Home
» Tiểu thuyết - Truyện dài
» Những mảnh vỡ ký ức – Tiểu thuyết Võ Anh Cương 2 (Thành phố Đà Lạt)
Những mảnh vỡ ký ức – Tiểu thuyết Võ Anh Cương 2 (Thành phố Đà Lạt)
Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2015
Về
hướng đông nam của dãy núi Lang Bian là những quả đồi tròn. Những quả đồi nối
tiếp nhau như một làn sóng và chỉ bị chận lại bởi một dãy núi mờ nhạt ở cuối
chân trời. Buổi sáng hôm ấy, người ta thấy một thiếu niên mặc quần áo màu chàm,
lưng mang gùi, một loại giỏ có quai đan bằng mây và tre đang leo lên triền núi. Đó là một cậu bé
chừng mười bốn, mười lăm tuổi. Nước da cậu trắng hồng, khác hẳn người dân bản
địa là điều khiến người ta chú ý. Cậu tiến đến một gốc thông già, mắt cậu lom
lom nhìn xuyên qua những tầng lá màu xanh. Trên cành thông, một con sóc đang
dùng đôi chân trước nhỏ xíu bóc một trái thông của mùa năm trước. Những cánh
màu nâu của trái thông rơi lả tả xuống đất, biết đâu trong đó có một hạt thông
còn sót lại, thiên nhiên sẽ có thêm một sinh vật nữa khi mùa mưa đến?
Thông tin liên hệ: (VanDanViet) Tác giả Võ Anh Cương
Họ tên thật Nguyễn Hữu Cương
Bút danh khác Văn H. Cương
Địa chỉ: Nhà thuốc tây Đa Thành, 33 Nguyễn Siêu Phường 7, thành phố Đà Lạt.
Điện thoại: 0982.582.298
Email: voanhcuongdalat@gmail.com - voanhcuongdalat@yahoo.com
_____
Võ Anh Cương
NHỮNG MẢNH VỠ KÝ ỨC
Tiểu thuyết Võ Anh Cương
CHƯƠNG
II
Buổi
sáng trên cao nguyên lạnh lẽo hơn dưới đồng bằng. Mặt trời mọc giữa giờ mẹo
nhưng phải đến gần hết giờ thìn mới lên khỏi đỉnh đồi. Lúc ấy sương mù vẫn còn
dưới những lòng thung, vạn vật mịt mờ trong sương sớm. Ăn sáng xong, hai anh em
họ Trương thu xếp hành lý và lên đường. Hành lý của họ thật là đơn giản, chỉ
gói gọn trong chiếc gùi, một vật dụng thiết thực của người Lạch là cư
dân bản địa vùng này. Vừa ra khỏi lòng thung, trước mặt anh em nhà Trương là
những ngọn đồi lúp súp, trên đó loài thông quần tụ thành những cánh rừng nhỏ,
xen lẫn vào đó là những trảng trống mọc đầy lùm, bụi. Trương Đại Quá hỏi Thái:
-
Bây giờ ta ghé qua nhà em được chăng?
Thái trả lời:
-
Em tính như vầy, bây giờ anh em mình chưa về nhà em vội, em sẽ đưa anh đến nhà
sư bá của em, bác Năm. Đó là một ông già
khó tính, nhưng nhất thiết anh phải làm theo lời dặn của em thì mới có thể dọ
hỏi bác Năm về tộc người lùn được. Bác Năm có biệt hiệu là Vạn Sự Thông, em
nghĩ bác biết chuyện người lùn, nhưng
tính tình bác cổ quái, thích thì nói, còn không thích thì không ai có thể cạy
miệng bác ra được. Tháng trước khi nhận lệnh thầy tìm hiểu về tộc người lùn, em
có đến nhà bác, nhưng chỉ vừa mở miệng bác đã mắng té tát ngay và đuổi em đi
một nước. Em nghĩ kỹ rồi bây giờ em phải lập mưu, cố chiều chuộng bác ấy hết
mình, nhưng phải có đại ca tham gia nữa mới được, kẻ tung người hứng, nhất định
có lúc bác phải cho mình biết thôi, đại ca thấy được không?
Trương Đại Quá khen Trương Thái:
-
Em còn nhỏ mà đã cực kỳ thông minh, sau này chắc sẽ làm nên việc lớn. Phải đó,
ta cứ tới nhà bác của em thử vận may xem sao?
Cả
hai nhắm hướng bắc thẳng tiến. Đến trưa, hai anh em Trương nghĩ chân dưới một
tàng cổ thụ, bên cạnh một con suối nước trong veo. Nhìn thấy suối, Trương Thái
la lên:
-
Có thức ăn tươi rồi, đại ca, anh bắc cho em nồi cơm, em kiếm ít cá nướng ăn.
Thái
quả là một tay sát cá, nhìn Thái tìm mồi là những con sùng trong những thân cây
và cách móc mồi vào lưỡi câu mà cậu đem sẳn bên mình, người ta biết rằng Thái
là một người câu cá chuyên nghiệp. Quả thật, chỉ một lát sau, khi nồi cơm
Trương Đại Quá chưa kịp chín, Thái đã câu tới chục con cá đủ cho hai người ăn
một bữa ngon lành. Bữa trưa của hai người dưới tài nấu ăn của Thái cũng là một bữa ăn ngon: cơm trắng ăn với
canh ốc núi nấu rau rừng, muối ớt và cá suối nướng. Trương Đại Quá vừa ăn vừa
khen đứa em giỏi dắn khiến Thái đỏ mặt cứ y như là con nhà khuê các. Thái nói:
-
Ta lên đường khoảng giờ thân là sẽ đến nhà bác Năm, nhưng em không muốn đến nhà
bác vào giờ đó. Đại ca, tối nay ta ở lại đây, sáng mai đi thật sớm, đến nhà bác
Năm khoảng cuối giờ thìn là vừa, đại ca thấy sao?
-
Tuỳ em thôi, ta thì sao cũng được, vậy trong chiều nay, em phải chỉ ta cách câu
cá, còn ta chỉ cho em võ công nhập môn của bản phái, được chăng?
Trương Thái reo lên:
-
Đại ca Quá hay quá, nhất định em sẽ chỉ cho anh nhiều kiểu đánh bắt cá, bây giờ
bắt đầu được chưa hả đại ca?
Sáng
hôm sau, hai anh em nhà họ Trương lên đường thật sớm, họ vẫn đi theo hướng bắc,
vượt qua nhiều quả đồi tròn cỏ mọc xanh tươi. Khi mặt trời vượt qua đỉnh đồi,
cả hai đi vào một thung lũng. Tận cùng thung lũng là một ngôi nhà tranh vách
đất, ngôi nhà dựa vào một ngọn núi khá cao, trước mặt nhà là một cái ao nước
trong xanh. Trương Thái cất tiếng gọi:
-
Bác Năm ơi bác có nhà không?
Cánh
cửa khép hờ được mở ra, một lão nhân xuất hiện trước sân nhà, lão cất tiếng hỏi:
-
Ai như thằng cháu Thái, ta đã không cho ngươi trở lại nhà này trong vòng ba
tháng, sao ngươi cãi lời ta hả?
Trương
Thái nhìn ông già, cậu chắp tay lại và cung kính vái:
- Thưa
bác Năm, cháu vẫn còn nhớ, nhưng cháu với Quá đại ca đi ngang nhà bác, nếu
không ghé thăm bác, cháu sợ bác la cháu không biết tôn trọng bậc trưởng thượng.
Quá đại ca, đây là sư bá của em, anh ra mắt đi?
Trương
Đại Quá, chắp tay lại và làm lễ ra mắt ông lão theo đúng môn quy, anh nói sau
khi hành lễ xong:
-
Cháu tên là Trương Đại Quá, quê quán ở huyện Tây Sơn, thôn Trường Định, xin ra
mắt lão bá.
Ông
lão nheo mắt nhìn Trương Đại Quá thật kỹ, ông lầm bầm trong miệng một điều gì
đó, một lát sau ông nói:
-
Thôi được, thằng nhỏ, lần này ta không bắt lỗi ngươi nữa, chàng thanh niên mời
vào tệ xá.
Trương
Thái vui mừng ra mặt, nó giục Trương Đại Quá:
-
Tạ ơn bá bá đi anh!
Trương
Đại Quá không nói gì, miệng anh tủm tỉm cười, Quá nhanh nhẹn đi theo ông lão
vào trong nhà. Tuy là nhà tranh vách đất nhưng rất là sạch sẽ, giữa nhà treo
một chữ phúc được viết trên giấy màu đỏ. Bên dưới là một bộ phản làm bằng một
loại danh mộc, có lẽ đã lâu năm nên lên nước đen bóng. Ông lão mời Trương Đại
Quá ngồi:
-
Ta tên là Phan Ngọc Ẩn, thứ năm, nên người ta hay gọi là ông già Năm. Chàng
thanh niên, cháu cứ gọi ta là bác Năm như thằng cháu nghịch ngợm của ta gọi là
được rồi.
-
Thưa bác Năm, bác ở đây chỉ có một mình thôi sao?
Trương Đại Quá hỏi ông già. Ông già trầm
ngâm nghĩ ngợi, hình như câu hỏi của Đại Quá chạm vào nỗi buồn của ông thì
phải. Nghĩ như vậy nên Đại Quá lấy làm áy náy, anh nói tiếp:
-
Cháu xin lỗi bác nếu câu hỏi vừa rồi làm cho bác buồn!
Ông
già cười gượng:
-
Không sao đâu cháu, đời ta sống một mình chốn núi đỏ rừng xanh cũng đã quen
rồi. Hôm nay gặp được cháu đây cũng là do duyên tiền định. Thôi ta không nói
tiếp chuyện này nữa, cũng gần trưa có lẽ các cháu đói rồi cũng nên?
Quay
sang Trương Thái đang chắp tay đứng hầu một bên, ông Năm nói:
-
Thái, con ra vườn bắt con gà, xuống ao câu vài con cá rồi làm vài món nhắm cho
ta và anh con uống rượu.
Ông
già hỏi Trương Đại Quá:
-
Cháu kể cho ta nghe cháu và thằng Thái gặp nhau ra sao mà nó gọi cháu là Quá đại ca?
Trương
Đại Quá kể lại chuyện tao ngộ của anh và Trương Thái vào buổi chiều chập choạng
tối cách đây hai ngày và sơ lược về gốc tích của mình. Nghe xong, ông già Năm
hỏi tiếp:
-
Ta hỏi khi không phải, ở thôn Trường Định, cháu có biết một người trạc tuổi ta,
cùng họ với cháu và có tên là Bổn không?
Trương
Đại Quá ngạc nhiên nói:
-
Thưa bác, đó chính là cha cháu!
-
Quả nhiên ta đoán không nhầm. Cháu Đại Quá, ta và cha cháu ngày xưa là bạn đồng
môn. Mới đó mà gần ba chục năm đã trôi qua, quả đời người tựa bóng câu qua cửa
sổ!
Ông
già trầm ngâm nghĩ ngợi như đang hồi tưởng về quá khứ, ông quên mất Trương Đại
Quá đang ngồi trước mặt. Trong lúc này, Đại Quá cũng đang xúc động, anh không ngờ
tại chốn xa lạ này lại gặp một người bạn của cha mình. Trương chờ nghe ông già
Năm nói tiếp, nhưng hình như những hình ảnh của quá khứ đang tràn ngập ông già,
nên ông không nói thêm một lời nào cả. Đợi một lúc lâu không thấy ông Năm nói
gì, Trương Đại Quá đánh bạo hỏi:
-
Thưa bác, vì sao bác phải lên tận trên này cư trú, cháu chưa bao giờ nghe cha
kể về bác?
Nghe
câu hỏi của Đại Quá, ông Năm như người sực tỉnh khỏi cơn mơ, ông xua tay:
-
Thôi thôi, chuyện của ta gác lại, sau này nếu có dịp ta sẽ kể cho cháu nghe, ta
hỏi cháu chuyện này, ai đặt tên cho cháu?
-
Thưa bác, trong làng cháu có một ông đồ, cha cháu cho cháu theo thầy học được
một ít chữ thánh hiền, chính thầy đặt tên cho cháu.
Ông
Năm ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:
- Tên của cháu rất có ý nghĩa. Ta nghĩ ông
đồ nho đó đã lấy số Hà Lạc của cháu nên mới đặt tên cho cháu theo quẻ Trạch
Phong Đại Quá. Lời tượng của quẻ này nói rằng: nước đầm làm chết cây là quẻ Đại
Quá. Người quân tử coi quẻ này mà một mình đứng riêng độc lập với thiên hạ cũng
không sợ gì, dù phải trốn đời cũng không phiền muộn. Cho nên cháu phải nhớ rằng
người quân tử phải có đức độ hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo nghĩa và
chính đáng thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ cũng không sợ.
Nếu là việc không hợp đạo, không thèm làm, dù có phải trốn đời, cũng không
phiền muộn. Được như vậy trên đường đời cháu sẽ thành công.
Trương
Đại Quá cung kính lắng nghe lời ông Năm dạy. Anh nghĩ rằng tuy chỉ mới gặp
nhau, nhưng giữa anh và ông Năm hình như có một mối nhân duyên đang hình thành,
ông già có vẻ mến anh, còn anh rất kính trọng ông già. Ông Năm hỏi:
-
Cha mẹ cháu vẫn mạnh khỏe chớ?
Nghe
nhắc tới cha mẹ, Trương Đại Quá trả lời với một nét mặt buồn thiu:
-
Cha mẹ cháu chết cả rồi!
Ông
Năm giật nẫy người và hỏi lại:
-
Cháu nói sao, cha mẹ cháu đã chết cả rồi à?
-
Thưa bác đúng như vậy, cha cháu chết cách đây ba năm, còn mẹ cháu chết sau cha
cháu vừa đúng một năm.
Nghe
Trương Đại Quá nói như vậy, ông già Năm lại chìm trong trầm tư mặc tưởng với vẻ
đau khổ hằn rõ trên khuôn mặt già nua. Nhưng chỉ trong một thoáng, ông Năm đã
lấy lại vẻ bình tỉnh như thường. Ông nói:
-
Ta chia buồn với cháu. Chuyện sinh ly tử biệt là lẽ vô thường của một kiếp người.
Chắc thằng nhỏ Thái đã làm cơm xong, bác cháu ta vào dùng cơm đi thôi.
Nhà
bếp là một gian nhà khá rộng, cũng nhà tranh vách đất, có hẳn một gian nhà nhỏ
bên cạnh để chứa củi khô. Bếp là một cái lò đắp bằng đất và đặt lên một cái bệ
hẳn hòi, khác hẳn với cái bếp của những người Lạch mà Trương Đại Quá
từng thấy khi lên cao nguyên này. Lúc ấy, Trương Thái đang sắp cơm ra một chiếc
bàn được ghép bằng những thân lồ ô to và có bốn chân chôn xuống đất. Thái mời:
-
Cơm canh vừa xong con kính mời bác và Quá đại ca dùng cơm cho nóng.
Trương
Thái vào gian chứa củi mang ra một vò rượu màu da lương được bịt bằng lá chuối
khô. Cậu rót rượu ra hai chiếc chung màu cua đồng và mời:
-
Cháu mời bác và Quá đại ca uống rượu.
Cử
chỉ rót rượu và mời của Thái rất thành thục, hình như chuyên này cậu làm thường
xuyên thì phải. Ông Năm bưng chung rượu
lên nói:
-
Chúng ta bèo nước gặp nhau, cháu Thái, hôm nay ta phá lệ, cháu lấy thêm một cái
chung và cùng uống với chúng ta.
Trương
Thái vui ra mặt, lần đầu tiên cậu được đối xử như người lớn nên cậu thích thú
vô cùng. Còn ông già Năm, hình như lâu lắm rồi ông mới có dịp ăn chung với
người khác, nên ông rất vui vẻ, miệng cứ tủm tỉm cười hoài. Còn về phần Quá,
trong nhiều tháng qua, Trương Đại Quá ăn uống một cách quấy quá cho xong bữa,
nên hôm nay được ăn cơm một cách đàng hoàng, Quá rất lấy làm thích thú. Thêm
vào đó, tài nấu ăn của Trương Thái quả
là hiếm có, cậu chế biến thức ăn rất ngon nên bữa cơm trưa diễn ra trong không
khí rất là hứng khởi, cộng vào đó có mấy chung ngũ gia bì tửu lâu năm của ông
Năm nên ai cũng có vẻ hài lòng ra mặt. Ăn xong ông Năm nói:
-
Khá khen cho thằng nhỏ Thái nấu ăn ngon, đã từ lâu ta mới có một bữa ăn ngon
như vậy!
Trương
Thái cười cười rồi nói:
- Hay là bác cho tụi con ở lại với bác, con
và Quá đại ca hàng ngày phục dịch cơm rượu cho bác?
Ông
già trợn mắt:
-
Không được, ta hồi giờ không quen sống với người khác. Ta cho bọn cháu ở lại ba
ngày là đã phá lệ rồi!
Nghe
ông già Năm nói, Trương Thái mặt buồn thiu, cậu suy nghĩ một hồi rồi tươi tỉnh
trở lại, không hiểu Trương Thái đã nghĩ ra được điều gì. Trong khi ông già Năm
và Trương Đại Quá uống trà, Trương Thái rửa chén bát. Khi đã úp cái chén cuối
cùng vào chạn, Thái nói:
-
Bác Năm, hồi sáng cháu nghe bọn trẻ con hát một bài có liên quan đến bác, cháu
đọc cho bác nghe nhé?
Ông
Năm lấy làm ngạc nhiên hỏi lại:
-
Chúng hát những gì, mau nói ta nghe?
-
Nhưng bác không được la cháu, vì cháu chỉ kể lại cho bác nghe mà thôi?
-
Được, ngươi kể đi.
Trương
Thái hắng giọng rồi đọc…một bài vè:
- Nghe
vẻ nghe ve/ nghe vè núi Cấm/ có ông Ngọc Ẩn/ người thật tài tình/ mặt mũi lình
sình/ mà biết hết ráo/ ai cho rằng láo/ cứ tới hỏi thăm/ nhà ông già Năm/ dưới
chân núi Cấm.
Nghe xong ông Năm
đùng đùng nổi giận:
-
Bọn láo toét, ta như vầy mà dám nói là mặt mũi lình sình a?
Trương
Thái vội nói:
-
Bác lại giận rồi, con đã nói trước con chỉ nghe trẻ nhỏ đọc thôi, không phải
con bịa ra chọc giận bác đâu. Con chỉ tin có một nửa bài vè này.
-
Ngươi tin điều gì nói ra ta nghe thử?
Trương
Thái trả lời:
-
Đó là câu: ”mà biết hết ráo’’ trong bài vè đó. Bác ơi, bác có hiệu là
Vạn Sự Thông, có phải là chuyện gì bác cũng biết hết phải không?
Nãy
giờ Trương Đại Quá lắng nghe, đến đây thì anh hiểu rõ ý đồ của Trương Thái, anh
phục thầm thằng nhỏ biết dàn dựng và dẫn chuyện để khai thác ông Năm. Đúng như
Trương Đại Quá nghĩ, ông Năm đã bớt giận:
-
Làm sao ta biết hết tất cả chuyện trong thiên hạ được, nhưng ngươi hỏi như vậy
là có ý đồ gì?
Trương
Thái nhìn Trương Đại Quá với ánh mắt thầm nhắc lại thỏa thuận của hai người,
Đại Quá mỉm cười, một nụ cười đồng loã với Thái, Quá nói với ông Năm:
-
Thưa bác, chúng cháu không có ý đồ gì đâu, chẳng qua cách đây một đêm, chúng
cháu, nói chính xác là cháu, có gặp một chuyện kỳ bí, anh em cháu đang định đem
ra hỏi bác xem bác có biết chuyện lạ này không?
Được
sự đồng ý của ông Năm, Trương Đại Quá đem chuyện gặp ông già lùn kì dị ra kể
lại và ý định đi tìm bộ tộc người lùn của hai anh em họ Trương. Nghe xong, ông
Năm nghiêm nét mặt:
-
Ta khuyên hai người bỏ ngay ý định tìm hiểu tộc người lùn đi, nguy hiểm lắm.
-
Vì sao lại nguy hiểm hả bác?
-
Ta bảo nguy hiểm là nguy hiểm, còn nghe lời ta hay không là tùy hai người, ta
không lý đến chuyện của anh em các người đâu.
Ông
già Năm miệng nói không quan tâm, nhưng thái độ của ông thì ngược lại, nét lo
lắng hiện rõ trên gương mặt ông già. Thái độ đó khiến anh em họ Trương chú ý,
Trương Thái buộc miệng:
-
Bác ơi, tụi con không sợ nguy hiểm, bác chỉ dạy cho tụi con đi!
-
Ta đã bảo rồi, không được là không được. Các người hết chuyện làm rồi sao mà
lại muốn dây vào chuyện này hả?
Trương
Đại Quá từ tốn nói:
-
Thưa bác, không phải là chúng cháu hết việc làm, nhưng mà chúng cháu cần phải
vào xứ sở của tộc người lùn để tìm một loại dược thảo, chỉ bọn người lùn mới
biết loại thuốc đó mọc nơi nào. Bác thấy đó, người ta nói rằng “dù xây chín
bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người”. Huống chi nếu thứ
thuốc mà sư phụ em Thái chế ra thì có thể giúp cho bao nhiêu người khỏi bệnh?
Ông
Năm trợn mắt nói:
-
Dẫy na! Thằng cháu Thái, sao bay không nói với ta chuyện này?
-
Lần trước con mới hỏi bác về xứ sở người lùn, bác đã chửi con và đuổi con phải
đi ngay, làm sao con có dịp để trình với bác?
Nghe
nói vậy vẻ mặt ông Năm hoà hoãn trở lại, ông nói:
-
Thôi được, để ta kể một chút kiến thức mà ta biết về tộc người lùn, nhưng nhất
thiết các cháu phải thật là cẩn thận khi hành sự, chứ xứ sở của người lùn Lang
Bian hung hiểm vô cùng.
…Lúc
ta mới lên cao nguyên này, trong lòng ta muốn xa lánh tất cả mọi người. Vì sao
ta phải như vậy, sau này ta sẽ kể cho các cháu nghe. Thiên nhiên hùng vĩ và
xinh đẹp, cộng với khí hậu tuyệt vời khiến ta say mê dong ruỗi hết ngày này qua
đến tháng nọ. Người Lạch giúp ta tất cả: họ cho ta gạo, muối mắm, quần
áo để mặc với một tấm lòng hào phóng, không lấy của ta một cái gì. Đến nay, ta
đã di chuyển qua nhiều nơi, nhưng người dân ở đây vẫn quý và giúp đỡ ta như
ngày trước vậy. Ta nói điều này để các cháu biết rằng, người Thượng có một tấm
lòng thật là chân chất, họ không màng lợi lộc, đó chính là đặc điểm của những
người vùng cao. Sự thật thà chất phát của họ có được chính là do sống gần gũi
với thiên nhiên, mà thiên nhiên trên này trong sạch vô cùng.
Ta
một mình lang thang trên cao nguyên xanh này và lấy làm thích thú với một cuộc
sống cô tịch. Cách nay độ năm năm, ta định cư ở một nơi cách đây khoảng một
ngày đi đường, ta chăn nuôi, trồng trọt làm kế sinh nhai. Đất đai vùng này rộng
bạt ngàn, người bản địa thì ít cho nên ta chỉ cần nói một tiếng với già làng
bon Lat là ta có thể sinh sống trên đất đai tổ tiên họ để lại. Ta chỉ chăn
nuôi thỏ, trồng ít rau màu để trao đổi với người Lạch là đủ sống. Ta một
thân một mình, nhu cầu không có gì nhiều nên cuộc sống cứ bình lặng trôi qua.
Đàn thỏ của ta phát triển rất tốt, các cháu phải biết, thỏ là giống sinh sản
rất nhanh, ban đầu ta chỉ có hai cặp, vậy mà một năm sau ta có một đàn thỏ trên
cả trăm con. Ta không bán, chỉ để ăn dần và trao đổi với người Lạch. Vậy
mà một hôm ta thấy đàn thỏ nhà ta hao hụt một cách khó hiểu. Ban đầu ta không
để ý cho lắm, ta cứ tưởng rằng con chó nhà ta cắn chết vài con thỏ, nhưng đến
khi ta phát hiện ra đàn thỏ chỉ còn lại trên khoảng năm chục con thì ta buộc
phải nghĩ khác đi. Ăn trộm của người khác là một thói xấu và người Lạch
không bao giờ mắc phải thói này. Ta giao du với họ từ lâu, nhưng chưa bao giờ
biết qua một vụ ăn trộm hay ăn cắp. Vậy mà lần này ta phải nghĩ người Lạch
ăn trộm thỏ của ta, bởi vì chung quanh ta chỉ có người Thượng thì lấy ai ra để
mà ăn trộm thỏ? Ta rắp tâm tìm ra kẻ trộm, nhưng hình như một màn bí mật bao
trùm lên trang trại của ta. Thỏ tiếp tục bị mất một cách khó hiểu, còn ta thì
không cách gì tìm ra thủ phạm.
Hôm
ấy ta buồn bực trong lòng, ta có uống hơi quá chén. Khi đã khá say, ta ra vườn.
Trăng trên trời sáng quá, gió mát thổi xào xạc qua những ngọn cây. Ta ngồi ngắm
cảnh dưới một gốc thông già ven bờ suối và ngủ lúc nào không biết. Đến khi ta
giật mình tỉnh lại, trăng đã lặn vào một đám mây, gió không còn vi vu thổi nữa.
Ta nhìn thấy điều gì các cháu biết không? Trước mặt ta là hai nguời lùn đang ra
sức kéo hai con thỏ của ta. Ta vừa tức vừa kinh ngạc. Từ hồi nào đến giờ ta
chưa bao giờ gặp một người lùn kỳ dị như vậy bao giờ. Đó là hai người già, bộ
râu của chúng rất thưa và đốm đỏ đốm vàng. Nhưng bộ quần áo của chúng mới làm
ta tức giận: đó chính là bộ lông thỏ của ta. Ta tỉnh hẳn rượu và đứng vụt dậy.
Thấy ta hai tên lùn bỏ chạy. Trong chớp mắt chúng biến mất tăm mất tích như có
phép tàng hình. Ta hồ nghi quá đổi, ta nghĩ rằng ta trông gà hóa cuốc, nhưng
giải thích thế nào về hai con thỏ đang nằm trước mặt ta? Hai con thỏ đã chết vì
một vết thương trí mạng trúng vào tim, lúc ấy máu còn ra, thân còn âm ấm. Ta
nhặt hai con thỏ đi vào nhà, vừa đi ta vừa suy nghĩ. Ta cả quyết rằng ta không
nhầm, ta có uống rượu thật nhưng đâu đến nỗi quá say?
Mấy
ngày sau trang trại của ta bình yên, thỏ không bị mất cắp nữa, ta cũng quên đi
chuyện dưới đêm trăng. Mùa trăng tháng sau, chuyện cũ lập lại. Ta tức điên
người và quyết tâm tìm cho ra kẻ cắp. Ta mai phục chỗ tháng trước ta bắt gặp
hai thằng lùn già từ lúc mặt trời lặn bằng cách ngồi trên ngọn thông già. Đêm
rằm trôi qua trong yên lặng, không một động tĩnh gì. Ta kiên trì mai phục đến
đêm mười bảy. Lúc gần nửa đêm, ta nghe một tiếng động lạ, đó là một tiếng rúc
của một loại kèn nghe rất nhỏ nhưng rất chói tai. Ta nhìn xuống con đường mòn
nhỏ dưới gốc thông, dưới ánh trăng mờ, ta nhìn thấy hai tên lùn già hôm trước.
Lần này ta nhìn kỹ chúng. Chúng cao cùng lắm chỉ tới đầu gối ta, da nhăn nheo
với một bộ râu thưa, chúng mặc một bộ áo liền quần bằng da thỏ.Thật ra, cái
quần chúng mặc chỉ là một cái quần đùi lòi ra đôi chân ốm nhách. Vừa đi chúng
vừa thầm thì trao đổi bằng một thứ tiếng nói thoạt nghe giống tiếng xào xạc của
cây cỏ khi có cơn gió thổi qua. Đích đến của chúng đúng là chuồng thỏ nhà ta.
Ta nín thở theo dõi. Quả là những tay ăn trộm cừ khôi, chúng hành động không
gây một tiếng động và chỉ một lát sau chúng lôi ra hai con thỏ lớn nhất đàn. Ta
điên tiết la lên:
-
Ăn trộm, đừng hòng chạy thoát khỏi tay ta.
La
xong, ta nhảy xuống đất và vung tay. Một mũi thấu cốt đinh của ta trúng một
tên, còn mũi thứ hai thì hụt. Thằng thoát chết co giò chạy trốn với một thân
pháp nhanh nhẹn không tưởng được. Các cháu phải biết rằng, ta đã có trên hai
chục năm luyện môn phóng thấu cốt đinh, trăm phát trăm trúng, nên hôm nay để
một địch nhân chạy thoát khiến ta ngẩn cả người ra. Đến lúc này ta mới biết
rằng trong thiên hạ còn có những điều vượt lên sự hiểu biết của mình, chớ từ
trước đến giờ ta cứ nghĩ rằng thấu cốt đinh của ta một khi đã phóng ra là không
ai thoát được. Ta có tẩm một thứ độc dược nơi mũi của mỗi cây đinh, thứ độc
dược này khiến cho người trúng thương tê liệt, nếu trong vòng ba tháng mười
ngày không có thuốc giải của ta thì người trúng thương phải chết. Vì đã tin
chắc như vậy nên ta không lý gì đến tên trúng đinh của ta, ta cứ dò tìm mãi tên
chạy trốn. Đến khi thất vọng vì tìm không ra, ta quay lại chỗ hồi nãy. Thật bất
ngờ, tên trúng thương cũng không còn nữa! Đây chính là một một roi quất trúng
tính tự mãn của ta. Ta thất vọng đến đau lòng vì thất bại vừa qua, quả là trong
thiên hạ, người này giỏi còn có người khác giỏi hơn, chuyện ta gặp phải là một
ví dụ.
Ta
ra sức tìm dấu vết của hai tên ăn trộm, dưới ánh trăng mờ, một vệt máu đỏ lộ
ra. Thì ra tên trúng thấu cốt đinh bị thương, y mang thương đào tẩu. Ta ngạc
nhiên hết sức, biệt dược mà ta tẩm vào mũi đinh có gặp hổ cũng phải chịu nằm
yên, vậy mà tên trộm lùn này lại có thể chạy trốn. Ta lần theo dấu vết và mất
rất nhiều thời gian. Hình như bọn người lùn này lượng máu quá ít nên khi bị
trúng thương máu chảy ra ngoài không nhiều lắm, hoặc chúng có một phương thuốc
cầm máu chăng? Vừa săm soi ta vừa nghĩ như vậy. Đến sáng, dấu vết dẫn ta đến
một cái hang sâu hun hút. Lúc này ta đã mệt vì suốt đêm truy tìm kẻ cắp, ta ghi
nhớ chỗ ấy rồi ra về.
Sáng hôm sau ta ra lại cái hang đó. Trước khi đi, ta ra chuồng thỏ kiểm
tra. Thật là tức ói máu, đêm qua ta lại bị mất trộm thêm bốn con thỏ nữa. Ta
căm tức nghĩ thầm trong bụng, lần này ta sẽ đốt tan cái hang của bọn ăn trộm
cho hết dòng giống lũ đạo chích. Đến nơi, ta tìm thật nhiều củi chất trước cửa
hang và châm lửa đốt. Khi lửa tàn ta bỏ về, trong bụng nghĩ rằng từ nay ta sẽ
ăn ngon ngủ yên, bọn người lùn chắc là chết hết cả rồi. Các cháu biết không,
không ai có thể sống mà thiếu không khí được, có lẽ bọn lùn cũng vậy thôi.
Nhưng sự thật không như ta nghĩ, đàn thỏ ta
vẫn tiếp tục chết, cho dù ta canh gác cỡ nào thỏ vẫn chết. Lúc này thì ta biết
chắc bọn lùn trả thù ta, vì thỏ bị trúng thương chết tại chuồng nhưng bọn chúng
không thèm đem xác thỏ về như dạo trước. Chúng không để lại một chút manh mối
nào khả dĩ có thể tìm ra thủ phạm. Đến nước này ta đánh liều, ta thử vào tận
hang ổ của bọn lùn bằng cách chui vào cái hang hôm trước ta phát hiện ra. Cửa
hang rất nhỏ so với thân hình của ta, cho nên ta dùng cuốc moi thêm cho rộng
ra. Cũng may càng đi sâu vào trong lòng hang càng rộng, khoảng mười trượng ta
không cần moi thêm nữa. Chiếc hang lúc quành bên tả, lúc quay bên hữu, đặc biệt
là có một làn lãnh khí cứ chực hút ta vào phía trong. Ta cũng hơi sợ, nhưng do
quá tức tối nên ta cố gượng lại làn lãnh khí đó và đi đến cuối đường. Trước mặt
ta là một vòm trời khác biệt, hèn nào bao nhiêu là khói đốt của ta không có một
chút tác dụng nào!
Ta say sưa ngắm cảnh xứ sở của bọn lùn. Đó
là một thung lũng cực lớn. Từ miệng hang ta nhìn thấy thung lũng được bao bọc
bằng những ngọn núi cao chớn chở, đỉnh núi lẫn vào trong mây trắng. Giữa lòng
thung là một con suối lớn, nước chảy theo hướng tây bắc đông nam, chia thung
lũng ra làm hai phần bằng nhau. Bên bờ
suối có hai toà nhà rất to lớn được nối với nhau bằng một chiếc cầu. Còn lại là
những ngôi nhà nhỏ bé xấu xí được cất một cách vô trật tự trên những sườn đồi,
cạnh những lùm, bụi hoặc dưới những tàng cây. Lúc ta vừa đến, ta thấy từ những
ngôi nhà nhỏ bé, những tên lùn kéo nhau ra khỏi nhà. Trên tay bọn chúng là
những vật dụng làm việc hay là vũ khí, tất cả như đồ chơi con nít dưới xuôi ta
từng thấy. Một số tràn ra cánh đồng, một số đi đi lại lại trên đường, hoặc ra
vào hai toà nhà to lớn. Một số chiếc xe do súc vật kéo cũng chạy trên đường
giống như ta từng thấy, nhưng con đường chỉ vừa một chiếc xe. Điều đặc biệt là
không có sự đụng đầu nhau giữa hai chiếc xe. Ta thật sự kinh ngạc với những
cảnh diễn ra trước mắt, giống y như khi ta được xem những con rối hoạt động. Tò
mò qúa sức, ta tìm đường để vào thung lũng. Cửa hang ta đang đứng cách mặt đất
khoảng mười trượng, vì vậy cảnh vật ta xem nãy giờ là xem từ trên cao xuống. Ta
không hiểu bọn quỷ lùn xuống bằng cách nào với khoảng cách quá cao như
vậy ? Còn ta, ta có thể phi thân xuống, nhưng cũng hơi lo lo vì ta không
biết điều gì chờ ta phía dưới. Nhưng ta cứ liều, ta quan sát cẩn thận không
thấy mặt đất bên dưới có gì khả nghi, ta nhảy xuống. Nhưng khi vừa chạm đất, ta
hoảng kinh khi nhận ra rằng mình đang rơi vào một hố sâu. Thì ra đây là một bẫy
rập, ta vô tình lọt vào bẫy của bọn quỷ lùn. Những tiếng leng keng vang lên, ta
hiểu ngay đó là tiếng kẻng báo động người lạ xâm nhập vương quốc của bọn chúng.
Trong chớp mắt đó, ta giơ tay lên đầu theo linh tính. Chính điều này đã cứu ta.
Ta biết rằng chỉ chốc lát nữa thôi, bọn lùn sẽ kéo đến, lúc đó ta dù có một
thân võ công cao cường cũng không thể địch lại số đông. Ta cho tay vào bọc, rút
ngay con dao cùn đen xì của sư tổ ngươi ra và cứa vào những vòng kim loại đang
quấn chặt ta khi ta vừa sa xuống hố. Đó là những vòng dây bằng sắt to cỡ ngón
tay út của ta, nếu gặp phải người khác, thì không cách gì thoát ra được. Nhưng
với chiếc dao cùn của sư phụ ta, thì dù sợi lòi tói đó có to bằng cườm tay con
nít cũng không là một trở ngại. Chuyện con dao này, ta sẽ kể cho các ngươi nghe
khi có dịp. Từng vòng dây lòi tói rơi lả tả chỉ bằng một nhát dao, ta được tự
do. Ta lấy sức phi thân lên mặt đất, lúc này những tên lùn lính canh nghe báo
động đã chạy gần đến chiếc hố ta vừa sa vào, nếu chỉ chần chừ một chút là ta
khó thoát. Nghĩ như vậy nên ta vội phi thân trở lên cửa hang. Đúng lúc đó một
số tên lùn reo hò kéo đến bẫy rập. Bọn chúng thấy ta thoát được cạm bẫy, chúng
lấy làm tức tối, một số tên lấy cung tên ra nhắm ta và bắn. Thật là nực cười với
những đồ trẻ con, ta cũng phóng vào chúng mấy mũi thấu cốt đinh trước khi bỏ
đi. Tiếng reo hò của bọn lùn văng vẳng phía sau kèm với những tiếng rú đau đớn
của những tên bị trúng thương, nhưng vì chân cẳng bọn chúng nhỏ, bước chân ngắn
nên chỉ một lúc là ta đã bỏ bọn chúng một khoảng cách khá xa. Ta về đến nhà thì
bị một bất ngờ nữa: trang trại bao nhiêu năm chăm sóc của ta giờ đây chỉ là
đống tro tàn. Ta biết đây chính là kế ‘điệu hổ ly sơn’ của bọn quỷ lùn, ta
vì coi thường bọn chúng mà mắc vào. Ta ngồi phệt xuống đất, hai mắt nổ đom đóm
vì tức tối.
Chính lúc đó ta thấy người ta thật là khó
chịu, một làn hơi lạnh không biết từ đâu thâm nhập cơ thể ta. Ta lên cao nguyên
này đã khá lâu, những vùng lam sơn chướng khí ta cũng đã gặp, nhưng chưa bao
giờ bị chướng khí xâm nhập cơ thể vì ta rất chăm rèn luyện thân thể. Vậy mà giờ
đây ta đang rét run dưới ánh nắng ban trưa của mùa hè. Đây là một điều khiến ta
thắc mắc, ta nghĩ có lẽ ta trúng một loại độc chất nào đó của bọn quỷ lùn mà ta
không phát hiện được. Nhưng nếu ta trúng độc thì trúng ở đâu, bởi vì ta chưa
tiến sâu vào lãnh thổ của bọn chúng lắm ? Đột nhiên ta nhớ lại chuyện ngày
xưa. Lúc đó ta có một chuyện buồn nên lang thang khắp nẽo để khuây khoả, đồng
thời ta muốn bước đường đời của mình thêm lịch duyệt. Năm ấy ta có đi ngang qua
Hồng Lĩnh sơn. Đây là một ngọn núi cao gần với với châu Hoan, châu Ái của vương
quốc Chăm Pa ngày xưa. Buổi chiều hôm ấy ta đi vào một thung lũng hẹp và dài.
Cuối thung lũng ta thấy một cảnh rợn người: một nhà sư gầy gò bị một con trăn
gió đang ra sức quấn chặt. Gương mặt nhà sư tái mét, chỉ còn cặp mắt là nhìn ta
cầu cứu. Ta rút ngay một cái thấu cốt đinh và nhắm đốt xương thứ mười lăm của
con trăn và phóng vào. Sau đó ta dùng con dao đi rừng chặt một khúc đuôi cỡ
gang tay của con trăn. Các ngươi phải biết sức mạnh của con trăn tập trung ở
khúc đuôi này, nếu bị chặt đi thì con trăn chỉ còn là một đống thịt không hơn
không kém. Ta lôi nhà sư ra khỏi đống thịt trăn, ông đã bị gẫy một rẻ xương
sườn, nhưng tánh mạng đã được bảo toàn. Vừa thoát chết, nhà sư vội buông một
câu Phật hiệu:
- Nam Mô A Di Đà Phật, tội nghiệt, tội
nghiệt, vì ta mà con trăn phải chết!
Nhà sư đã không cảm ơn cứu mạng của ta thì
chớ, lại còn ý trách ta qua câu nói đó. Ta tức giận nói:
- Nếu ta không giết nó thì liệu giờ này sư
phụ còn sống hay không?
Nhà sư trả lời:
- Sống cũng vậy mà chết cũng vậy, tất cả
chúng sinh đều trong vòng sinh tử luân hồi.
Thật là ngang phè hết chỗ nói, ta thôi
không muốn dây dưa với lão thầy tu nên định bỏ đi. Thấy ta dợm bước, nhà sư
chấp tay lại và nói:
- Thí chủ, ta có một điều nói với thí chủ.
Hiện tại thí chủ đã bị một loại chướng khi xâm nhập rất sâu vào nội phủ, nếu
không chữa trị kịp thời thì chỉ trong vòng ba năm nữa thí chủ sẽ mạng vong.
Thấy ta có vẻ bán tin bán nghi, lão thầy tu
nói thêm:
- Có phải mỗi sáng thức dậy, thí chủ thấy
ớn lạnh khắp người không? Làn lãnh khí
như dao cắt ban đầu chỉ phớt qua, nhưng càng ngày thí chủ bị lạnh càng
nhiều. Khoảng ba năm nữa nếu không chữa trị thí chủ sẽ bị xuất huyết tại thất
khiếu và sẽ chết.
Quả thật những ngày trước đó, ta thấy một
cơn lạnh y như nhà sư nói, làn lãnh khí
ngày càng hành hạ ta nhiều hơn. Nghe lão sư nói vậy, ta đổi thái
độ và xin lão sư cứu mạng. Lão đúng là một người càn rỡ, lão nói với ta:
- Ta sẽ truyền cho thí chủ một loại tâm
pháp. Hàng ngày thí chủ theo tâm pháp này mà luyện tập thì sẽ tránh được tai
hoạ. Nhưng giữa ta và thí chủ coi như không ai nợ ai điều gì, thí chủ chịu
không?
Tất nhiên là ta chịu, lão sư bày ta cách
bắt tâm ấn, cách ngồi thiền và pháp hô hấp….Trước khi chia tay lão sư nói:
- Thí chủ, giữa ta và thí chủ không ai nợ
ai điều gì, nhưng trước lúc chia tay ta có vài lời nói thêm, thí chủ chịu nghe
không?
Đúng là một con người càn rỡ, ta nghĩ thầm
trong bụng như thế, nhưng miệng vẫn trả lời:
- Xin đại sư cứ dạy!
- Vậy thì thí chủ hãy nghe đây: bệnh từ
miệng mà vào, hoạ từ miệng mà ra, bệnh đã vào rồi thì kiên trì tập luyện để
đuổi bệnh đi. Nhưng bệnh của thí chủ không dễ gì đi khỏi nội phủ thí chủ, vì
vậy từ nay về sau, nhất thiết thí chủ không để cho thân tâm tức giận. Nếu thí
chủ để cho tức giận, sân, si làm chủ tâm tình của thí chủ, lập tức bệnh sẽ kéo
về, lần này chỉ có Đại La Kim Tiên mới cứu được thí chủ thôi.
Sau đó ta và lão sư nói chuyện thêm một lúc
rồi đường ai nấy đi.
Trở lại chyện ta thấy một làn hơi lạnh xâm
nhập cơ thể, ta nghĩ ngay đến câu dặn của đại sư. Phát hiện ra điều này ta kinh
hãi vô cùng. Quả trong mấy tháng qua, ta rất tức giận những người lùn và quên
bén đi lời dặn của lão sư. Đến khi nhớ lại thì hậu quả đã xảy ra rồi. Lúc này
ta bình tỉnh suy xét. Ta thấy chỉ có con đường duy nhất là phải bỏ tất cả mọi
chuyện để chuyên tâm luyện pháp môn mà lão sư chỉ dạy nhằm cứu lấy thân. Ta tìm
đến một hang động gần nhà và kiên trì toạ thiền dẫn khí đi khắp châu thân để
trị bệnh. Chỉ có những lúc cần kíp ta mới rời hang động để đi xin lương thực
của những người bạn Lạch. Vậy mà phải mất một năm mới có chút thành tựu,
làn lãnh khí không liên tục tấn công ta nữa, nó đến cách nhật, rồi năm ngày,
rồi một tuần mới ‘viếng’ ta một lần. Hiện nay hàng tháng ta đều phải đón chào
người bạn không mời mà đến.
Khi đã đỡ bệnh, ta dời nhà đi. Thật ra nhà
ta đã cháy cả rồi nên ta chỉ gom vài vật dụng lặt vặt và tìm nơi ở mới. Ta còn
phải đối phó với những tên lùn nhiều lần nữa, chúng theo dõi ta và ra tay giết
chết gia súc mà ta nuôi, ngay cả con chó vàng ta coi như bạn chúng cũng không
tha. Sự trả thù của người lùn thật là tàn bạo và dai dẵng. Phần ta, qua chuyện
vừa rồi ta thật không dám tức giận chúng dù chuyện chúng gây cho ta khó chịu
đến đâu chăng nữa. Thấy ta không có một hành động trả đũa nào, mãi gần đây bọn
chúng mới buông tha ta, ta đang an vui sống như những ngày trước đó thì cháu
Thái đến hỏi ta về bọn chúng, vậy thử hỏi sao ta không la rầy và không cho cháu
hỏi được?
Trầm ngâm một lát rồi ông Năm nói tiếp:
- Nhưng bây giờ ta biết được mục đích của
hai cháu thì ta phải có cách giúp các cháu thôi. Ta tin tưởng vào tài nghệ của
sư phụ cháu Thái, sư đệ ta đã sai cháu vào chỗ ở của bọn lùn tìm dược thảo, tất
thứ dược thảo đó rất là quý hiếm. Sư đệ ta một đời nghiên cứu y dược cứu người,
chỉ tiếc quá ham chơi nên thành tựu cũng giảm đi nhiều. Thôi thì thế này, ta
cũng vì tưởng nhớ đến bạn đồng môn mà truyền cho các cháu một ít phương thuật
phòng thân, biết đâu trên đường đời có cơ sử dụng, được như vậy ta lấy làm mãn
nguyện lắm rồi.
Trương Thái và Trương Đại Quá nghe ông già
Năm nói vậy, cả hai mừng khôn xiết, không hẹn mà hai anh em cung kính quỳ xuống
lạy ông Năm một lạy. Trương Đại Quá nói:
- Thưa thầy, được thầy nhận làm đệ tử dạy
dỗ chúng con, chúng con xin một lạy dâng thầy, chúng con xin hứa sẽ tuân theo
lời dạy của thầy làm rạng rỡ môn phái.
Lời nói của Trương Đại Quá xuất phát tự
tâm, không ngờ ông Năm đứng phắt dậy và nói:
- Ta chưa bao giờ nhận anh em các ngươi làm
đệ tử, vì vậy miễn cho ta phải nghe những lời lẽ rườm rà.
Trương Thái và Trương Đại Quá quá đổi ngạc
nhiên, vừa rồi chính tai hai người nghe ông già Năm nói rằng sẽ truyền cho hai
người một ít phương thuật phòng thân, chẳng lẽ sau khi hai người làm lễ bái sư
xong, ông Năm lại nuốt lời? Quả thật là khó hiểu. Ngẫm nghĩ một hồi, bỗng nhiên
Trương Thái cười nói:
- Thưa bác, tụi con xin tâm lãnh những gì
mà bác đã dành cho tụi con, tuy bác và tụi con không phải là sư đồ, nhưng trong
lòng tụi con lúc nào cũng coi bác như một người thầy, nếu bác vừa là thầy vừa
là cha thì tụi con không mong muốn gì hơn nữa.
Nghe Trương Thái nói như vậy, Trương Đại
Quá mới hiểu thâm ý của ông Năm, anh thầm phục cách ứng xử của người em kết
nghĩa. Quả thật, trong mấy ngày qua, Trương Thái đã hai lần có cách ứng xử rất
thông minh, khiến ông Năm rất hài lòng. Vẻ hài lòng của ông Năm hiện rõ trên
khuôn mặt già nua, ông mỉm cười rất hiền, khác hẳn thái độ khi mới tiếp xúc với
Trương Đại Quá. Ông nói:
- Các con qua thư phòng bên cạnh, ta bắt
đầu chỉ dạy cho các con. Ta nói trước rằng những môn ta dạy là những môn học bí
truyền, tuỳ theo sự tiếp thu của từng người mà thành tựu có khác nhau. Trong
đời không ai là người ngu dốt cả, người này có thế mạnh về môn này, có thể
không hợp với môn khác. Do đó trong học tập các con phải rất cố gắng tìm tòi,
nghiên cứu những gì ta chỉ dạy và tìm ra những môn học thích hợp với mình.
Trong tất cả các môn phương thuật ta biết được, đều bắt nguồn từ bộ Kinh Dịch.
Trong bộ Kinh Dịch này, một vạch liền gọi là dương, một vạch đứt gọi là âm. Các
bậc tiên hiền dạy rằng: nhất âm nhất dương chi vị đạo.
Từ đó hai người họ Trương tạm gác lại những
nhiệm vụ của mình và ở hẳn nhà ông Phan Ngọc Ẩn. Cả hai người rất chăm chỉ học
hành. Ngoài ra hai anh em còn tổ chức lại cuộc sống của ba người. Với Trương
Thái, những món Thái nấu cho cả nhà ăn rất được ông Năm và Trương Đại Quá khen
ngợi. Ngược lại, Trương Đại Quá với những kinh nghiệm trong làm nông đã trồng
trọt và chăn nuôi đạt hiệu quả, chẳng những đủ ăn trong nhà mà còn dư thừa anh
đem đổi lấy những vật dụng cần thiết khác với người Lạch.
Ba người đàn ông sống rất hạnh phúc dưới
chân núi Lang Bian.
(Hết chương 2)
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Lạt ngày 05/12/2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét