Châu Thạch: Đọc “đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” thơ Trần Trung Đạo (USA)
Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015
Có người không tâm đắc với cai đầu
đề bài thơ là “Đổi cả thiên thu tiếng
mẹ cười” vì cho rằng làm chi ai có được thiên thu để đổi tiếng mẹ cười, và dẫu tác
giả sống được 1000 năm chăng, thì có chịu chết đi để nghe tiếng mẹ cười hay không?
Lấy cái không có mà đổi cái có thì chỉ là nói cho vui cửa miệng mà thôi.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
ĐỌC “ĐỔI CẢ THIÊN THU
TIẾNG MẸ CƯỜI” THƠ TRẦN TRUNG ĐẠO
Châu Thạch
ĐỔI CẢ THIÊN THU TIẾNG MẸ CƯỜI
(Thơ Trần Trung Đạo)
Nhắc
chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng
ai như tiếng lá thu rơi
Mười
năm Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ
biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy
con đi chẳng hẹn thề
Ngựa
rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười
năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng
cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn
ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời
gió tạt với mưa tuôn
Con đi
góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa
cho đời tan khói sương
Tiếng
Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng
Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa
xôi quá làm sao vói
Biết
đến bao giờ trông thấy nhau
Đừng
khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm
ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau
thương con viết vào trong lá
Hơi ấm
con tìm trong giấc mơ
Nhắc
chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả
tiếng mưa rơi
Ví mà
tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười./.
Trần
Trung Đạo
(Trần Trung Ðạo quê quán Duy Xuyên, Quảng
Nam. Cựu học sinh Trung Học Trần Quí Cáp, Hội An. Cựu sinh viên đại học Luật
Khoa và Vạn Hạnh, Sài Gòn).
Lời bình
Châu Thạch
Có người không tâm đắc với cai đầu đề bài thơ
là “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” vì
cho rằng làm chi ai có được thiên thu để đổi tiếng mẹ cười, và dẫu tác giả sống
được 1000 năm chăng, thì có chịu chết đi để nghe tiếng mẹ cười hay không? Lấy cái
không có mà đổi cái có thì chỉ là nói cho vui cửa miệng mà thôi. Đúng thế nếu
hiểu theo một cách thực dụng. Nhưng nói đi cũng phải nói lại. Đọc thơ thì phải
biết ngôn ngữ thơ có khác, mới hiểu được hết cái hay tiềm ẩn trong từng câu, từng
chữ của thơ.
Ông bà ta có câu “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” hiểu là một ngày ở trong tù dài
như ngàn năm ngoài đời. Vậy thì một ngày hay một ngàn năm ở đây đều là thời
gian tâm lý, không phải thứ thời gian mà chúng ta sống bằng hít, thở. Nếu nói một
ngày bằng một ngàn năm thì ngàn năm là thời gian tâm lý, ngược lại nói ngàn năm
bằng một ngày thì một ngày là thời gian tâm lý. Cũng thế, nhà thơ Trần Trung Đạo
dùng chữ “thiên thu” cho cái đâu đề “Đổi
cả thiên thu tiếng mẹ cười” cũng là thời gian tâm lý. Thời gian tâm lý thì
tuỳ theo tâm trạng của mỗi người, mỗi hoàn cảnh nên chữ “thiên thu” ở đây không
tính bằng năm, tháng được, chỉ biết là nó lâu dài đối với tác giả mà thôi.
Cũng xin bàn thêm đôi chút về chữ “thiên
thu”. Ta biết một năm có 4 mùa. Mùa xuân là mùa vui nhất nhưng không phải là đẹp
nhất. Mùa thu mới là mùa đẹp nhất vì nó bình tịnh và an lạc. Ở đây nhà thơ dùng
chữ “thiên thu” không phải là 1000 năm của thời gian mà mục đích để chỉ sự bình
tịnh, an lạc dài lâu trong tâm hồn mình, và sự bình tịnh an lạc đó ông sẳn sàng
chịu mất đi để đổi lại nghe được tiếng mẹ cười, nghĩa là biết được mẹ mình đang
hạnh phúc. Vì thế nhà thơ không dùng chữ “thiên niên” mà dùng chữ “ thiên thu” cũng
hàm xúc một ý nghĩa sâu xa.
Bây giờ hãy đi vào vế một của bài thơ:
Nhắc
chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng
ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm
Mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết
âm thầm thương nhớ thôi.
Có ai nghe được tiếng lá thu rơi không? Lưu
trọng Lư nghe được tiếng lá rơi mùa thu: “Anh
nghe chăng mùa thu/ Lá thu rơi xào xạc”. Đó là tiếng lá rơi của cả một khu
rừng, còn tiếng mẹ không thể là một khu rừng mà chỉ như là một chiếc lá rơi thôi.
Một chiếc lá rơi thì làm sao nghe được nếu không phải chỉ là sự rung động trong
cõi lòng mình khi nghe âm thanh mẹ nói.
Tác giả dùng chữ “tiếng ai” để chỉ về tiếng Mẹ.
Chữ “ai” thông dụng để chỉ người xa lạ nhưng chữ “ai” cố ý trong văn chương thì
lại chỉ người thân thương nhất. Người thân thương ấy có tiếng nói như “lá thu rơi”.
Lá thu rơi thì nhẹ nhàng, êm ái và buồn vô cùng đối với những tâm hồn nhạy cảm.
Chỉ một câu thơ “Tiếng ai như tiếng lá
thu rơi”
thôi, Trần Trung Đạo đã làm cho một vế thơ vốn khô khan vì kể lể trở nên ướt át,
đậm đà và bàng bạc một nỗi buồn vời vợi vì chất chứa trong đó âm thanh của tiếng
mẹ cùng tiếng lá thu rơi. Khi nghĩ đến “ tiếng lá thu rơi” người đọc liên nghĩ
cả một bầu trời thu và từ đó lại liên nghĩ tiếng nói êm ru của mẹ, dáng dấp âm
thầm của mẹ trong khung cảnh u buồn.
Vế thứ hai của bài thơ có âm điệu trầm bổng của
phong cách thơ thời xưa nhưng hoàn cảnh lại khác nhiều với những bài thơ nói đến
sự chia ly:
Buổi ấy
con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng
xưa lạc lối sơn khê
Mười năm
tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả
lòng con lúc nghĩ về
Khác
chăng là tác giả diễn tả trong vế thơ nầy một sự ra đi uất ức. “Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề” là một sự
ra đi đành đoạn, không hẹn ngày quay lại. Con ngựa rừng mà lạc lối sơn khê là một
sự vô lý. Vậy mà ở đây “Ngựa rừng xưa lạc
lối sơn khê” là có thật. Ngựa mà lạc lối trong rừng mình đang ở thì nó đang
chịu sự xua đuổi, bức bách đến hoản loạn mới phải lạc cả lối đi về quen thuộc. Ngựa
rừng ở đây đã xa mẹ 10 năm và trong mười năm ấy tóc mẹ, lòng con đều trắng. Tóc
mẹ trắng là vì gian khổ, vì tuổi già nhưng lòng con cũng trắng bởi vì sao? Có
người cho rằng chữ “trắng” thứ hai rất phũ phàng, nó cho biết “trắng” nghĩa là
không có chút thương nhớ, không có chút u
buồn nào cả. Không phải thế đâu. Chữ “trắng” thứ hai có thể xem là màu trắng của
một chiếc khăn tang. Khi mẹ chết thì đội chiếc khăn tang trên đầu, nhưng mẹ chưa
chết mà xem như đã biệt ly thì để chiếc khăn tang trắng trong lòng mỗi khi nhớ
mẹ là hình ảnh đau thương sống động. Chữ “trắng” thứ hai diễn tả hết nỗi
trống vắng trong lòng. Trống vắng vì không có tiếng nói của mẹ, không có mùi thơm
của mẹ, không có bất cứ cái gì mà mẹ đã lấp đầy màu sắc tươi đẹp trong lòng tác
giả từ một thuở xa xưa.
Qua vế thơ thứ ba và thứ tư tác giả như thỏ
thẻ với mình và với mẹ:
Mẹ vẫn
ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời
gió tạt với mưa tuôn
Con đi
góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa
cho đời tan khói sương
Tiếng
Mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng
Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa
xôi quá làm sao vói
Biết
đến bao giờ trông thấy nhau
Trong vế thơ trên ta thấy hình ảnh “người song cửa, kẻ chân mây” trong “Chinh Phụ
ngâm” được biến hoá thành một bức tranh ảm đạm sinh động với hình ảnh người mẹ ngồi “đan một nỗi buồn” bên song cửa có “gió tạt
với mưa tuôn” và người con “đi góp lá nghìn phương” để “đốt lửa cho đời”. Cũng
dùng hình ảnh đó, hình ảnh “kẻ song cửa, người chân mây” nhưng vế thơ đã làm trùm
lên không gian và thời gian không phải là nỗi buồn sâu lắng có chút thi vị của
thời xa xưa mà là trở nên khắc khỏi một nỗi đau của sự chia lìa mẹ, con.
Qua vế thơ dưới tác giả đã nghe tiếng mẹ “như tiếng chiêm bao” và muốn vói tay tìm
mẹ nhưng “Xa xôi quá làm sao vói tới”.
Những tứ thơ nầy làm cho mẹ trở thành mong manh quá đổi, mà mẹ càng mong manh
thì nỗi xót thương trong ta càng trĩu nặng.
Qua vế thơ thứ năm như sau:
Đừng
khóc Mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm
ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau
thương con viết vào trong lá
Hơi ấm
con tìm trong giấc mơ
“Ngậm ngùi con sẽ dấu
trong thơ”
là đúng, “hơi ấm con tìm trong giấc mơ”
là đúng, nhưng tại sao “Đau thương con viết
vào trong lá”? Sao không nói đau thương con dấu ở trong tim? Viết vào trong
lá để làm gì?. Muốn hiểu câu thơ nầy ta thử đọc một ca khúc trong bài ca “Thu Sầu”
của nhạc sĩ lam Phương: “Trên cao bao vì
sao sáng/ Rừng vắng có bao lá vàng/ là bấy nhiêu sầu”. À, hoá ra nhạc sĩ
lam Phương dùng số nhiều của lá vàng để gắn kết nỗi sầu của mình lên đó. Trần
Trung Đạo cũng vậy, ông không chỉ viết đau thương lên lá vàng mà viết đau thương
lên cả lá xanh, nghĩa là trên đời có bao nhiêu lá thì ông có bấy đau thương vì
xa cách mẹ. Một con én có thể làm nên mùa xuân thì một câu thơ cũng có thể làm
lung linh đẹp cả một bài thơ vậy.
Vế chót của bài thơ là toát yếu bài thơ và tác
giả nhấn mạnh suy tư của mình, làm cho bố cục bài thơ vô cùng chặc chẻ như một
bài luận văn mẫu ở chốn học đường:
Nhắc
chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng
buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà
tôi đổi thời gian được
Đổi
cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Ở vế chót nầy tác giả dùng câu “Ví mà tôi đổi
thời gian được” đề bổ nghĩa cho câu “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” dễ làm cho
người đọc suy luận thời gian ở đây là thời gian vật lý, nghĩa là thời gian một
ngàn năm có thật. Điều nầy cũng không có chi là nghịch lý, vì nếu tác giả có được
thời gian vật lý trong tay thì có bao giờ ông đợi được 1000 năm mới chịu đem đổi
lấy niềm vui của mẹ, hay là thời gian tâm lý trong lòng đã thôi thúc ông đi đổi
ngay để lấy niềm vui cho mẹ sưởi ấm lòng ông. Vậy chỉ nên xem nhà thơ dùng thời
gian như một thể “Tỷ” trong ca dao, các ý tứ không nằm trong lời nói mà nằm
trong cảm nhận của con người./.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 12/11/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét