên thị trấn Sóc Giang. Tìm chỗ
rải tấm tăng làm chỗ ngủ ở góc hang xong Thư quay ra cửa hang thì cái Liên đi
nhận gạo trở về. Nó đưa cho Thư hai băng đạn và nói:
- Tình hình có vẻ căng
thẳng lắm mày ạ!
- Chắc lại báo động sẵn
sàng chiến đấu như những lần trước thôi!
- Lần này khác. Có khả
năng chiến tranh sẽ xảy ra!
Thư hơi run run:
- Thật thế hả mày?
- Lúc qua hầm chỉ huy tao
nghe lỏm thấy đại đội trưởng đang nói với mấy cán bộ trung đội là ở phía
cửa khẩu Bình Mãng bọn địch đã phá hoại các vật cản của ta rồi…
Chợt nhớ tới lời anh Tâm
nói lúc chiều qua, Thư thảng thốt:
- Lỡ chiến tranh xảy ra
thật thì làm thế nào… tao sợ lắm!
- Tao cũng sợ! Nếu tao có
thế nào thì mẹ tao chết mất…
- Ôi… mà còn anh Tâm…
- Anh Tâm của mày làm sao?
- Anh… anh… ấy chắc đêm
nay sẽ lên sát biên giới chuẩn bị nổ mìn phá đường, ngăn cản xe cơ giới của bọn
giặc… Nếu chiến tranh nổ ra thì ngày mai…
Đang nói Thư chợt im bặt.
Cô chợt nhớ đến lời hẹn ngày mai với Tâm. Cái “ngày mai” ấy cả hai đều mong
chờ, lo lắng thấp thỏm trong một đêm biên giới thế này. Thư mong một ngày mai
sẽ bình yên như mọi ngày trước đó, chỉ một ngày thôi, một ngày không có chiến
tranh…
***
Nhưng chiến tranh đã nổ ra
đúng vàp buổi sáng ngày chủ nhật. Ngày mà Thư hẹn sẽ đến tìm Tâm. Một ngày mà
cô mong đợi hơn tất cả mọi ngày. Thư sợ hãi khi nghe những tiếng nổ dữ dội. Bầu
trời sáng rực lên bởi những luồng lửa đạn từ phía bên kia biên giới bắn sang.
Thư và Liên ôm nhau trong
hốc đá co rúm người vì sợ hãi. Nhưng rồi họ cũng không có thời gian mà sợ hãi
mãi. Tiếng chuông máy điện thoại đổ dồn bắt buộc họ trở về với nhiệm vụ. Đường
dây hữu tuyến lên các đơn vị dính mảnh pháo, bị trâu bò của dân bản hoảng
loạn chạy rông kéo đứt. Hai người lần theo tuyến đường dây. Họ vừa bò vừa
chạy khi qua cánh đồng trống mịt mù lửa khói. Những lúc đạn pháo nổ gần Thư và
Liên phải nằm bẹp dưới mương nước mãi mới dám đi tiếp. Hai người không rõ chiến
sự đã xảy ra trên các hướng như thế nào. Họ chỉ biết là vô cùng ác liệt qua
những câu đối thoại ngắn ngủi khi họ quay máy về tổng đài hay gọi lên điểm tựa
các đơn vị lúc nối dây, thông máy.
Mãi đến cuối buổi chiều
tiếng súng mới tạm ngớt. Bọn địch chưa chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân
ta. Thư và Liên quay về vị trí trú quân. Cả hai đều mệt lả và đói. Thư kéo lê
khẩu AK chui vào hang. Liên bẻ nắm cơm nguội ngắt đưa cho bạn. Chợt Thư
kêu lên:
- Thôi chết! Mình phải lên
chỗ đơn vị công binh ngay! Anh Tâm chắc đang đợi mình…
Cái Liên gàn:
- Mày không được đâu!
Đường lên chỗ đơn vị công binh phải băng qua cánh đồng trống trải nguy hiểm
lắm. Mà đường dây lên đó bị đứt chưa khắc phục được, không hiểu tình hình thế
nào…
- Tao nhất định phải đi.
Tao sẽ kiểm tra đường dây lên trên đó luôn!
Thư quả quyết. Cô đeo cái
máy điện thoại và xách khẩu súng toài người ra khỏi hang. Cái Liên dặn với
theo:
- Cẩn thận bọn thám báo
đấy Thư ơi!
Đạn pháo của địch đã tạm
lắng. Đã cuối ngày, ánh sáng chập choạng. Cánh đồng trồng ngô và thuốc lá lỗ
chỗ hố đạn pháo, khét nồng mùi thuốc súng. Thư thận trọng đi dọc con mương nhỏ
chạy song song với con đường rải đá lên thị trấn Sóc Giang. Vượt qua thị trấn
thì Thư gặp được mấy chiến sĩ đang chốt giữ ở gần trường cấp 1. Thư đang hỏi
thăm lối lên đơn vị công binh thì có tiếng hỏi:
- Thư phải không! Anh là
Chiến ở đơn vị công binh đây!
Một người chiến sĩ quần áo
bê bết bùn đất từ một ngách hầm nhô ra. Thư nhận ra người bạn thân của Tâm.
Chiến liền kéo Thư ra phía sau một gộp đá bảo:
- Bọn anh đang triển khai
bãi vật cản ở sân trường cấp 1. Ngày mai có thể bọn giặc sẽ tràn xuống thị trấn
đấy!
- Thế anh Tâm…
Chiến im lặng rồi nắm chặt
bàn tay lạnh cóng của Thư:
- Tâm… không còn nữa Thư
ạ!
Thư suýt khụy xuống. Cô
phải níu lấy tay của Chiến để khỏi ngã. Chiến thì thào:
- Thân hy sinh anh dũng
lắm Thư ạ!
Thư cắn chặt môi để khỏi
bật lên tiếng khóc. Thư cố định thần để nghe Chiến kể về cái chết của
Tâm. Anh Tâm đã hy sinh sau khi khối bộc phá lớn phá đường chặn đường tiến của
xe tăng quân địch được điểm hỏa. Khối bộc phá ấy nổ tức thì nên anh Tâm cùng
một chiến sĩ thông tin của tiểu đoàn 3 lên hỗ trợ đã hy sinh. Thân xác họ đã
tan hòa vào đất rồi…
Kể xong chuyện của Tâm,
Chiến lôi từ trong cóc cái ba-lô đang đeo ra một cái túi nhỏ rồi bảo:
- Hôm qua Tâm nói hôm nay
Thư sẽ lên thăm. Không ngờ chiến tranh xảy ra. Trước khi đi làm nhiệm vụ Tâm
dặn nếu không trở về thì giao lại cho Thư vật này.
- Là gì vậy anh?
- Trong cái túi này là
cuốn sổ ghi nhật ký của Tâm và cả mấy tấm ảnh của nó nữa…
Thư run run cầm cái túi
nhỏ. Nhớ đến lời hứa với anh Tâm chiều hôm qua, Thư nhặt một hòn đất bên bờ
công sự bỏ vào cái túi. Anh Tâm đã hi sinh, hồn phách và thể xác của anh đã tan
hòa vào đất trời sông núi biên cương. Thư muốn đem một nắm đất có phần thịt
xương hồn phách của anh về quê mình sau khi cuộc chiến tranh này chấm dứt…
Câu chuyện của Thư khiến
tôi nhớ lại giờ phút ấy. Hóa ra hôm ấy anh Tâm chưa chết như cúng tôi nghĩ. Anh
bị thương rất nặng. Khi thằng Đan bò lên hỗ trợ, anh ấy đã hướng dẫn thằng Đan
cách chắp nối hỏa cụ. Hai người đã quyết định cho khối bộc phá nổ tức thì để
phá sập đoạn đường và tiêu diệt luôn cả chiếc xe tăng đi đầu của quân xâm lược.
(hết chương 26)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 16.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
TRONG VÒNG LỬA
Anh Hoàng được đề bạt làm
chính uỷ trung đoàn. Hôm lên trung đoàn nhận nhiệm vụ gặp tôi anh bảo:
- Mày cứ yên tâm! Tao về
trung đoàn sẽ cử người đi xác minh những việc ở Kép Ké xem thực hư thế
nào!
Tôi chúc mừng anh được lên
chức. Thực ra tôi cũng chả quan tâm nhiều nữa đến những việc đã xảy ra trong
chiến tranh. Mọi sự đã an bài rồi. Tôi nghĩ thế. Bởi vì có những chuyện chả bao
giờ phân định sai đúng một cách thật rõ ràng được đâu. Nếu nâng quan điểm lên
thì là tôi sai rõ ràng. Sai ở chỗ là đã không chấp hành mệnh lệnh của người chỉ
huy cao nhất theo điều lệnh chiến đấu của quân đội, dám tự ý dẫn anh em trong
bộ phận chi viện dân quân Kép Ké chặn giặc. Tôi không chịu rút lui ngay theo
lệnh của đại đội trưởng Tuấn, dẫn đến đã làm thêm tổn thất cho bộ đội. Sai nữa
là ở chỗ là tự tiện lấy ngô lúa, bắt cá của dân khi chưa đựơc sự đồng ý. Bây
giờ bà con dân bản có bỏ qua thì cũng vẫn là vi phạm kỷ luật dân vận. Nên nếu
thẩm tra rõ thì mình có khi mình lại nặng tội thêm.
Tiểu đoàn bắt đầu nhận
chiến sĩ mới, bước vào huấn luyện. Tôi được cử làm giáo viên huấn luyện cho
trung đội thông tin tiểu đoàn. Một buổi sáng tôi đang hướng dẫn bộ đội thực
hành thao tác rải dây triển khai thông tin hữu tuyến ngoài thao trường thì có lệnh
về gặp chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng Thêm dặn tôi:
- Cậu xuống gặp quản lý
nhà bếp thanh toán tiền ăn, phiếu gạo, lấy sổ quân trang, nhớ là lấy cả giấy
cung cấp tài chính, giấy sinh hoạt đoàn rồi lên trung đoàn nhận nhiệm vụ ngay.
- Nhiệm vụ gì thế ạ?
- Không rõ! Cứ lên trên ấy
khắc biết.
Tôi hơi hoảng nghĩ: “Hay
là trung đoàn họ điều tra ra những vi phạm của mình trong chiến đấu nên triệu
lên để thi hành kỷ luật”. Thời gian này ở hướng Lạng Sơn đã có chiến sĩ phải ra
toà án binh vì dùng súng bắn một con bò của nhân dân lấy thịt ăn. Tuy vậy tôi
cũng tự động viên mình chắc chỉ là việc thuyên chuyển công tác bình thường của
người lính thôi, chả có chuyện gì đâu.
Tôi khoác ba lô cuốc bộ
xuôi hướng Đôn Chương. Dọc đường, tôi gặp những đoàn chiến sĩ mới từ phía sau
đang hành quân lên biên giới. Nhìn những khuôn mặt trẻ măng đang hăm hở đi lên
tuyến trước tôi chợt thấổitong lòng mình bâng khuâng một nỗi buồn hưu hắt. Bao
giờ đất nước mình hết chiến chinh để những chàng trai trẻ tràn đầy sức sống thế
kia không còn phải cầm cây súng nữa. Những người con của bao bà mẹ trên khắp
đất này sẽ không còn phải ngã xuống nơi chiến trận nữa. Tôi chợt thấy lạnh
người khi nghĩ đoàn quân trai tráng, ồn ào kia nếu chiến tranh lại xảy ra thì chỉ
sau vài trận bao nhiêu người sẽ chỉ còn là những nấm mồ lẫn vào cây lá nơi biên
ải. Giá như đất nước mình hoà bình thì những chàng trai này sẽ là những sinh
viên, những công nhân, trí thức trên công trường, nhà máy thì hay quá. Có hoà
bình đất nước sẽ phát triển, nhân dân sẽ không phải nghèo nàn, đói khổ mãi.
Những ngày này bát lên thấy cơm của người lính tuyến trước đã phải độn nhiều
ngô sắn hơn rồi. Chiến tranh sẽ bòn rút hết tiềm lực, làm kiệt quệ kinh tế của
đất nước, sẽ quàng cái ách nghèo, đói lên đầu lên cổ nhân dân.
Khi đến lối rẽ vào Pác Bó
thì tôi đi nhờ được một chiếc xe vận tải chở vật liệu lên biên giới cho bộ đội
làm công sự trả hàng xong đang quay về xuôi. Tới Nà Giàng nơi trung đoàn bộ
đóng quân tôi ghé một nhà dân ven đường nấu cơm nhờ. Chị chủ nhà nhìn tôi hỏi:
- Chú là lính cũ à?
- Vâng, đúng thế ạ!
- Thảo nào nhìn mặt mũi
hốc hác nhưng nhanh nhẹn lắm! \
- Thế ạ!
- Thì chỉ có lính cũ nên
chú mới thông thạo việc nấu nướng thế chứ!
Chị cho tôi một ít mỡ lợn,
quả đu đủ xanh và nắm rau cải mới nhổ trên nương để làm thức ăn. Nấu cơm ăn
xong Tôi hỏi lại tôi vào trung đoàn bộ thì đã đến giờ làm việc buổi chiều. Tôi
tìm gặp anh trợ lý quân lực để hỏi quyết định chuyển công tác. Anh trợ lý quân
lực trung đoàn vốn là người cùng quê Vĩnh Phú với tôi. Vừa thấy tôi anh đã bảo
để ba lô lại và theo anh đi ngay. Tôi chột dạ hỏi:
- Đi đâu thế anh?
- Cứ đi khắc biết?
Tôi bồn chồn đi theo anh
trợ lý quân lực. Anh dẫn tôi vào một căn nhà nhỏ mới làm, tường đắp bằng đất.
Anh bảo tôi đứng ngoài rồi vào trước báo cáo chỉ huy. Tôi đang ngó nghiêng xung
quanh thì có tiếng gọi:
- Hà đấy à! Vào đi!
Tôi bước vào nhà, nhận ra
anh Hoàng đang ngồi sau bàn làm việc. Thấy tôi vào, anh đứng dậy bắt tay và bảo
tôi ngồi xuống ghế. Anh trợ lý quân lực chào chúng tôi về tiếp tục công việc.
Chính uỷ Hoàng rót ca nước đưa cho tôi rồi hỏi:
- Chú mày vẫn khoẻ chứ?
- Vâng ạ!
- Vẫn còn bất mãn vì
chuyện không được thăng quân hàm và khen thưởng chứ?
- Em là hạ sĩ quan, hết
nghĩa vụ thì về phục viên theo trâu đi cày, quân hàm, quân hiệu có là cái gì
đâu mà bất mãn, bất bình ạ!
- Nhưng cùng nhập ngũ với
mày nhiều thằng sau chiến tranh được phong chuẩn uý, lên chức đại đội phó rồi
đấy!
- Thì họ có cái số làm
quan, số em thì chỉ làm lính tráng thôi anh ạ!
Anh Hoàng mỉm cười:
- Mày cũng lý luận gớm
nhỉ?
- Thì em nói đúng như thế
thôi chứ lý luận gì đâu ạ!
Chính uỷ Hoàng im lặng một
lát rồi đột nhiên nói sang chuyện khác:
- Việc của mày xong rồi
Tôi giật mình:
- Anh đã cho người đi Kép
Ké thẩm tra rồi ạ!
- Không… chả cần thẩm tra
làm gì nữa?
- Sao lại thế ạ!-, giọng
hơi run:- Vậy em sẽ phải nhận hình thức kỷ luật thế nào ạ?
- Kỷ luật cái gì?
- Thế em cứ tưởng…
Anh Hoàng bật cười:
- Tưởng cái gì! Sao chưa
chi mặt mũi mày tái mét đi thế, lính chiến mà lại thế à. Mày chả phải kỷ luật,
kỷ liệc gì cả đâu, yên tâm đi.
- Vậy là... tiểu đoàn phó
Tuấn đã giải thích lại rõ ràng mọi chuyện của em rồi ạ?
Anh Hoàng ngần ngừ một lát
rồi nói:
- Giải thích cái gì… Ông
ấy đã… đã… đào ngũ rồi!
Tôi vô cùng sửng sốt.
Tưởng là nghe nhầm, tôi vội hỏi lại:
- Anh ấy là cán bộ tiểu
đoàn cơ mà, có phải chiến sĩ đâu mà lại đào ngũ?
Chính uỷ Hoàng nhăn mặt vẻ
buồn bã:
- Thế đấy! Ông ấy bỏ đơn
vị về nhà đã mấy tháng nay rồi. Trung đoàn đã gửi thư, gọi điện, rồi cử cả cán
bộ mấy lần về tận nhà thăm hỏi, động viên nhưng ông ấy vẫn không chịu trở lại
đơn vị. Thế chả là đào ngũ thì là cái gì nữa!
Tôi vẫn không hiểu. Sao
lại có một chuyện tày trời thế. Một sĩ quan sao lại đào ngũ? Trong chiến tranh
chống Mỹ trường kỳ, ác liệt thì chả nói làm gì còn bây giờ sao lại còn có
chuyện sĩ quan đào bỏ ngũ chứ. Hay là đã có chuyện gì đã xảy ra đối với anh
Tuấn. Anh ấy vừa được bổ nhiệm lên chức vụ tiểu đoàn phó, lại chuyển về tuyến
sau ở một đơn vị huấn luyện chiến sĩ mới mà lại đào ngũ thì vô lý quá. Hơn nữa
bây giờ chiến tranh biên giới đã tạm thời kết thúc rồi làm gì còn nguy hiểm, ác
liệt, chết chóc nữa mà phải bỏ ngũ. Tôi thấy hoang mang và băn khoăn về chuyện
này quá. Tôi hỏi lại anh Hoàng:
- Hay là hoàn cảnh gia
đình anh ấy đang có vấn đề gì khó khăn phức tạp hả anh?
- Chả có vấn đề gì đâu!
Ông ấy bỏ ngũ thật đấy, trung đoàn đã thẩm tra, xác minh chuyện này rất kỹ rồi.
Kết luận về hành động của một người sĩ quan, cán bộ trung cấp trong quân đội
phải rất thận trọng, cân nhắc kỹ. Nhưng việc này mày nghe biết thế thôi nhé,
không được nói lại cho ai nữa. Chỉ huy trung đoàn đang tìm cách xử trí việc ông
ấy bỏ ngũ. Có thể làm chế độ để cho ông ấy về phục viên. Dù sao thì ông ấy cũng
là một người lính tham gia quân đội từ thời chống Mỹ…
Tôi vẫn không thể tin việc
anh Tuấn đã bỏ ngũ là sự thật. Chính uỷ Hoàng bảo:
- Ông ấy bỏ ngũ nên những
việc ông ấy đã báo cáo trong chiến đấu cũng cần phải xem xét lại. Chuyện ông ấy từng nói về mày coi như là
không thật chính xác. Vì thế chỉ huy trung đoàn mới gọi mày lên và quyết định
cho mày về trường văn hóa của quân khu để ôn thi vào đại học. Thôi, mày ạ!
Không phát triển được trong quân đội thì gây dựng sự nghiệp ngoài xã hội. Môi
trường quân ngũ cũng có nhiều lúc nó khắc nghiệt, cam go và bạc bẽo lắm! Đồng
đội nhiều lúc sống chết có nhau nhưng cũng nhiều khi...
Anh Hoàng bỏ lửng câu nói.
Anh vỗ vai tôi vẻ an ủi.
Tôi thở phào nhưng trong
lòng không thấy nhẹ nhõm hơn chút nào. Tôi cứ bị ám ảnh mãi về việc anh Tuấn-
một sĩ quan trung cấp, một cán bộ tiểu đoàn mà lại đào bỏ ngũ. Thật chả còn
hiểu ra làm sao nữa. Thấy tôi lặng im suy nghĩ anh Hoàng cũng im lặng. Chắc anh
đang trăn trở vì chuyện này. Một lát sau anh nói với tôi như đang nói với chính
mình. Giọng anh chùng xuống vẻ xót xa:
- Bản chất người lính
chiến là thế! Sự dối trá, hèn nhát không thể giấu kín mãi được đâu, hiểu không!
***
Tôi rời Cao Bằng về xuôi
để ôn thi vào đại học. Trong đoàn cán bộ, chiến sĩ về xuôi còn có nhiều người
được cử đi đào tạo tại các trường sĩ quan. Tôi và mấy anh em nữa về trường văn
hoá của quân khu. Chúng tôi sẽ ôn tập để dự thi vào các trường đại học. Khi còn
đi học phổ thông tôi vẫn ước mơ thi vào khoa văn của trường đại học tổng hợp Hà
Nội. Nhưng sau cuộc chiến tranh biên giới này tôi lại muốn thi vào trường đại
học nông nghiệp. Tôi muốn mình thành một kỹ sư trồng lúa, trồng ngô. Tôi nghĩ
đến đồng bào biên giới thiếu đói quanh năm mà khi chiến tranh xảy ra vẫn giành
từng nắm gạo, bắp ngô cho bộ đội. Tôi nhớ đến cái đói run người, chân tay rã
rời trong những lần leo dốc hành quân. Cái đói khiến bao người lính gục ngã nơi
chân dốc núi cao trong một trận đánh không cân sức. Cái đói, cái khát đã giết
chết mấy chục cán bộ, chiến sĩ trong hang sâu khi họ bị bọn giặc đánh sập đá
núi bịt kín cửa hang.
Nghĩ đến lúc được ra quân
trở thành một sinh viên đại học tôi lại thấy nao nao trong lòng. Tôi nhớ đến
thằng Đan, thằng Nam. Hai thằng bạn thân ấy vẫn mong chiến tranh kết thúc để
được trở về ôn thi vào đại học. Đường hành quân gian khổ thế chúng nó vẫn mang
theo những cuốn sách giáo khoa để ôn tập với niềm hy vọng đến giảng đường. Vậy
mà bây giờ sau một cuộc chiến ngắn ngủi, thịt xương chúng nó đã biến thành đất
đai của tổ quốc, giấc mơ học hành thành sương khói chốn biên thuỳ. Những ngày
ngồi ôn thi ở trường văn hóa quân khu tôi luôn nghĩ đến hai người bạn ấy của
mình. Ước mơ trở thành một sinh viên đại học của hai người bạn ấy bây giờ cháy
bỏng trong tôi. Nhưng tôi có biết đâu cuộc đời thường không định trước được mọi
việc. Sắp đến kỳ thi đại học thì tôi lại được cử đi học tại một trường sĩ quan.
Cũng phải đến mấy năm sau,
một hôm được nghỉ tôi đạp xe tranh thủ về thăm nhà. Lúc đi qua thị trấn Phù Vân
tôi chợt nhìn thấy một người đang đạp xe phía trước trông có dáng vẻ quen quen.
Ông ta vừa đạp xe vừa huýt sáo một giai điệu quân hành. Một bên ghi đông cái xe
đạp tồng tộc của ông treo lủng lẳng cái thủ lợn và chiếc chân giò, một bên kia
treo xâu dồi lòng lợn. Tôi liền đạp rấn lên và nhận ra đó anh Tuấn, đại đội
trưởng đại đội 11 ngày nào. Anh Tuấn cũng nhận ngay ra tôi. Chúng tôi vui vẻ
hỏi chuyện nhau. Anh Tuấn bảo tôi rẽ vào nhà anh chơi. Tôi liền đạp xe theo
anh. Nhà anh ở ngay cạnh con đường vào sân bay quốc tế. Té ra anh Tuấn mở quán
chuyên bán cháo lòng tiết canh. Anh đi chợ mua đồ về để làm hàng.
Tôi và anh ngồi nói chuyện
với nhau khá lâu. Có lẽ anh Tuấn không biết chuyện tôi đã rõ về việc anh tố cáo
tôi trong buổi họp đảng uỷ tiểu đoàn sau chiến tranh nên anh nói chuyện có vẻ
rất tự nhiên, vô tư. Còn tôi thì chuyện cũ cũng đã qua lâu rồi, cũng chả còn
thấy bận tâm gì nhiều nữa. Cuộc chiến tranh ấy cũng đã đi qua, những vết thương
trên mặt đất đã khép lại, những nỗi đau trong lòng người cũng đã nguôi ngoai.
Tôi vui vẻ chén bát cháo
lòng nóng hổi anh Tuấn bưng ra. Có lẽ vì đang rất đói nên tôi cảm thấy bát cháo
ấy thật ngon…
***
Vài lời cuối truyện:
Gấp lại tập bản thảo cuốn
tiểu thuyết Trong vòng lửa vừa viết xong thì tôi nhận được điện thoại của một
người chính là nguyên mẫu nhân vật trong truyện. Đó là điện thoại của chính trị
viên Hoàng. Tôi mừng khi nghe giọng anh vẫn rất vang trong điện thoại vì nghĩ
là anh khoẻ. Nhưng khi hỏi thăm thì anh lại bảo:
- Hồi này mình yếu lắm,
huyết áp cao. Hôm nọ đi ăn cưới bị tăng huyết áp đột ngột, phải cấp cứu đấy!
Tôi lo lắng hỏi thăm sức
khoẻ của anh. Tôi dặn anh phải hết sức chú ý sức khoẻ, đi đến đâu nhớ luôn đem
theo thuốc đến đấy. Ngày xưa trong chiến tranh "súng ống bất ly
thân", bây giờ trong hòa bình thì "thuốc men phải bất ly túi".
Anh phì cười:
- Mày cứ yên tâm...
Yên tâm thế nào được. Lần
gặp anh tại buổi gặp mặt anh em đơn vị cũ ở quân khu 2 hơn hai năm trước tôi
thấy anh có vẻ gầy yếu hơn. Cuộc đời con người ta chả ai tránh nổi cái quy luật
khắc nghiệt của tự nhiên. Tôi cùng ở với anh Hoàng ở tiểu đoàn 3 từ thời còn
làm con đường lâm nghiệp giữa vùng rừng núi Hà Giang cho đến hết cuộc chiến
tranh biên giới phía Bắc. Ngày đóng quân giữa rừng sâu Hà Giang anh là cán bộ
chính trị mà suốt ngày có mặt trên mặt đường theo dõi bộ đội thi công mở tuyến.
Đơn vị hành quân lên Cao Bằng chuẩn bị chiến đấu. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh
anh với vẻ điềm đĩnh mỗi khi có tình huống xảy ra. Ngày ấy, tôi là một tiểu đội
trưởng. Một cán bộ cấp rất nhỏ nên tôi thường rất ngại gặp cán bộ tiểu đoàn.
Mỗi lần gặp anh tôi thường chào hỏi cho lấy lệ rồi tìm cách lảng tránh cho
nhanh. Trong mắt tôi anh là một cán bộ khắt khe, khó tính. Chả dại gì mà dây
với lửa. Tôi thường nghĩ thế mỗi lần gặp anh.
Khi chiến tranh xảy ra
thông tin hữu tuyến và truyền đạt thường bị gián đoạn do bọn địch bao vây tấn
công liên tục, đạn pháo băm nát đường dây. Là người chỉ huy mạng thông tin vô
tuyến nên tôi thường xuyên có mặt ở sở chỉ huy của tiểu đoàn. Tôi chứng kiến
nhiều tình huống xảy ra, nắm được đầy đủ diễn biến của những ngày đầu chiến
tranh. Điều tôi nhận thấy ở anh Hoàng là sự điềm đĩnh, bình tĩnh kể cả những
khi tình huống ác liệt, phức tạp nhất. Chưa bao giờ tôi thấy anh quát tháo, cáu
gắt khi chỉ huy chiến đấu. Trong khi đó thì tiểu đoàn trưởng thì luôn mồm quát
mắng các cán bộ cấp dưới khi họ chấp hành không đúng ý định, mệnh lệnh của
mình. Nhiều lúc có cả sự quát tháo vô lý nữa. Trong phần 13 của truyện dài này,
tôi có viết về việc chính trị viên Hoàng chỉ huy cuộc chiến đấu bảo vệ hang chỉ
huy tiểu đoàn trong một ngày ác liệt nhất ở Sóc Giang trong khi tiểu đoàn
trưởng Thêm "đi kiểm tra" trận địa đại đội 12 hoả lực ở trên núi chưa
về. Sự thật việc này thế nào? Tại sao tiểu đoàn trưởng lại bỏ vị trí chỉ huy
của mình từ tối hôm trước lên núi khi biết chắc là ngày hôm sau bọn địch sẽ tấn
công quyết liệt, dữ dội vào hang của tiểu đoàn.
Tôi còn nhớ ngày hôm đó
địch tấn công liên tục và rất ác liệt, pháo cùng các loại hoả lực của chúng bắn
dữ dội, khói đạn mù mịt bao trùm khắp mỏm núi sở chỉ huy tiểu đoàn. Khói lửa,
bụi đất xộc cả vào trong hang đến ngạt thở. Trong khi đó thì đại đội 10
liên tục kêu cứu vì chết hết quân, hết đạn, địch đang tràn lên trận địa. Giữa
lúc tình hình cấp bách, dồn dập như thế thì tiểu đoàn trưởng từ trên núi lại cứ
liên tục điện về sở chỉ huy hạ lệnh phải thế này, thế khác. Tôi báo cáo với
chính trị viên Hoàng nội dung các bức điện, các mệnh lệnh của tiểu đoàn trưởng.
Lúc đầu anh im lặng không nói gì. Sau thấy tôi cứ truyền đạt mãi các mệnh
lệnh của tiểu đoàn trưởng, anh Hoàng nổi cáu quát lên:
- Mặc mẹ ông ấy! Mày tập
trung vào việc giữ cho bằng được hướng liên lạc vô tuyến điện với đại đội
10 để chỉ huy và chi viện hoả lực cho nó giữ vững trận địa, chặn đội hình bọn
địch tiến vào Sóc Giang nếu không thì chết hết cả nút bây giờ!
Có lẽ đây là lần đầu tiên
tôi thấy anh Hoàng nổi cáu. Tôi im lặng chịu trận. Hình như tự nhận ra thái độ
bất thường của mình, sau một đợt tấn công của bọn địch bị đẩy lui anh gặp tôi
dịu giọng bảo:
- Ông ấy (tiểu đoàn
trưởng) ở trên núi cao thì biết đếch gì tình hình đang diễn ra ở đây mà chỉ
huy. Khi ông ấy điện xuống mày cứ nói là đã báo cáo cho chính trị viên rồi là
được.
Tôi thấy hơi lạ. Sau này
khi cùng với tôi ngồi viết bản báo cáo thành tích đề nghị phong tặng đơn vị anh
hùng anh chợt dặn: "Mày không được nói việc tiểu đoàn trưởng bỏ vị trí chỉ
huy hôm bọn địch tấn công ác liệt nhất đấy nhé!". Nghe anh dặn tôi mới
biết vì sao. Có lẽ việc này chỉ có tôi, chính trị viên Hoàng và trợ lý tham mưu
Thọ là hiểu rõ nhất. Nhưng mà thôi, mọi con người, cho dù là anh hùng, là dũng
sĩ, dù có kiên cường, dũng cảm đến đâu trước sự tàn khốc của chiến tranh cũng
không tránh khỏi có lúc nao núng, phân tâm. Cái đáng nói chính là họ có đi đến
cùng của cuộc chiến tranh ấy hay không mà thôi.
Trong chiến tranh sự dũng
cảm hay hèn nhát đều bộc lộ một cách rõ ràng. Cũng có người khéo léo, che dấu
được bản chất con người thật của mình trước cái chết. Khối kẻ sau cuộc chiến
nhận những tấm huân chương chiến công nhưng chưa chắc đã có công lao xứng đáng.
Khối người ra về tay trắng nhưng họ không phải là chả có sự đóng góp gì cho Tổ
quốc lúc gian nguy. Tôi viết vậy không phải để biện minh cho mình. Tôi không
phải là một anh hùng, tôi không dũng cảm trong chiến đấu, nhưng khi cuộc chiến
tranh xảy ra cấp trên giao nhiệm vụ gì tôi đều phục tùng, không thoái thác và
cố gắng hoàn thành. Tôi luôn nghĩ: "Đừng nên cứ kể công, hát mãi bài
ca chiến thắng làm gì, hãy nghĩ đến những người đang nằm dưới cỏ".
Trong cuộc điện thoại hơi
dài chiều nay với "chính trị viên Hoàng" tôi bỗng chợt nhớ và hỏi lại
anh:
- Hôm trước em có gặp ông
N. Em nói là anh đang ốm, cho anh ấy số điện thoại của anh. Ông ấy có điện cho
anh không?
- Không thấy?
- Sao thế nhỉ! Hôm trước,
ông ấy ghi số điện thoại của anh vào máy điện thoại của mình rồi cơ mà! Hay ông
ấy quên, để hôm nào gặp lại em nhắc...
- Thôi mày ạ!- Chính trị
viên Hoàng bảo:- Ông ấy bây giờ khác xa tao với mày rồi... Ông ấy sẽ không điện
đâu, mà mày cũng đừng có nhắc lại làm gì!
Tôi chợt cảm thấy buồn.
Trong chiến đấu ông N. này luôn được anh Hoàng giúp đỡ, động viên, ưu ái kể cả
việc không giao nhiệm vụ vào những nơi khó khăn, ác liệt, có thể hy sinh vì ông
ta là con trai duy nhất của một liệt sĩ chống Pháp. Ông này hiện là cán bộ
cấp rất cao. Biết chính trị viên Hoàng đang ốm, ông ta cũng không một lần điện thoại
hỏi thăm thủ trưởng cũ của mình. Có thể ông ta quá bận bịu công việc quan
trọng, hoặc ông ta ngại, sợ anh em chiến hữu cũ liên lạc được với nhau lại cầu
cạnh, nhờ vả gì chăng...
Nhưng thôi, xin khép lại
câu chuyện này cùng một điều trăn trở: "Có những khi trong chiến tranh cái
chết không xảy ra nhưng "cái chết trong hòa bình" vẫn đến với không
ít người đã từng là lính chiến chúng tôi".
(hết )
Cao Bằng, 2-1979
Hà Nội, 2-2014
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại- ngày
31/08/2015
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Hà Nội ngày 17.3.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét