Home
» Thư viện văn xuôi
» Lan man về các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diêu, Vương Bột… cùng cánh cò hay cánh vịt trời – Bài La Thụy (LG)
Lan man về các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diêu, Vương Bột… cùng cánh cò hay cánh vịt trời – Bài La Thụy (LG)
Thứ Sáu, 14 tháng 12, 2018
Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa (Huy Cận), Bất chợt liên tưởng mấy câu trong bài "Thơ Duyên" của Xuân Diệu: Mây biếc về đâu bay gấp gấp Con cò trên ruộng cánh phân vân (Xuân Diệu), Rồi lan man với lời bình thơ của Hoài Thanh: “Từ cánh cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới” (Thi nhân Việt Nam) “Lạc hà dữ cô vụ tề phi Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Vương Bột).
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả La Thụy
Tên thật: Đoàn Minh Phú
Nghề nghiệp: Giáo viên
Địa chỉ: 79 -1/8 Hoàng Hoa Thám Thị xã La Gi, Bình Thuận.
Mobile: 0937142001
Email: phudoan56@gmail.com
_____
LAN MAN VỀ CÁC NHÀ THƠ HUY CẬN, XUÂN DIỆU,
Tác giả La Thụy
Tên thật: Đoàn Minh Phú
Nghề nghiệp: Giáo viên
Địa chỉ: 79 -1/8 Hoàng Hoa Thám Thị xã La Gi, Bình Thuận.
Mobile: 0937142001
Email: phudoan56@gmail.com
_____
LAN MAN VỀ CÁC NHÀ THƠ HUY CẬN, XUÂN DIỆU,
VƯƠNG BỘT... CÙNG CÁNH CÒ HAY CÁNH
VỊT TRỜI
La Thụy
***
Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh:
***
Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh:
Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
(Huy Cận)
Bất chợt liên tưởng mấy câu trong bài
"Thơ Duyên" của Xuân Diệu:
Mây
biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
(Xuân Diệu)
Rồi lan man với lời bình thơ của Hoài
Thanh:
“Từ cánh
cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay
mà cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới” (Thi nhân Việt Nam)
“Lạc
hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
(Vương Bột)
Ai đó đã dịch thành:
(Chiếc
cò cùng với ráng sa
Sông thu cùng với trời xa một màu)
Và cứ thế lan man đến Đằng Vương Các Tự của
Vương Bột. Ôi chao, cái ông thi sĩ thời Sơ Đường này, ông đã lưu dấu ấn lại
trong truyện Kiều của Nguyễn Du qua một câu thơ điển tích thật hay:
“Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa”
(Kiều)
Và trong một câu thơ điển tích khác cũng thật
hay của Tô Đông Pha:
“Thời
lai phong tống Đằng Vương Các”
Hai câu thơ điển tích của hai nhà thơ lớn
ấy bắt nguồn từ giai thoại:
"Con
của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng
Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm
Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân
khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà
quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài
tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay
tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm
tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi.
Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng
Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc thi tài văn học xảy ra, bài Đằng
Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải”
Bài tự "Đằng Vương Các" viết theo
thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp
mà rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây
gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi
trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu
cuối:
Nhàn
vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Nghĩa:
Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi,
Mấy phen vật đổi với sao dời.
Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá?
Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.
(Tương
Như dịch)
Trong văn nghiệp sáng rực của một cuộc đời
ngắn ngủi, tác phẩm làm cho tên tuổi Vương Bột trở nên bất tử lại chỉ là hai câu
thơ tả cảnh tuyệt bút, cùng một đoạn thơ tám câu ở cuối bài Đằng Vương Các Tự. Hai câu thơ tả cảnh tuyệt tác đó là:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc”
Hai câu thơ tuyệt bút ấy lại bị người đời
sau cho là thừa chữ "dữ", "cộng" ("dữ, cộng" cùng
nghĩa “với”,“cùng”). Nếu bỏ hai chữ này thì càng tuyệt hơn, vừa gọn vừa thanh
thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy trường thiên nhất sắc.
Lạc hà là ráng chiều buông xuống, cô vụ tề
phi là con vịt trời cô đơn đang cùng bay. Thu thuỷ là sông nước mùa thu, trường
thiên nhất sắc là trời rộng mênh mông, chỉ có một màu.
Con vịt trời cô đơn này không lẽ cũng là
chú Uyên Ương gãy cánh của Kahlil Gibran đang trải mối sầu lẻ bóng vào ráng chiều
?
Vụ (鶩) trong từ Hán Việt là con vịt trời (dã áp 野 鴨). Khổ một nỗi, các dịch giả Việt Nam đã chuyển ngữ “cô vụ” là “Chiếc cò,
cánh cò cô lẻ” nên gây nhầm lẫn trong trí nhớ của một số người, khi họ đọc câu
thơ Hán Việt theo hồi ức, thành “Lạc hà dữ cô LỘ tề phi”. Vì LỘ 鷺 là con cò (Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất – Thơ Nguyễn Công Trứ).
Đằng
Vương Các Tự là bài “tự” về Gác Đằng Vương, là bài phú về Gác Đằng Vương, còn
được gọi tắt là bài Đằng Vương Các.
Gọi
như vậy để phân biệt với “bài thơ Đằng Vương Các”. Cái gọi là “bài thơ” Đằng Vương
Các, thật ra chỉ là đoạn thơ cuối cùng trong bài Đằng Vương Các Tự. Tuy chỉ là
một đoạn thơ, một bộ phận trong bài Đằng Vương Các Tự, nhưng 8 câu thơ cuối thật
hay. Nếu tách riêng ra thì 8 câu thơ này là một bài thơ hoàn chỉnh. Vì vậy, nó
được nhiều văn nhân thi sĩ tán dương và ngâm ngợi. Tám câu thơ cuối bài còn được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường và trở nên “bài thơ Đằng Vương Các” và cụm từ
“vật hoán tinh di ” (vật đổi sao dời) được sử sụng như thành ngữ. Mời thưởng thức!
ĐẰNG VƯƠNG CÁC
Đằng Vương cao các
lâm giang chử
Bội ngọc minh loan
bãi ca vũ
Họa đống triêu phi
Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển
Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh
nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ
độ thu
Các trung đế tử
kim hà tại?
Hạm ngoại Trường
giang không tự lưu.
DỊCH:
Gác Đằng cao ngất
bãi sông thu,
Ngọc múa vàng gieo
nay thấy đâu?
Nam Phố mây mai
quanh nóc vẽ,
Tây Sơn mưa tối,
cuốn rèm châu
Đầm nước mây vờn
ngày tháng trôi,
Mấy phen vật đổi với
sao dời.
Con vua thuở trước
giờ đâu tá?
Sông lớn hoài hiên
luống chảy hoài.
TƯƠNG NHƯ dịch
Lan man rồi
lại lan man, nhưng cũng đến lúc hết lan man…
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ La Gi - BT ngày 14/12/2018
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét