Lại bàn về Tống Biệt Hành – Bài viết Phạm Đức Nhì (Texas USA)
Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015
Cách đây không lâu anh Nguyễn Khắc Phước có
thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn Nghệ Quảng Trị, một trang thuần
túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời tôi có bỏ ra vài buổi dạo qua
trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để ý đến những cây bút phê bình
văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm được cảm tình của tôi với
cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet) Tác giả Phạm Đức Nhì
Họ tên thật Phạm Đức Nhì
Quê quán: Việt Nam
Hiện
định cư tại Galveston, Texas
Email: nhidpham@gmail.com
_____
*Trao đổi với nhà văn Châu Thạch
Cách đây không lâu anh Nguyễn Khắc Phước có
thư riêng mời tôi cộng tác với trang web Văn Nghệ Quảng Trị, một trang thuần
túy văn học nghệ thuật. Trước khi nhận lời mời tôi có bỏ ra vài buổi dạo qua
trang web. Là người làm thơ và bình thơ nên tôi để ý đến những cây bút phê bình
văn học và những bài viết của Châu Thạch đã chiếm được cảm tình của tôi với
cung cách đứng đắn lịch sự, lời văn hòa nhã.
Hôm nay đọc được bài Đọc Tống Biệt Hành Thơ
Thâm Tâm của anh trên Văn Nghệ Quảng Trị (và Văn Đàn Việt) trong đó anh có nhắc
đến mấy đoạn trong một bài viết – cũng về Tống Biệt Hành - của tôi nên xin phép
được trao đổi với anh trong tinh thần “bạn văn” cùng viết trên một diễn đàn văn
học.
Sau đây là những đoạn trong bài viết của
tôi được anh đề cập:
1/
Anh nhắc đến hai đoạn thơ:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót
Ta biết người buồn sáng hôm nay:
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
rồi anh viết: Đoạn này có tác giả bình thơ
nhận xét rằng “không những tầm thường mà lạ còn hơi ‘sến’ nữa.” Theo anh thì: “Lời thơ kể lể ở đây
không phải ‘tầm thường’, không phải ‘sến’ mà nó là dàn nhạc trầm lặng da diết,
sau khúc nhạc gầm thét diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật.”
Theo
tôi, hai đoạn thơ đã có những khuyết điểm sau đây:
- Nói chuyện “chiều hôm trước” mà dùng trạng
từ chỉ thời gian “Bây giờ” là không chính xác. Muốn chính xác, muốn hay,
phải dùng từ khác.
- So sánh “sen nở nốt” với “dòng lệ sót” rất
khập khiễng. Những bông sen nở cuối mùa và dòng lệ còn sót lại của mấy người
chị vừa khóc vừa khuyên em, hai hình ảnh đó quá xa cách, không tương hợp. Phép
“ẩn dụ” không hay.
- Chữ “dòng” trong cụm từ “dòng lệ sót” giảm
giá trị của chữ “sót”.
- “Giời chưa mùa thu tươi lắm thay” là
một câu thơ “vô tích sự” bởi nó lạc lõng, thừa thãi, không ăn nhập gì với cả
đoạn thơ.
- Đọc hai câu:
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay
tôi tưởng tượng trước mắt mình một em nhỏ,
đôi mắt ngây thơ tròn xoe nhìn người anh sắp đi xa, tay cầm chiếc khăn tay như
muốn gói trọn thương tiếc trong lòng mình vào đấy. Ôi! Hình ảnh ấy vừa khô
cứng, vừa “cải lương”, lại vừa không thật; ngây thơ đôi mắt biếc như em nhỏ thì
biết gì mà thương với tiếc; chữ “tiếc” ở đây hoàn toàn sai.
Trên đây là một vài chi tiết khiến tôi đưa
ra nhận xét là hai đoạn thơ “không những tầm thường mà lại còn ‘sến’ nữa.” Anh
Châu Thạch cho đó “là dàn nhạc trầm lặng da diết, sau khúc nhạc gầm thét
diễn tả nỗi đau trong lòng nhân vật” là quyền của anh. Tôi dành sự phán xét
sau cùng cho độc giả.
2/ Vế chót của bài
thơ như sau:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi
như chiếc lá bay
Chị thà
coi như là hạt bụi
Em thà coi
như hơi rượu cay
Có người cho rằng vế thơ này “quá cứng
cỏi, lạnh lùng và vô tình.” Theo anh thì: “Thật ra đây là một vế thơ rất
hay, nó cho thấy bút pháp tài hoa của tác giả.”
Tôi
không nghĩ như vậy. Trên bề mặt chữ nghĩa 3 câu cuối rõ ràng là cứng cỏi, lạnh
lùng và vô tình. Hơn nữa, đó không phải là tâm trạng, cách suy nghĩ của chính
người ra đi nói ra mà chỉ là sự võ đoán của người đưa tiễn. Cho nên nếu nói đến
giá trị nghệ thuật thì mấy câu thơ ấy chỉ như là rượu giả, khó làm vừa lòng
những tay sành rượu.
3/ Hoài
Thanh không ưu ái với nhà thơ Thâm Tâm mà Hoài Thanh chọn Tống Biệt Hành để đưa
vào Thi Nhân Việt Nam với sự công tâm đánh giá nghệ thuật như bao bài thơ của
các tác giả khác thời bấy giờ. Uy tín của Hoài Thanh đủ khẳng định cho Tống
Biệt hành có giá trị nghề thuật cao.
Tôi đồng
ý với anh Châu Thạch là TBH phải hay, phải có giá trị nghệ thuật ở mức độ nào
đó, phải hợp “gu” với Hoài Thanh thì mới được ông tuyển chọn đưa vào Thi Nhân
Việt Nam. Nhưng được Hoài Thanh tuyển chọn lại là con dao hai lưỡi. Thời gian
qua đi, cách nhìn nhận và đánh giá thơ ca thay đổi, uy tín của Hoài Thanh - đặc
biệt lúc ông còn sống - khiến người yêu thơ e ngại khi phải đưa ra những ý kiến
trái ngược hoặc khác với nhận định của ông. “Sợ” uy quyền của ông cũng có nhưng
cái sợ lớn nhất là sợ bước vào một trận chiến không cân sức với một đối thủ quá
mạnh. Anh Châu Thạch còn viết rằng: “Truyện
Kiều của Nguyễn Du mà còn có người dám chỉnh sửa lại thì Tống Biệt Hành là cái
gì mà 75 năm qua mọi người nhắm mắt tán tụng nó theo Hoài Thanh.” Theo tôi,
chỉnh sửa một điểm nào đó trong truyện Kiều không khó vì không bị đè nặng bới
một sức ép chính trị tâm lý nào. Miễn là anh có kiến thức rộng về văn học, thơ
ca và đủ tự tin để viết. “Đụng” vào TBH là “đụng” vào cả một chính sách lớn của
nhà nước trong hoàn cảnh chiến tranh, lúc người chống lưng cho nó vừa có văn
tài, vừa có quyền uy ngất ngưởng trong lãnh vực bình phẩm văn chương.
4/ Chình quyền miền Bắc và miền Nam trước 1975
có hàng vạn bài thơ phục vụ cho chế độ mình trực tiếp và cụ thể, đâu cần chi
một bài thơ Tống Biệt Hành nói về một sự ra đi vu vơ không mục đích rõ ràng.
Những bài
thơ viết để trực tiếp phục vụ chế độ (ở miền nam có một số bản nhạc như vậy
nhưng thơ thì không nhiều), đọc lên đã sặc mùi tuyên truyền. Tác giả loại thơ
này thường là người nằm trong bộ máy chính quyền, chức vụ không cao, viết vì
công việc, vì “cái ghế”, vì miếng cơm manh áo. Cả tác giả lẫn tác phẩm đều bị
coi thường, khinh rẻ. Thậm chí đọc phải những bài thơ này có người còn bực bội
chửi thề ngay cả trước mặt công chúng. (Con số hàng vạn của anh Châu Thạch tôi
e rằng quá lố).
Chỉ có những bài thơ tác giả có tay nghề
cao, viết bằng trái tim mình, bày tỏ cảm xúc thật của mình nhưng ý tứ của bài
thơ lại tình cờ phù hợp với đường lối, chính sách của chính phủ nên được phổ
biến trong quảng đại quần chúng. Vâng! Chính những bài thơ ấy mới hấp dẫn người
đọc, mới thôi thúc người đọc đi theo, làm theo tiếng gọi của tứ thơ (hoặc ý
thơ). TBH nằm trong số những bài thơ ấy.
5/ Bài thơ
được đưa vào nhà trường tức là được chọn lọc. Thêm một lần nữa khẳng định giá
trị nghệ thuật cao của bài thơ. (Điều này
không phải lúc nào cũng đúng.) Nhiều
năm qua kể từ khi bài thơ được giảng dạy đến nay, không có dư luận nào chê
trách việc giảng dạy Tống Biệt Hành. Điều đó chứng tỏ giá trị nghệ thuật
của Tống Biệt Hành được đánh giá đúng nên không có sự phản hồi, phản bác,
đối nghịch trong công luận.
Vào
trường học là có giáo án, thi cử. Thử hỏi có học sinh nào dám đem tương lai của
mình để đánh đổi lấy một cơ hội được phản bác điều mình được dạy trong trường
lớp? Có thầy, cô giáo nào dám dạy sai giáo án để phí công bao năm đèn sách ở
các trường cao đẳng hay đại học sư phạm. Vả lại, nếu người phản bác không có
thực tài, không chọn đúng thời điểm có phong trào, có cách nhìn nhận, đánh giá
thơ ca mới, không có sự hỗ trợ của một vài nhân vật có chức quyền trong ngành,
những ý kiến phản bác sẽ như muối bỏ bể, rơi vào quên lãng.
**Giá Trị
Nghệ Thuật Của Tống Biệt Hành
1/ Khuyết điểm:
Ngoài những khuyết điểm ở hai đoạn thơ nói
về chị và em TBH còn có những yếu kém sau đây:
- Câu “Đưa người ta chỉ đưa người ấy”
có vẻ ngây ngô và đóng góp rất ít cho bài thơ.
- Cái
dở nhất của TBH, theo tôi, là có nhiều đoạn người ra đi không được bày tỏ trực
tiếp mà cảm xúc, tâm trạng của anh ta lại do người tống biệt võ đoán và nói hộ.
Độc giả có cảm giác như được Thâm Tâm mời đến thưởng thức món thuốc lá gia
truyền rất ngon, nhưng khi gặp nhau thì chỉ được hút một, hai hơi; sau đó là
ngồi ngửi khói (hút gián tiếp). Lời khuyên “Làm thơ nên viết ở ngôi thứ nhất”
đã bị vi phạm mà không có lý do chính đáng.
2/ Ưu điểm:
Dù vậy TBH cũng vẫn là một bài thơ hay. Chỉ
với 4 câu đầu tác giả đã khắc họa một cách tài tình tâm trạng của người đưa
tiễn – và với khả năng quan sát tinh tế, đã “bắt” được nỗi buồn của người ra
đi:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng
sóng ở trong lòng
Bóng chiều
không thắm không vàng vọt
Sao đầy
hoàng hôn trong mắt trong
Để tả
cảnh chia ly 4 câu thơ này có thể hiên ngang đọ sức với bất cứ câu thơ hay nào
của bất cứ tác giả nào trong Phong Trào Thơ Mới.
Cái độc đáo nữa của TBH là Điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi, gân guốc,
không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. (1)
Đứng bên cạnh những bài thơ có âm điệu du
dương như hầu hết thơ mới thời ấy TBH có dáng dấp độc đáo, gây được sự chú ý
ngay từ hình thức bề ngoài của bài thơ.
Cái hay nhất của TBH là - mặc dù nhân vật
và khung cảnh khác xa nhau – đã gợi được không khí hào hung, bi tráng của cuộc
chia ly nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa: Thái Tử Đan tiễn Kinh Kha sang sông
Dịch để ám sát Tần Thủy Hoàng. Người đọc, đặc biệt là nam nhân, cảm thấy hào
khí bốc lên cao ngất, thân này kể bỏ, gia đình (mẹ, chị và em) cũng coi như
không có, vì lý tưởng, vì nước quyết ra đi để thỏa mãn chí lớn của người trai.
Chí
lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba
năm mẹ già cũng đừng mong.
Tôi
hoàn toàn đồng ý với Châu Thạch khi anh viết: “Đoạn nầy
ý nói người ra đi sẽ không quay về khi chí lớn chưa thành, dầu mẹ có chết ba
năm sau ngày giáp cử cũng không về để tang mẹ được. Những câu thơ ở vế thơ nầy
thật rắn rỏi nêu lên sự quyết tâm của người ra đi vì chí lớn. Lời thơ như hịch
xuất quân, như lời thề non nước.”
Tóm lại,
nếu đặt ưu và khuyết điểm lên bàn cân thì TBH vẫn là một bài thơ hay. Ưu điểm
rất độc đáo và gây được ấn tượng sâu sắc nơi người đọc. Có những đoạn thơ
thường được ngâm nga trong những buổi họp mặt của thanh niên trước lúc lên
đường. Nhưng khuyết điểm cũng không ít trong đó có cả khuyết điểm căn bản trong
việc sáng tác thơ ca.
Riêng về tứ thơ thì tôi cho
rằng tứ thơ của TBH là một thứ dây leo chùm gởi, phải nhờ vào cái bóng của một
“khung cảnh lịch sử” ở tận bên Trung Quốc để có được sức hấp dẫn người đọc như
nó đã có. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, rượu trong bữa tiệc thơ TBH là rượu
giả; cảm xúc (ngoài hai câu đầu) không phải là thứ “tông” phát xuất từ
chính trái tim người tống biệt mà chỉ là cảm xúc của người ra đi được người
tống biệt đoán ra. Khách mời của bữa tiệc TBH tưởng như mình sắp sửa qua sông
Dịch để cứu muôn triệu dân lành. Rót rượu đầy ly, nâng cao và hô một tiếng
“dzô” thật lớn rồi uống cạn để thấy hào khí trong người mình dâng lên cao ngất.
Đến khi tỉnh dậy sau cơn say khướt, thấy nhức đầu một cách khó hiểu nhưng cũng
không biết là mình uống phải rượu giả, toàn nước lã pha cồn.
Hồ Trường (Nguyễn Bá Trác) thì hoàn toàn
khác. Khung cảnh thật, rượu thật, tâm sự được chính tác giả thốt ra trong lúc
ngà ngà say, không có bàn tay “gạn đục khơi trong” của lý trí nên cũng rất
thật. Và hào khí, thì dù người đọc có say hay tỉnh, cũng thấy bốc cao ngất trời
và nóng bỏng.
Trong trò chơi bình thơ, với tôi, chê lầm
một câu (bài) thơ hay hoặc khen lầm một câu (bài) thơ dở là một lỗi nặng, ảnh
hưởng đến uy tín của người bình thơ. Tuy nhiên, ở đời ai chẳng có lúc lỗi lầm?
Miễn là sau đó mình cố gắng học hỏi và sửa chữa. Nhưng bình một bài thơ mà – vì
một lý do nào đó ngoài thơ - thấy một điểm hay mà không dám khen, thấy một điểm
dở mà không dám chê thì theo tôi, là một cái tội, tội với lương tâm mình và tội
với thơ. Cho nên khi bình thơ, tôi khen chê thẳng thắn đúng với sự hiểu biết và
cảm nhận của mình lúc đó. Vì thế bài viết của anh Châu Thạch đã cho tôi cơ hội
đọc kỹ lại Tống Biệt Hành và giải thích thêm một số chi tiết mà tôi – vì muốn
hướng sự chú ý của độc giả vào những điểm chính – đã bỏ qua. Và chuyện đúng sai
xin nhường cho độc giả phán xét.
Với bài thơ TBH anh Châu Thạch và tôi có
vài chỗ ý kiến khác nhau. Đó cũng là chuyện thường tình trong bình phẩm thơ ca.
Trong Văn Nghệ Quảng Trị anh Châu Thạch có số bài gấp nhiều lần số bài của tôi.
Anh là cựu binh, còn tôi là lính mới. Cũng may là trên chốn văn chương nên tôi
mới dám mạnh dạn trao đổi với anh. Qua hai bài viết, một của anh và một của
tôi, xin được nói riêng với anh Châu Thạch, cả hai chúng ta đều có lợi. Và biết
đâu những độc giả đọc bài của chúng ta cũng đang rung đùi, gật gù khoái chí.
Galveston, Texas 10/18/15
----
Chú
thích:
1/ Chữ
của Hoài Thanh
----
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ USA ngày 19.10.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Tất nhiên một bài thơ có người thích có người không thích đó là chuyện bình thường. Chỉ có điều nếu một bài thơ nổi tiếng tồn tại gần 100 năm trong lòng người đọc thì nếu có ai không thích thì trước tiên phải nghĩ rằng " Có lẽ trình độ thẩm thơ của mình chưa đủ" mà phải rất cẩn thận khi phê bình.
Trả lờiXóaKhông thể buộc một nghệ nhân chèo thấy đươọc cái hay của nhạc giao hưởng.
Tôi có đọc bài bình của Châu thạch tiếc rằng châu thạch chưa nói được cái hay của bài thơ bài viết không đủ tầm so với một bài thơ nổi tiếng. Nhưng bài phê bình của Anh Phạm đức Nhì lại là một bài cân đong thơ bằng cái cân , cái thước khô cứng .
Bài tống biệt hành là một bài thơ hay, rất hay và đặc sắc của phong trào thơ mới . Để cảm nhận nó phải là những người có sự liên tưởng bay bổng và có một vốn văn hóa cũng như vốn sống phong phú. Một sự mẫn cảm đầy tinh tế với văn chương mới có thể cảm thụ nổi. Còn nếu chỉ chẻ bài thơ lần lượt từ trên xuống theo kiểu mổ bò thì khổ cho Thâm tâm quá