Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Phạm Văn Dương: Tiếng Việt, mảnh đất màu mở cho thơ Đường luật (thơ Hàn luật)
Phạm Văn Dương: Tiếng Việt, mảnh đất màu mở cho thơ Đường luật (thơ Hàn luật)
Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2015
Thơ
Đường luật, như tên gọi của nó, ra đời ở Trung Quốc và dần hoàn thiện, trở
thành một thể thơ nổi tiếng, nhất là vào thời Nhà Đường (618- 907) với những
nhà thơ vĩ đại như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Bột…
Tác giả Phạm Văn Dương
Họ, tên: Phạm Văn Dương
Ngày sinh: 26/6/1945
Quê quán: Phù lưu, Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh
Trình độ văn hóa: Cử nhân toán
Nguyên Đại tá nghỉ hưu
Địa chỉ hiện nay: Từ Liêm Hà Nội
Hiện là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thơ luật Đường họ Phạm Việt Nam
Đã xuất bản nhiều thơ
Điện thoại: 0913510543
E.mail: phamvanduong7@gmail.com
_____
TIẾNG VIỆT, MẢNH ĐẤT MÀU MỠ CHO THƠ ĐƯỜNG LUẬT
(THƠ
HÀN LUẬT)
Thơ Đường luật, như tên gọi của nó, ra đời
ở Trung Quốc và dần hoàn thiện, trở thành một thể thơ nổi tiếng, nhất là vào
thời Nhà Đường (618- 907) với những nhà thơ vĩ đại như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư
Dị, Vương Bột…
Quá trình hình thành, phát triển, có nhiều
hình thức khác nhau, nhưng tiêu biểu nhất là thể thất ngôn bát cú, các thể khác
như thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt... cũng cùng gốc này
ra, nên bài này chỉ nói về thể thất ngôn bát cú.
Đặc trưng nổi bật của Thơ Đường luật là có
sự quy định nghiêm ngặt về thanh (bằng, trắc) cho từng từ (chữ) trong mỗi câu
và trong toàn bài. Quy định này gọi là “luật”. Tùy theo câu đầu tiên là thanh
bằng hay thanh trắc mà chia ra loại Luật bằng, Luật trắc. Cách gieo vần cũng có
2 kiểu, kiểu Vần bằng và kiểu Vần trắc. Vần được quy định các từ cuối câu
1,2,4,6,8 cùng thanh và vần với nhau (5 vần), hoặc các từ cuối các câu 2,4,6,8
vần với nhau (4 vần), (riêng lối chơi “bát vận đồng âm” thì cả 8 chữ cuối câu
dù khác thanh nhau nhưng vẫn “đồng âm”, vần với nhau). Như vậy, với mỗi dạng
(luật Bằng vần Bằng, luật Trắc vần Bằng, luật Bằng vần Trắc, luật Trắc vần
Trắc, kiểu 5 vần, hay kiểu 4 vần ...) đều có 1 bảng quy định mỗi từ trong 56 vị
trí trong bài phải mang 1 thanh bằng hoặc trăc nhất định. Theo đúng bảng phân
bố thanh bằng trắc này cũng bảo đảm được quan hệ về thanh giữa các câu
2-3,4-5,6-7,8-1 ( gọi là “niêm”) và bảo đảm “đối” về thanh giữa các câu 3-4
(câu Thực), 5-6 (câu Luận), còn cần làm sao cho đối về ý, đối về từ... nữa (các
bài kiểu 4 vần thì cả câu 1-2 cũng phải là câu đối. Có những bài cả câu 7-8
cũng là câu đối hay cả về ý, về từ, về
thanh...)
Chính các quy định chặt chẽ về phân bố
thanh bằng trắc giữa các từ, các câu làm cho Thơ Đường luật có nét độc đáo là
du dương, uyển chuyển, đọc lên nghe êm tai. Cộng thêm với các vế đối sâu sắc
nữa, thơ Đường luật trở thành một thể thơ “bác học” thâm thúy, một thú chơi tao
nhã, nhất là khi xướng họa trong một nhóm nhà thơ tài danh. Ngoài các quy định về
“luật”, “niêm, “đối”, “vận” nói trên, còn rất nhiều quy định rắc rối khác nữa
Tuy nhiên, do phụ thuộc nhiều quy định khắt khe nên người làm thơ bị gò bó, hạn
chế sức sáng tạo và bay bổng của tâm hồn, về sau có “nới” ra một chút với “Luật
bất luận”, cụ thể là “Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh”, tức là
trong mỗi câu chỉ bắt buộc thanh bằng trắc ở từ thứ 2, 4, 6 và 7 (vần), còn các
từ thứ 1,3,5 được tùy ý.
Cơ sở ra đời thơ Đường luật với đặc trưng
âm điệu du dương, uyển chuyển, êm tai nói trên chính là ngôn ngữ giầu thanh
điệu của tiếng Trung Quốc. Âm chuẩn Bắc Kinh có 4 thanh, 1 thanh bằng (bình) và
3 thanh trắc (thượng, khứ, nhập). Các vùng miền khác (như âm Quảng Đông...)
cũng giầu thanh điệu.
Sau
khi lan truyền sang Việt Nam, thơ Đường luật có “đất mầu mỡ” để đặc biệt phát
triển, vì thanh âm tiếng Việt có đến 6 thanh cơ bản là 2 thanh bằng (thanh
Không, thanh Huyền), 4 thanh trắc (thanh Sắc, thanh Nặng, thanh Hỏi, thanh Ngã)
. Có nhiều từ có đủ cả 6 thanh (6 từ khác nhau đều có nghĩa mang 6 dấu thanh
khác nhau), ví dụ các từ “đô”, “đồ”, “đố”, “độ”, “đổ”, “đỗ”. Có nhà nghiên cứu
còn phân tích chi ly thêm là thanh Sắc và thanh Nặng còn chia ra 2 kiểu, một là
các từ vốn mang thanh Không (thuộc thanh Bằng) rồi thêm dấu Sắc, dấu Nặng vào
mà thành thanh Trắc, gọi là thanh Sắc Khứ, thanh Năng Khứ (như các từ “đố”,
“độ” nói trên), hai là các từ bản chất đã là thanh Trắc, chỉ có thể thêm dấu
Sắc và dấu Nặng, không thể không dấu hoặc mang các dấu khác, gọi là thanh Sắc
Nhập, thanh Nặng Nhập, ví dụ từ “biết”, “biệt”... Như vây là tiếng Việt có đến
8 thanh (6 thanh theo 6 dấu và 2 thanh Sắc Nhập và thanh Nặng Nhập).
Các
nhà thơ Việt Nam làm thơ Đường luật lúc đầu bằng chữ Nho (là chữ Hán đọc theo
âm Hán Việt) nên có đến 6 (8) thanh, nghe du dương uyển chuyển hơn hẳn khi đọc
theo âm Bắc Kinh. Ngay các nhà thơ Trung Quốc chính hiệu khi sang Việt Nam giao
lưu, họ cũng thích đọc các bài thơ Đường luật của họ sáng tác theo âm Hán Việt,
cảm thấy bài thơ hay hơn, thích nghe hơn.
Với
sự phát triển ý thức dân tộc và nền văn học dân tộc, người Việt Nam sau này làm
thơ Đường luật bằng tiếng Việt, dùng chữ Nôm (và ngày nay dùng chữ Quốc ngữ).
Lịch sử ghi nhận người đầu tiên làm thơ Đường luật bằng tiếng Việt (chữ Nôm) là
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên ( 1229 - ?) nên đời sau gọi thơ Nôm theo Đường
luật là thơ Hàn luật. Âm tiếng Việt có nhiều thanh làm cho thơ Hàn luật đọc lên
uyển chuyển, giàu nhạc điệu hơn. Có thể nói thơ Hàn luật tuy xuất phát từ Trung
Quốc nhưng đặc biệt phát triển rực rỡ ở Việt Nam với những nhà thơ tiêu biểu
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh
Quan, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, v.v…
Tiếng
Việt phong phú về thanh điệu, có điều kiện phân chia nhỏ các thanh bằng trắc
theo các “dấu thanh”, từ đó mà thơ Hàn luật (Đường luật) có thêm những quy định
chi tiết hơn, tinh tế hơn, bảo đảm khi đọc lên du dương uyển chuyển, êm tai
hơn. Cụ thể là:
-
Quy định không được “điệp thanh” tức là trong 1 câu hoặc các câu liền nhau
không được để nhiều từ có chung một dấu thanh.
-
Quy định từ thứ 4 và thứ 7 không được trùng dấu thanh (tuy cùng thanh bằng
nhưng một từ phải thanh không, từ kia thanh huyền, hoặc cùng thanh trắc nhưng
không cùng dấu sắc hay cùng dấu nặng, cùng dấu hỏi, cùng dấu ngã). Nếu phạm quy
định này gọi là mắc bệnh “Hạc tất”, khi đọc câu thơ đó thấy không trơn tru, như
là bị gập khúc ở giữa giống “cái gối con hạc”.
-
Cũng vậy, nếu để từ thứ 2 và thứ 7 trùng dấu thanh thì gọi là mắc bệnh “Phong
yêu”, câu thơ đọc lên không mượt mà, như bị thắt lại giống “cái lưng con ong”.
Âm
Bắc Kinh chỉ có 1 thanh bằng nên trong các bài thơ vần bằng, có đến 5 câu có từ
thứ 7 thanh bằng, những câu có từ thứ 2 hặc từ thứ 4 bắt buộc thanh bằng thì
đành chịu mắc bênh “Phong yêu” hoặc “Hạc tất”, tức là không thể làm cho cho câu
thơ êm tai, du dương như câu thơ dùng âm Việt Nam được.
Thực
tế thơ Đường luật còn rất nhiều quy định chặt chẽ, rắc rối đòi hỏi người làm
thơ phải có vốn từ vựng rất phong phú, sẵn sàng thay một từ nào đó bằng từ đồng
nghĩa khác thích hợp hơn về thanh, về âm, về vần... để tránh các lỗi: “ lạc
vận”, “điệp vận”, “điệp từ”, “điệp điệu”; các bệnh “bình đầu,”, “thượng vỹ”,
“đại vận”, “tiểu vận”, “chánh nữu”, “bàng nữu” v.v... Nhiều ràng buộc quy định khắt khe, rắc rối
quá có khi làm mất thi hứng, hạn chế sáng tạo, mất tự do bay bổng của tâm
hồn... nên có nhiều trường hợp nhà thơ sẵn sàng thà chịu mắc lỗi này bệnh nọ mà
bài thơ có hồn, dùng được các từ “đắt”, chọn âm đạt hiệu quả cần thiết của một
bài thơ hay (ý tứ, âm điệu, hình ảnh, lối tu từ…), thể hiện đầy đủ những điều
nhà thơ cần gửi gắm, hơn là tránh không phạm lỗi, bệnh bằng mọi giá làm cho bài
thơ khô cứng, chỉ còn là một tập hợp từ ngữ được sắp xếp theo những quy định
nghiêm ngặt. Tuy nhiên, cái gì cũng có giới hạn của nó. Một bài thơ Đường luật
nhất thiết và tối thiểu phải đạt được các đặc trưng cơ bản tạo nên vẻ đẹp của
thơ Đường luật là “luật”, “niêm”, vận”, “đối”... Một bài thơ dù hay mấy mà
không đạt được các đặc trưng này thì không phải là bài thơ Đường luật nữa mà là
thể thơ khác. Những câu “thực”, câu “luận” mang ý tứ sâu sắc với những vế đối
chuẩn mực mang đến tính hàm súc, tính “bác học” của thơ Đường luật. Việc sử
dụng nhuần nhuyễn âm điệu, phân bố đúng và uyển chuyển các thanh bằng trắc
...bảo đảm cho bài thư du dương, êm tai, trong đó việc sử dụng khéo léo các dấu
thanh phong phú của tiếng Việt làm cho thơ Hàn luật có một tầm cao mới.
Sự
phong phú thanh điệu của tiếng Việt còn thể hiện trong lối chơi làm thơ Đường
luật kiều ngũ độ thanh: trong mỗi câu 7 từ phải có đủ 5 đến 6 dấu thanh, các từ
thanh trắc đều phải khác dấu thanh, các từ thanh bằng liền nhau cũng phải khác
dấu thanh. Lối chơi này có thêm quy định gò bó cho bài thơ, có khi phải hy sinh
một số từ hay, nhất là các từ láy như “lấp lánh”, “ long lanh”..., nhưng bù
lại, toàn bài thơ trở nên giầu nhạc điệu (như kiều nhạc phủ xưa), đọc lên du
dương, êm ái.
Cần
thiết phải nói kỹ hơn về “luật bất luận”. Để đỡ gò bó quá, người ta đề ra luật
này nhằm “châm chước” cho các từ thứ 1,3,5 trong mỗi câu 7 chữ được tự do về
thanh. Thực ra, chỉ có từ thứ 1 là tự do hoàn toàn (từ đó sinh ra lối chơi
khoán thủ nhất thanh), còn từ thứ 3 và thứ 5 thì người ta đã thấy là nếu đúng
quy đinh phải thanh trắc mà đổi ra thanh bằng thì còn chấp nhận được, chứ nếu
đúng quy định phải là thanh bằng mà đổi ra thanh trắc thì khó đọc, gọi là mắc
lỗi “khổ độc”. TUY NHIÊN, TÔI THẤY TỪ
THỨ 5 KHÁC TỪ THỨ 3. TỪ THỨ 5 BẮT BUỘC PHẢI ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ THANH, NẾU KHÔNG
THÌ BÀI THƠ TRỞ NÊN “NGANG NGANG”, KHÔNG ÊM TAI (dù là thay thanh trắc bởi
thanh bằng). Chúng ta có thể lấy bất kỳ bài thơ Đường luật nào, nếu có chữ thứ
5 trong câu nào đó sai thanh so với quy định thì đều thấy điều này. Ví dụ rất
nhiều, ai cũng có thể chỉ ra, ở đây tôi lấy 2 câu trong bài “Thương vợ” của Tú
Xương để làm ví dụ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng...
Tú
Xương đã vận dụng “luật bất luận”, cụ thể là:
Từ
thứ 3 câu trên và từ thứ 1 câu dưới nếu đúng quy định phải thanh trắc, ông đã
đổi ra thanh bằng là chấp nhận được.
Từ
thứ 5 của 2 câu này đúng quy định phải thanh trắc, Tú Xương đã tôn trọng. Nếu
chúng ta thử đổi ra thanh bằng xem có chấp nhận được không:
Quanh năm buôn bán BÊN mom sông
Nuôi đủ năm con VÀ một chồng
Rõ
ràng là “ngang phè”.
Trong
tiếng Việt có 2 thanh bằng (dấu thanh Không và dấu thanh Huyền) nên bài thơ còn
được phân phối thanh điệu rất tinh tế trong các bài thơ vần bằng (từ thứ 7
trong các câu 1,2,4,6,8) hơn hẳn so với theo âm Bắc Kinh chỉ có 1 thanh bằng.
Cụ thể là trong bài thơ vần bằng, các từ nói trên đều phải vần với nhau và đều
phải thanh bằng thì rõ rồi, nhưng tinh tế ở chỗ cả 5 chữ ấy không được cùng một
dấu thanh bằng mà phải sử dụng cả 2 dấu thanh bằng (thanh Không và thanh Huyền)
mới êm tai. Lấy ví dụ trường hợp câu 1
và câu 2, nếu để 2 chữ thứ 7 cùng dấu (cùng không dấu hoặc nhất là cùng dấu huyền)
đọc lên nghe rất "ngang".
Nói
tóm lại, cái độc đáo của thơ Đường luật về âm điệu du dương, uyển chuyển chính
là vì đã có quy định chặt chẽ về phân bố các thanh bằng trắc cho từng từ, từng
câu theo đúng vị trí trong bài. So với tiếng Trung quốc (âm chuẩn Băc Kinh) thì
tiếng Việt Nam của chúng ta hơn hẳn về độ phong phú của các âm thamh, do đó,
thơ Đường luật làm bằng tiếng Việt Nam mà các cụ gọi là Thơ Hàn luật (dù viết
bằng chữ Nôm hay chữ Quốc ngứ cũng vậy) khi đọc lên nghe hay hơn hẳn.
Sau
một thời gian tạm lắng xuống do phong trào Thơ mới mạnh mẽ những năm 30 thế kỷ
trước, từ vài chục năm gần đây, Thơ Đường luật dần được hồi sinh, khôi phục một
vốn quý trong truyền thống văn hóa dân tộc ta. Ngày nay, hầu như không còn ai
làm thơ bàng chữ Nho nữa mà hoàn toàn dùng tiếng Việt Nam. NÊN CHĂNG, CHÚNG TA
DÙNG TỪ “THƠ HÀN LUẬT” ĐỂ GỌI THỂ THƠ BÁC HỌC NÀY, PHÂN BIỆT VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
LÀM BẰNG CHỮ HÁN CỦA TRUNG QUỐC.
Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ Đường luật
Phạm Đạo Phú
Phạm Văn Dương
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Hà Nội ngày 11/12/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Hà Nội ngày 11/12/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét