Ký sự đất dân nghèo – Tạp văn Chân Diện Mục (Cần Thơ)
Thứ Năm, 25 tháng 2, 2016
Phi cơ Jetstar đổ tôi xuống phi trường Đà
Nẵng, trong khi chờ hành lý, tôi đi kiếm toilet để giải quyết thắc mắc nội tại
thì thấy toilet ở đây không… ngon lành (nhưng lượt về tôi mới biết lúc đó tôi
sui vì gập cái… bên lề, chứ mấy cái khác thì cũng… vừa lòng khách đi). Thành
phố thay đổi khá nhanh chóng! Thành phố du lịch 4 không mà! Không ăn mày, đánh
giầy, vé số, bán báo dạo!
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Chân Diện Mục
Họ tên thật Phạm Huy Viên
Ông sinh năm 1936 tại Nam Định, di cư vào Nam năm 1954
Học Đại Học Sư Phạm Sài Gòn khóa 1957-1960, ban Việt Hán
Dạy học tại Rạch Giá, Đà Lạt, Cần Thơ.
Nghỉ dạy năm 1978. Làm đủ thứ nghề: làm rẫy, đi buôn....
Cuối cùng viết văn thơ tại nhà nhưng không in hay đăng báo.
Email: chandienmuc36@yahoo.com.vn
Phi cơ
Jetstar đổ tôi xuống phi trường Đà Nẵng, trong khi chờ hành lý, tôi đi
kiếm toilet để giải quyết thắc mắc nội tại thì thấy toilet ở đây không… ngon
lành (nhưng lượt về tôi mới biết lúc đó tôi sui vì gập cái… bên lề, chứ mấy cái
khác thì cũng… vừa lòng khách đi). Thành phố thay đổi khá nhanh chóng! Thành
phố du lịch 4 không mà! Không ăn mày, đánh giầy, vé số, bán báo dạo!
Buổi chiều, không khí khu gần bờ sông (sông
Hàn) như đường Quang Trung… khá nhộn nhịp vì người ta chuẩn bị đón lễ hội pháo
hoa 30-4-2011. Những quán ăn uống và bán đồ lưu niệm, kể cả đồ Si-đa bán cho nông
dân từ Hoà Vang, Điện Bàn, Hội An đi chân đất kéo tới xem pháo hoa, đã mọc lên
ngổn ngang đầy vỉa hè (có lẽ chỉ được phép trong 3 ngày)
Nhìn
chung, tuy đây là thành phố đông dân, công nghiệp hoá nhanh, nhưng vẫn còn khá
thơ mộng. Đường xá rộng rãi, sạch sẽ, sông Hàn lãng mạn, bãi biển cát trắng, và
buổi chiều mây lững lờ trên Sơn Trà, mây mờ ảo trên Hải Vân. Cà phê thì
cũng chơi được, không đắng nghét hoá học kiểu Trung Nguyên, không đắng ký ninh
kiểu liều mạng (hình như có lều bều bọt kiểu sà bông), có lẽ bạn nên vào những
quán Nghệ Sĩ như… W.Love thì yên tâm hơn.
Buổi sáng hôm sau tôi lên đường
đi Thánh Địa Mỹ Sơn hơi muộn, cái nắng mùa hè miền Trung không làm du khách hài
lòng. Nhưng từ Điện Bàn rẽ về phía Tây cây xanh càng lúc càng nhiều. Tuy ruộng
càng … không tươi tốt, nhưng nhà cửa vẫn khang trang, vườn tược vẫn vun quén,
điều đó cho thấy cái dân Quảng Nôm này hay cãi mà cũng hay siêng làm lụng.
Mỹ Sơn rất cô tịch, thanh u làm bạn… ngẩng cổ… cúi đầu. Nhưng cũng như các nhà
khảo cổ và các nhà quản lý, bạn… không hiểu gì hết. Có lẽ người ta không hiểu
nên không tu bổ và … “tôn tạo“ chăng? Ở Hội An có tượng ông chuyên viên
người Ba Lan rất hoành tráng, nhưng ông cũng chẳng giúp gì cho ta trong công việc
“trùng tu“! Đắp vài viên gạch không cùng kích cỡ và khác kỹ thuật nung…
nướng thì có ý nghĩa gì!!!
Không kể những tháp bị bình địa, còn lại mười
mấy cái tháp to nhỏ, đủ kiểu, ngổn ngang, tuỳ tiện. Tôi nghĩ không phải là đời
sau “quy hoạch cho khu lăng mộ đời trước.” Có lẽ mỗi một cái tháp là một nhà ở
(cung điện) của một ông chúa, khi ông ta chết thì người kế nghiệp làm một cái cung
điện bên cạnh (tháp) để ở, và cái tháp cũ biến thành nhà mồ. Sở dĩ có tháp to
tháp nhỏ là vì có ông gặp hên, làm ăn khấm khá; có ông bị mất mùa, thua trận
hoài… nên hẻo như thế! Cũng chẳng phải là từ kinh đô Trà Kiệu đem xác lên đây
hoả táng rồi đặt tro vào tháp (?). Giữa tháp có cái giống cái giường (có ngăn
đựng đồ dưới gầm giường, có cối đá xay bột và vật dụng linh tinh…). Trà Kiệu
thì bây giờ gần như bình địa, chả thấy vết tích thành luỹ bao nhiêu. Tôi không
có thời gian đi thăm Khương Mỹ, Bình An, Chiên Đàn… nhưng chắc cũng cùng cảnh
ngộ như Trà Kiệu thôi, nên không có trong danh sách các điểm tham quan để…
người ta thu tiền vào cửa. Tôi bèn tưới la de xuống chân tháp, viết mấy giòng
nguệch ngoạc, đốt lên, mượn gió gửi đến người xưa:
Người xưa như đã bốc hơi
Cây trơ cỏ úa rã rời khóc ai
Không nghe tiếng ngựa tiếng voi
Chỉ nghe rủ rỉ gió ngoài đồi hoang
Khách du nào biết tháng năm
Gạch nào thách đố thời gian hỡi người
Từng lớp người, từng lớp đời
Trôi theo đợt sóng về nơi vô hình
Vết tích này nếu có linh
Cũng không nói được tâm tình người xưa
Sông Hoài mặt lạnh như tiền đón tôi với vẻ
già nua, cằn cỗi. Chùa Cầu rộng chừng 3 mét, giữa cầu có một ô vuông chừng 2
mét. Người ta thắp hương lễ bái. Không có ông Thích Ca hay ông Di Đà, Di Lặc
nào cả. Chắc không phải mấy ông Nhật Bản cầu cho mua may bán đắt, mua một cắc
bán một triệu. Hai tượng chó ở đầu cầu chứng tỏ không phải đi từ Nhật Bản tới. Tôi
nghĩ mấy ông Bồ Đào Nha: “buôn một, cướp mười” phát âm “Trà Bàn hay
“Japan” cũng một thứ thôi!!!
Cũng may, người Nhật là một dân tộc có tư cách. Họ thấy mình nói cầu Nhật Bản
thì ừ đại để lợi cho ngoại giao và buôn bán, chứ họ không đề nghị tài trợ để
“trùng tu” cho có vẻ Nhật hơn!
CHÙA CẦU
Rêu phong nếp ngói đơn sơ
Sông hiền
hoà quá, gió ngu ngơ buồn
Sông nào
hoài vọng mưa nguồn
Sưu cao dân
thượng, lệ tuôn dân đồng
Sông nào chở
củi long đong
Sông nào chở
sản vật trong núi rừng
Xưa tấp nập,
nay dửng dưng
Từ xa nhìn
khách bộ hành nhởn nhơ
Thu tiền vào
cửa công ty
Nhà xưa
chẳng sửa dân nghe ngậm ngùi
Gỗ đen nếu
có bồi hồi
Gỗ nào lên
tiếng cho người cảm thông
Chùa Cầu
khiêm nhượng qua sông
Mái cong
ngửa cổ khó lòng khảo tra
Đầu cầu đôi
chó thật thà
Chó nào minh
chứng gốc là Japan
Cầu cho quốc
thái dân an
Con
phố cổ đen đúa xám xịt dẫn tôi tới chùa Ông. Cũng như các chùa Ông khác ở miền
Nam, người ta lẫn lộn ông Huyền Thiên Chơn Võ Đại Đế với ông Quan vân Trường (có
lẽ 100 người Hoa thì 99 người lẫn lộn như thế). Tấm đại tự ở trên thì viết Đại
Đế, nhưng những câu đối trên các cột thì đại loại như:
Chí tại xuân thu danh tại Hán
Trung đồng nhật nguyệt nghĩa đồng
thiên
Để ca tụng lòng trung nghĩa của Quan Vân
Trường.
Tôi không thích những giòng chữ nho ghi xây
cất và trùng tu.vào năm nào, tôi chỉ thích dân gian gọi đó là chùa Giải Oan. Chắc
không phải giải oan cho Quan vân Trường đâu! Cũng chẳng phải giải oan như chùa
Hương Tích giải oan cho bà chúa Ba. Có lẽ giải oan cho một ông quan hay tướng
Minh Hương bị oan khiên dưới đời vua chúa nhà Nguyễn. Gần ngay sát đó là Hội
Quán Phúc Kiến. Bảng đề Hội Quán Phúc Kiến tổ bố, nhưng tôi nhìn lên cao thì
thấy 3 chữ Hán nhỏ xíu: Hội Sơn Tự (tôi sẽ có dịp hầu chuyện sau với quý
vị về hai cái chùa Giải Oan và Hội Sơn này)
Trở về Đà Nẵng trong đêm theo con đường ven
biển thì thật tuyệt vời: bên ngoài là bãi biển Mỹ Khê diễm lệ, đa tình, được
bình bầu là một trong những vịnh đẹp thế giới, bên trong là làng đá Ngũ Hành. Thật
là đáng phục cho những tay thợ đá, những người dân nghèo đã làm cho làng này
bừng lên sức sống. Hàng trăm ngàn tác phẩm, từ tượng tới bàn, ghế, tủ và đồ mỹ
thuật, trang sức lung linh, rực rỡ đưa mắt níu tay du khách.
Giữa những nhà cao tầng, giữa những công ty,
nhà hàng hoành tráng, cao sang, là những nông dân không đất, những người
khuân đá nghẹt thở, sứt tay. Sau khi cúi đầu trước những người cần cù, nhẫn nại,
tôi lại nhớ đến những Anh Hùng, Chí Sĩ. Vùng đất này là của những Hoàng Diệu,
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phan Khôi. Tôi vào Tàng Chân Động để nhớ đến
Chí Sĩ Nguyễn Thượng Hiền. Tôi men theo vách đá để tìm bài thơ trên
vách. Ôi! Chỉ đọc được chừng 20%. Buồn quá, định trở ra đi theo thang
máy xuống, nhưng chợt thấy có đường bộ qua chùa Linh Hựu theo bậc gạch đi xuống,
thế là đỡ tốn 30 ngàn đồng . Tôi nghiệm ra là đa số đều đi bộ. (không hiểu là
bao năm cái thang máy này mới thu hồi được vốn?). Dù mệt thở, nhưng lòng cũng
muốn có thơ gửi cụ Nguyễn Thượng Hiền. Về nhà bèn ghi tình ý lại:
NGŨ HÀNH SƠN
Ôi chao đá đẹp làm sao
Đẹp, bền, sáng tạo dồi dào ý thơ
Muôn dân
sinh nghiệp mong chờ
Núi kia cảnh
nọ động chùa uy linh
Tàng chân
động hỡi có thiêng
Câu thơ chí
sĩ nỗi niềm nước non
Trăm năm bia
đá đã mòn
Ngàn năm tiên tổ vẫn còn quanh đây
Ngồi buồn, hết nhìn núi Hải Vân lại đến núi
Sơn Trà. Nghĩ hoài đến những cái đồn Chân Sảng, Trấn Hải. Có trời mà biết chúng
ở đâu. Nếu nó mới lòi ra thì cũng không ở chỗ xưa hoặc không giống xưa, thậm
chí nó không giống cái ĐỒN của các cụ. Nhớ cụ Nguyễn muốn chết! Ngồi ngâm i ỉ
lúc nào không hay:
SƠN TRÀ
Hải đài chẳng chút vết xưa
Dân có trách
nhiệm giữ bờ cõi ta
Dựng lên
tượng Phật nguy nga
Bảo an muôn
dặm hải hà ngàn năm
Dân mình
tiếp bước tổ tiên
Trời cao
biển rộng núi thiêng sông dài
Nhắc ai chớ
có hững hờ
Lòng dân
phải chắc hơn bờ tường kia
Nguyễn tri
Phương đã đi xa
Anh hùng hào
khí gửi qua thành này
Sơn Trà gió
vẫn vờn bay
Sông Hàn dịu
mát chiều nay nhớ người
Sông Hương núi Ngự đã từng làm tôi choáng
với tà áo tím và những lời lịch sự, điệu nghệ. Nhưng tôi đã đi gần hết, lần này
tôi phải tranh thủ đi thăm những nơi còn lại như: Voi rẻ – Hổ quyền, Văn
Miếu, Lăng Ba Vành.
Nhè khi bà xã mua sắm ở chợ Đông Ba, siêu
thị… tôi trộm phép bả, lén đi những nơi vắng vẻ trên (tôi vốn sợ bả từ hồi Đệ
Nhất Cộng Hoà lận: Nhất vợ nhì trời thứ ba Ngô Tổng Thống)
Có bảng Hổ Quyền ở đầu đường, chỉ đàng
hoàng, nhưng đi vô, đường ngoằn ngoèo như ruột dê mà chẳng có một cái bảng chỉ
dẫn tiếp theo. Hổ Quyền có cả sơ đồ hướng dẫn, nhưng không một bóng người
(?) có lẽ là ngày lễ? Nhưng dù có người thì những thuyết minh của họ cũng nhạt
như sáo voi thôi! Cái vẻ tiệu điễu, hoang vu, xơ xác thế kia mà thuyết
minh thêm mắm thêm muối thì chỉ tổ phản cảm. Sang điện voi ré cũng chẳng hơn
gì. Điện đã xuống cấp, âm u, nhện giăng. Hai hàng nhà nhỏ hai bên, bé xíu, có
lẽ không phải nhốt voi mà là thờ voi, nó nứt, đổ, tang thương như nhà của những
con heo nghèo (?). Tôi xách dép chạy mất đất, đi tìm ngựa sắt sang Văn Miếu
Sướt qua Kim Long, thấy chẳng có vẻ mỹ miều
gì cả, bèn đi thẳng, không dám “liều” quẹo vô như vua Thành Thái:
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi
Văn Miếu là linh hồn của Văn Hiến Chi Bang!
Ôi! Sao mà đến nông nỗi này! Đến
nền miếu cũng không còn. Cỏ hoang cao vài tấc lượn mấp mô trước gió chiều, xa
xa phía trong nép mình vài bụi cây khiêm nhường! Tôi bèn quay lưng để đọc mấy
tấm bia sân trước. Ôi! Dụi mắt ba lầncũng chỉ đọc dược chừng 40% số chữ! Học trò
cụ Chu Văn An chạy đâu cả rồi? Ngoài cổng có tấm bảng viết là sẽ phục dựng,
nhưng biết bao giờ... mới khởi công. Người ta chưa chọn được ngày tốt, hay chưa
chia phần xong? Biết bao giờ những đệ tử của Chu Văn An một thời bị các đệ tử
của Các Mác hạ xuống đất đen, mới được đặt trở lại địa vị cũ? Sau khi quay lại
nghía lần chót bãi cỏ hoang, tôi thơ thẩn giang tay ra về mà trong lòng vang
lên những ý thơ không biết có phải của tôi hay không:
VĂN MIẾU
Miếu là gốc của văn
Bia chẳng đọc được biết rằng hỏi ai
Cỏ hoang mô
đất thở dài
Gió nào rên
rỉ bên tai hỡi người
Gần hai trăm
năm qua rồi
Công trình
lập quốc hỏi trời hay chăng
Ai đập ai
phá lăng nhăng
Ai rằng
phong kiến , ai rằng quan lieu
Bể dâu lớp
lớp sóng liều
Soi gương kim cổ thấm nhiều đớn đau
Văn nhân Nho sĩ bị bạc đãi như thế rồi.
Chiều, tôi đi tìm di tích vị Anh Hùng chống quân Thanh xem sao. Cuộc tranh cãi
về lăng ba vành có thực sự là của vua Quang Trung hay không? cho đến nay vẫn
chưa ngã ngũ. Bản thân tôi chưa thấy có những bằng chứng rõ ràng rằng đó là mộ
của ngài, và những lý luận thì chưa đủ thuyết phục, nhưng tôi vẫn theo hướng đó
để tìm hiểu thêm.
Tôi nghĩ rằng thuở sinh tiền, ngài không
đóng ở cái chỗ mà sau này người ta gọi là Phú Xuân đâu. Ngài phải đóng từ núi
Tam Toà, núi Bân, Ngự Bình cho tới đồi Thiên An (Cũng như sau đó Bùi Đắc Tuyên
đóng ở chùa (?) Thuyền Tôn là ở trung tâm “Đô” của nhà Nguyễn Tây Sơn, chứ
không trốn ở một ngôi chùa hẻo lánh ở ngoại ô đâu). Điều này tôi sẽ trình bày
thêm trong cuốn sử của tôi.
Đồi Thiên An cho tới ngày hôm nay
vẫn còn là một khu thưa dân dù cách thành nội ngày nay khoảng 7 km. Tôi lên
đỉnh đồi thì không biết hỏi ai ngoài mấy tín nữ Ki tô giáo đang học đạo. Tôi
hỏi về chuyện Quang Trung thì họ hoàn toàn không biết, chỉ cho biết đây là Đan
Viện Thiên An (viện là chủng viện, nơi học đạo). May thay, sau đó tôi gặp một
vị thầy giòng. Ông này đọc sách khá nhiều. Ông theo phái cho rằng đó là ngôi mộ
của một ông quan nhỏ nhà Nguyễn. Nói chuyện khá lâu, nhưng khi ra về tôi chỉ
mang theo một chi tiết nhỏ (!) nhưng quan trọng: Đó là lăng Ba Vành nằm trong
khuôn viên nhà thờ Đan Viện Thiên An (khuôn viên rộng 100 ha)
Tôi chưa chứng minh được lăng Ba Vành là
của vua Quang Trung. Nhưng đứng trước đồi thong mênh mang, nghe gió chiều kể
chuyện, tôi nghĩ đến vị Anh Hùng mà cảm khái vô cùng.
Ngày hôm sau, trên đường đi Quảng Trị tôi
lại gặp những căn nhà lúp súp, tí teo với vườn tược đất trắng như muối! Du du
hề một phong vị vàng úa, xác xơ… Đây là tỉnh nghèo nhất Việt Nam chăng? Từ Hải
Lăng tới Triệu Phong, Vũ Xương và Gio Linh đều một vẻ. Chiến tranh đã trôi qua
gần 40 năm rồi, người dân không còn phải trốn bom đạn, họ chẳng còn bị ám ảnh
bởi những Dốc Miếu, Cồn Tiên, Khe Sanh mà sao chưa thấy họ khá lên.
Phải chăng cái miền tấc đất tấc xương khô máu
đọng này đã khiến cho những người yếu bóng vía bỏ ra đi biệt xứ?
Phải chăng cái miền tấc đất tấc bom mìn
chưa nổ để người ta thấy đất không còn lãng mạn mời gọi?
Phải chăng miền đất này vẫn còn qúa nhiều
người thương tật và chấn thương tâm thần nên tiếng bi ai còn át tiếng hò gặt
lúa?
THÀNH CỔ
Chuyện xưa chẳng bằng chuyện nay
Quên rồi
chuyện cũ những ngày xa xưa
Từ hè đỏ lửa
đến giờ
Râm ran nổi
tiếng bất ngờ bởi ai
Ông trời ác
quá hỡi ôi
Nỡ đem bom
đạn dồn nơi thành này
Oán hờn chất
nhất loà mây
Ôi chao mùi
khét là đây thịt người
Tần ngần ta
ngắm đất trời
Đất câm
chẳng nói trời lười lặng im
Tôi chụp vội mấy tấm hình ở thành cổ Quảng
Trị và cầu Hiền Lương để kỷ niệm một ngày không vui (theo lời một người khá
rành chuyện thì hồi nẳm, những người chết tronh thành là trên 8 ngàn, còn thông
tin trên mạng - lề phải - nhiều người cho là trên 10 ngàn).
Qua cầu Hiền Lương, tôi hỏi anh tài xế về
địa danh Vịnh Mốc, anh ta nghĩ cách khoảng 10 cs, và dĩ nhiên... vẫn nghèo! Tôi
nén một tiếng thở dài để tránh làm mất vui những người cùng đi. Đây là huyện
Vĩnh Linh vẫn còn thuộc tỉnh Quảng Trị và dĩ nhiên cũng nghèo như các huyện
phía nam sông. Tơi nhận ra một điều là sông Bến Hải quá nhỏ so với sự tưởng
tượng của tôi trước đây. Thảo nào những người vượt sông trong đêm tối bị các tay
súng trên bờ bắn… trúng phóc!
CHUYỆN CÂY CẦU
Ván cầu câm
nghẹn mầu nâu
Thành cầu
sắt thép trơ mầu thời gian
Đôi bờ cũng
một giang san
Tình người
cũng một cháu con Lạc Hồng
Cười ai chụp
mũ giòng sông
Bảo rằng
sông bạc, chia lòng anh em
Sông rằng
tắm sạch bụi lem
Lại tằng tẩy
rửa oan khiên cho đời
Linh giang
cũng có một thời
Hai trăm năm
trước bị người vu oan
Sông nào
ngăn được lịnh tham
Đặt để cho
lắm chỉ toan lợi mình
Thinh không
nghe một tiếng cười
Các ngươi
lặp mãi một lời ngu lâu
Qua 2 huyện Quảng Ninh, Lệ Thuỷ, tôi chẳng
nghe được tiếng hị khoan Lệ Thuỷ (nổi tiếng thế giới), chỉ thấy bên đường rặt
khoai là khoai, hết khoai mơn, khoai lang rồi tới khoai mì! Những bụi khoai dại
(khoai mơn nước?) èo uột, lá bằng bàn tay nhỏ, nhìn thấy tội! Không hiểu có phải
người khoẻ mạnh đi biển hết, để ông già bà lão ở nhà nhai khoai không? Tôi
không dám tìm hiểu tiếp. Anh bạn tài xế nói Quảng Bình khá hơn Quảng Trị. Người
ta nói sông Thạch Hãn trong, không phù sa, trong suốt nhìn thấy đáy. Ngồi trên
xe tôi không kiểm nghiệm được điều đó. Có lẽ nhờ những con sông Kiến Giang,
Nhật Lệ, Lý Hồ, sông Gianh mà Quảng Bình khá hơn chăng? Nhưng dù sao anh bạn
tài xế cũng nói đúng. Từ đồng ruộng, nhà cửa cho tới thành phố Đồng Hới… Tôi
thấy đều có vẻ khấm khá. Anh còn nói Quảng Trạch, Ba Đồn cũng khá nữa. Tôi
không có thời giờ để vượt con sông ô nhục này để tìm hiểu ba cái đồn của chúa
Trịnh mà rẽ trái vào Phong Nha.
Phong
Nha là Phnom ea = Non nước, chứ không phải là răng của gã hay gã có răng
cắn người. Tôi lặng im thưởng thức vẻ tuyệt vời của nó mà không nghe những lời
thuyết minh của hướng dẫn viên hay liên tưởng tới những khảo cứu của các học
giả! Người ta đã phát hiện ra mấy chục hang động kỳ thú, có hang động dài hàng
cây số và sẽ còn phát hiện thêm nữa! Đúng là một tặng phẩm tuyệt vời mà Tạo Hóa
ban cho Việt Nam. Cái non nước hữu tình này đã làm lòng tôi dịu lại sau 200 cs
dọc đường gió bụi. Tôi đã thấy khoẻ lại nên nổi hứng bảo tài xế lái xe cho tôi
về theo đường Trường Sơn.
Dọc đường mới thấy phục và thương cho dân
mình siêng năng, nhẫn nại và liều mạng. Mầu cây xanh, ngói đỏ đan xen hữu tình
đã làm cho miền cao khởi lên sinh khí. Những cần cẩu, xe tải, công trường đây
đó đã làm giảm đi cái ấn tượng miền Trung nghèo đói muôn đời không ngấc đầu lên
nổi. Tôi không hiểu họ sống bằng cưa rừng, phá đá hay trồng cây công nghiệp lấn
rừng. Nhưng thôi (chép miệng) được ngày nào hay ngày nấy, chuyện môi
trường để hạ hồi phân giải! (không biết có cần cô Ngọc Quyên tuyên truyền giùm
không?)
Tôi hỏi cái bến Long Đại thì anh bạn không
biết. Dĩ nhiên rồi, tài xế xe khách, xe bao đường trường thì quẹo vô đó làm chi.
Có lẽ các cụ ngày xưa chỉ đi tới ngã ba Long Đại là cùng, chứ chắc chắn là
không đi sâu tới Vịt-Thu-Lu. Trời đã ngả chiều, vả lại đi cùng với vợ con nên
tôi không dám liều mạng kêu anh tài xế lái vô xem con Vịt nó to Thu Lu tới cỡ
nào. Tôi nghĩ các cụ cũng biết làm ăn lắm, nhưng chỉ đậu tuốt phía ngồi để đổi
cá muối… lấy ngà voi, sừng tê, đậu khấu, Sa nhân, cánh kiến của người Lào.
Về tới Cam Lộ thì trời đã tối nên tôi không
thấy tồn cảnh của cái “Phủ” này. Có lẽ nó cũng bằng phẳng, dễ đi và có ruộng
nương nên nhà Nguyễn đã đặt ở đây một Phủ lớn để an dân và để “phủ dụ” 9
mường cùa người Lào. So đoạn đường từ Đông Hà lên Lao Bảo, thì Cam Lộ chưa tới
1 phần 3 đoạn đường. Tôi nghĩ có lẽ nhà Nguyễn chỉ an dân nơi rìa đồng bằng là
chính, còn người Lào cống nạp bao nhiêu không quan trọng. Cái rừng núi mênh
mông phía tây đó có tên là gì thì các cụ chỉ biết qua… ba lần phiên dịch. Các
cụ đâu có cần biết tới hộ khẩu của 9 cái mường đó!!! Những cái tên Cồn Tiên,
Khe Sanh, Lao Bảo là chúng ta chỉ biết đến sau này mà thôi.
Qua lại chợ Đông Hà về đêm thì cũng thấy
đèn sáng giăng giăng, sầm uất, nhưng không bằng các tỉnh miền tây Nam Bộ đâu.
Sau chiến tranh, vì thị xã Quảng Trị đã bị Coventry nên tỉnh lỵ được dời ra
Đông Hà. Dù hàng Lào, hàng Thái đã tràn ngập thành phố. Có những cửa hàng lớn
kẻ bảng bán hàng Lào hàng Thái, nhưng có lẽ chủ từ Sài Gòn ra, hoặc đây chỉ là
Tiền Trạm hay trạm Trung Chuyển để thu mua hàng , nên tôi bảo Quảng Trị vẫn là
tỉnh nghèo là thế.
Sáng hôm sau, để thay đổi không khí, tôi đi xe hoả từ Huế về Đà Nẵng. Phong
cảnh hai bên đường dĩ nhiên là đẹp với những người muốn ra khỏi nhà để đổi
không khí, giảm xì trét. Nhưng những mảnh ruộng nhỏ xíu, thậm chí có mảnh chỉ
bằng cái chiếu, khiến tôi không khỏi nao lòng. Những mảnh ruộng đáng được ghi
vào sách kỷ lục Guiness vì diện tích khiêm nhượng của nó, chắc khiến cho nông
dân khi làm, khi gặt phải vướng tay đụng mông nhau, không có thể hát lên những
điệu hát hò rộn rã vui tươi: ngày mùa, được mùa!!!
Không hiểu ngày xưa:
Có chàng công tử quê Đè Nẽng
Cưới ả Thuý Kiều xứ Phú Cơm
Khi chàng mới gặp nàng lần đầu, nàng Kiều
có dạo lên khúc đàn tranh, khiến chàng mê mẩn để khi về đến nhà cứ nhớ hung:
Gặp mi
bữa đó thương mi gướm
Cái
nhớ mỗi ngày mỗi nhớ hung
Chớ tôi thấy Phú Cam dưới trào Ngô cũng
chẳng sung sướng gì hung. Các Đại thần có nườm nượp về đây bái kiến phó vương
Ngô đình Cẩn hay Thượng Hoàng Ngô đình Thục, với cờ hoa rực rỡ, với lễ Ngân
Khánh hoành tráng… thì người dân Thang Mộc Ấp của các ngài cũng chẳng lấy
làm ơn sâu nghĩa nặng gì đâu! Chứng cớ là ngày nay chả ai nhớ tới các ngài cả!
Về tới Đè Nẽng, nghỉ tại khách sạn ngay
chân cầu Thuận Phước, cây cầu dài nhất Việt Nam bắc qua vịnh. Chiều ngồi
hóng mát. Nghĩ tới bao nhiêu cảnh, bao nhiêu thành, bao nhiêu di tích, lòng bồi
hồi cảm thán. Nào là giầu nghèo, thịnh suy, tốt xấu, phải trái cứ miên man
trong đầu. Trước mặt, một bên là núi Sơn Trà, một bên là núi Hải
Vân: Mây trôi, sương toả... Hồn mới lịm đi vài giây đã thấy từ biển nhô
lên cảnh tượng không biết là thực hay ảo, chỉ thấy rì rầm như tiếng sóng
đuổi nhau, nhiều thứ ánh sáng như đua nhau, nhiều tiếng ồn ào như tranh luận. Tôi
thấy rõ là mình già rồi, không hòa nhập được. Tôi lững thững về phòng, leo lên
giường… Théc Muồi… để còn sức ngày mai leo lên nàng Vina Airline về Sài Gòn.
05/2011
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Cần Thơ ngày 25/02/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét