Home
» Tiểu thuyết - Truyện dài
» Những mảnh vỡ ký ức – Tiểu thuyết Võ Anh Cương 1 (Thành phố Đà Lạt)
Những mảnh vỡ ký ức – Tiểu thuyết Võ Anh Cương 1 (Thành phố Đà Lạt)
Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015
Về
hướng đông nam của dãy núi Lang Bian là những quả đồi tròn. Những quả đồi nối
tiếp nhau như một làn sóng và chỉ bị chận lại bởi một dãy núi mờ nhạt ở cuối
chân trời. Buổi sáng hôm ấy, người ta thấy một thiếu niên mặc quần áo màu chàm,
lưng mang gùi, một loại giỏ có quai đan bằng mây và tre đang leo lên triền núi. Đó là một cậu bé chừng
mười bốn, mười lăm tuổi. Nước da cậu trắng hồng, khác hẳn người dân bản địa là
điều khiến người ta chú ý. Cậu tiến đến một gốc thông già, mắt cậu lom lom nhìn
xuyên qua những tầng lá màu xanh. Trên cành thông, một con sóc đang dùng đôi
chân trước nhỏ xíu bóc một trái thông của mùa năm trước. Những cánh màu nâu của
trái thông rơi lả tả xuống đất, biết đâu trong đó có một hạt thông còn sót lại,
thiên nhiên sẽ có thêm một sinh vật nữa khi mùa mưa đến?
Thông tin liên hệ: (VanDanViet) Tác giả Võ Anh Cương
Họ tên thật Nguyễn Hữu Cương
Bút danh khác Văn H. Cương
Địa chỉ: Nhà thuốc tây Đa Thành, 33 Nguyễn Siêu Phường 7, thành phố Đà Lạt.
Điện thoại: 0982.582.298
Email: voanhcuongdalat@gmail.com - voanhcuongdalat@yahoo.com
_____
Võ Anh Cương
NHỮNG MẢNH VỠ KÝ ỨC
Tiểu thuyết Võ Anh Cương
CHƯƠNG
I
Về
hướng đông nam của dãy núi Lang Bian là những quả đồi tròn. Những quả đồi nối
tiếp nhau như một làn sóng và chỉ bị chận lại bởi một dãy núi mờ nhạt ở cuối
chân trời. Buổi sáng hôm ấy, người ta thấy một thiếu niên mặc quần áo màu chàm,
lưng mang gùi, một loại giỏ có quai đan bằng mây và tre đang leo lên triền núi. Đó là một cậu bé chừng
mười bốn, mười lăm tuổi. Nước da cậu trắng hồng, khác hẳn người dân bản địa là
điều khiến người ta chú ý. Cậu tiến đến một gốc thông già, mắt cậu lom lom nhìn
xuyên qua những tầng lá màu xanh. Trên cành thông, một con sóc đang dùng đôi
chân trước nhỏ xíu bóc một trái thông của mùa năm trước. Những cánh màu nâu của
trái thông rơi lả tả xuống đất, biết đâu trong đó có một hạt thông còn sót lại,
thiên nhiên sẽ có thêm một sinh vật nữa khi mùa mưa đến? Cậu cho tay vào bọc và
lôi ra một mũi phi tiêu. Cậu vung tay. Con sóc nhỏ đang thanh bình thưởng thức
bữa ăn sáng trúng thương rơi xuống đất. Cậu đến nhặt con vật săn được và khuôn
mặt cậu lộ vẻ hân hoan. Có lẽ cậu thích thú vì tài phóng phi tiêu của mình
chăng? Không ai biết cậu nghĩ gì cả vì cậu đi chỉ có một mình, người ta chỉ
thấy cậu đi ngay xuống thung lũng dưới chân dãy núi và nhóm lên một đống lửa
bằng những cành thông khô. Cậu nướng con sóc, một con gà rừng và bắt đầu đánh
chén. Nhìn cách sinh hoạt của cậu, người ta biết ngay rằng tuy còn nhỏ tuổi,
nhưng cậu đã quen thuộc với cách sống của người hay đi ra ngoài hoang dã.
Ăn
xong cậu nằm lăn ra bãi cỏ xanh. Trên trời mây trắng bay bay, đám mây đang là
một hình này, lát sau đã trở thành hình khác. Những hình dáng liên tục thay đổi
của đám mây khiến cậu thích thú ngắm không chán mắt. Tiếng con chim hoạ mi cất
lên hoà trong tiếng thông reo khi một cơn gió thổi qua bỗng trở thành một bản
nhạc giao hưởng của đất trời. Thanh bình quá, quả là thiên nhiên hoang dã dưới
chân núi Lang Bian mới đẹp làm sao! Trong tiếng nhạc của đất trời đang giao
hoà, cậu bé thiu thiu ngủ lúc nào không hay. Khi cậu thức dậy, mặt trời đã lên
cao đang hào phóng phả những tia nắng xuống mặt đất khiến cậu chói mắt. Cậu
ngồi bật dậy, xốc vội chiếc gùi và đi ngay ra khỏi lòng thung lũng. Men theo
một con suối nhỏ, hai bên bờ lau sậy mọc ken dày, cậu vừa đi vừa quan sát cảnh
vật chung quanh. Ra khỏi thung lũng, trước mặt cậu là một vùng đất khá bằng
phẳng, cỏ mọc xanh rì, xen lẫn vào đó là những bụi sim, mua, ngũ sắc và những
loài cây hoang dại khác. Cậu tiến về một bụi dâu rừng, những trái dâu chín đỏ
như ra vẻ khêu khích cậu. Không riêng gì cậu, lũ kiến rừng cũng bị những trái
dâu đỏ tươi kích thích. Chúng tiến lại trái dâu, hai chiếc râu ngộ nghĩnh huơ
huơ trong không khí. Cậu hái một trái dâu cho vào miệng sau khi thổi một hơi dài
khiến lũ kiến rơi lả tả. Khoái trá với vị dâu tươi, cậu hái lấy hái để, vừa ăn
vừa cho vào bọc. Một lát sau cây dâu hoang không còn một trái nào.
Hoan
hỉ cậu bé đi càng lúc càng xa trảng bằng, cậu tiến vào một cánh rừng thưa sau
khi chứng kiến cảnh một đàn nai chừng năm con đang chạy, chúng tung một đám bụi
đỏ sau lưng. Đó là một cánh rừng hỗn giao, trong đó có những loại cây lá rộng
xen kẻ với loại lá kim. Điểm xuyết vào đó là những cây dẻ với hai màu lá, mặt
trên là màu xanh thẩm, mặt dưới là một màu trắng bạc. Tiếng róc rách của một
con suối nhỏ chảy ra từ một ngọn đồi trước mặt lọt vào tai cậu. Nước suối trong
leo lẻo soi rõ những con cá lòng tong với chiếc đuôi xinh xắn có một chấm màu
xanh đang bơi lội một cách vô tư. Thỉnh thoảng một con cá tràu đen thủi xuất
hiện đột ngột từ một hóc hẻm nào đó như một kình ngư trong thế lao lên hung
tợn. Càng lên cao con suối càng nhỏ dần và cạn kiệt. Nước đọng thành từng vũng
nhỏ ở chỗ đất tương đối bằng phẳng. Nơi ấy là chỗ trú ngụ của loài tôm và cua
núi. Chúng đen thui thủi với những râu và ria
có lẽ dùng để đe doạ kẻ thù? Tinh nghịch cậu chọc môt cành cây nhỏ vào
càn một con cua, nó vội vã kẹp lại, nhanh như cắt, cậu giật lên. Con cua núi
nhỏ những giọt nước trong vắt xuống bãi cỏ xanh, nhưng nhất định không chịu
buông cành cây ra, điều ấy khiến cậu lấy làm thích thú. Theo cách ấy, cậu bắt
được trên chục con cua, cậu dùng một sợi dây cỏ xâu chúng lại với nhau. Để bắt
tôm, cậu làm cách khác. Cậu lôi từ chiếc gùi ra một cái gói nhỏ làm từ một
chiếc lá rừng to bản, trong đó là một ít thức ăn thừa. Cậu đổ thức ăn xuống
nước và chờ đợi. Một, hai, ba rồi bốn con tôm xúm lại rỉa mồi. Nhanh nhẹn, cậu
cho tay vào nước từ từ tiến lại và bắt từng con một. Lát sau, cậu đã có một xâu
tôm đáng kể. Cậu gom chỗ tôm và cua lại, cho vào gùi rồi lên đường. Lần này cậu
men theo triền đồi, tiến đến một hẻm núi là nơi gặp nhau giữa hai quả đồi dưới
chân núi Lang Bian. Trong ấy có vô vàn những loài thảo mộc mọc thành từng đám
vì đó là nơi đất ẩm. Mắt cậu sáng lên khi nhìn thấy một bụi cây có những chiếc
lá dài và nhọn chỉa lên trời. Cậu cho tay vào một gốc cây và moi lớp lá mục
chung quanh ra. Trước mặt cậu củ của bụi cây lộ ra. Bên cạnh những củ già có
màu nâu đậm là những củ còn non. Cậu bẻ một củ và ngửi. Một vị hăng hắc bốc ra
khiến cánh mũi cậu chun lại trông thật ngộ nghĩnh. Nét hân hoan trên gương mặt
cậu cho người ta biết cậu đang lấy làm đắc ý. Cậu nhổ vội một số cây cho vào
gùi rồi đi xuống chân đồi sau khi quan sát thật kỹ cánh rừng dưới chân núi Lang
Bian.
Mặt
trời xuống thật nhanh, mới đó mà cánh rừng đã bắt đầu âm u, một vẻ âm u huyền
bí chỉ xuất hiện khi mặt trời đã bắt đầu nhạt nắng. Cậu ra khỏi cửa rừng, bỏ
lại phía sau một cánh rừng đen thẩm. Xa xa, một làn khói bốc lên từ một gốc một
cây thông cổ thụ. Cậu hơi ngạc nhiên và đi chậm lại, cố men theo bóng tối của
những lùm cây bụi cỏ để ẩn thân mình. Đó là thói quen của những người thường
tiếp xúc với hiểm nguy, một bản năng có được qua cuộc sống đầy bất trắc. Trước
mặt câu là một người thanh niên khoảng mười tám đôi mươi. Anh ta đang lui cui
nướng một miếng thịt nai khô. Mùi thịt nướng khiến cậu thấy bụng mình sôi lên
sùng sục. Một thoáng cau mặt, hình như cậu quyết định một điều gì thì phải. Cậu
tiến về phía người thanh niên, lần này cậu không ẩn thân nữa mà đàng hoàng bước
đi với vẻ tự tin. Cậu lên tiếng kèm theo một nụ cười khi người nọ ngước lên:
-
Chào anh, anh đang chuẩn bị bữa tối à, anh cho em tham gia với được không?
Người
thanh niên có vẻ không chút ngạc nhiên khi nhìn thấy cậu, anh điềm tỉnh trả
lời:
-
Được thôi, mời chú, chúng ta đều là người trong thiên hạ cả mà?
-
Anh chờ em một chút, em nấu nồi cơm, em có cả một xâu tôm cua nữa nè.
Cậu
nhanh nhẹn đặt gùi xuống đất rồi lấy ra một chiếc nồi đồng. Bên trong chiếc gùi
là gạo được đậy cẩn thận bằng những chiếc lá khô to bản và dai. Cậu lấy ra một
ít gạo cho vào nồi và nhanh nhẹn đi ra bờ suối.
Khoảng
nửa canh giờ sau, một bữa cơm được dọn ra trước đống lửa đang hừng hực cháy.
Trông hai người trai trẻ ăn mà bắt thèm,
họ ăn ngon lành quá. Quả là một bữa cơm ngon đối với cả hai người. Thức ăn của
họ là thịt nai khô nướng chấm muối ớt, canh cua nấu rau rừng, tôm nướng và tráng miệng là món dâu rừng. Ăn xong, cậu
nói với người thanh niên:
-
Đại ca bữa nay anh cho em ăn ngon quá, anh chờ một chút, em nấu ấm trà rồi anh
em ta đàm đạo.
Nói
xong cậu đi ngay ra bờ suối và mang về
một nồi nước. Bình trà của hai người là một quả bầu khô lên nước bóng loáng.
Sau khi nhắp một ngụm trà, người thanh niên hỏi:
-
Bây giờ em cho ta biết tên được chưa?
-
Em tên Thái, họ Trương. Thầy em nói rằng khi đặt tên cho em, thầy em dùng tên
quẻ Thái để mong cuộc đời em lúc nào cũng hanh thông?
-
Vậy nhà em ở đâu, vì sao em phải ra ngoài hoang dã làm gì?
-
Em ở với thầy, nhà em cách đây độ một ngày đường, em đi tìm cây thuốc cho thầy
trị bệnh cứu người.
-
Hóa ra là vậy, thầy em là y sư, thảo nào mà ta thấy dược thảo trong gùi của em.
-
Còn anh là ai, lên trên này làm gì? Nhìn anh em biết ngay không phải là người
sống ở vùng này!
Người
thanh niên trầm ngâm một hồi rồi thủng thỉnh trả lời:
-
Ta tên là Đại Quá, nghĩa là gian nan, cũng họ Trương như em, cũng được thầy đặt
tên theo một quẻ trong Kinh Dịch. Này Thái à, ta có một ý nghĩ: ta và em đều là
người trong thiên hạ, lại cùng họ với nhau, chúng ta không có bà con nhưng ta
muốn cùng em kết nghĩa đệ huynh được chăng?
Trương
Thái mừng rỡ:
- Ý
anh hay lắm, từ nhỏ em đã không có anh em, nay tình cờ gặp anh, được một người
như anh nhận làm anh em kết nghĩa thì còn gì bằng. Đại ca, em làm lễ ra mắt đại
ca nhé?
Trương
Đại Quá vội vàng ngăn lại:
-
Anh em ta bèo nước gặp nhau như vậy là có duyên lắm rồi, ta không thích đa lễ
làm gì, miễn rằng từ nay về sau em đối đải với ta bằng một tấm chân tình là
được, ta lớn tuổi hơn tất nhiên làm anh, để ta kể cho đệ nghe gia thế của ta.
Nói
xong Trương Đại Quá bắt đầu kể:
-
Cha ta kể rằng, dòng họ Trương nhà ta là một dòng họ lâu đời ở Tây Sơn Thượng
Đạo, ông tổ nhà ta là người sáng lập ra môn phái Ngọc Trản thần công. Cụ tổ nhà
ta theo ba anh em nhà Tây Sơn, cũng là hàng danh tướng của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ. Đến đời cha ta, ông không đi theo con đường võ quan mà chỉ lý thú
làm ruộng sống một đời dân dã. Cha ta chỉ có một người con là ta, nên cũng muốn
ta vui thú điền viên không màng danh lợi. Ông cho ta học ít chữ nghĩa của cụ đồ
trong làng, hàng đêm cha ta truyền dạy
võ công của gia phái. Số trời không cho cha ta sống thọ, cách đây ba năm, ông
bị bạo bệnh mà chết. Mẹ ta buồn rầu vì cái chết của cha ta, nên cũng đi theo
ông hai năm trước. Vậy là ta trở nên mồ côi khi vừa mười tám tuổi. Còn vì sao
ta lên vùng ngược này à? Ta nói cho em nghe là ta đi tìm chiếc sừng tê giác, em
biết sừng tê chứ?
-
Có phải tê giác còn gọi là tê ngưu không, nếu như vậy, em đã nghe thầy em kể
lại rồi?
-
Thầy em nói sao, em cho ta nghe được không?
Trương
Đại Quá nôn nóng hỏi, Trương Thái trả lời:
-
Năm ngoái nhân có người bạn ghé thăm thầy, hai người nói chuyện với nhau tận
khuya, em là người hầu trà nên có nghe hóng chuyện. Thầy em nói rằng sừng tê là
một vật trân quý từ thời xa xưa, khi người Tàu còn đô hộ nước ta, quan Đô Hộ
Phủ đã bắt dân ta lên rừng tìm sừng tê giác để cống nộp về phương Bắc cho vua
Tàu. Như vậy đủ biết sừng tê là một loại quí giá biết bao. Theo truyền thuyết,
tê giác sống thành từng đàn khoảng năm sáu con, chúng sinh sống ở những cánh
rừng gai góc, lại là nơi có đầm lầy, địa thế hiểm trở. Ngoài ra, tê giác tuy
mắt kém, nhưng khứu giác nó linh mẫn vô cùng. Da nó dày lắm khó có tên, giáo
mác nào xuyên thủng, nó lại rất to lớn và khi phát hiện ra kẻ thù, thì nó tấn
công bằng chính cái sừng rất sắc bén cho nên hung hiểm vô cùng. Em nghe thầy
kể, thầy em đã từng thấy một chiếc sừng tê ở nhà một người bạn thầy là ông
K’Briểu, ở cách đây xa lắm. Lúc đó, hai người đang uống rượu cần, thì có một
người trong buôn đến nói nhỏ với ông K’Briểu xin mượn chiếc sừng tê để mài ra
thoa cho vú vợ bị bệnh gì đó sau khi đẻ con. Nghe thầy em nói chỉ cần thoa vài
lần như vậy thì bệnh sẽ hết hẳn. Thầy em
còn nói rằng, sừng tê còn trị nhiều thứ bệnh khác, đặc biệt nó là vị
thuốc không thể thiếu được trong bài thuốc tăng tuổi thọ của ông Hoa Đà bên Tàu
ngày xưa. Em chỉ nghe đến đó thôi rồi đi ngủ khi thầy em và bác Võ Đại Huynh
chuyển qua uống rượu. Bây giờ nghe anh nói, em mới sực nhớ ra, chứ người có
chiếc sừng tê là ông K’Briểu em cũng không biết ở đâu và hiện nay có còn chiếc
sừng không nữa?
Nghe
Trương Thái kể xong, Trương Đại Quá trầm ngâm nghĩ ngợi, không thấy người anh
của mình nói gì thêm, Trương Thái hỏi:
-
Vậy chớ anh tìm thứ của hiếm đó để làm gì?
Trương
Đại Quá trả lời:
-
Chuyện này ta kể với em cũng được, nhưng ta chỉ ngại em còn nhỏ tuổi, không
hiểu hết tâm sự của mối tình trai gái?
Trương
Thái ngạc nhiên, cậu chưa bao giờ nghe nói đến tình yêu, nhưng trong tâm hồn
non trẻ của cậu bỗng nảy sinh một tình cảm mà từ trước đến giờ cậu chưa từng
trải qua. Thái lơ mơ nghĩ rằng có lẽ đó là những tình cảm rất riêng và cũng rất
thiêng liêng nên anh Đại Quá của Thái mới phải bôn ba gian khổ để đi tìm sừng
tê ngưu để… Thái không tìm ra chữ diễn tả tâm trạng này. Nghĩ như thế nên Thái
giục:
-
Đại Quá, anh kể đi em nóng ruột muốn biết quá chừng rồi?
Trương
Đại Quá chưa chịu kể ngay, anh trầm ngâm như đang để tâm hồn mình dõi tận đâu
đâu, hình như anh quên mất thằng em mới kết nghĩa đang nôn nóng chờ nghe anh kể
chuyện. Trương Thái giục tiếp:
-
Kể đi anh Đại Quá?
Mắt
Trương Đại Quá mơ màng, anh kể bằng một giọng trầm buồn:
-
Như em biết, quê ta ở Tây Sơn. Thôn Trường Định của ta là một vùng trồng lúa,
rụông đất cũng thuộc loại phì nhiêu, nhất là ruộng rộc. Nhưng đất đai phần lớn
là của chủ đất, đó là những người chủ giàu có ở thôn quê. Quê ta có người họ
Trần tên là Trung Thế, nhưng mọi người không bao giờ dám gọi như vậy, ai cũng
gọi là ông Bá hộ. Ông Bá hộ giàu nứt đồ đổ vách, người làm công cho ông hầu hết
là dân làng ta. Nhà ta cũng vậy, hàng năm đều phải nhận ruộng của ông Bá làm và
nộp tô, vì ngoài mấy sào vườn, nhà ta không có một mảnh ruộng nào. Khi cha mẹ
ta chết đi, ta cũng phải tiếp tục công việc cha mẹ ta đã làm từ trước đến nay.
Hôm đó, ta đang ăn cơm chiều sau khi đi đồng về, thì người nhà của ông Bá đến
gọi ta lên nhà ông có việc. Ta ngạc nhiên hết sức, bởi vì ta vừa đóng tô cho
ông Bá xong, không thiếu dù chỉ một hạt lúa, không hiểu ông Bá cho kêu ta lên
có việc gì? Không kịp ăn xong bữa cơm chiều, ta vội theo tên gia nhân lên nhà
ông Bá. Lúc ấy mặt trời vừa mới lặn, ông Bá ăn cơm chiều xong ngồi chễm chệ
trước hàng hiên, ông đang xỉa răng, phía sau là hai người hầu gái đang phe phẩy
quạt cho ông Bá. Thấy ta làm lễ ra mắt, ông Bá cười nói:
-
Miễn lễ, ngươi biết vì sao ta cho gọi ngươi lên đây không?
Ta
trả lời là không biết, mong ông Bá chỉ dạy. Ông Bá hộ nói:
-
Ta nghe nói ngươi là truyền nhân của Ngọc Trản thần công phải không? Hôm nay ta
có nhả hứng, kêu ngươi lên trên này biểu diễn môn công đó cho ta xem, được
chăng?
Nói
xong ông bá lim dim mắt và vuốt râu ra vẻ tự đắc, còn ta đang rất là khó xử.
Thái biết không, ta đúng là truyền nhân một nhánh của Ngọc Trản thần công,
nhưng môn quy của bản phái không cho phép ta phô diễn võ công ra bên ngòai một
cách khinh xuất. Do đó, ta mới trả lời không thể biểu diễn võ công cho ông Bá
xem được, ông Bá đùng đùng nổi giận:
-
Hay cho tên nhà quê này, ngươi dám từ chối yêu cầu của ta sao? Bay đâu, kêu
thằng Út Đực ra đây, thử xem hắn có cả gan đứng đó chịu đòn của thằng Út hay
không?
Ta
từng nghe danh tên Út. Đó là một người rất to lớn, y là trợ thủ đắc lực của ông
Bá trong việc thu tô, cấn nợ. Y sẳn sàng làm bất cứ việc gì cho dù việc đó có
thất nhơn ác đức đến đâu chăng nữa, miễn là ông Bá hài lòng hoặc việc làm đó có
lợi cho y. Út Đực nổi tiếng với môn Ngũ Hổ đoạn môn đao mà y theo học được của
một ông thầy Tàu trước khi về đầu quân cho ông Bá. Đao pháp của y rất bá đạo,
đuổi tận giết tuyệt là cách mà y ra tay khi lâm sự. Đã có nhiều người thất bại
dưới tay tên Út Đực, nhẹ thì bị thương trở thành người tàn phế, còn nặng là mất
mạng về tay y. Vì vậy nên tên Út Đực rất là kiêu ngạo, dưới mắt hắn quê ta là
chốn không người. Nghe lệnh của ông Bá, Út Đực vênh váo nhảy ngay ra sân đất
nện với ngọn đao có nước thép lạnh buốt trên tay. Nhìn bộ dạng của Út Đực, ta
càng thêm căm ghét hắn. Ta thường nghe người ta kể về tên Út với vẻ sợ sệt trên
nét mặt, ta lấy làm tức lắm. Nhưng cha ta thường dạy chớ cậy võ công cao cường
mà đi gây hấn với người, môn quy không cho phép làm điều đó. Hôm nay tên Út lại
ra khiêu chiến với ta theo lệnh của ông Bá chính là điều hợp ý ta: ta không
phạm môn quy mà vẫn được thử võ công của tên ác ôn này.
Sau
khi xuống tấn, Út Đực lên tiếng:
-
Tên kia, mi nghe rõ chưa, mi phải thi triển Ngọc Trản công để mà giữ mạng, đao
ta không có mắt đâu?
Nói
xong Út nhe răng ra cười khả ố với một giọng cười cứ nghe như là cú kêu ma
khóc, ai non gan thế nào cũng chết khiếp với tiếng cười này. Ta đã nghe cha ta
dạy rằng trong thiên hạ có một môn công phu dùng tiếng cười để làm rối địch thủ
trước khi xuất chiêu, có lẽ là đây chăng ? Ta biết rằng tên Út Đực quả là
hảo thủ chứ không phải là người không có thực tài. Ta tập trung tinh thần quan
sát đao pháp của y, nhìn thế thủ của tay đao, ta nhận thấy y thủ rất kín, không
để lộ chút sơ hở nào. Về phần ta cũng vậy, ta không dám khinh suất chút nào…
Nghe
đến đây, Trương Thái hồi hộp xen vào:
-
Rồi ai thắng hả đại ca?
Trương
Đại Quá nghiêm giọng:
-
Tất nhiên là ta rồi, nếu không sao ta có thể gặp em ở chốn này ? Khi Út Đực
phát chiêu, một làn lãnh khí bao trùm lên ta. Ta sử dụng thân pháp gia truyền
tìm những vị trí sơ hở của Út Đực mà phản công. Phải mất hơn một canh giờ ta
mới khuất phục được tên này bằng cách xông vào khoảng hở của đao quang và điểm
trúng huyệt Khí Hải tên Út Đực. Ông Bá thất thần khi nghe ta nói rằng tên Út
Đực từ nay mất hết võ công và phải nằm tỉnh dưỡng trong vòng một trăm ngày thì
tính mạng mới bảo toàn được. Từ nay Út Đực không còn là mối hiểm hoạ của người
dân lương thiện nữa. Lúc ấy ta đâu biết rằng ông Bá rất căm tức ta đã hủy một
gia nhân đắc lực của ông. Ta còn đang tự mãn vì đã trừ khử được một mối hiểm
họa cho dân lành, ta không để ý thấy nét mặt khác lạ của ông Bá. Lát sau ông Bá
nói:
-
Hay lắm, ngươi có một thân võ công rất khá, ta muốn ban cho ngươi một đặc ân,
ngươi có muốn làm gia nhân của ta không?
Ta
trả lời ngay:
-
Thưa ông Bá, tôi đã nhận ruộng của ông Bá làm từ ngày cha tôi còn sống, tôi xin
ông Bá cứ cho tôi làm ruộng như cũ là được lắm rồi.
Ông
Bá hộ nhìn ta cười nhạt, một hồi lâu ông nói:
-
Thôi được, ngươi không muốn là người hầu cho ta cũng không sao, nhưng một tên
khố rách áo ôm như ngươi ta không thể gả con gái ta cho ngươi được, trừ
phi…
Em
Thái có lẽ chưa biết thế nào là tình yêu, còn ta đã nếm trải hương vị của nó từ ngày ta tình cờ gặp cô Ba
ra cầu ao làng rửa chân khi từ đồng về. Cô Ba tên là Trần Thị Huyền là con nuôi
của ông Bá hộ. Thực ra, ông Bá danh nghĩa là cha nuôi cô Ba, nhưng ông Bá là
một trọc phú làng quê, nên cô Ba cũng như bao nhiêu người ăn kẻ ở của ông Bá
đều phải làm việc không thua kém một tá
điền nào. Ta và cô Ba thương nhau và đã tự đính ước với nhau sau một thời gian chúng ta gặp nhau, đến giờ ta ngớ
người ra khi ông Bá nhắc chuyện cô Ba, ta không ngờ ông ta cũng biết chuyện
này. Thấy ta lúng túng, ông Bá đắc chí nói:
-
Ngươi muốn biết điều kiện ta đặt ra với ngươi lắm phải không ? Ta cũng
không giấu ngươi làm gì, muốn ta gả con gái ta cho ngươi, ngươi phải có một cặp
sừng tê giác làm sính lễ, nếu không có thì đừng hòng. Thôi ngươi về đi, ta nghĩ
rằng ngươi nên từ bỏ ý định cưới cô Ba đi thôi.
Nói
xong ông Bá cười to ra vẻ đắc ý rồi vẫy ta đi vào nhà trong. Ta đứng trơ ra
giữa sân đất nện mà lòng thì ngổn ngang trăm mối. Thái biết không, quê ta ở
đồng bằng, cả đời ta chưa đi ra khỏi lũy tre làng thì biết ở đâu có loài tê
giác mà tìm lấy sừng? Ngay cả tên một loài vật là tê giác, hôm ấy cũng lần đầu
tiên ta nghe, vậy thì biết tìm chúng ở đâu? Nhìn thấy ta có vẻ suy nghĩ, những
người nhà ông Bá ra vẻ thông cảm cho ta. Nhưng họ không giúp cho ta một điều gì
cả, ngoại trừ một cái nhìn thông cảm. Ta ra về đêm ấy không sao ngủ được, cứ đi
ra rồi lại đi vào. Sáng ra, ta không đi đồng như thường lệ, ta ra quán ông già
Tư ngoài đầu làng và kêu một bầu rượu. Quê ta có loại rượu rất ngon tên là rượu
Bầu Đá, ta cũng có thử qua nhưng chưa lần nào uống nhiều cả. Hôm nay buồn quá
ta thử uống xem có giải được sầu như người ta thường nói hay không? Uống hết
một bầu rượu ta thấy một làn khí nóng đang công kích thân tâm, bỗng nhiên ta
cảm thấy mình cứng rắn hơn, ta quyết tâm lấy cho được cô Ba làm vợ, nhưng chưa
biết bằng cách nào. Đúng lúc ta suy nghĩ như vậy thì ông chủ quán nói với ta:
-
Anh hùng khó qua khỏi ải mỹ nhân, chàng trai có muốn ta chỉ cho đường đi nước
bước không?
Nghe
ông già Tư hỏi, ta như người đang vật lộn với sóng nước bỗng vớ được phao, ta
hỏi tới tấp:
-
Bác Tư, bác chỉ cho cháu đi, dù có gian khổ ra sao cháu cũng không từ!
Ông
già Tư trả lời ta:
-
Sáng nay cả làng này đều nghe tin cháu trừ khử tên Út Đực, việc làm của cháu đã
khiến những người bị y ức hiếp lấy làm hả hê, Út Đực quả đúng với câu “gieo
nhân nào gặt quả đó”. Ta cũng vậy, ta khen cháu đó. Nhưng ta biết cháu đang rầu
rĩ trong lòng, có phải vậy không? Ta nghe ông Bá thách cưới với cháu là hai
chiếc sừng tê giác, cả cái làng và cả tổng này, nào ai đã thấy chiếc sừng tê hả
cháu, vậy thì cháu tìm ở đâu ra vật đó? May mà cháu gặp ta…
Nghe
đến đây mắt ta sáng lên, ta biết ông già Tư có thể giúp ta tìm ra chiếc sừng tê
giác, ta cầu khẩn ông Tư:
-
Bác Tư, bác cố giúp cháu, bác và dân làng đều biết cháu và cô Ba thương nhau,
ông Bá lại ra món thách cưới thắt ngặt quá chừng, bác thương cháu, bác Tư!
-
Ta thương cháu nên mới nói chuyện này, đây là một chuyện bí mật của ta, nay ta
nói ra cho cháu biết cũng là có ý giúp cháu và cả cho ta nữa.
Trương
Thái, em phải biết rằng người nhà quê đã nói ra là giữ lấy lời, ta cũng vậy, ta
thề khi tìm được sừng tê giác, trước khi nộp cho ông Bá hộ ta cắt một khúc phía
gốc sừng cho ông Tư. Ông Tư nghe lời thề chắc như đinh đóng cột của ta, ông từ
tốn nói:
-
Không biết câu chuyện ta kể cho cháu sau đây có giúp ích gì cho cháu không, vì
không liên quan trực tiếp đến chiếc sừng tê giác, nhưng ta nghĩ chỉ có vật đó
mới có thể giết con tê giác và chiếm lấy sừng của nó được. Cha của ta thuở trai
tráng là một người lênh đênh kiếp sống giang hồ rày đây mai đó với chiếc ghe
bầu chạy dọc ven biển. Cha ta là thương nhân đi buôn bán tận xứ đàng trong, sau
này khi đã gặp mẹ ta, chán kiếp sống giang hồ, cha ta mới dọn về làng này và
sinh ra ta. Vì vậy, cháu thấy đó, ta cũng nối nghiệp cha ta trong nghề buôn
bán, nhưng không như cha, ta chỉ có chiếc quán nghèo này để làm sinh kế. Thuở
còn đi buôn, một hôm cha ta có cứu một người, ông này bị trúng phong và nằm
trong bụi rậm ven đường. Lúc ấy cha ta đi ngang qua, thấy vậy, ông liền đem
người bị trúng phong về chiếc ghe bầu của mình và cạo gió, cắt lể cho người nọ.
Nếu không gặp cha ta có lẽ người đó đã chết rồi. Để trả ơn cha ta, người đàn
ông đó tặng cho cha ta hai vật trân quý. Thứ nhất là một viên ngọc rắn, những
người hay đi vào vùng sơn lam chướng khí chỉ cần ngậm viên ngọc này trong miệng
là không có một tà khí nào có thể thâm nhập cơ thể gây bệnh cả. Vật quý thứ hai
là một tấm họa đồ làm bằng da dê vẽ vùng núi tên là Ngọc Linh sơn ở trên xứ
Thượng. Trong núi này có một người ẩn tu tự xưng là Lão Khùng núi Ngọc Linh,
ông ta có một thanh đao tuy rất cũ nhưng
lại sắc bén vô cùng, ai đem tấm hoạ đồ này cho lão, lão sẽ tặng cho người
đó thanh đao quý. Ban đầu cha ta không
nhận, nhưng người đàn ông nọ không chịu, ông ấy để hai vật ấy lại và bỏ đi mất.
Cha ta cũng không chú ý hai vật này cho lắm, ông đem cất vào một chỗ và quên
đi. Khi đã định cư ở đây, một hôm ông lục tìm vật cũ thì mới sực nhớ ra hai món
đồ người đàn ông bỏ lại. Ông kể cho ta nghe và dặn rằng đến một ngày sẽ có một
người cần đến hai món này và dặn ta phải
trao lại cho người đó. Ta hỏi người đó là ai, cha ta không trả lời chỉ nói rằng
chữ duyên là vô cùng vô tận, con cứ nghe lời ta là được rồi. Ta cũng như cha ta
đem cất ai món này, ta giấu dưới chiếc lư đồng trên bàn thờ cũng nhiều năm rồi.
Bỗng đâu, tối qua ta nghe chuyện của cháu, ta sực nhớ tới lời cha ta dặn, ta
đem hai vật này để sẳn ở trong bọc, thử xem lời cha ta dặn ngày xưa có linh ứng
hay không ? Ngờ đâu, mới sáng sớm cháu đã xông đất quán ta và hỏi mua
rượu, ta biết rằng vật trân quý đã gặp chủ nhân nên sớm có ý định tặng cháu hai
món này. Cháu phải biết rằng chỉ có thanh đao của lão nhân này mới có thể giết
được tê giác và lấy sừng của nó. Nhưng lòng ta cũng có chút tham lam, nếu cháu
có lấy được sừng tê, ta muốn cháu cho ta một phần chiếc sừng tê trước khi nộp
làm sính lễ. Thiên địa thật bất công, người ta đã giầu rồi mà còn được hưởng
những sản vật trân quý. Nhưng mà thôi, ta biết mọi sự đã được sắp đặt cả rồi,
cha ta lúc cuối đời chuyên chú nghiên cứu Mai Hoa Dịch số, ông có truyền dạy
cho ta. Phẩm chất ta tầm thường, nên không tiếp thu được gì nhiều. Cuốn sách
của cha ta để lại, ta giao cho cháu tự học, biết đâu trong muôn một chút kiến
thức trong sách này sẽ có ích cho cháu. Cháu thấy đó, cha ta đã biết trước có
một ngày hai vật quý sẽ có người cần, quả Mai Hoa Dịch số thật là linh nghiệm.
Trương
Thái nghe Trương Đại Quá kể chuyện, Thái lấy làm thích thú. Từ nhỏ Thái đã rất
mê những chuyện cổ tích mà mỗi lần nổi hứng thầy cậu mới kể cho nghe. Lần này,
Trương Đại Quá kể cho cậu một chuyện có thật mà cứ y như chuyện cổ tích, Thái
nghĩ, biết đâu chuyện cổ tích cũng là chuyện có thật trên đời? Thấy Trương Đại
Quá ngừng kể sốt ruột Trương Thái hỏi:
-
Rồi sao nữa hả đại ca, anh có đi tìm sừng tê giác không?
Trương
Đại Quá bật cười:
-
Nếu ta không đi tìm sừng tê giác thì làm sao gặp em ở chốn này? Trương Thái, ta
rời quê nhà sau mấy tháng trời chuẩn bị và cũng là thời gian ta học những điều
trong sách. Quả là một cuốn kỳ thư, ta thuộc lòng cuốn Mai Hoa Dịch số nhưng
khi đi vào việc thực hành vẫn còn thấy còn những chỗ mình vẫn chưa nghiệm ra.
Ta tìm hiểu nguyên nhân và nhận ra rằng do kinh nghiệm sống của ta còn non nớt
lắm nên chi trong phán đoán sự vật còn có chỗ chưa thông. Vì vậy ta quyết tâm
lang bạt giang hồ để tìm cho ra chỗ ẩn cư của ông lão Khùng, không biết giờ này
có còn sống hay không, để xin thanh đao quý và tích lũy kinh nghiệm sống nhằm
vận dụng Mai Hoa vào việc đoán định cát, hung, họa, phúc. Sau đó ta sẽ dò hỏi
chỗ có tê giác sinh sống và đi tìm vận may, biết đâu ta sẽ có hai chiếc sừng tê
để làm sính lễ và cưới cô Ba? Tính từ ngày lên đường cũng đã gần một năm trời,
nhưng ta chưa tìm ra nơi nào có địa thế như trong bản hoạ đồ. Chiều nay ta tới
chân núi này thì gặp em, ta định ngày mai sẽ quan sát ngọn núi thử xem có phải
là núi Ngọc Linh không?
Trương
Thái cười nói:
-
Lần này đại ca lại không may rồi, ngọn
núi này có tên là núi Lang Bian, Lang là tên một người con trai, còn Bian là
tên một người con gái, cả hai yêu nhau và chết vì mối thù của hai bộ tộc, em
nghe thầy em kể chuyện như vậy.
Nghe
Trương Thái cho biết tên ngọn núi, Trương Đại Quá thở ra và nói:
-
Ta một thân một mình lang thang trên vùng cao này đã nhiều tháng nhưng vẫn chưa
tìm ra ngọn Ngọc Linh sơn, Trương Thái, em có muốn cùng ta đi tìm núi đó không?
Trương
Thái reo lên:
-
Em muốn lắm, anh cho em theo với, trong vùng này em cũng thông thuộc chút ít.
Trương
Đại Quá mừng rỡ:
-
Quả là ông Trời cho ta gặp em để em giúp ta. Trương Thái, em đã biết gia thế
nhà ta rồi, còn em, em có thể kể cho ta
biết thêm về em được chăng?
Trương
Thái đang vui bỗng trở nên buồn, cậu nói:
-
Em không biết cha mẹ, chỉ biết có thầy. Thầy em hẹn khi em đủ lớn thầy sẽ kể
cho em nghe gốc tích của em. Em nhiều lần hỏi gặn, nhưng thầy em cứ lắc đầu
hoài. Đại Quá, nhà thầy trò em cũng gần đây thôi, nhưng thật không may, thầy em
đã đi rồi nên anh không thể gặp được!
-
Tiếc thật, nhưng biết làm sao được, thôi bây giờ em ngủ đi, ta canh chừng cho.
Trương
Thái nghe lời Đại Quá, cậu quay lưng về phía đống lửa, lấy một tấm chăn được
dệt bằng những sợi vải rất thô nhưng có nhiều hoa văn lạ mắt, cậu trùm chăn và
ngủ. Trương Đại Quá thấy Trương Thái đã ngủ, anh lẳng lặng ngồi thế bán già và
bắt đầu buổi tập khí công trong ngày. Anh hít một hơi thật dài nén vào bụng chỗ
huyệt đan điền, bụng dưới anh phồng to
lên mỗi khi hít vào và thót lại khi anh thở ra. Gương mặt anh thật trầm tỉnh,
bình lặng như mặt nước hồ thu. Trên trời vầng trăng lưỡi liềm chiếu một thứ ánh
sáng bàng bạc xuống cao nguyên, ngoài tiếng dế kêu và tiếng những con chim ăn
đêm, người ta không nghe một âm thanh nào khác. Nhưng cuộc sống dưới chân núi
Lang Bian huyền bí không bình yên như vẻ bên ngoài, trong ánh trăng yếu ớt,
muôn vật vẫn sinh hoạt trong đêm với những nét riêng, đầy bí ẩn. Trăng khuya
sương lạnh, ánh sáng chập chờn của ngọn lửa càng làm tăng thêm vẻ cô tịch của
đêm trường.
Khi
Trương Đại Quá hành công xong, thời khắc đã vào khuya, Đại Quá sau khi nhìn
quanh, anh định ngủ một chút. Bên kia đống lửa, Trương Thái ngủ ngon lành,
không biết trong mơ cậu thấy gì mà cậu mỉm cười, một nụ cười trẻ thơ vô tư vô
lự. Nửa đêm, Trương Đại Quá thức giấc vì
một tiếng động nhỏ bên kia bờ suối. Anh ngồi bật dậy, trong ánh sáng yếu ớt của
đống lửa sắp tàn, Đại Quá thấy một vật đang chuyển động. Anh đứng dậy, trước
mắt Đại Quá là một người lùn đang ra sức kéo một con thỏ! Trương Đại Quá sửng
sốt, từ trước đến nay anh chưa bao giờ thấy một người lùn kỳ dị như vậy. Lão
lùn cũng nhìn về phía Trương Đại Quá, y không kéo con thỏ nữa mà quay lưng bỏ
chạy, chớp mắt không còn thấy tung tích y đâu nữa. Chậm hơn lão lùn một nửa cái
chớp mắt, Trương Đại Quá phóng mình qua con suối, chỗ lão già lùn lúc nãy kéo
con thỏ. Con thỏ vẫn còn đó, nó bị trọng thương và đang kiệt sức vì máu ra nhiều.
Nhưng lão già biến mất như có phép thuật, Trương Đại Quá không tìm thấy một
chút dấu vết nào của lão cả. Anh cẩn thận vạch từng bụi cỏ, nhưng tuyệt nhiên không thấy gì cả. Thất vọng Trương mang
con thỏ về bên đống lửa, lúc này nó đã chết hẳn. Anh trầm ngâm nghĩ ngợi. Tai
mắt những người luyện thần công Ngọc Trản tinh tiến vô cùng, một tiếng động nhỏ
trong đêm không thể qua mắt những người đã luyện Ngọc Trản âm thuật. Huống chi
Trương chỉ mới vừa chợp mắt một lúc, chưa ngủ say. Chạng vạng tối, lúc Trương
Thái xuất hiện, Trương Đại Quá đã nhận biết bước chân có vẻ do dự của Thái. Một lúc sau, Trương thấy cũng
bước chân ấy nhưng lại đầy vẻ tự tin, anh thầm đánh giá người mới đến là một người cẩn thận. Mà đã là người cẩn thận thì
trong cuộc sống dễ thành công, nhưng trước tiên Trương thấy có thể tin được
hạng người này. Vì vậy anh không ngạc nhiên chút nào khi một chàng thiếu niên
đẹp trai xuất hiện trước mắt anh. Vậy mà giờ đây, một ông già lùn lại chạy
thoát khỏi tai mắt của anh, thật là một chuyện khó ai tin được.
Đang
trầm ngâm suy nghĩ, mắt Trương nhìn về phía đông, lúc này chân trời đã rạng màu
dưa lê, báo hiệu một ngày đẹp trời trên cao nguyên xanh. Ngày mai anh sẽ phải
tìm cho ra sự thật, Trương Đại Quá thầm nghĩ như vậy. Chính lúc đó, Trương Thái
thức giấc, cậu lấy làm ngạc nhiên khi thấy Trương Đại Quá ngồi trầm ngâm bên
đống lửa sắp tàn. Thái hỏi:
-
Đại ca, anh không ngủ sao?
Trương
Đại Quá trả lời với một giọng nghiêm trọng:
-
Thái, em có biết vừa rồi ta gặp chuyện gì không?
Ngạc
nhiên, Thái hỏi lại:
-
Chuyện gì hả đại ca?
-
Ta gặp một lão già lùn đang kéo con thỏ này!
Trả
lời xong Trương kể tỉ mỉ chuyện lão già lùn thoát khỏi cặp mắt anh chỉ trong
nửa cái chớp mắt cho Trương Thái nghe. Anh nói tiếp:
-
Ta đã nghe nhiều chuyện lạ kỳ trong thiên hạ, nhưng đây là lần đầu tiên ta tận
mắt chứng kiến một chuyện kỳ bí như vậy, Thái à, hồi nào tới giờ em có nghe về
những người lùn bao giờ chưa?
Trái
với dự đoán của Trương Đại Quá, Thái không mấy ngạc nhiên như anh nghĩ, cậu chỉ
nghiêm nét mặt một chút thôi, Thái nói:
-
Đại ca, chuyện những người lùn em có nghe thầy em kể lại. Đại khái chung quanh
ngọn núi Lang Bian tuyệt đẹp này có một tộc người lùn, họ là những người không
có chiều cao, cùng lắm là chỉ ngang gối của anh thôi. Rất hiếm khi những người
lùn này để cho chúng ta thấy họ, họ có một môn công phu giống như con tắc kè:
đó là ẩn thân thuật, cho nên em tin lúc phát hiện ra anh, lão lùn kia chỉ ẩn
thân chung quanh chỗ anh trông thấy lão thôi, nhưng vì kỹ thuật ẩn thân của lão
cao cường nên anh không thể phân biệt lão già với những lùm, bụi chung quanh
lão. Chưa ai vào được vương quốc của những người lùn, nghe đâu trị vì họ là một
thiếu nữ rất đẹp. Đặc biệt, người thiếu nữ đó giống y như chúng ta, chứ không
phải người lùn. Đại ca, những chuyện em biết về người lùn chỉ có chừng đó thôi.
Trầm
ngâm một chút, Trương Thái nói tiếp:
-
Đại ca, bây giờ chúng ta đã là anh em với nhau em phải cho anh biết chuyện này:
thầy em cho em ra ngoài hoang dã ngoài chuyện tìm một số dược thảo thông thường
mọc chung quanh núi Lang Bian, em còn có một nhiệm vụ đặc biệt thầy giao là tìm
manh mối để vào vương quốc của những người lùn và tìm cách lấy cho được một
loại dược liệu quý giá để về bào chế linh đơn.
Trương
Đại Quá gật gù:
-
Hoá ra là vậy, từ trước đến khi gặp ta, em đã tìm ra manh mối nào chưa?
-
Rất tiếc là chưa có một chút manh mối nào đại ca à, em đã gặp nhiều người Lạch
và dọ hỏi, họ rất ngạc nhiên và không ai biết một chút gì về tộc người lùn này
anh Quá à. Đôi khi em nghĩ rằng người lùn chỉ là truyền thuyết, chứ thật ra họ
không có thật như người ta đồn đãi. Bây giờ anh kể lại chuyện tao ngộ vừa qua,
em mới thật sự khẳng định là tộc người lùn có thật. Đại ca, anh có giúp em thực
hiện nhiệm vụ của thầy giao cho em không?
Lời
mời của Thái rất hợp với những suy nghĩ lúc nãy của Trương Đại Quá, anh chấp
thuận liền:
-
Ta sẳn sàng, Thái à. Từ ngày rời bỏ quê hương đi tìm Ngọc Linh sơn, ta mới nhận
ra rằng thiên hạ bao la vạn tượng và chứa nhiều bí ẩn dễ gì một đời người khám
phá hết được. Nếu ta cứ mãi quanh quẩn bên bờ ruộng luỹ tre làng thì làm sao
biết được những chuyện kỳ bí trong thiên hạ hả Thái? Sống như vậy là sống hoài
sống phí, ta nhận ra một điều như vậy trong một năm qua. Bây giờ gặp em, ta
thấy đời sống của em ung dung tự tại, ta ngẫm nghĩ trong lòng rằng em sống vô
tư với bao nhiêu điều hấp dẫn, thực là một cuộc đời đáng sống lắm thay.
Nghe
Trương Đại Quá tâm sự, Thái ngẩn người ra. Từ nhỏ cậu sống như vậy là điều bình
thường, bây giờ cậu vẫn vậy và mai sau cũng vậy, đó là một chuyện tất nhiên như
đói thì ăn, khát thì uống, Thái không nghĩ sâu sa gì cả. Thái nói:
-
Đại ca, em rất mừng khi đại ca nhận lời cùng em đi tìm dược liệu quý. Chuyện đó
anh em mình chắc phải gắng sức nhiều lắm. Bây giờ có một chuyện em phải làm
ngay, đại ca có biết chuyện gì không?
Ngạc
nhiên, Trương Đại Quá hỏi Thái:
-
Chuyện gì vậy Thái?
-
Đó là chuyện giải quyết món quà mà lão già lùn biếu cho đại ca. Anh chờ em một
chút, em sẽ đãi anh món thỏ nướng muối ớt, ngon tuyệt phích!
Nói
xong, Thái nhanh nhẹn lột da con thỏ. Cậu lấy trong thắt lưng ra một con dao,
cậu khoanh vào cổ con thỏ một vòng và nắm da con thỏ và kéo xuống. Thái bỏ bộ
đồ lòng và lấy gói muối ớt trong chiếc gùi và xát vào mình con thỏ. Một lát sau
mùi thơm điếc mũi của thịt nướng toả ra. Trương Đại Quá nhìn Thái với cặp mắt
ngưỡng mộ, anh nói:
-
Ta không ngờ em còn nhỏ tuổi như vậy mà đã có tài nấu nướng, em nấu ăn ngon lắm!
-
Đó là do công của thầy dạy em đại ca Quá à, thầy em nói hồi trẻ thầy lưu lạc
bên Tàu và học được nghề nấu ăn, và bây giờ truyền lại cho em. Nhưng đại ca ơi,
những món ăn hôm qua và sáng nay không phải là món ăn Tàu đâu, chỉ là món bình
dân của người Việt ta thôi.
Trương
Đại Quá không nói nữa, anh im lặng thưởng thức món thỏ nướng và thầm tính toán
trong đầu.
(Hết chương 1)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Lạt ngày 04/12/2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét