Hồn cố quận trong thơ Trúc Thanh Tâm – Bài viết Hai Trầu
Thứ Ba, 3 tháng 11, 2015
Trên bước đường lưu lạc, đôi lúc chúng ta trôi nổi theo dòng đời
bất tận và có lúc mỗi người trong chúng ta có lẽ ai ai cũng đã hơn một lần bồi
hồi nhớ lại nơi chôn nhau cắt rún của mình với những ngày thơ ấu; hoặc đôi khi
mình lại nhớ về các vùng đất cũ một thời, hay những bến bờ mình ghé lại một đôi
lần với biết bao kỷ niệm vui buồn, nhưng rồi lại thôi; nếu có dịp kể lại những
kỷ niệm qua những ngày lang bạt ấy, thì cũng chỉ để kể lại trong những lúc gặp
gỡ, sum vầy, mấy ai làm thơ ghi dấu những chặng đường!
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Trúc Thanh Tâm
Họ tên: Dư Thanh Tâm
Sinh năm 1949, tại Long Mỹ Cần Thơ
Quê gốc Cà Mau
Địa chỉ: 287 đường Louis Pasteur, Châu Đốc
Điện Thoại: 0903 643 751
Email: tructhanhtaam@yahoo.com
_____
HỒN CỐ QUẬN
HỒN CỐ QUẬN
TRONG THƠ
TRÚC THANH TÂM
Trên bước
đường lưu lạc, đôi lúc chúng ta trôi nổi theo dòng đời bất tận và có lúc mỗi
người trong chúng ta có lẽ ai ai cũng đã hơn một lần bồi hồi nhớ lại nơi chôn
nhau cắt rún của mình với những ngày thơ ấu; hoặc đôi khi mình lại nhớ về các
vùng đất cũ một thời, hay những bến bờ mình ghé lại một đôi lần với biết bao kỷ
niệm vui buồn, nhưng rồi lại thôi; nếu có dịp kể lại những kỷ niệm qua những
ngày lang bạt ấy, thì cũng chỉ để kể lại trong những lúc gặp gỡ, sum vầy, mấy
ai làm thơ ghi dấu những chặng đường!
Nhưng với
nhà thơ Trúc Thanh Tâm thì lại khác, dường như trong thơ ông mà tôi đã có dịp
đọc trong suốt ba năm qua trên trang nhà Thất Sơn-Châu Đốc, kể từ ngày tác giả
góp mặt nơi trang báo trên internet này, là một dấu tích những nơi ông đi qua,
những chỗ mà ông có lần ghé lại là cả một danh sách dài những miền cố thổ mà
tác giả luôn khắc ghi trong lòng tha thiết, chân tình…
Nào là
Sài-Gòn qua từng nỗi nhớ, nào là với La-gi (Phan Thiết) một bận về, và nào là
Nha Trang với một trận mưa chiều, Đà Lạt trong khói sương mù; thêm nữa chúng ta
bắt gặp những Gò Công, Cần Thơ, Trà Vinh, Bạc Liêu … với biết bao lưu luyến! Cứ
thế, cứ thế, qua hơn ba năm dài ấy, Trúc Thanh Tâm đã mang đến cho người đọc
biết bao những mẩu chuyện đời, cùng những mối tình lãng mạn một thời tuổi trẻ
với biết bao nỗi niềm của riêng mình hầu trang trải cùng mọi người dường như
miên man bất tận… Trong bài viết ngắn này, chúng tôi muốn cùng bạn dừng lại vài
nơi chốn quen thân của vùng đất An Giang-Châu Đốc mà dường như tác giả Trúc
Thanh Tâm muốn thiết tha chia sẻ cùng người đọc, trong đó có bạn và tôi nữa.
Trước
hết, với địa danh Châu Đốc, nơi mà nhà thơ đang ở là một tên gọi như không bao
giờ Trúc Thanh Tâm quên được. Xin mời bạn nhìn lại vài nét chấm phá về một vùng
đất cũ khá quen thân ấy dưới ngòi bút của một nhà thơ:
“Anh về Châu Đốc nghe em kể
Mà thương con nước rẽ ba dòng
Đường Đất Cúng, con kinh Vĩnh Tế
Chùa Bà Bài nằm kế bờ sông!
Đầu Bờ, Bến Vựa rồi Bến Đá
Núi Sam phượng nở tới đỉnh cao
Nhìn xuống ruộng đồng xanh bát ngát
Không khí trong lành thêm nhớ nhau!
Chiều xuống Cầu Quan nghe sông hát
Kinh Ông Cò, đường lá me bay
Cây Bồ Đề mang từ Ấn Độ
Cầu sắt An Biên thương nhớ ai!
Trường Đua, anh thở hồn hương lúa
Thoại Ngọc Hầu mở đất, chưa vơi
Chùa Bà vẫn khói nhang nghi ngút
Tiếng chuông ngân, ngộ đạo và đời!”
(Châu Đốc)
Với Cầu
Quan, Kinh Ông Cò, tiếng gió vờn qua xào xạc cành lá Bồ Đề, cầu sắt An Biên …,
tác giả đã đưa bạn trở về thuở ấy với một Châu Đốc ngày nào! Chẳng những thế,
tác giả còn muốn nắm tay bạn dắt bạn về qua Cồn Tiên với chút sương mù, hoặc
nơi cố quận Tân Châu với buổi ban đầu tay nắm lấy bàn tay:
“Nắng gượng thở, mây thả hồn trên núi
Lá bồ đề reo tiếng phạn vi vu
Ba nhánh sông, phù sa như tươm mật
Phía Cồn Tiên, huyền ảo chút sương mù!
Quê lụa Tân Châu, mùa xuân khép nép
Bỗng thèm thương màu áo tím sen bay
Và lòng anh ngập tràn mơ ước cũ
Buổi ban đầu, tay chẳng muốn rời tay!“
(Châu Đốc
một tình yêu)
Hoặc:
“Con nước sông Tiền già hơn trước
Đàn chim tung cánh lửng lơ trời
Hàng cây xanh ngát thời con gái
Kỷ niệm trong đời em với tôi!
Sáng nay nắng lụa vàng óng ánh
Long Sơn nhớ mãi một thời xa
Đi qua cầu sắt ngang chợ cũ
Vẫn chưa quên được Lãnh Mỹ A!”
(Quê lụa Tân
Châu)
Qua vài
nét sơ lược về tiểu sử của tác giả, Trúc Thanh Tâm dù chào đời ở Chương Thiện,
quê gốc tận Cà Mau, nhưng với Châu Đốc quê em lại là nơi vấn vương hoài trong
tâm hồn thi sĩ:
“Cám ơn Châu Đốc chưng diện
Để em ra phố những chiều
Cám ơn Núi Sam lễ hội
Chúng mình có dịp bên nhau!
Cám ơn dòng kinh Vĩnh Tế
Con đường Vĩnh Phú thân quen
Gió ơi, gởi giùm ta nhé
Ân tình, nỗi nhớ về em! “
(Về Châu Đốc quê em)
Nhắc đến
Châu Đốc, Trúc Thanh Tâm không quên nhắc dãy núi Thất Sơn sừng sững một vùng
biên giới phía Tây Nam đất Việt. Nào là đồi Tức Dụp, Hang Dơi, Thủy Đài, Thiên
Cấm cùng những tên gọi thiêng liêng của cả một vùng đất có núi có mây, có trăng
có nước huyền bí ở mọi thời:
“Em từ chén ngọc đánh rơi
Xuống đồi Tức Dụp, cứ ngồi chờ trăng
Phụng Hoàng, điện Kín hóa than
Gặp ta để mối nợ trần vấn vương!
Ngũ Hồ, đêm vẫn mờ sương
Ta vờ quên mất nỗi buồn đang rơi
Em nghe trộm tiếng ai cười
Từ trong ký ức vọng lời tri âm!
Long hoa bảy sắc phù vân
Thuyền em như đã đến gần bến mơ
Ta nhìn Thiên Cấm trăng tơ
Dáng em lồ lộ bài thơ diệu kỳ!
Rượu trần ai, cứ nâng ly
Để cho đời vẫn còn si dại đời
Thủy Đài dao động, tình ơi
Thì ra tất cả để rồi, đáng yêu!
Hang Dơi, mỏi mắt trông theo
Đêm reo tiếng vạc, em reo tiếng long
Ngọa Long, mười điện nhớ mong
Em như chim sáo sổ lồng về đây!”
(Thất Sơn huyền
thoại)
Nhắc đến Bảy
Núi, có lẽ cũng nên dừng lại với vùng đất Tịnh Biên, Nhà Bàng một trong những
vùng đất rất quen thân của người dân miền núi non cao vút giữa cánh đồng bằng
ấy:
“Những ngày xưa, tôi bắt gặp bây
giờ
Ngày mỗi ngày, em đi về ngang cửa
Áo trắng bay má hồng hoa mắc cở
Tuổi học trò ngày tháng rất vô tư!
Chiều Nhà Bàng chờ đợi những cánh thư
Nghiêng nón hứng chùm thời gian tiếc
nuối
Em phơi phới mắt đen tròn con gái
Có bao chàng thơ thẩn tập tành yêu!
Tịnh Biên ơi, hương tóc quyện hương chiều
Em yểu điệu chở mùa hè dạo phố
Chiếc lá rơi dạt hồn cong nỗi nhớ
Mưa bất thần thui thủi một mình em!”
(Tịnh Biên mùa hạ
lại về)
Và rồi
vùng đất Tri Tôn (Xà - Tón) cũng không ra khỏi ký ức của nhà thơ qua những “mùa
phượng cũ”:
“Xa xa núi đứng níu mây
Gió đồng em thả tóc bay hương tình
Hoa trên triền đá lung linh
Ta nghe đời sớm bình minh gọi mời
Lúm tiền duyên tiếng em cười
Đời ta cánh bướm một đời lãng du
Trời đêm chìm giữa sương mù
Nhớ trăng hiu quạnh buổi từ tạ xưa
Vẫn còn mùa phượng tiễn đưa
Tri Tôn ta nợ cơn mưa cuối ngày
Qua vùng Bảy Núi, nhớ hai
Nên trời già cứ mãi đày đọa ta!”
(Tri Tôn mùa phượng cũ)
Mà nói gì
Tri Tôn (Xà - Tón), ngay như những vùng đất ít ai để ý như Láng Linh ngày trước
với mùa bông điên điển nhuộm vàng cả một vùng đất cũ:
“Đồng Láng Linh mùa mưa tháng chin
Em bơi xuồng nhỏ hái hoa vàng
Anh hóa tình anh vào cơn gió
Xuống bến đợi chờ em quá giang.”
(Châu Phú quê
em)
Còn nhiều
lắm những tên gọi các vùng đất cũ ấy nơi đất biên cương; giờ xin mời bạn theo
nhà thơ thăm lại vài tên gọi miệt Long Xuyên (An Giang). Trước hết với cù lao
Ông Hổ, nằm trên sông cái Hậu Giang cùng với cảnh sinh hoạt nơi làng quê thời
thơ ấu của Trúc Thanh Tâm:
“Mẹ kể, tản cư về Ông Hổ
Nhà nội gần sông, lợp lá dừa
Cha đi giữ nước từ dạo đó
Gió lùa khóm trúc, tiếng gà trưa!
Tóc nội dần pha bông gòn chin
Là biết đời tôi thêm lớn khôn
Thương nọc trầu vàng, hàng cau trắng
Nhìn khói đốt đồng, rạ cháy lan!
Lòng mẹ như con sông êm ả
Lớn ròng, xuôi ngược cả đời tôi
Vườn sau chim hót bình yên quá
Còn thấy riêng tôi một khoảng trời!
Khoai lùi tro nướng thương mùi khói
Mát lòng từng ngụm nước mưa thơm
Quày chuối nghiêng cây vừa chín bói
Đậm đà như cá lóc nướng rơm!
Gần tết, tát đìa đông vui quá
Tôi xuống quậy sình để bắt hôi
Đâu chơi trốn kíếm mà ma giấu
Giấu suốt một thời tuổi thơ tôi!
Nội lại dọn nhà về miệt dưới
Long Xuyên từ đó cách xa hơn
Bìm bịp kêu, nhớ mùa nước nổi
Nước mắt rơi, tôi đã biết buồn!”
(Tiếng quốc
kêu)
Ngay như
cái tên Mặc Cần Dưng (Bình Hòa) quê ngoại tôi, trong văn chương ít nghe ai
nhắc, nhưng với Trúc Thanh Tâm, ông cũng đã ghi lại một chút tình qua một lần
chia tay khá luyến lưu bịn rịn:
“Thời gian chưa tắt màu thu úa
Gió bấc non về lạnh bến song
Em giấu nỗi sầu trong hương tóc
Tháng mười mưa trắng Mặc Cần Dưng
(…)
Xếp áo học trò anh lang bạt
Em theo chồng về đất Bình Hòa
Gởi lại Rạch Chanh bao kỷ niệm
Một thời chinh chiến lửa binh ca”
(Em gái Bình
Hòa)
Còn Núi
Sập, nơi có vùng văn minh Ốc Eo với núi Ba Thê nằm giữa vùng đồng bằng Định Mỹ,
Vọng Thê, Ba Bần, Kinh Xáng Bốn Tổng … lan tỏa khắp một vùng rộng bao la với
những cánh đồng lớn về hai phía tây nam với ruộng lúa bạt ngàn, vậy mà rồi nhà
thơ cũng ghi lại được một lần chia tay buồn như mây nghiêng núi cắt:
“Em ơi, có nhớ tình thơ
Nắng hồng ngày cũ bên bờ sông quê
Tiếng ve âu yếm gọi hè
Thư tình mực tím đường về trao tay
Xa rồi Núi Sập nghiêng mây
Gió mênh mang gió chẻ hai vạt buồn
Đâu rồi ánh mắt em thương
Tình trên lối rẽ héo hon duyên đời
(Lần
xa Núi Sập)
Nhưng có
lẽ không nỗi lòng nào buồn cho bằng nỗi nhớ Cà Mau, nơi quê nhà của thi sĩ. Dù
có đi qua biết bao vùng, và ghé lại biết bao bến bờ khó lòng quên được nhưng
hơn ba mươi năm xa vùng cố quận Cà Mau là chốn cố hương làm ray rứt cả một
khoảng đời dài trong cuộc hành trình dường như chưa bao giờ biết dừng lại, nhà
thơ Trúc Thanh Tâm bổng giật mình ngồi đếm lại những bụi bám vào hồn qua những
dặm trường:
“Hơn ba mươi năm, biền biệt Cà Mau
Bến tàu đó, em biết còn chốn cũ
Mái trường tỉnh tôi chưa lần được học
Rồi chiến tranh, từ đó cách xa mình !
Nước nổi nơi nầy, nhớ gió U Minh
Điên điển bông vàng nhớ tràm bông
trắng
Mắm Châu Đốc hương vị còn sâu đậm
Than đước Cà Mau âm ấm nỗi lòng!
Hơn ba mươi năm, dấu bụi mù tăm
Nhưng dĩ vãng vẫn còn trong hơi thở
Cầu quay đó cũng một lần bỡ ngỡ
Mắt nhìn nhau, thương nhớ đến bây giờ!
Cà Mau em, là nét đẹp trong thơ
Châu Đốc tôi, dòng phù sa bồi mãi
Có thổn thức mới thấy lòng trống trải
Có xa quê mới thấu hiểu bao điều !”
(“Nỗi lòng” - Gởi Châu Đốc - Cà
Mau)
Nỗi lòng
với Cà Mau và Châu Đốc, tượng trưng cho chốn cũ và nơi này, cho quá khứ và hiện
tại, mãi mãi là những nỗi niềm rung cảm rất thật ngay trong lòng của tác giả!
Điều ấy, chúng tôi nghĩ, rất khế hợp với lời tâm sự thật tha thiết của ông và
được chính nhà thơ nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua hai câu thơ rất cảm động:
“Đời tôi là cả đời thơ
Gởi quê hương, gởi ngày xưa của
mình!”
Hồn cố
quận trong thơ Trúc Thanh Tâm là cả một trời thương nhớ, không có thước nào đo
được nỗi lòng, và cũng không có thời khắc nào ngăn được mối tương tư mãi mãi
dạt dào ấy ở ông; giống như câu ca dao thuở nào:
“Trông chừng mây bạc lưng chừng,
Phải chăng cố quận dưới vừng mây
kia!”
Kinh Xáng Bốn Tổng, ngày
01 tháng 11 năm 2015
.
Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Châu Đốc ngày 03.11.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét