Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Văn học dịch
» Friedrich Nietzsche (Ecce Homo)- Tôi là ai? - Phạm Công Thiện dịch (SGXB)
Friedrich Nietzsche (Ecce Homo)- Tôi là ai? - Phạm Công Thiện dịch (SGXB)
Thứ Hai, 18 tháng 3, 2019
Có ba
quyển sách ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời tôi, đó là quyển Milarepa do W. Y.
Evans-Wentz xuất bản, viết về đời sống của Bồ tát Tây Tạng Milarepa, quyển thứ
hai là quyển nhật ký của Nijinski, một nghệ sĩ múa người Nga, quyển thứ ba là
quyển Ecce Homo của Nietzsche, tức là quyển này đây.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
__________________________
FRIEDRICH NIETZSCHE
TÔI LÀ AI? (ECCE HOMO)
PHẠM CÔNG THIỆN DỊCH
Đây là người mà chúng ta mong đợi!
***
__________________________
FRIEDRICH NIETZSCHE
TÔI LÀ AI? (ECCE HOMO)
PHẠM CÔNG THIỆN DỊCH
Đây là người mà chúng ta mong đợi!
***
Lời
người dịch:
Có
ba quyển sách ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời tôi, đó là quyển Milarepa do W. Y.
Evans-Wentz xuất bản, viết về đời sống của Bồ tát Tây Tạng Milarepa, quyển thứ
hai là quyển nhật ký của Nijinski, một nghệ sĩ múa người Nga, quyển thứ ba là
quyển Ecce Homo của Nietzsche, tức là quyển này đây.
Nhiều
lúc điên gàn vớ vẩn, tôi tưởng tượng rằng tôi bị mù mắt, bị bại liệt cả thân
thể một ngày nào đó thơ mộng trong kiếp này hoặc kiếp sau, trong một căn nhà đổ
nát, tôi nằm dài trên nệm đất, trời nắng dữ dội, mắt tôi không thấy gì cả,
nhưng lỗ tai tôi còn nghe được tiếng thở của trái đất thì có một người nào đó
sẽ độ lượng chịu cực đọc cho tôi nghe năm mười trang trong quyển Milarepa hoặc
quyển Ecce Homo của Nietzsche. Chắc lúc ấy mắt tôi sẽ bừng sáng lại được, và
tôi vùng lên đứng dậy, không còn bại liệt nữa. Tôi sẽ chạy đâm đầu vào núi cấm
để chờ ngày núi nổ banh ra làm hai thì tôi sẽ khoan thai bước ra hiện nguyên
tính! Lúc ấy cỏ xanh sẽ nhảy múa dưới chân tôi, chân tôi sẽ lướt trên cỏ như ma
đi hỏng chân. Nhưng điều chắc chắn là tôi sẽ không là ma, mà là một cái gì rất
hiền lành, rất dễ dạy, rất chậm chạp, vô danh, miệng cứ cười một nụ cười nhè
nhẹ như không khí.
Tôi
thường mang tiếng là giỏi sinh ngữ, thực sự thì tôi khinh bỉ những kẻ nào biết
nhiều thứ tiếng. Tôi vẫn nghĩ rằng chữ Việt là chữ khó đọc nhất, vì chữ Việt
không có văn phạm và ngữ pháp, không có ngày nào tôi không dở Tự điển Việt Nam
của Hội Khai Trí Tiến Đức và quyển Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị để học
từng chữ A, từng chữ B, tôi chịu khó học lại từng dấu hỏi, dấu ngã để nhìn lại
những nét mặt quen thuộc của bà con làng xóm mà từ bao nhiêu năm lang bạt kỳ hồ
tôi đã bỏ quên một cách ngu dại. Đối với tôi, tiếng Việt còn giữ lại một niềm
bí ẩn nào đó mà cả đời tôi cũng không thể nào khoét sâu vào được. Có lẽ khi sắp
chết thì niềm bí ẩn kia sẽ hiện nguyên hình…
Còn
tiếng ngoại quốc? Tôi coi những thứ tiếng ngoại quốc như những trò chơi nhảm
nhí. Hồi 13-14 tuổi, tôi đã học tiếng Nga, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng
Đức, tiếng Hoà Lan, tiếng Ba Lan, vân vân. Đến năm 18-19 tuổi, tôi lại học thêm
tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hy Lạp, tiếng Tây Tạng, vân vân. Bây giờ có lẽ
tôi đã quên hết mọi thứ tiếng, tôi chỉ nhớ một tiếng A của chữ Phạn, chỉ nội có
tiếng A này có lẽ tôi phải đầu thai đến một trăm kiếp nữa thì mới hiểu nổi hết
tất cả ý nghĩ kỳ lạ của tiếng A trong chữ Phạn!
Sở
dĩ tôi say mê ba quyển sách kể trên (Milarepa, Nijinsky và Nietzsche) là vì tôi
coi ba quyển sách này như là ba quyển văn phạm vỡ lòng để đi vào tiếng A của
chữ Phạn! Tại sao thế? Xin cho tôi giữ lại một chút kín đáo về đời sống tâm linh
mình.
Bây
giờ tôi xin nhường lời lại cho Nietzsche.
Và
đây là người mà chúng ta mong đợi, Ecce Homo!
Phạm
Công Thiện
Ngày
5 tháng 11, 1969
----
Lời tựa của Nietzsche
I.
Tiên
kiến rằng trong tương lai tôi phải đưa nhân loại đương đầu với một điều yêu
sách gian nan nhất, khó nhọc nhất mà chưa từng ai đưa nhân loại đối đầu như
vậy, tôi liền thấy ngay rằng việc tối khẩn hiện nay của tôi dường như phải nói
cho mọi người biết tôi là ai. Thực sự thì chắc người ta cũng biết được chứ, vì
tôi không bao giờ quên để lại "chứng minh thư". Song sự chênh lệch
giữa sự cao sang lớn lao của sứ mạng tôi và sự nhỏ bé thấp hèn của những người
sinh ra đồng thời với tôi, sự chênh lệch ấy có thể tỏ lộ chân tướng rõ rệt trong
việc người đời không hề nghe biết đến tôi, cũng không hề nhìn thấy được chân
diện tôi. Tôi sống với niềm tin cậy mà tôi tự ban lấy cho tôi; ồ, cũng có thể
lắm, có lẽ tôi chỉ sống với một thiên kiến thôi?
Dễ lắm chỉ cần mở miệng ra nói chuyện với bất cứ tên nào trong bọn "trí thức học thức" mỗi khi hắn nghỉ hè ghé tạt qua vùng thượng sơn Engadine, chỉ cần nhếch môi nói dăm ba lời với mấy tên ấy thì tôi thấy ngay rằng tôi không sống gì hết.
Dễ lắm chỉ cần mở miệng ra nói chuyện với bất cứ tên nào trong bọn "trí thức học thức" mỗi khi hắn nghỉ hè ghé tạt qua vùng thượng sơn Engadine, chỉ cần nhếch môi nói dăm ba lời với mấy tên ấy thì tôi thấy ngay rằng tôi không sống gì hết.
Gặp
những trường hợp cắc cớ như thế, tôi cảm thấy có bổn phận mà thói quen của đời
sống tôi, nhất là tính cao ngạo của những bản năng tôi, vẫn luôn luôn nổi loạn
chống chế lại dữ dội từ đáy lòng sâu thẳm, chống lại cái việc cần phải quát
lên: Chúng bây hãy lắng nghe ta! Vì ta là thế này, thế này đây. Chúng bây đừng
bao giờ lầm lẫn ta, đừng nhìn lầm ta là một kẻ nào khác!
II.
Chẳng
hạn, điều rõ ràng là tôi không bao giờ là một loài ác độc, quỉ quái, một loại
quái vật luân lý học – trái lại thực sự tôi chống nghịch lại hẳn mẫu người mà
thiên hạ từ lâu tôn sùng như là bậc có đạo đức, có đạo hạnh. Nói cho tận tình ý
với nhau thì dường như cái việc đi nghịch lại thiên hạ ấy cũng là bản hữu của
tính cao ngạo trong tôi. Tôi là học trò của triết thần Dionysus, bậc linh thần
ào ạt say ngất tràn lan. Nói cho cùng lời thì tôi vẫn thích làm một tên thần
hoang dã, mình người chân dê, hơn là làm một bậc thánh đạo hạnh cao đức. Nhưng
dù sao người đời cũng nên đọc cho thấu đáo thiên tuyệt bút này. Cũng có thể
lắm, may ra tôi nói được điều muốn nói; cũng có thể lắm; thiên tuyệt bút này
đạt được ý nghĩa trung thực của nó, nghĩa là không nói gì hết ngoài việc nói
lên sự tương phản kia qua một giọng điệu vui sống khoan thai, đầy tình thương
xót nhân loại.
"Cải
thiện" nhân loại ư? Điều ấy là điều còn lâu tôi mới xét tới. Tôi không hề
dựng lên những thần tượng mới nào hết; hãy để lũ thần tượng cũ biết thế nào hậu
quả cái việc chân bằng đất thó. Hãy lật đổ những thần tượng (tôi gọi "lý
tưởng" là "thần tượng"), lật đổ những thần tượng mới thực là bản
hữu của sinh nghiệp tôi. Người đời bày đặt ra một thế giới lý tưởng một cách
láo khoét ngay lúc họ tước mất giá trị ý nghĩa, chân tính ra ngoài thực
tại.
"Thế
giới thực" và "thế giới giả" – có nghĩa: thế giới bày đặt láo
khoét và thực tại.
Lý
tưởng láo khoét từ lâu đã nguyền rủa thực tại; đó là nguyên do lý lẽ đã khiến
cho nhân loại trở thành láo khoét giả dối sai lầm ngay cả những bản năng chính
yếu nhất của con người – láo khoét đến nỗi họ đã sùng bái những giá trị đối
nghịch lại với những cái duy nhất khả dĩ bảo đảm được sức khoẻ, tương lai,
quyền hạn cao cả về tương lai của mình.
III.
Những
kẻ nào có thể thở nổi không khí của những tác phẩm tôi đều biết rằng đây là
không khí của những đỉnh cao vùng sơn thượng, một loại không khí mạnh khoẻ mãnh
liệt; muốn thở nổi không khí ấy, mình phải được sinh ra để thở loại không khí
ấy, phải bám trụ không khí ấy. Nếu không thể thì không thể tai qua nạn khỏi lúc
mình bị cảm lạnh. Băng tuyết gần khít một bên, nỗi cô đơn thì quá sức chịu
đựng, thực là khủng khiếp - thế mà tất cả mọi sự đều nằm im lặng biết bao, tĩnh
lặng biết bao trong ánh nắng! Mình hít thở thoải mái biết bao! Mình cảm thấy
biết bao nhiêu sự việc ở tận dưới chân mình!
Triết
lý, sống triết lý như tôi hiểu, từng hiểu và sống, có nghĩa là sống cố ý, tình
nguyện sống giữa vùng tuyết lạnh và vùng núi cao tít mù – moi móc cho ra tất cả
mọi sự kỳ dị, mọi sự nghi vấn trong đời sống, tất cả mọi sự mà luân lý cấm đoán
kiêng kỵ. Kinh nghiệm lâu dài học được suốt những lúc lang thang phiêu lãng
trong vùng cấm đoán , đã dạy tôi nhìn thấy những lý do khác hẳn đi, trong một
luồng ánh sáng khác hẳn, những lý do từ lâu xui khiến thiên hạ làm trò luân lý
đạo đức, làm trò lý tưởng lý sự, tôi đã nhìn thấy những lý do ấy khác hẳn với
lý sự thông thường được thiên hạ chấp nhận từ lâu: nhìn thấy sáng lên chân
tướng, lịch sử giấu kín của những triết gia, tâm lý đen của những tên tuổi vĩ
đại, mọi sự hực sáng bùng dậy cho tôi nhìn thấy tất cả.
Một
tâm hồn có thể chịu đựng sự thật đến bao nhiêu? Có thể dám, có thể đánh liều sự
thật đến bao nhiêu? Càng lúc càng sáng tỏ cho tôi thấy rằng việc ấy trở thành
tiêu chuẩn, thước đo thực sự để tôi đánh giá con người. Sự sai lầm (đức tin vào
lý tưởng) không phải là sự mù quáng, sự sai lầm chính là hèn nhát, khiếp
nhược.
Bất
cứ một sự đạt đạo, bất cứ một bước nào tiến lên sự tri tính kiến tính đều xuất
phát từ lòng can đảm, từ sự cứng rắn chai lì với bản thân, cứng rắn đối với
chính mình, lòng tinh khiết sạch sẽ của mình đối với chính mình. [1]
Tôi
không chối bỏ những lý tưởng, tôi chỉ mang găng tay mỗi khi rờ mó chúng…
Nitimur
in vetitum [2]: dưới dấu hiệu này triết lý của tôi nhất định một ngày kia sẽ
chiến thắng, vì từ trước cho đến bây giờ ngay từ nguyên tắc, người ta vẫn chỉ
khăng khăng cấm đoán một điều - điều đó là sự thật, chỉ có sự thật mà
thôi.
IV.
Trong
tất cả sáng tác phẩm của tôi, quyển Zarathustra của tôi nổi bật lên một chỗ ngự
biệt lập ngang tàng trong tâm thức tôi. Qua tác phẩm Zarathustra ấy, tôi đã
tặng cho nhân loại một quà tặng vĩ đại nhất từ trước cho đến giờ. Quyển sách ấy
mà âm vang đồng vọng lên một tiếng nói bắc cầu bao nhiêu thế kỷ quả là một
quyển sách cao nhất, một quyển sách thực thụ biểu lộ không khí tuyệt mù của
những vùng non cao tuyết phủ - một quyển sách đạp con người xuống tận đáy sâu thẳm
hạ, để con người nằm xa tít thăm thẳm dưới kia – đó chẳng những là quyển sách
cao nhất mà cũng còn là một quyển sách sâu thẳm nhất, được khai sinh ra từ kho
tàng nội tại nhất của chân lý, một giếng sâu không đáy mà không có thùng gáo
nào thông xuống mà không múc lên đầy vàng óng và đầy lòng nhân thiện cao cả.
Nơi đây không có tên "tiên tri" nào lên tiếng dạy đời, những tên nửa
người nửa ngợm, nửa đười ươi, những tên hỗn tạp âm hiểm mắc bệnh hủi, mắc bệnh
tham quyền, ham say thế tục oai hùng mà người đời gọi là những kẻ giáo chủ,
những tên sáng lập tôn giáo. Cần nhất là phải nghe cho đúng điệu âm vọng đưa ra
từ môi miệng này, giọng lời của Zarathustra mang lên thanh điệu của loài chim
bói cá thần thọai thầm lặng, thanh bình mênh mang, xin chớ lầm lẫn bất công với
ý nghĩa đạo lý cao cả của Zarthustra, nếu không làm bậy như thế thì cần phải
nghe cho trúng tiết, trúng nhịp giùm vậy.
"Chính
những lời thầm lặng nhất mới mang tới bão tố. Những tư tưởng nhón nhén trên
bước chân bồ câu mới dẫn đạo thế giới" (Zarathustra, phần II, chương
cuối).
"Những
trái sung rời cành rụng xuống, những trái thơm ngọt chín đỏ, và khi trái rụng
thì da đỏ vỡ nứt ra. Ta là cơn gió phương bắc thổi tới làm chín vàng trái
xanh.
Cũng
thế, như những trái sung, đạo lý ta rơi rụng trên các người, hỡi bằng hữu của
ta; vậy các người hãy tận hưởng nước trái, cơm trái ngon ngọt. Mùa thu đang về
vây phủ chúng ta, ôi sao vời vợi trời long lơ và buổi chiều mang
mang…"
Nơi
đây không phải lời lẽ của một tên cuồng tín, không ai thuyết pháp giảng đạo ở
đây cả, không ai cần phải tỏ có đức tin ở đây: từ cõi vùng giàu sang vô hạn dẫy
đầy ánh sáng và từ hố thẳm tràn lan vĩnh phúc nhỏ ra từng giọt, từng giọt thánh
thót, từng tiếng từng lời vi vu: tiết nhịp của giọng lời là sự khoan thai chậm
chạp mơn mơn dịu dàng du dương. Những điều nói ra theo cung điệu như thế chỉ có
những kẻ chung thuyền ưu tú mới liễu nhập được. Kẻ nào lắng tai nghe được nơi
đây quả là nhận được một ân huệ vượt bậc, không gì sánh ngang nổi. Không phải
bất cứ ai cũng có được lỗ tai xứng đáng để nghe Zarthustra.
Có phải tất cả những thứ đó đã làm Zarathustra trở thành một tên huyễn hoặc, dụ dỗ, ăn nói "cam ngôn mật ngữ"? Thế nhưng chính Zarathustra tự nói những gì, lúc chàng trở về với nỗi cô liêu của chàng vào lần đầu tiên? Nhất định chàng nói ngược lại tất cả những gì mà bất cứ "bậc thánh nhân", "bậc thánh", "bậc cứu thế" hay bất cứ tên sa đọa nào cũng đều phải nói trong trường hợp như thế - Chẳng những lời lẽ của chàng khác biệt hẳn mà chính chàng cũng khác biệt hẳn.
Có phải tất cả những thứ đó đã làm Zarathustra trở thành một tên huyễn hoặc, dụ dỗ, ăn nói "cam ngôn mật ngữ"? Thế nhưng chính Zarathustra tự nói những gì, lúc chàng trở về với nỗi cô liêu của chàng vào lần đầu tiên? Nhất định chàng nói ngược lại tất cả những gì mà bất cứ "bậc thánh nhân", "bậc thánh", "bậc cứu thế" hay bất cứ tên sa đọa nào cũng đều phải nói trong trường hợp như thế - Chẳng những lời lẽ của chàng khác biệt hẳn mà chính chàng cũng khác biệt hẳn.
"Hỡi
những môn đệ của ta, giờ đây ta đi một mình, và chính các ngươi cũng phải đi
một mình vậy, vì ta vẫn muốn thế. Hãy đi xa, tránh xa ta và hãy chống lại
Zarathustra! Hãy xấu hổ vì hắn. Có lẽ hắn đã lường gạt các ngươi.
Kẻ
thiện tri thức chẳng những phải yêu kẻ thù mà còn phải có khả năng thù ghét bạn
bè thân hữu.
Mình chỉ trả ơn thầy mình một cách bội bạc mỗi khi mình vẫn luôn luôn là học trò thôi. Tại sao các ngươi không muốn đưa tay giật lấy vùng hoa nguyệt quế của ta?
Mình chỉ trả ơn thầy mình một cách bội bạc mỗi khi mình vẫn luôn luôn là học trò thôi. Tại sao các ngươi không muốn đưa tay giật lấy vùng hoa nguyệt quế của ta?
Các
ngươi sùng bái kính trọng ta, nhưng các ngươi nghĩ sao nếu sự sùng bái trọng
vọng kia sẽ sụp đổ một ngày gần đây? Hãy thận trọng coi chừng thần tượng đè bẹp
các ngươi.
Các
ngươi tin tưởng Zarathustra ư? Thế nhưng Zarathustra là cái quái gì chứ?
Các
ngươi là những tín đồ của ta - thế nhưng tín đồ là cái quái gì hử?
Các
ngươi vẫn chưa tìm ra các ngươi, thế mà các ngươi đã tìm ra ta. Tất cả lũ tín
đồ đều giống như thế, đó là lý do tại sao mọi người đức tin đều chẳng có nghĩa
lý gì ráo.
Giờ
đây ta ra lệnh các ngươi hãy đánh mất ta và hãy tìm ra chính các ngươi, và chỉ
khi nào các người đều từ bỏ ta trọn vẹn, thì ta mới trở về lại các
ngươi".
Friedrich
Nietzsche
Chú
thích của dịch giả
Đoạn
cuối cùng rất đáng cho chúng ta đọc lại nguyên tác chữ Đức; đối với những độc
giả không biết chữ Đức thì cũng cứ đọc đại đi vì Vô Thức của mình sẽ hiểu hết
những gì mà ý thức không thể quen thuộc:
"Allein
gehe ich nun, meine Jünger! Auch ihr geht nun davon und allein! So will
iches.
Geht fort von mir und wehrt euch gegen
Zarathustra! Und besser noch: schämt euch seiner! Vielleicht betrug er
euch.
Der
Mensch der Erkenntnis muss nicht nur seine Feinde lieben, er muss auch seine
Freunde hassen können.
Man
vergißt seinen Lehrer schlecht, wenn man immer nur der Schüler bleibt. Und
warum wollt ihr nicht an meinem Franze rupfen?
Ihr
verehrt mich: aber wie, wenn eure Verehrung eines Tages umfällt? Hütet euch,
dass euch nicht eine Bildsäule erschlage! Ihr sagt, ihr glaubt an Zarathustra?
Aber was liegt an Zarathustra! Ihr seid meine Gläubigen, aber was liegt an
allen Gläubigen!
Ihr
hattet euch noch nicht gesucht: da fandet ihr mich. So tun alle Gläubigen,
darum ist es so wenig mit allem Glauben. Nun heisse ich euch, mich verlieren
und euch finden; und erst, wenn ihr mich alle verleugnet habt, will ich euch
wiederkehren…"
Trong
câu chót có một động từ quan trọng, đó là "wiederkehren" có nghĩa
thông thường là "trở về, trở lại, lặp lại" nhưng trong đoạn văn này
Nietzsche lại có ý dùng "wiederkehren" trong ý nghĩa trầm trọng của
việc Phục Tính, phục hồi như tính, phục hồi vĩnh viễn của sự đồng tính,
"Die ewige Wiederkehr des Gleichen" (cf. Heidegger, Vorträge und
Aufsätze, Teil I, 117). Một tiếng không, rồi một tiếng ừ, tiếng ừ lớn hơn, mãnh
liệt hơn, sâu thẳm hơn trong trò chơi vũ trụ?
Vào
ngày trọn vẹn hôm nay, khi tất cả mọi sự đều chín đỏ và chẳng những chùm nho
chỉ vàng sẫm thôi mà cả tia nháy mặt trời cũng rơi rụng trên cuộc đời tôi: tôi
nhìn lui, tôi nhìn tới, ồ chưa bao giờ tôi nhìn thấy được bao nhiêu cơ sự tuyệt
vời hiện lên đồng lúc như thế. Ngày hôm nay tôi chôn sâu dưới lòng đất bốn mươi
bốn năm trong cuộc đời, bốn mươi bốn năm trôi qua không phải là không ra gì cả:
tôi được quyền chôn mất những năm ấy; những gì có sinh khí sôi động trong những
năm ấy đã được lưu giữ lại với vạn đại thiên thu. Quyển sách đầu tiên về việc
đảo ngược mọi giá trị, những bài hát của Zarathustra, quyển Hoàng hôn của những
thần tượng nỗ lực sống triết lý nhát búa - tất cả đã đều là quà tặng cho tôi
trong năm nay, chỉ vào những tháng cuối cùng năm nay! Làm sao mà tôi không
quyên mang ơn suốt trọn đời tôi được? – Và vì thế tôi kể lại đời sống tôi cho
chính tôi nghe.
An
diesem vollkommnen Tage, wo alles reift und nicht nur die Traube braun wird,
fiel mir eben ein Sonnenblick auf mein Leben: ich sah rückwärts, ich sah
hinaus, ich sah nie so viel und so gute Dinge auf einmal. Nicht umsonst begrub
ich heute mein vierundvierzigstes Jahr, ich durfte es begraben – Was in ihm
Leben war, ist gerettet, ist unsterblich. Das erste Buch der Umwertung aller
Werte, die Lieder Zarathustras, die Götzen – Dämmerung, mein Versuch mit dem
Hammer zu philosophieren – alles Geschenke dieses Jahrs, sogar seines letzten
Vierteljahrs! Wie sollte ich nicht meinem ganzen Leben dankbar sein? Und so
erzähle ich mir mein Leben.
Chú
thích của dịch giả Trong đoạn văn trên có một chữ khó dịch là
"Sonnenblick" có thể dịch là "tia nắng mặt trời", mà cũng
có thể dịch là "cái nhìn mặt trời", mà cũng có thể dịch là "con
mắt mặt trời", "nhật kiến". Tính cách mơ hồ của chữ Đức đã khiến
cho những dịch giả không đồng ý nhau, chẳng hạn Walter Kaufmann dịch
"Sonnenblick" là "the eye of the sun" ("con mắt mặt
trời", còn Alexandre Vialatte dịch là "rayon de soleil" (tia
nắng mặt trời), theo tôi thì trong lối sử dụng thông thường trong sinh hoạt dân
Đức thì "ein Sonnenblick" có nghĩa là "một thoáng nháy mặt
trời". Sở dĩ tôi đơn cử trường hợp chữ này để chúng ta thấy rằng mặc dù
cảm nhận tất cả sức hút linh động của nguyên văn ở Nietzsche nhưng dịch giả vẫn
phải bất lực trong việc lưu giữ thần hồn của nguyên ngữ, nhưng nói như thế
không có nghĩa là Việt ngữ không có sức hút riêng biệt của mình, nhất là người
dịch Nietzsche cũng lại càng bùng cháy một thứ lửa thiêng như Nietzsche?
Tại
sao tôi khôn ngoan như thế (Warum ich so weise bin)
I.
Niềm
vĩnh phúc của đời sống tôi, tính cách độc nhất của đời sống ấy, có lẽ là ở nơi
sinh phận của nó: diễn tả theo thể điệu một ẩn ngữ huyền bí thì tôi vốn đã chết
rồi, giống như cha tôi đã chết, nhưng đồng lúc giống như mẹ tôi thì tôi vẫn còn
đang sống và đang già. Căn cội phát xuất kia vừa là bắt nguồn từ nấc thang cao
nhất và thấp nhất của đời sống, nghĩa là đồng lúc tôi vừa là một kẻ suy vận vừa
là một cái gì nguyên khởi bắt đầu (décadent zugleich und Anfang), chính điều
này hơn hết giải thích tính chất trung lập của đời sống tôi, sự tự do thoát
khỏi mọi lập trường thiên chấp, thoát khỏi phe phái bè nhóm trong tư thế đối
mặt với vấn đề trọn vẹn của đời sống, có lẽ chính điều ấy đã biệt phân thế đứng
của tôi trong đời sống. Tôi có được một thứ cảm giác bén nhạy biết đánh hơi,
biết ngửi ra những dấu hiệu về việc cất cánh bay cao và việc suy đồi rơi rụng
(die Zeichen von Aufgang und Niedergang) hơn bất cứ người nào đi trước tôi, tôi
mới đúng là bậc đạo sư thượng đẳng về việc này – tôi biết rõ cả hai, tôi vốn là
cả hai.
Cha
tôi chết đi từ lúc ba mươi sáu tuổi: ông cụ vốn mảnh khảnh, mong manh, nhân từ
phúc hậu, và lại bệnh hoạn, như một người sinh ra để chết đi – ông cụ có vẻ một
cái gì lưu niệm hiền hậu của đời sống hơn là chính đời sống thực thụ. Cũng vào
năm mà đời sống ông cụ rơi rụng mà đời sống của tôi cũng rơi rụng theo: vào năm
ba mươi sáu tuổi tôi tuột xuống nơi điểm thấp nhất của sinh lực tôi – tôi vẫn
còn sống, nhưng thế mà vẫn không đủ sức để nhìn quá ba bước trước mặt. Thế rồi
- dạo đó là năm 1879 – tôi từ chức giáo sư đại học trường đại học Basel, nghỉ
hè tại vùng St. Moritz, sống như một bóng ma, rồi mùa đông kế tiếp, một mùa
nghèo ánh nắng nhất trong suốt đời tôi, ở tại Naumburg, tôi sống hoàn toàn đúng
là một bóng ma không hồn. Tôi đã rơi thấp tận đáy: quyển Kẻ lang thang với bóng
mình (Der Wanderer und sein Schatten) xuất phát từ trạng huống ấy. Điều không
thể chối cãi được là lúc bấy giờ tôi đã biết quá rõ thế nào là những bóng ma,
bóng tối chờn vờn.
Mùa
đông sau đó, mùa đầu tiên trong đời tôi tại Genoa, một sự dịu ngọt nào đó và
một cuộc chuyển di tâm linh nào đó đi đôi không rời với cơn bần cùng tàn tạ của
máu và thớ thịt, chính những thứ trùng ngẫu ấy đã khai tạo ra quyển Triều dương
(Morgenröte). Ánh sáng rạo rực tận mỹ và niềm hân hoan phơi phới, cả sức sống
tràn lan ào ạt của tâm thức, đã phản hiện trong tác phẩm này, điều ấy trong
trường hợp tôi lại thuận ứng, chẳng những với cơn yếu đuối nặng nề nhất về mặt
cơ thể mà thuận ứng với cả cơn đau nhói đi quá mức độ. Giữa chứng bệnh nhức óc
giày vò liên miên suốt ba ngày liền, tiếp theo đó là cơn mửa mật ngầy ngật, tôi
vẫn giữ được sự sáng suốt cao độ của một kẻ lý luận biện chứng, vẫn suy tưởng
lạnh lùng thấu xuyên qua những vấn đề mà trong những hoàn cảnh khoẻ mạnh hơn
tôi vẫn không có đủ tinh thần bén nhạy, tế nhị, lạnh lùng của kẻ leo núi. Những
người đọc tôi có lẽ biết rằng tôi coi biện chứng pháp như là dấu hiệu của sự sa
đọa xuống dốc là thế nào; chẳng hạn như trường hợp nổi tiếng nhất, đó là trường
hợp của Socrate.
Tất cả những trạng thái giày vò bệnh hoạn của
tri thức, ngay cả trạng thái nửa mê nửa tỉnh ngật ngừ sau cơn sốt thực sự cho
đến nay tôi không biết gì về những trạng thái bệnh hoạn ấy cả, thường khi tôi
phải khảo cứu, nghiên cứu sách vở để tìm hiểu, khám ra bản chất và bệnh chứng
thường xuyên của chúng. Máu của tôi chảy rất chậm. Không ai có thể khám phá ra
bất cứ cơn sốt nào trong tôi. Một y sĩ khám bệnh tôi trong một thời gian để xem
coi tôi có bệnh thần kinh không, sau cùng phải thốt lên: "Không phải thần
kinh ông bệnh, mà chính tôi mới bệnh thần kinh đây". Hoàn toàn không có
bất cứ dấu hiệu nào chứng tỏ tôi mắc phải cơn bại họai cục bộ; tôi cũng không
mắc bệnh tạng khí nào ở bao tử, dù bộ máy dạ dày tôi có yếu mệt đến đâu đi nữa
thì có thể đó chỉ là hậu quả của việc làm việc quá độ thôi. Mắt tôi quá yếu,
đôi lúc gần như mù, thực ra đó chỉ là hậu quả, chứ không phải nguyên do: mỗi
khi sinh khí tôi được tăng trưởng lên thì thị quan tôi lại cũng được tăng cường
lên.
Bao
nhiêu năm lâu dài, chuỗi năm kéo dài lê thê cũng có nghĩa là cả thời gian lấy
lại sức cho tôi; đồng thời thực là bất hạnh, cả thời gian ấy cũng có nghĩa là
thụt lùi, sa sút, bại họai, cơn tuần hoàn của một loại suy đồi nào đó. Nói như
thế để rồi có cần thấy rằng tôi quả là có kinh nghiệm thực sự trong những vấn
đề có liên hệ đến tính chất suy đồi, xuống dốc. Tôi có thể đánh vần đủ mọi
thiên hình vạn trạng của chứng suy đồi, sa đoạ, xuống dốc, đánh vần lui, đánh
vần ngược. Ngay cả cái ngón nghệ thuật "đậu chỉ vàng" trong việc lãnh
hội, thông hiểu mọi sự một cách chung trọn, những ngón tay thần tình rờ rẫm
những vẻ tinh vi sắc sảo (jene Finger für nuances), cái tâm lý đâm thấu tim đen
"vào những cạnh khoé" và bất cứ sắc thái nào khác biểu thị đặc tính
của tôi, tôi đều học được vào giai đoạn xuống dốc ấy, đó là quà tặng thực sự
của những ngày ấy, những ngày mà mọi sự đều trở nên tinh tế xảo diệu nhiều thêm
lên, cả thế lực quan sát cũng như cả những quan năng quan sát đều tinh tường vi
diệu thêm lên. Đứng nhìn từ thế đứng của kẻ bệnh hoạn ngó về những ý niệm và
những giá trị lành mạnh khoẻ khoắn, rồi ngược lại đứng nhìn lại từ sức sống
tràn trề tự tin của một đời sống phong phú tràn lan để phóng cái nhìn xoáy sâu
vào động tác bí ẩn của bản năng xuống dốc, sa đọa - về việc này quả thực tôi là
kẻ được huấn luyện lâu dài nhất, đó là kinh nghiệm trung thực nhất của tôi, nếu
tôi có làm thầy thiên hạ thì đó chính là điều tôi lão luyện hơn cả. Giờ đây tôi
đã tinh nghề, đã đạt tới nghệ thuật đạp đổ, quay lộn đầu lại mọi trục viễn thị
(Perspektiven umzustellen). Đó là nền tảng duyên do đầu tiên (erster Grund) cắt
nghĩa tại sao có lẽ chỉ có tôi mới có thể làm nổi việc "lật ngược lại
những giá trị" (Umwertung der Werte).
II.
Ngoài
cái việc tôi là một kẻ xuống dốc, tôi lại cũng là kẻ lên dốc. Bằng chứng của
việc này là bản năng tôi vẫn luôn luôn chọn lựa những phương tiện thích ứng để
trị những tâm thái chán chường khắc khoải của tôi, còn hạng người xuống dốc thì
vẫn chọn lựa những phương sách có hại cho họ thôi. Chung chung trên hết mọi sự
(summa summarum) tiên thiên tôi vốn mạnh khoẻ lành mạnh; dù đứng về mặt cạnh
khoé đặc biệt thì tôi là kẻ xuống dốc. Cái tinh lực hăm hở chọn lựa sự cô đơn
tuyệt đối, từ bỏ đời sống thói quen thông thường, việc cứng đầu bướng bỉnh
không chịu để cho người ta săn sóc tôi, hầu hạ tôi, chiều chuộng chăm lo tôi -
điều ấy biểu lộ một sự an vững tuyệt đối tận nơi bản năng về những gì tôi cần
cho tôi trong giai đoạn xuống dốc ấy. Tự tay tôi lo lấy sức khoẻ tôi, tôi tự
làm mình bình phục mạnh khoẻ lại: điều kiện khả dĩ làm được như thế - tất nhiên
mọi nhà sinh lý học phải chịu công nhận đồng ý – là mình phải lành mạnh ngay
tận bản chất, tận nền tảng (dass man im Grunde gesund ist). Hạng người bệnh
hoạn thì không thể nào trở nên lành mạnh được, chứ nói chi đến việc tự trị bệnh
cho lành. Đối với hạng người thực sự lành mạnh, ngược lại dù có bệnh đi nữa,
thì đó chẳng qua là kích thích tố mãnh liệt hơn nữa để yêu đời, để sống tràn
lan say sưa hơn nữa (ein energisches Stimulan zum Leben, zum Mehrleben sein).
Đó là điều thực sự mà giai đoạn bệnh hoạn lâu dài ấy đã mở ra cho tôi một đời
sống mới lạ hẳn, cả bản thân tôi cũng thay đổi mới nữa; tôi đã nếm được cả mùi
vị những sự tuyệt vời bé nhỏ mà những kẻ khác khó ngửi nếm được như vậy, - tôi
đã biến đổi ý chí sống khỏe, vui sống của tôi trở thành một nền triết lý (Ich
mache aus meinem Willen zur Gesundheit, zum Leben, meine Philosophie…)
Có
một điều đáng ghi nhớ: chính trong những năm trời sinh khi tôi bị trồi thấp
nhất là lúc tôi không còn là kẻ bi quan nữa; cái bản năng tự tồn nội thủ (Sebst
– Wiederherstellung) của tôi đã cấm đoán không cho tôi sống một thứ triết lý
nghèo nàn chán nản. Điều gì căn bản nhất đã xui ta nhận ra một kẻ đạt thành
công thiện? (Die Wohlgeratenheit!) Kẻ đạt thành công thiện là người làm phấn
khởi những cảm năng của chúng ta, hẳn là được tạo từ gỗ cứng, tế nhị, đồng thời
toả hương ngào ngạt. Hắn chỉ có khẩu vị đối với những gì tốt đẹp cho hắn: cơn
khoái cảm của hắn, sự mê lạc của hắn chấm dứt mỗi khi những gì tốt đẹp cho hắn
đã bị tràn lên quá độ lượng thích ứng. Hắn có thể mò ra đâu là phương thuốc để
trị lại những gì có hại cho hắn; hắn biến đổi mọi cơ sự trắc trở thành ra điều
lợi cho hắn, những gì không giết được hắn thì làm hắn mạnh sức thêm lên (Was
ihn nicht umbringt, macht ihn stärker). Nghe theo bản năng, hắn thu gặt tất cả
những gì hắn nhìn, nghe, sống, biến tất cả thành một tập đại thành của riêng
hắn (seine Summe): hắn là một thứ nguyên lý tuyển lựa, hắn vứt bỏ rất nhiều sự
việc rườm rà nhảm nhí. Hắn luôn luôn vẫn tự làm bạn với riêng hắn, dù hắn có
lân la chi nữa với những quyển sách, những con người hoặc những phong cảnh; hắn
vinh thăng mọi sự qua việc chọn lựa, qua việc chấp thuận, qua việc tin cậy. Hắn
phản ứng rất chậm rãi đối với mọi loại kích thích tố, sự chậm rãi mà hắn đã
được nuôi dưỡng qua sự thận độc lâu dài và lòng kiêu hãnh cố ý: hắn xem xét sự
kích thích đang trờ tới đối mặt hắn, không đối mặt lừng khừng nửa vời với sự
kích thích ấy. Hắn không tin vào "vận xui điều rủi" và cũng chẳng tin
vào "tội lỗi phạm giới" hắn biết cách thành việc tới nơi tới chốn với
chính hắn, với những kẻ khác; hắn biết cách quên, quên hết - hắn thừa đủ sức
mạnh làm thế, vì thế mọi sự đều bị bắt buộc phải trở thành "hương trời lộc
nước" cho đời hắn (Er glaubt weder an "Unglück" noch an "Schuld":
er wird fertig, mit sich, mit anderen, er weiss zu vergessen, er ist stark
genug dass ihm alles zum Besten gereichen muss). Nhất định tôi phải là kẻ đối
nghịch lại hạng người sa đọa xuống dốc vì tôi vừa mới vẽ cho thấy chân dung của
chính tôi.
III.
Chuỗi
kinh nghiệm nhị biên ấy, việc thấu đạt những cõi thế giới dường như tách biệt
ấy đã được lặp lại trong bản tính tôi trong mọi dạng thái: tôi là cặp bài trùng
của chính tôi (Doppelgänger) tôi có cái "diện mục thứ hai" cộng thêm
vào cái thứ nhất. Và có lẽ có cả cái thứ ba nữa.
Ngay
cả nguồn gốc sinh thành của tôi cũng ban cho tôi được cái nhìn vượt qua lên
trên tất cả những gì có tính cách cục bộ, có tính cách giới hạn quốc gia: làm
một "người châu Âu hảo hạng", thực sự chẳng khó gì đối với tôi. Trái
lại, có lẽ tôi lại có đặc tính làm người Đức hơn những người Đức hiện nay,
những kẻ chỉ biết làm công dân Đức của cái Đế quốc Đức này – tôi, một con người
Đức cuối cùng chống đối chính trị. Thế nhưng tổ tiên tôi lại là những nhà quí
tộc Ba Lan: tôi thừa hưởng được nhiều bản năng chủng tộc trong cơ thể tôi do sự
phát nguồn ấy – ai biết được? Cõ lẽ tôi thừa hưởng cả quyền phủ nhận vô hạn chế
(liberum veto)
Mỗi
khi tôi du lịch giang hồ, tôi thường để ý nhiều khi thiên hạ tưởng tôi là một
người Ba Lan, ngay cả những người Ba Lan chính cống cũng nói chuyện tôi như nói
với một người đồng tịch họ. Ít khi người ta coi tôi như người Đức, có lẽ dạng
thái bên ngoài của tôi chỉ lún phún đôi chút võ vẽ Đức quốc. Thế nhưng mẹ tôi,
Franziska Ochler, lại rất là Đức; cũng y hệt như bà nội tôi, Erdmuthe Krause.
Bà sống cả thời son trẻ ở giữa vùng Weimar cổ kính xinh đẹp, thường lui tới
trong vòng thân hữu của Goethe. Anh của bà, giáo sư thần học Krause tại đại học
Königsberg, được mời đến Weimar để làm quan tổng giám sau khi Herder chết. Chắc
mẹ bà, bà cố nội tôi, đã được chàng trai trẻ Goethe nhắc đến trong tập nhật ký
với tên là Muthgen. Bà kết hôn lần thứ hai với ông tổng giám ở Eilenburg, tên
là Nietzsche; và trong năm chiến tranh 1813, ngày Napoléon tiến vào Eilenburg với
toàn bộ tổng tham mưu của ông ta, vào ngày 10 tháng 10 thì bà lại sinh hạ. Vì
vốn dòng máu Saxon cho nên bà rất sùng bái Napoléon, ngay cả tôi cho đến bây
giờ cũng thừa hưởng sự tôn sùng ấy. Cha tôi ra đời năm 1813 và mất năm 1849.
Trước khi nhận chức mục sư xứ đạo Röcken không xa Lützen, cha tôi đã sống đôi
ba năm trong lâu đài Altenburg và dạy bốn công chúa ở đó. Học trò của cha tôi
bây giờ trở thành hoàng hậu Hannover, đại công phi Constantin, đại công phi
dòng Altenburg, và công chúa Therese von Sachsen – Altenburg, và cha tôi rất
kính thờ vua Phổ Friedrich Wilhelm đệ tứ, chính nhờ vị vua ấy mà ông được địa
vị mục sư; những biến cố 1848 đã làm ông đau đớn khôn xiết. Còn chính tôi, tôi
ra đời vào sinh nhật của vị vua trên, vào ngày 15 tháng 10, do đó, tôi lại mang
tên đầu là Friedrich Wilhelm dựa theo dòng Hohenzollern. Ít nhất cũng có một
điều lợi cho việc chọn ngày sinh này: sinh nhật của tôi cũng là một ngày lễ
suốt thời thơ trẻ tôi.
Có
được một người cha như thế, tôi coi đó như là một ân huệ đầu tiên. Dường như
điều này cũng cắt nghĩa bất cứ đặc ân nào mà tôi thọ hưởng được - chỉ trừ ra
đời sống, cái việc chấp nhận vĩ đại của tôi đối với đời sống (das grosse Ja zum
Leben). Trước hết, tôi được thọ hưởng đặc ân là tôi khỏi phải quyết định gì cả mà
chỉ cần chờ đợi đúng thời trúng tiết thì có thể len vào một thế giới gồm đầy
những sự việc cao cả tế nhị mà không phải cần cố ý chủ tâm: tôi hoàn toàn cảm
thấy thoải mái ở đấy, những nhiệt tình thầm kín của tôi chỉ trở thành tự do thư
thái ở đó. Không phải là trả giá không xứng, cái việc tôi gần như đánh đổi đời
mình để hưởng đặc ân ấy.
Muốn
hiểu được bất cứ cái gì trong quyển Zarathustra của tôi thì có lẽ cần phải được
ở trong những điều kiện giống như tôi, nghĩa là một bước đạp lên trên đời sống
(mit einem Fuße jenseits des Lebens…)
IV.
Tôi
không bao giờ hiểu được cái ngón xui khiến cho người ta có ác cảm với tôi –
cũng chính điều này tôi đã thừa hưởng từ người cha vô song của tôi – ngay cả
lúc dường như điều ấy cao giá đối với tôi – Ngay cả chính tôi, tôi cũng không
xui cho tôi tự chống lại mình, dù việc này có vẻ phi-Ki-tô-giáo. Người ta có
thể tráo qua, tráo lại cuộc đời tôi và rất hiếm thấy những dấu vết, họa hoằn
lắm chỉ thấy một tì vết duy nhất khiến kẻ khác có ác cảm đối với tôi – nhưng
trái lại có lẽ qua nhiều dấu vết thiện chí lân mẫn.
Ngay
đến những kinh nghiệm của tôi đối với hạng người mà mọi người đều có kinh
nghiệm không tốt, đều chứng tỏ thuận lợi cho họ và không ngoại trừ gì cả: Tôi
có thể làm con gấu trở nên thuần; ngay đến thằng hề diễn trò, tôi cũng có thể
khiến cho hắn xử sự cho đàng hoàng. Trong bảy năm trời tôi dạy tiếng Hy Lạp
trong lớp cao đẳng tại Basel, tôi không bao giờ có dịp phạt rầy đứa học trò nào
cả; ngay cả đứa lười biếng nhất cũng chịu học hành cần mẫn. Tôi vẫn luôn luôn
với lên được ngang tầm mức với những sự kiện bất ngờ xảy đến; xuất kỳ bất ý,
tôi vẫn làm chủ được bản thân mà không cần phải chuẩn bị (Dem Zufall bin ich
immer gewachsen; ich muss unvorbereitet sein, um meiner Herr zu sein). Dù là dụng
cụ nào đi nữa, dù nhạc cụ có lạc giọng sai điệu đi nữa, giống như chỉ có nhạc
cụ "con người" là sai điệu lạc giọng đến thế. Tôi phải chịu đau chịu
bệnh khi mà tôi không làm cho nó phát ra được một âm điệu nào đáng nghe hơn.
Biết bao nhiêu lần chính những "nhạc cụ" ấy đã kể cho tôi nghe rằng
chúng chưa bao giờ được tự nghe phát ra âm điệu như thế. Cũng như trường hợp
hay ho nhất như Heinrich von Stein, chính chàng đã kể cho tôi nghe, chàng ấy
chết quá sớm, cái chết yểu quá yểu không thể nào tha thứ được. Một lần nọ chàng
đó nhã nhặn lễ độ xin phép đến đây, rồi xuất hiện ba ngày liền ở vùng Sils
Maria, giải thích với mọi người rằng chàng không phải đến đây để nhìn ngắm rặng
núi Engadine. Chàng trai thượng đẳng này, người đã sa chân trong đầm lầy của
Wagner (và cả trong đầm lầy của Dürring) với tất cả mộc mạc nồng nhiệt của hạng
quí tộc nước Phổ, trong vòng ba ngày, chàng đã sống, đã hành động như một kẻ
được chuyển hoá nhờ một cơn bão của sự tự do, giống như một kẻ bất thần được
đưa lên chót vót tận tầm vóc cao lớn của mình và được mọc cánh. Tôi luôn luôn
nói với chàng trai trẻ ấy rằng sở dĩ chàng được như thế là nhờ không khí cao
ráo ở vùng này, mọi người đều được như thế ở đây, ở trên sáu ngàn thước Anh cao
hơn Bayreuth không phải là không có ý nghĩa – nhưng chàng vẫn không chịu tin
tôi.
Thế
dù nếu có những thứ ô danh ô nhục nhỏ lớn nào đã qui tập vào tôi thì "ý
tính" (der Wille) không thể chịu qui trách được về việc ấy, nhất là không
thể đổ lỗi cho mảy may ác ý nào cả: họa hoằn tôi có phàn nàn chăng thì chỉ phàn
nàn về điều trái ngược lại – tôi đã gợi ý rồi – về thiện ý quá trớn, cái thiện
ý đã tác hại không ít trong đời tôi. Bao nhiêu kinh nghiệm của tôi đã cho phép
tôi có đủ uy tín để ngờ vực hoàn toàn về những xung động gọi là "vô vị
kỷ", về mọi thứ "tình thương đối với hạng người cận mình", cái
thứ tình cảm luôn luôn sẵn sàng khuyên răn, cứu giúp, "dấn thân". Đối
với tôi điều ấy vẫn luôn luôn là một sự việc không có khả năng chống chế lại sự
khích động: lòng thương hại (Mitleiden) chỉ được coi là một đức tính, đức hạnh
(Tugend) đối với hạng người sa đọa xuống dốc (das Mitleiden heisst nur bei
décadents eine Tugend). Tôi phiền trách những kẻ nào đầy lòng thương hại, vì họ
dễ đánh mất cảm thức về sự hổ thẹn (tính liêm sỉ), sự kính trọng, sự bén nhạy
về những khoảng cách (das Zartgefühl vor Distanzen); trước khi mình ý thức được
sự việc thì trong lòng thương hại đã bắt đầu bốc mùi tiện dân khó ngửi, và thực
sự khó mà phân biệt với thái độ thiếu tư cách, thô lỗ, lắm lúc chính trong
những trường hợp ấy, những bàn tay thương hại có thể xông xáo chen phá một cách
tai hại vào trong một tính mệnh vĩ đại, trong nỗi cô đơn lớn dần của những vết
thương, trong đặc quyền phạm tội to lớn (dass mitleidige Haende unter
Umstaenden geradezu zerstoererish in ein grosses Schicksal, in eine
Vereinsamung unter Wunden, in eine Vorrecht auf schwere Schuld hineingreifen
können). Việc chiến thắng lòng thương hại (Die Überwindung des Mitleids) tôi
vẫn sắp vào loại đức tính cao thượng quí phái (die vornehmen Tugenden): như
trường hợp nói về "Nỗi cám dỗ đối với Zarathustra", tôi đã bày ra một
hoàn cảnh mà tiếng kêu la thống thiết đã vang động đến tai Zarathustra, tiếng
kêu la thống khổ ấy đánh dậy lòng thương hại chàng, lòng thương hại ấy tấn công
chàng như một tội lỗi cuối cùng, xui khiến và kéo lôi chàng tách rời ra khỏi
chính chàng (ihn von sich abspenstig machen will). Vẫn làm chủ được mình trong
những cơ sự như thế, vẫn giữ gìn sự cao cả của sứ mạng mình cho được trong
sạch, không để cho vấy bùn trước bao nhiêu cơn xung động thấp hèn mù quáng tác
động qua những hành vi gọi là "vô vị kỷ", đó mới chính là sự thử
thách, có lẽ là sự thử thách tối cao mà một người như Zarathustra phải chịu
trải qua - chứng cớ thực sự tỏ bày sức mạnh của chàng (Hier Herr bleiben, hier
die Höhe seiner Aufgabe rein halten von den viel niedrigeren und
kurzsichtigeren Antrieben, welche in den sogenannten selbstlosen Handlungen
tätig sind, das ist die Probe, die letzte Probe vielleicht, die ein Zarathustra
abzulegen hat - sein eigentlicher Beweis von Kraft…)
V.
Có
một điển khác mà tôi lại cũng hoàn toàn giống cha tôi thêm một lần nữa, nghĩa
là tôi tiếp tục sống cuộc đời kéo dài thêm lên sau cái chết yểu của ông. Giống
như bất cứ kẻ nào chưa bao giờ được sống giữa loài người đồng hạng đồng đẳng
với mình và nhận thấy rằng ý tưởng "trả thù" cũng như ý tưởng
"bình quyền" đều xa lạ với mình, tôi tự cấm chế không cho mình trả
đũa, trả miếng, tự phòng, ngay cả những trường hợp mà sự tự vệ, sự "biện
minh" là hợp lý mà tôi cũng tự cấm chế, những trường hợp mà người ta phạm
ít nhiều xuẩn động ngu dại đối với tôi. Cách trả đũa của tôi là nhanh chóng trả
lại một sự ngu xuẩn của thiên hạ bằng một cái thông minh của mình: đó là cách
duy nhất tiếp ứng kịp thời. Nói theo lối ẩn dụ gợi ảnh thì tôi gửi một lọ mứt
ngọt cho kẻ thù để giải tan uất hận cay đắng.
Người
ta chỉ cần đối xử vi tiện với tôi thì tôi "trả lại" ngay - nhất định
chắc chắn là tôi tìm dịp để tỏ ơn đối với "kẻ ti tiện" (đôi khi cả
đối với ác nghiệp của hắn) hoặc là van hỏi cầu xin hắn một điều gì đó, việc này
lại có thể khiến mình chịu lép hơn là việc ban cho trao tặng một cái gì đó
(oder ihn um etwas zu bitten, was verbindlicher sein kann als etwas
geben…)
Đối
với tôi dường như lời lẽ thô bạo nhất, thư từ thô lỗ nhất vẫn còn dễ chịu hơn
là câm lặng, ngậm miệng. Những kẻ nào ngậm miệng thì gần như vẫn luôn luôn
thiếu tế nhị và lễ độ tâm hồn. Sự ngậm miệng câm lời là cãi bác, phản đối; chỉ
vì biết có việc nuốt vào bụng thôi cho nên tính tình trở nên cay đắng chanh
chua khó chịu - việc ấy rất có hại cho bao tử. Tất cả những kẻ câm hơi lặng
tiếng đều mắc bịnh khó tiêu.
Đấy các ngài thấy rằng tôi không muốn sự xấc xược thô lỗ bị đánh giá quá thấp (ich möchte die Grobheit nicht unterschätzt wissen): đó chính là hình thức đầy nhân đạo nhất của sự mâu thuẫn mà giữa thời yếu đuối "đàn bà sướt mướt" này (inmitten der modernen Verzärtelung) thì sự xấc xược thô lỗ là một trong những đức tính tối thượng của chúng ta.
Đấy các ngài thấy rằng tôi không muốn sự xấc xược thô lỗ bị đánh giá quá thấp (ich möchte die Grobheit nicht unterschätzt wissen): đó chính là hình thức đầy nhân đạo nhất của sự mâu thuẫn mà giữa thời yếu đuối "đàn bà sướt mướt" này (inmitten der modernen Verzärtelung) thì sự xấc xược thô lỗ là một trong những đức tính tối thượng của chúng ta.
Nếu
mình đủ giàu sang tâm hồn để làm một việc như thế thì dù có làm bậy làm quấy
thì cũng là điều may điều hên nữa (Wenn man reich genug dazu ist, ist es sebst
ein Glück, unrecht zu haben). Một bậc thần linh có xuống trần thì chỉ nên làm
điều gở điều bậy: không rước sự hành phạt nào vào mình mà chỉ cưu mang sự phạm
tội, đó mới là thần linh thiêng liêng đúng nghĩa (Ein Gott, der auf die Erde
kämme, dürfte gar nichts andres tun als Unrecht – nicht die Strafe, sondern die
Schuld auf sich zu nehmen wäre erst göttlich).
VI.
Giải
thoát khỏi lòng di oán phẫn hận, giác ngộ về lòng di oán phẫn hận (die Freiheit
vom Ressentiment, die Aufklärung über das Ressentiment) ngay cả phương diện
này, có ai hiểu rằng tôi đã mang nợ chịu ơn rất nhiều vào cơn đau bệnh kéo dài
của tôi! Vấn đề này thực ra không giản dị: mình phải có kinh nghiệm về nó ngay
trong lúc mình mạnh khoẻ và cả ngay lúc mình yếu đuối bạc nhược. Sở dĩ có gì
đáng đem ra chống đối lại việc bệnh hoạn yếu đuối bạc nhược là vì bản năng trị
liệu thực thụ của mình, bản năng vũ lực đấu kháng của mình bị hao mòn liệt bại
(das ist der Wehr- und Waffen-Instinkt im Menschen mürbe wird). Mình không còn
vứt bỏ gì được đi cả, mình không còn bình phục được gì nữa cả, mình không còn
cự tuyệt gì được nữa - Tất cả mọi sự đều làm tổn thương mình. Bao nhiêu người
và vật đều thúc ép ma sát; bao nhiêu kinh nghiệm đập vào mình quá sâu đậm; trí
nhớ trở thành một vết thương mưng mủ. Chính cơn đau bệnh là một loại di oán
phẫn hận.
Để
chống đối lại mọi sự ấy, kẻ đau bệnh chỉ còn có một phương thuốc lớn: tôi gọi
phương thuốc ấy là tinh thần qui thuận vận mệnh theo kiểu dân Nga (russischen
Fatalismus), thứ tinh thần không còn biết nổi loạn, như trường hợp một người
lính Nga, khi cảm thấy việc đánh trận quá sức chịu đựng, liền đành nằm vùi mình
trong tuyết phủ. Không còn chấp nhận gì được nữa cả, không còn nhận lấy gì nữa
cả, không còn thu hút gì nữa cả - chấm dứt hoàn toàn mọi phản ứng.
Tinh
thần qui thuận số mệnh này không phải luôn luôn chỉ là lòng can đảm dám chết,
tinh thần ấy cũng bảo tồn sự sống dưới những điều kiện gian nan nhất bằng cách
tiết giảm cơ độ chuyển biến trong cơ thể, làm nó hoạt động chậm lại giống như ý
chí tê liệt muốn trú ẩn qua tiết đông lạnh. Xô đẩy lý luận này thêm đôi bước
nữa thì chúng ta thấy tinh thần của lão pháp thuật fakir Ấn Độ nằm ngủ cả tuần
lễ trong mồ mả.
Nếu mình có phản ứng chi thì mình chỉ phải làm hao tổn bản thân mau chóng thôi, cho nên mình không còn phản ứng gì nữa cả: mình lý luận như thế. Không có gì thiêu đốt mình nhanh chóng cho bằng những tác động của lòng di oán phẫn hận.
Nếu mình có phản ứng chi thì mình chỉ phải làm hao tổn bản thân mau chóng thôi, cho nên mình không còn phản ứng gì nữa cả: mình lý luận như thế. Không có gì thiêu đốt mình nhanh chóng cho bằng những tác động của lòng di oán phẫn hận.
Sự
căm giận, tính mẫn cảm bệnh hoạn, sự bất lực trong việc ham muốn trả thù, khao
khát trả đũa, bao nhiêu cay cú tẩm độc, không có loại phản ứng nào tác hại hơn
đối với hạng người kiệt lực bại liệt: những tác động đại loại như thế làm tiêu
hao nhanh chóng tinh lực thần kinh hệ, gây thêm sự bài tiết tai hại - chẳng hạn
như nước mật nhiễm vào bao tử. Lòng phẫn hận di oán mới là điều tối kỵ đối với
hạng người bệnh hoạn, đó là điều khốc hại đặc thù của hạng người bệnh hoạn,
nhưng quả là vô phúc hơn nữa đó lại là xu hướng tự nhiên nhất của hạng người
ấy.
Đức
Phật, nhà sinh học sâu thẳm, đã liễu ngộ hết mọi sự ấy. "Tôn giáo"
của ngài đáng lẽ phải được gọi là một loại "vệ sinh pháp" để cho
người ta đừng lầm lẫn với những hiện tượng đáng thương hại như Ki tô giáo: sự
công hiệu của Phật pháp được thể hiện trong việc chiến thắng lòng phẫn hận di
oán (Das Begriff jener tiefe Physiologie Buddha. Seine "Religion" die
man besser als eine Hygiene bezeichnen duerfte, um sie nicht mit so
erbarmungswürdigen Dingen wie das Christentum ist, zu vermischen, machte ihre
Wirkung abhängig von Sieg über das Ressentiment).
Giải
thoát tâm hồn khỏi sự di oán phẫn hận là bước đầu hướng về sự lành bệnh.
"Không phải sự oán thù cừu địch được chấm dứt bằng sự oán thù cừu địch; sự
oán thù cừu địch chỉ được chấm dứt bằng tình thương huynh đệ": những lời
này phát ra ngay sự chuyển pháp luân của đức Phật (die Seele davon frei machen
– erster Schritt zur Genesung. "Nicht durch Feindschaft kommt Feindschaft
zu Ende": das steht am Anfang der Lehre Buddhas). Đây không phải luận lý
học đang lên tiếng nói.
Thoát
thai từ sự yếu đuối bạc nhược, lòng di oán phẫn hận là điều tác hại nhất đối
với chính hạng người yếu đuối. Trái lại, đặt vào trường hợp của một người có
bản chất phong phú thì đó chỉ là một cảm giác thừa thãi; khi mình làm chủ được,
áp phục được cảm giác này thì đó chính là điều chứng tỏ được sự phong phú giàu
sang của tâm hồn mình. Kẻ nào hiểu được mức độ trang trọng nghiêm chỉnh mà
triết lý của tôi đã từng tiếp tục việc phản kháng chiến đấu chống lại sự trả
thù và lòng oán hận, ngay cả sự chiến đấu đi vào ngay trong lòng lý thuyết của
"ý chí tự do" - sự chiến đấu chống lại Ki tô giáo chỉ là một trường
hợp đặc biệt của việc chiến đấu rộng lớn này – thì sẽ hiểu được lý do tại sao
tôi lại làm nổi bật lên thái độ xử thế của riêng tôi, tính cách vững vàng của
bản năng tôi trong hành động thực tiễn. Trong thời gian bị sa đọa xuống dốc,
tôi đã tự cấm chế không để những cảm giác di oán tác hại mình; rồi vừa khi sinh
lực tôi được phục hồi lại giàu sang tràn trề thì tôi cũng đủ kiêu hãnh để tự
cấm chế không cho mình bị rơi vào những cảm giác được coi như ở dưới thấp, quá
thấp dưới mình. Trong thời gian ấy, tôi đã dàn trải cái "tinh thần qui
thuận vận mệnh theo kiểu Nga" kia bằng cách bám víu trong bao nhiêu năm
dài, bám riết bấu chặt bướng bỉnh vào những hoàn cảnh những nơi chốn, những
gian phòng, việc họp mặt, tất cả những thứ gần như không thể chịu đựng nổi ấy,
chỉ vì chúng xảy đến cho tôi một cách bất ngờ: vậy mà như thế thì còn hơn cảm
thấy rằng chúng có thể thay đổi khác đi – còn hơn là nổi loạn chống đối lại
chúng.
Bất
cứ những cố gắng nào quấy rầy tôi trong giai đoạn qui thuận vận mệnh ấy, để
cưỡng bức đánh thức tôi dậy, đều làm tôi bực bội khó chịu chết đi được – và
thực ra lúc nào sự việc ấy cũng đều là nguy hiểm đến tính mệnh tôi.
Tự
chấp nhận mình như vận mệnh đun đẩy, không hề muốn mình đổi "khác" đi
trong những trường hợp như thế thì đó mới chính là đại trí (sich selbst wie ein
Fatum nehmen, nicht sich "anders" wollen, das ist in solchen Zuständen
die grosse Vernunft selbst).
VII.
Chiến
tranh lại là một sự việc nữa. Tôi vốn hiếu chiến ngay từ bản chất. Tấn công mọi
sự vốn là một trong những bản năng của tôi. Có khả năng làm một kẻ thù, là một
kẻ thù của mọi người, điều này đòi hỏi trước tiên mình phải có một bản chất
mãnh liệt: trong bất cứ trường hợp nào điều này vẫn là thuộc hữu của tất cả mọi
bản chất mãnh liệt, tư chất mạnh bạo này cần phải có những đối tượng để đối
kháng; vì thế nó cứ tìm kiếm phanh phui cho ra điều đối kháng: cảm thức nồng
nhiệt hiếu chiến là thuộc hữu tất nhiên của sức mạnh giống như sự trả thù oán
hận là thuộc hữu của sự yếu đuối. Chẳng hạn như đàn bà vốn hay có tính trả thù:
điều này xuất phát từ sự yếu đuối của họ, giống như tinh khí dễ xúc động của họ
đối với sự thống khổ của những kẻ khác.
Sức
mạnh của kẻ tấn công có thể được lấy tiêu chuẩn từ sự chống đối mà họ đòi hỏi:
mọi sự trưởng thành đều được biểu lộ tỏ bày trong việc tìm kiếm một đối thủ
hùng mạnh hoặc một vấn đề mãnh liệt, vì đối với mọi triết gia hiếu chiến thì
hẳn thách thức những vấn đề để đánh một trận giao tranh tay đôi. Bổn phận không
phải là chỉ thắng được, làm chủ được những gì đối kháng mình, mà những gì đòi
hỏi mình phải liều lĩnh biểu dương tất cả những sức mạnh, tất cả sự uyển chuyển
và tài chiến đấu của chúng ta - để giao tranh với những đối thủ đồng hạng với
mình.
Đồng
hạng với kẻ thù: đó là điều kiện đầu tiên của một cuộc đọ kiếm tay đôi có tính
cách liêm sỉ trung chính. Nơi nào mình cảm thấy khinh bỉ địch thủ thì mình không
thể khai chiến được; nơi nào mình thống trị, đứng ở thế hơn người thì mình
không làm cái việc khai chiến được.
Sự
đánh trận của tôi, "chiến dụng" của tôi có thể đúc lại trong bốn mệnh
đề.
Thứ
nhất: tôi chỉ tấn công những phe nào thắng thế, tôi sẵn sàng chờ đợi cho đến
khi nào phe ấy trở nên thắng thế.
Thứ
hai: tôi chỉ tấn công những phe nào mà tôi không thể tìm được đồng minh với
mình để mà tôi đứng đơn độc, đứng một mình trong trận chiến - để mà tôi chỉ tự
chịu luỵ thôi – tôi không bao giờ dấn bước công khai nào mà lại không can hệ
tới bản thân tôi thôi: đó là tiêu chuẩn của tôi để đánh giá chính nghiệp của
mình.
Thứ
ba: tôi không bao giờ tấn công cá nhân; tôi chỉ tự cho phép mình hành sự khi
nào tôi coi cá nhân ấy như một thứ kính hiển vi khả dĩ giúp cho mình thấy được
một nguy cơ rộng lớn tràn lan trơn trượt, khó nhận. Vì thế tôi đã tấn công
David Strauss, đúng hơn: tấn công sự thành công của một quyển sách già nua suy
nhược đối với giới "văn hoá tri thức" ở Đức: tôi đã bắt được quả tang
cái thứ văn hoá tri thức ấy. Vì thế tôi đã tấn công Wagner, đúng hơn: tấn công
sự hư nguỵ, giả dối, bản năng ngợm ngợp của nền "văn hoá" chúng ta,
lầm lẫn sự tế nhị với sự phú quý, sự quá thời với sự vĩ đại.
Thứ
tư: tôi chỉ tấn công những gì mà không dính dáng tới cuộc đời tranh luận cá
nhân, không liên hệ gì tới hậu cảnh của những kinh nghiệm bỉ ổi. Ngược lại,
trong trường hợp tôi, sự tấn công là chứng cớ của thiện chí, đôi khi của cả sự
tạ ơn nữa (Im Gegenteil, angreifen ist bei mir ein Beweis des Wohlwollens,
unter Umständen der Dankbarkeit). Tôi làm vinh hạnh, tôi làm nổi bật mọi sự
bằng cách gắn liền tên của tôi với tên của một phe phái hoặc một cá nhân nào
đó: chống đối hay cổ vũ – tôi không bận tâm đến điểm này. Khi tôi khai chiến
với Ky tô giáo thì tôi đủ điều kiện để làm thế vì tôi không bao giờ phải chịu
những kinh nghiệm đau thương chua xót do Ki tô giáo gây ra – những kẻ theo đạo
Gia Tô nghiêm chỉnh nhất đều vẫn đối xử đẹp lòng với tôi. Chính tôi, kẻ thù
quyết liệt nhất của Ki tô giáo, không hề thống trách đổ tội vào những cá nhân
vì cái tai họa hàng ngàn kiếp ấy.
VIII.
Tôi
có nên mạo muội phác họa thêm một nét cuối cùng của bản tính tôi, cái dị tính
đã tạo nhiều khó khăn cho tôi khi giao tiếp với những người khác? Cái bản năng
ưa thích sự sạch sẽ của tôi có đặc tính là vô cùng nhạy cảm, nhạy cảm một cách
dị thường đến nỗi tôi có thể trực nhận về mặt sinh lý, ngửi ra ngay gần sát bên
hoặc – tôi nói gì? – ngửi ra ngay những gì sâu kín, "lòng dạ gan
ruột" của mọi tâm hồn.
Tính nhạy cảm dị biệt này đã cung cấp cho
tôi những dây "ăng ten" tâm lý mà nhờ thế tôi có thể cảm nhận tóm lấy
mọi điều bí ẩn: bùn lầy dơ bẩn ẩn giấu tận nơi đáy lòng của bao nhiêu tâm tính
– mà có lẽ đó là kết quả của máu xấu, nhưng được sự giáo dục sơn phết lộng lẫy
lên trên – ý thức của tôi đã tóm lấy bùn lấy dơ bẩn ấy ngay vừa lúc sơ ngộ. Nếu
việc quan sát của tôi không lường gạt tôi thì những tâm tính xúc chạm đến cả
cảm thức sạch sẽ của tôi cũng phải cảm thấy bên phía họ rằng tôi còn giữ lại sự
khinh tởm nào đối với họ - và điều này tất nhiên không làm cho họ có được mùi
vị nào hơn lên.
Như
thói quen thường lệ - sự trong sạch thuần khiết với tôi là điều kiện tiền lập
của cuộc sống tôi (eine extreme Lauterkeit gegen mich ist meine Daseins Voraussetzung),
tôi chết mất dưới những điều kiện hoàn cảnh không sạch – tôi vẫn thường bơi
lội, tắm, vầy nước, đắm nhào trong nước, hoặc trong nguyên tố thuần khiết rạng
rỡ nào đó. Do đó, sự giao tiếp của tôi đối với người đời vẫn tác động không ít
đến lòng kiên nhẫn của tôi: lòng nhân của tôi không phải là ở nơi việc đồng cảm
với thể cách của bản chất con người mà lại là chịu đựng cảm thức của tôi đối
với họ (meine Humanität besteht nicht darin, mitzufühlen, wie der Mensch ist,
sondern es auszuhallen, dass ich ihn mitfühle…)
Lòng
nhân từ của tôi là một sự tự chiến thắng thường hằng (Mein Humanität ist eine
beständige Selbstüberwindung).
Nhưng
tôi cần sự cô đơn – nghĩa là, phục hồi sức lực, trở về với bản thân, hơi thở
của không khí tươi mát, nhẹ nhàng, phóng khoáng, nô đùa (Aber ich habe
Einsamkeit nötig, will sagen, Genesung, Rückehr zu mir, den Atem einer freien
leichten spielenden Luft…)
Trọn
vẹn tác phẩm Zarathustra của tôi là một bài ca chúc tụng sự cô đơn hay, nếu
người ta hiểu tôi hơn, đó là bài tán ca về sự sạch sẽ - chứ không phải về sự
ngu dại thuần tuý – Nôn mửa chán ngán về loài người, về loại "hạ
dân", điều này vẫn là mối hiểm nguy lớn nhất của tôi (Der Ekel am
Menschen, am "Gesindel" war immer meine grösste Gefahr…) Các ngài có
muốn nghe lời nói của Zarathustra về việc giải thoát khỏi việc nôn mửa chán
tởm? (Von der Erlösung vom Ekel).
"Những
gì đã xảy đến cho ta? Làm thế nào ta có thể tự giải thoát khỏi sự nôn mửa chán
ngán ghê tởm? (wie erlöste ich mich vom Ekel) Ai hồi xuân lại cái nhìn của ta?
Làm thế nào ta bay lên được vùng non cao tuyệt đỉnh mà không có loại hạ dân nào
còn ngồi bên giếng nước? Có phải chính sự nôn mửa chán ngán của ta đã tạo ra
đôi cánh bay cho ta và những thần lực tiên tri suối nước? Thực thế, ta phải cất
cánh tung bay lên tuyệt đỉnh cao ngất mới tìm lại được suối nguồn khoái
cảm.
Ồ,
ta đã tìm được rồi, hỡi anh em của ta ơi! Nơi đây, nơi vùng tuyệt cao ngất
đỉnh, suối nguồn khoái cảm chảy lại cho ta! Và đây là cuộc sống mà loại hạ dân
không còn đến uống bên cạnh ta! Hỡi suối nguồn khoái cảm, mi chảy cho ta tuôn
trào ào ạt quá. Và thường khi mi đổ hết ly tách ra để rồi muốn rót lại cho đầy.
Và ta vẫn phải còn học cách đi đến mi một cách khiêm tốn hơn: tim ta vẫn hãy
còn muốn nhảy táo tợn mãnh liệt đến mi – tim ta mà mùa hạ của ta đốt cháy trên
đó, ngắn, nóng, buồn, mê ngất đi: ôi sao trái tim mùa hạ của ta thèm khát sự
tươi mát của mi (mein Herz, auf dem mein Sommer brennt, der kurze, heisse,
schwermütige, überselige: wie verlangt mein Sommerherz nach deiner
Kühle!)
Đã
qua rồi nỗi thê thảm lưỡng lự của mùa xuân ta! (Vorbei die zögernde Trübsal
meines Frühlings!) Đã qua rồi những bông tuyết của tháng Sáu âm hiểm. Ta đã trở
thành mùa hạ hoàn toàn, trở thành buổi trưa mùa hạ! (Sommer wurde ich ganz und
Sommer-Mittag).
Một
mùa hạ trên những vùng đỉnh cao ngây ngất với những giếng nước lạnh và tiềm ẩn
im lặng mê ly: ồ, hỡi bằng hữu của ta, hãy đến, hãy đến để cho niềm im lặng có
thể trở thành mê ly hơn nữa! (ein Sommer im Höchsten mit kalten Quellen und
seliger Stille: O kommt, meine Freunde, dass die Stille noch seliger
werde?)
Và
đây mới là đỉnh cao của chúng ta và quê hương của chúng ta (Denn dies ist unsre
Höhe und unsre Heimat): nơi đây chúng ta sống quá cao, cao quá và dốc đứng quá
hiểm trở, vượt ra ngoài tầm với của họ, của hạng người dơ bẩn và sự thèm khát
của họ. Hỡi bằng hữu của ta, hãy ném cái nhìn trong sạch của các ngươi vào
trong lòng giếng khoái cảm! Làm thế nào có thể làm nước vẩn đục được? Giếng
nước sẽ cười dội ngược lại các người với tất cả ánh ngời trong trẻo thuần khiết
của nó (Entgegenlachen soll er euch mit seiner Reinheit)
Trên
ngọn cây kia, Tương Lai, chúng ta xây tổ ấm (Auf dem Baume Zukunft bauen wir
unser Nest); và trong nỗi cô đơn của chúng ta, những con ó sẽ đem thức ăn đến
ta từ ngay mỏ của chúng! (Adler sollen uns Einsamen Spelse bringen in ihren
Schnäbeln!) Thực thế, những kẻ dơ bẩn không thể chia sẻ thức ăn lấy được: họ sẽ
nghĩ rằng họ nuốt lửa và miệng họ sẽ bị đốt cháy!
Thực
thế, chúng ta không dành nơi trú ẩn ở đây cho hạng người dơ bẩn: cơn khoái lạc
của chúng ta sẽ là động tuyết lạnh phủ lấp thân thể và thần trí họ.
Và
chúng ta muốn sống đè trên họ như những cơn gió mạnh, chúng ta làm kẻ hàng xóm
với những con ó, xóm giềng với tuyết lạnh, láng giềng với mặt trời: những cơn
gió mạnh đều sống như thế (Und wie starke Winde wollen wir über ihnen leben,
Nachbarn den Adlern, Nachbarn dem Schnee, Nachbarn der Sonne: also leben starke
Winde). Và giống như một cơn gió lốc, ta lại muốn thổi quét họ một ngày nào đó,
và với thần hồn của ta, ta sẽ càn quét mất hơi thở của thần trí họ: tương lai
của ta muốn thế (und einem Winde gleich will ich einst noch zwischen sie blasen
und mit meinem Geiste ihrem Geiste den Atem nehmen: so will es meine Zukunft).
Thật
thế, Zarathustra đúng là một cơn gió lốc đối với tất cả kẻ nào thấp hèn đê tiện
và ta xin khuyên răn tất cả những kẻ thù của Zarathustra, tất cả những kẻ nào
muốn khạc nhổ: Hãy coi chừng, đừng bao giờ khạc nhổ ngược lại gió lốc!
(Wahrlich, ein starker Wind ist Zarathustra allen Niederungen: und solchen Rat
rät er seinen Feinden und allem, was spuckt und speit: hütet euch, gegen den
Wind zu speien!)
--------
[1]
Nguyên tác đáng ghi nhớ:
Jede
Errungenschaft jede Schritt vorwaerts in der Erkenntnis folgt aus dem Mut, aus
der Härte gegen sich, ans der Sauberkeit gegen sich…
[2]
Nitimur in vetitum, câu này Nietzsche trích từ Amores , III, 4, 17, của Ovid có
nghĩa “chúng ta ngóng vọng đến những điều kiêng cấm” (C.T.D.G.) Tại sao tôi lanh
trí như thế (Warum ich so klug bin)
--------
I.
Tại
sao tôi còn hiểu biết thêm đôi điều thấm thía hơn nữa? Tại sao tôi hoàn toàn
lanh trí như thế? Tôi không bao giờ suy gẫm về những vấn đề mà thực sự không
phải là những vấn đề suy ngẫm (Ich habe nie über Fragen nachgedacht, die keine
sind) – tôi không bao giờ chịu hoang phí bản thân như vậy.
Chẳng
hạn như những vấn nạn gian nan thực sự có tính cách tôn giáo, tôi không hề biết
đến chúng bằng kinh nghiệm mình. Thế nào là bị "mang tội" thực sự
hoàn toàn điều này vượt hẳn ra ngoài ý thức tôi. Cũng thế, tôi thiếu hẳn tiêu
chuẩn đáng tin cậy để nhận ra sự cắn rứt lương tri: theo như những gì thiên hạ
nghe nói về sự cắn rứt ấy, quả thực cắn rứt lương tri không hề có vẻ gì đáng
kính trọng đối với tôi, tôi xem thường nó quá đi (Scheint mir ein Gewissensbiss
nichts Achtbares)
Tôi
không muốn bỏ một hành động trong cơ sự lúng túng sau đó, sau khi đã hành sự
xong; tôi vẫn thích để cho mình loại trừ kết quả xấu, hậu quả ra khỏi vấn đề
giá trị, coi như đó là vấn đề nguyên tắc. Phải chịu đối mặt với một kết quả xấu
thì mình dễ đánh mất dễ dàng nhãn giới chính xác đối với những gì mình đã làm:
đối với sự cắn rứt lương tri quả là một loại "xấu vía", "gai
mắt". Cần giữ cho được vinh hiển hơn nữa điều thất bại trong lòng mình,
chỉ vì nó thất bại – điều này thuận ứng với tinh thần đạo đức của tôi hơn
(Etwas, das fehlschlägt, um so mehr bei sich in Ehren halten, weil es
fehlschlug – das gehört eher schon zu meiner Moral).
"Thượng
đế", "sự bất tử của linh hồn", "sự cứu rỗi", "cõi
trên kia" – không cần ngoại trừ gì cả, đó là những ý niệm mà tôi không bao
giờ bận tâm đến, không mất giờ để tìm hiểu chúng, ngay cả lúc tôi còn bé nhỏ
thơ dại. Có lẽ tôi không từng bao giờ có đủ tính trẻ con để hiểu chúng?
Cũng
không vì thế mà tôi biết đến thứ chủ nghĩa vô thần, biết đến như một hậu quả
tất nhiên, ít nhất biết đến như một biến cố: vô thần là một việc tự nhiên đối
với tôi, ngay từ bản năng. Tôi vốn có tính quá thâm sát, quá khả vấn, quá tràn
lan cao ngạo phong phú để có thể chịu nổi bất cứ sự giải đáp thô thiển nào (Ich
bin zu neugierig, zu fragwürdig, zu übermütig, um mir eine faustgrobe Antwort
gefallen zu lassen). Thượng đế là một sự giải đáp thô thiển, một cử chỉ thô bỉ
chống lại chúng ta, những tư tưởng gia (Gott ist eine faustgrobe Antwort, eine
Undelikatesse gegen uns Denker) - tận nơi nền tảng, đó chỉ là sự cấm đoán thô
thiển đối với chúng ta: cấm tư tưởng! (Im Grunde sogar bloss ein faustgrobes
Verbot an uns: Ihr sollt nicht denken!...)
Thực
ra có một vấn đề tôi chú tâm nhiều hơn cả, "sự cứu rỗi của nhân loại"
lại tuỳ thuộc vào vấn đề ấy hơn thị hiếu cầu kỳ của bất cứ nhà thần học nào
khác: đó là vấn đề dinh dưỡng. Theo lối sử dụng ngôn ngữ thông thường, mình có
thể đặt phương thức như vầy: "làm thế nào các ngài, sống ở đời, phải ăn
uống để có được tối đa sức khoẻ, đức tính tu my cao cường, virtù, theo điều
thời Phục Hưng, đức tính mà không có thứ nọc đạo đức luân lý (von moralfreier
Tugend)?" Những kinh nghiệm của tôi trong vấn đề này quá là tệ hại khôn
cùng, tôi rất ngạc nhiên rằng tôi biết được vấn đề này quá trễ nải, tôi học
được "lý lẽ" quá muộn về những kinh nghiệm này. Chỉ có sự vô giá trị
triệt để của nền giáo dục Đức quốc chúng ta – tính cách "duy tâm lý
niệm" của nó – mới giải thích được cho tôi thấy rõ lý do tại sao ở điểm
này tôi quá chậm tiến đến độ như thánh không bằng. "Nền giáo dục" này
ngay từ đầu dạy mình bỏ quên những thực tại và theo đuổi những mục đích gọi là
"lý tưởng" – một nền "giáo dục cổ điển" chẳng hạn – làm như
là ngay từ đầu có thể kết hợp dễ dàng "cổ điển" và "Đức
quốc" trong chỉ một ý niệm đơn độc thôi! Hơn thế nữa, thực là buồn cười:
chỉ cần tưởng tượng hình dung một con người "được giáo dục theo đường lối
cổ điển" với một giọng nói địa phương vùng Leipzig!
Thực thế, cho mãi đến khi trưởng thành thì tôi
vẫn phải luôn luôn ăn uống một cách tệ hại: nói theo điệu luân lý thì một cách
"phi nhân ngã", "vô vị kỷ", "vị tha" – nói thế để
đẹp lòng những tay bếp và những kẻ Ki tô giáo khác.
Vì
ăn uống theo cách nấu ăn kiểu thành phố Leipzig, cho nên tôi đã phủ nhận
"ý chí ham sống" (sinh ý) của tôi trong thời gian tôi đọc
Schopenhauer vào lần đầu tiên (1865). Làm đảo lộn phiền rầy bao tử vì thiếu
cách dinh dưỡng đúng mức – vấn đề này, đối với tôi, dường như đã được giải
quyết tuyệt hảo nhờ lối nấu ăn đã kể trên. (Người ta cho rằng năm 1866 đã đem
đến một sự biến đổi về mặt này) Nhưng cách nấu ăn người Đức đại khái (sao mà
lương tâm họ không thấy khó chịu!) ăn soupe trước mỗi buổi ăn (ở thế kỷ XVI,
những quyển sách nấu ăn ở Venise còn gọi món ấy là alla tedesca: "theo
kiểu người Đức"); thịt nấu quá độ, rau cải luộc với mỡ và bột, bánh ngọt
nặng như đồ đè giấy! Rồi lại gia thêm cái tật xấu uống rượu sau mỗi bữa - thế
thì các ngài có thể hiểu được nguồn gốc căn cội của tinh thần Đức quốc - thứ
tinh thần xuất phát từ bệnh đau ruột.
Tinh
thần Đức quốc là thứ bệnh ăn không tiêu: thứ tinh thần này chẳng làm nên tích
sự gì cả (Der deutsche Geist ist eine Indigestion, er wird mit nichts
fertig).
Nhưng
cái lối ăn uống của người Ăng lê – so với lối ăn Đức và ngay cả Pháp là một thứ
"trở về thiên nhiên", nghĩa là: trở về ăn thịt người – hoàn toàn trái
lộn với bản năng của tôi: đối với tôi, dường như lối ăn uống ấy chỉ đem những
bước chân nặng nhọc cho tinh thần – cái loại khệnh chân của những mụ đàn bà Ăng
lê.
Cách
nấu ăn tốt nhất là lối nấu ăn của vùng Piedmont ở miền tây bắc nước Ý.
Rượu
thì hại tôi lắm: chỉ cần một ly bia hoặc rượu vang mỗi ngày thôi thì cũng đủ
biến đổi đời tôi thành ra một thung lũng khổ luỵ - cái hạng người ở Munich là
hạng người đối nghịch hẳn với tôi. Tôi mới học được trong lúc gần đây thôi,
trước kia khi còn bé tôi đã thực sự trải qua kinh nghiệm ấy. Khi còn trai trẻ,
tôi ngỡ rằng uống rượu, giống như hút thuốc, thoạt đầu chỉ là cái lối vênh vênh
của thanh niên, nhưng sau này đó quả là thói hư tật xấu. Có lẽ cái loại rượu
vùng Naumburg đã khiến tôi kết án nghiêm khắc như vậy. Tưởng rằng rượu khả dĩ
làm vui cuộc được thì tôi nên đâm đầu làm tín đồ Ki tô giáo cho rồi – vì ngỡ
như vậy quả là vô lý quá đi thôi. Một điều kỳ dị là dù dễ nhạy với từng dúm
rượu nhỏ loãng pha nước, nhưng tôi rất dạn rượu như một tên lính thuỷ mỗi khi
uống nhiều rượu mạnh. Ngay cả lúc tôi còn trai trẻ, tôi đã tỏ ra cường khí về
điểm này. Viết một bài luận La Tinh dài trong một đêm thôi, và chép lại sạch
sẽ, muốn có cao vọng tranh tài với Sallust, danh sĩ gương mẫu của tôi, với lối
hành văn nghiêm khắc và vén gọn của ông ta, và rót đôi phần rượu pha mạnh cỡ
nặng vào trên bài La tinh ấy – ngay lúc tôi còn là học sinh ở trường
Schulpforta khả kính, điều ấy cũng không trái nghịch gì với sinh lý của tôi
hoặc với Sallust – dù nghịch hẳn với cái trường Schulpforta khả kính.
Sau
này, vào khoảng trung niên, quả thực càng lúc tôi càng quyết liệt chống lại mọi
thứ rượu: tôi, một đối thủ với việc ăn chay qua kinh nghiệm bản thân, cũng
giống như Richard Wagner, người đã thuyết phục tôi cái việc ăn chay kia, khó có
thể khuyên nhủ hạng người bén rượu bỏ hẳn việc uống rượu (Rất khó dịch đoạn
này, vì Nietzsche chơi chữ "geistig" trong hai ý nghĩa
"rượu" và "tâm linh" – "geistige Getränke"có
nghĩa là "rượu" nhưng "geistigeren Naturen" vừa có nghĩa
"những bản chất tâm linh" mà đồng thời có nghĩa "những bản chất
rượu chè". Đọc qua nguyên tác chứ Đức thì dễ nhận hơn: "Später, gegen
die Mitte des Lebens hin, entschied ich mich freilich immer strenger gegen
jedwedes "geistige" Getränk: ich, ein Gegner des Vegetariertums aus
Erfahrung, ganz wie Richard Wagner, der mich bekehrt hat, weiss nicht ernsthaft
genug die unbedingte Enthaltung von Alcoholicis allen geistigeren naturen
anzuraten). Nước lã là đủ rồi… (Wasser tut’s…)
Những
nơi chốn tôi yêu thích là những chỗ mà tôi được chìa sẵn mọi dịp để múc nước
tươi mát (như những thành phố Nice, Turin, Sils); một cái ly nhỏ đi theo tôi
như một con chó (ein kleines Glas läuft mir nach wie ein Hund; câu này
Alexandre Vialatte dịch thoát là: "un petit verre me harcèle comme un
chien"; dịch nghĩa sát theo chữ Đức thì "một cái ly nhỏ chạy theo sau
tôi như một con chó". Nietzsche chỉ muốn dùng một ảnh tượng để làm nổi lên
sự thèm nước mát của ông).
In
vino veritas (trong rượu có chân lý): dường như chính ở điểm này tôi gây hấn
với mọi người thiên hạ về ý niệm "chân lý" – trong trường hợp tôi thì
linh thể di động trên mặt nước (N. ám chỉ cựu ước Kinh Genesis 1.2)
Và
đây xin đưa ra vài đề nghị đạo đức nữa. Một bữa ăn thịnh soạn thì dễ tiêu hơn
là một bữa ăn nhẹ nhàng (Eine starke Mahlzeit ist leichter zu verdauen als eine
zu kleine). Toàn thể bao tử phải làm việc, đó là tiền đề tiên khởi cho việc
tiêu hoá dễ dàng. Mình phải biết kích thước của bao tử mình. Đồng thời cũng vì
lý do vừa nêu, mình phải kiêng cữ những buổi ăn kéo dài mà tôi gọi là những
cuộc tế lễ tử nạn dây dưa - những buổi ăn trật tự thứ lớp cố định, loại
"table d’hote" (ăn đúng giờ, đúng chỗ).
Không
ăn gì giữa những bữa ăn, không uống cà phê: cà phê làm lan rộng nỗi âm u, tăm
tối (keinen Kaffee: Kaffee verdüstert). Trà đem lại sức khoẻ vào buổi sáng.
Uống một dúm thôi, nhưng đậm: không nên uống trà loãng nhẹ, dù uống ít đi nữa
thì nó tác hại suốt trọn ngày. Mỗi người đều có tiêu chuẩn của mình, thường khi
giữa những giới hạn nhỏ nhiệm tế nhị nhất.
Trong
một miền thời tiết quá bực bội, uể oải thì không nên uống trà, nên uống một
tách ca cao đậm tẩy dầu.
Nên
ngồi càng ít càng tốt (so wenig als moeglich setzen). Đừng tin cậy vào bất cứ
tư tưởng nào mà không phát sinh ở ngoài trời lúc mình di động thoải mái - Đừng
tin cậy bất cứ tư tưởng nào mà không nhập lễ với sự vận động của những bắp thịt
(keinem Gedanken Glauben schenken, der nicht im Freien geboren ist und bei
freier Bewegung in dem nicht auch die Muskeln ein Fest feiern). Tất cả những
thành kiến đều phát xuất từ ruột (Alle Vorurteile kommen aus den Eingeweiden)
(chú ý: bản chữ Đức do Karl Schlechta san nhuận đã in sai chữ
"Vorurteile" (thành kiến) thành ra "Vorteile" (lợi
điểm).
Cái
lối sống ngồi ì ra đấy, tôi đã nói một lần rồi, đó là tội lỗi thực sự xúc phạm
đến thánh thể (Das Sitzfleisch – ich sagte es schon einmal – die eigentliche
Sünde wider den heiligen Geist).
II.
Vấn
đề chỗ ở và khí hậu rất liên hệ mật thiết với vấn đề dinh dưỡng. Không ai có
thể hoàn toàn tự do sống ở đâu cũng được, và kẻ nào cần giải quyết những vấn đề
vĩ đại đòi hỏi việc thách thức trọn vẹn sức lực hắn thì lại càng chỉ có được
một sự lựa chọn rất giới hạn trong vấn đề này. Ảnh hưởng của khí hậu đối với sự
chuyển biến trong cơ thể, sự tác động chậm tiến, sự gia tốc của nó có thể gây
ảnh hưởng sâu xa đến nỗi việc chọn sai chỗ ở và khí hậu chẳng những khiến cho mình
xa lạ ly cách với bổn phận sứ mạng của mình mà còn có thể ngăn giữ không để cho
mình biết tới gì nữa: mình không còn bao giờ nhìn thấy sứ mạng bổn phận mình
nữa. Khí lực nội động của mình không bao giờ đủ sức lớn mạnh để mình đạt tới
được niềm tự do đổ tràn vào những cõi vùng tâm linh cao cả nhất và để cho mình
nhận ra: điều này, chỉ có điều này tôi mới có thể làm được. (Der animalische
vigor ist nie gross genug bei ihm geworden, dass jene ins Geistigste
überströmende Freiheit erreicht wird, wo jemand erkennt: das kann ich
allein…).
Chỉ cần để
cho ruột bị mệt mệt lười lười một tí, lúc chuyện ấy trở thành một thói quen tật
xấu, thì nội việc ấy cũng đủ biến một thiên tài thành ra một cái gì tầm thường,
một cái gì "có tính cách Đức quốc". (Eine zur schlechten Gewohnheit
gewordene noch so kleine Eingeweide – Trägheit genügt vollständig um aus einem
Genie etwas Mittelmässiges, etwas "Deutsches" zu machen). Khí hậu Đức
quốc thôi cũng đủ làm bại hứng những bộ ruột mạnh khoẻ, bẩm sinh hùng
cường. Biến nhịp của sự biến thể trong cơ thể có tính cách hoàn toàn tương ứng
với sự linh động nhanh nhẹn hoặc sự cứng nhắc què quặt của những bước chân tâm
linh; "tâm linh" thực ra chỉ là một dạng thái của sự tác dụng biến
thể nầy. Hãy cử ra những nơi chốn mà hạng người linh hoạt sinh sống, ở đó sự
nhanh trí, tế nhị và tinh nghịch lệ thuộc vào cơn hạnh phúc yêu đời, ở đó thiên
tài tìm thấy được quê nhà mình một cách dễ dàng gần như chuyện tất yếu: tất cả
những nơi chốn ấy đều có được không khí khô ráo tuyệt vời. Chẳng hạn như Paris,
Provence, Florence, Jerusalem, Athens - tất cả những tên thành phố này đều nói
lên một cái gì, chứng minh một cái gì dễ thấy: thiên tài tuỳ thuộc vào không
khí khô ráo, vào những phương trời trong trẻo – nghĩa là tuỳ thuộc vào sự tác
dụng biến thể nhanh chóng của cơ thể, tuỳ vào khả năng rút kéo liên tục bao
nhiêu sức mạnh vô hạn. Tôi có biết được một trường hợp của một tâm hồn lớn lao
được sinh ra cho việc vĩ đại ở đời thế mà vì hắn đánh mất bản năng tế nhị tìm
kiếm cho ra khí hậu thích ứng của mình, cho nên hắn chỉ trở thành hẹp hòi, teo
tóp, một thứ học giả chuyên nghiệp gắt gỏng càu nhàu. Và chính tôi cũng thế,
sau cùng rồi tôi cũng có thể trở thành y hệt như hắn nếu cơn đau bệnh ngặt
nghèo của tôi không bức bách tôi, khiến tôi sáng mắt để nghĩ đến cái lý tính ở
trong thực tại (zum Nachdenken über die Vernunft in der Realität). Bây giờ thì
mọi sự quá rõ rồi, hậu quả của khí hậu và thời tiết đã quá quen thuộc đối với
tôi, được biết từ kinh nghiệm lâu dài của chính bản thân tôi và tôi có thể đọc
chính bản thân tôi như đọc một khí cụ tin cậy vi tế - và ngay cả một chuyến du
hành ngắn, ví dụ như từ Turin cho đến Milan mà cơ thể tôi cũng ghi được sự biến
động thay đổi về khí hậu ẩm ướt – tôi nghĩ lại sự kiện thảm khốc này mà phát sợ
kinh hoàng, chỉ trừ ra năm mười năm cuối cùng này khi mà đời sống tôi bị hiểm
nguy kịch liệt, còn trọn đời tôi, tôi chỉ toàn sống tại những nơi chốn bậy bạ,
nhưng nơi tối kỵ đối với tôi. Như thành phố Naumburg, Schulpforta, tỉnh thành
Thuringia nói chung, thành Leipzig, Basel, Venise – bao nhiêu nơi chốn tai hại
tàn phá cơ thể sinh lý tôi.
Đại
để tôi không có kỷ niệm đáng quí nào từ suốt thời trẻ thơ và trai tráng, nhưng
quả thực là điên dại kéo dài lôi ra đây một mớ lý lẽ "luân lý" để
giải thích, chẳng hạn như cắt nghĩa rằng thiếu hẳn tình bạn tương xứng: vì lúc
nào thì tôi vẫn thiếu thốn như vậy, ngay lúc này cũng thế, nhưng như thế không
có nghĩa là tôi mất đi lòng vui sướng táo bạo. Nhưng đúng hơn chính vì ngu dốt
về sinh lý học - sự ngu dốt này quả là một thứ "chủ nghĩa lý tưởng"
đáng chửi rủa – đó là thiên tài đại họa thực sự cho đời sống tôi, một đời sống
hoàn toàn thừa thãi, ngu xuẩn, không có gì ra hồn thoát ra được từ đó, không
cái gì bù trừ cân xứng được. Hậu quả của cái "chủ nghĩa lý tưởng" này
cung cấp cho tôi giải thích được tất cả mọi lỗi lầm, tất cả mọi tán thất mê
loạn và những thứ "cử chỉ hạ mình khiêm tốn" khiến tôi xa lìa hẳn bổn
phận sứ mệnh của đời tôi như cái việc tôi trở thành một tên học giả về ngôn ngữ
học – ít nhất đi nữa tại sao không đi làm y sĩ hoặc một cái gì khác khả dĩ mở
mắt mình?
Trong
thời gian làm giáo sư ngôn ngữ học cổ điển tại đại học đường Basel, trọn vẹn
thức ăn tinh thần của tôi, kể cả cách tôi phân chia ngày giờ của tôi, quả là
một sự lạm dụng ngu xuẩn tất cả mọi tài nguyên phi thường, mà không tiếp liệu
bù đắp gì được lối tiêu xài năng lực phung phí ấy, mà cũng chẳng nghĩ gì tới
việc phung phí huỷ họai kia và việc tiếp liệu bù đắp lại. Tôi đã đánh mất hết
mọi ưu tư tế nhị về bản thân, mọi phòng vệ tuân phục theo bản năng chỉ đạo nào;
tôi đã dễ dãi tự đặt mình ngang hàng với bất cứ tên vô lại nào; đó quả là một
thứ "vị tha", bỏ quên đánh mất hết mọi khoảng cách giữa tôi và những
kẻ khác, tôi không thể nào tự tha thứ mình ngu dại lầm lẫn như vậy. Khi tôi đã
gần kề đường cùng, vì tôi đã gần cùng mạt rồi thì tôi mới bắt đầu suy nghĩ về
sự thất trí trầm trọng căn đế của đời sống mình – cái thứ "chủ nghĩa lý
tưởng" mọi rợ kia. Chỉ có cơn đau bệnh gần đây tôi mới vỡ lẽ cho tôi
thấy.
III.
Lựa
chọn thức ăn, lựa chọn khí hậu và nơi chốn: điểm thứ ba mà mình không nên phạm
lỗi lầm dù bất cứ giá nào, đó là chọn lựa sự tiêu khiển giải trí nghỉ ngơi
thích hợp với mình. Điểm này cũng tuỳ thuộc vào trình độc độ đáo của tâm linh
mình, giới hạn của những gì dành riêng cho mình, có lợi cho mình, hoàn toàn
được hạn chế. Trong trường hợp tôi, mọi sự đọc sách thuộc những điều giải phóng
tôi ra khỏi chính tôi, đưa tôi lang thang vào những khoa học kỳ lạ và những tâm
hồn kỳ lạ mà tôi không còn xem trọng. Đọc sách chính là sự giải trí của tôi ra
ngoài sự trang trọng nghiêm nghị của chính tôi. Trong những thời gian tôi làm
việc viết lách dồi dào siêng năng thì người ta không thấy tôi bị những quyển
sách vây bọc nữa: tôi giữ gìn, thận trọng, canh phòng không để cho bất cứ ai
đến gần tôi kể cả nói chuyện hoặc rề rà suy nghĩ gì hết (In tief arbeitsamen
Zeiten sieht man keine Bücher bei mir: ich würde mich hüten, jemanden in meiner
Nähe reden oder gar denken zu lassen). Và đọc sách có ý nghĩa rề rà là
thế.
Không
biết người ta có để ý rằng trong lúc tâm thần căng thẳng mãnh liệt mà sự thai
nghén đã hành phạt tâm linh và hành phạt tận căn để trọn vẹn cơ thể phải chịu
trạng huống khẩn trương ấy thì mọi sự việc bất ngờ ngẫu nhiên và mọi loại kích
thích bên ngoài đều tác động quá kịch liệt, đánh vào như sấm sét, quá hung
hăng, quá sâu thẳm? (Hat man eigentlich beobachtet, dass in jener tiefen
Spannung, zu der die Schwangerschaft den Geist und im Grunde den ganzen
Organismus verurteilt, der Zufall, jede Art Reiz von aussen her zu vehement
wirkt, zu tief "einschlägt"?)
Mình
hãy tránh hết sự bất ngờ ngẫu nhiên và những kích thích bên ngoài, càng tránh
nhiều chừng nào tốt chừng nấy: tự đóng nhốt mình lại trong bốn vách tường là
một trong những biện pháp đề phòng tự nhiên nhất trong thời kỳ cưu mang thai
nghén của tâm linh. Tôi có nên để cho một tư tưởng ngoại lai leo trèo qua vách
để đột nhập kín đáo vào thế giới mình? Và đọc sách có nghĩa là phải chịu như
thế.
Những
thời gian viết lách làm việc, sinh sôi nẩy nở liền được tiếp đuôi theo sau là
những thời gian giải trí nghỉ ngơi: lúc ấy, những quyển sách tươi vui thông
minh hãy mò tìm tới tôi!
Có
phải đó là những quyển sách của nước Đức không?
Tôi
phải lùi lại nửa năm qua mới bất chợt thấy mình có một quyển sách trong tay –
Đó là quyển gì? Một tác phẩm nghiên cứu của Victor Brochard, nhan đề là Les
Sceptiques Grecs mà trong quyển sách ấy những thiên khảo cứu của tôi về
Diogenes Leartius (Laertiana) được sử dụng tích cực. Những triết gia hoài nghi,
loại triết gia đáng trọng vọng duy nhất giữa bọn triết gia ăn nói ngôn ngữ từ
hai nghĩa cho đến năm nghĩa! (Die Skeptiker, der einzige ehrenwerte Typus unter
dem so zwei – bis fünfdeutigen Volk der Philosophen!...)
Nếu
không thế thì tôi gần như vẫn luôn luôn tìm nơi trú ẩn với một số sách quen
thuộc, đọc đi đọc lại, thực ra, chỉ một số ít thôi - những quyển sách chứng
nghĩa riêng cho tôi (Sonst nehme ich meine Zuflucht fast immer zu denselben
Büchern, einer kleinen Zahl im Grunde, den gerade für mich bewiesenen Büchern).
Có lẽ tôi không có tính chịu đọc sách nhiều hoặc đọc đủ loại: một phòng đọc
sách luôn luôn làm tôi phát bệnh (Es liegt vielleicht nicht in meiner Art, viel
und vierlerlei zu lesen: ein Lesezimmer macht mich krank). Tâm tính tôi cũng
không ưa việc yêu nhiều hoặc yêu đủ loại (Es liegt auch nicht in meiner Art,
viel und vierlerlei zu lieben). Cẩn thận đề phòng, và cả lòng ác cảm chống lại
những quyển sách mới lạ, những điều này thích hợp với bản năng của tôi hơn là
"bao dung" "rộng lượng" và "tình người nhân
hậu".
------
Chú
thích của dịch giả: Khi cho in quyển này, Nietzsche đã chữa lỗi in của ấn cáo
cho tới đoạn này và cho phép chạy máy đến đây thì Nietzsche bị bệnh, té ngất
quị ngoài đường, rồi từ đó im lặng, hoàn toàn im lặng, "tịch nhiên bất
động" cho đến mười năm, rồi chết trong nỗi bí mật của thiên thượng địa
hạ…
(Sau đây tôi xin chừa một trang trắng để tưởng niệm ngày linh thiêng Nietzche đi vào sự Im Lặng Hố Thẳm).
(Sau đây tôi xin chừa một trang trắng để tưởng niệm ngày linh thiêng Nietzche đi vào sự Im Lặng Hố Thẳm).
Có
một số ít sách của những cụ tác giả người Pháp mà tôi vẫn đọc đi đọc lại nhiều
lần: tôi chỉ tin tưởng nền văn hoá Pháp và coi tất cả mọi sự khác ở Âu châu
ngày nay được gọi là "văn hoá" thực ra chỉ là một sự ngộ nhận thôi –
đó là chưa nói đến cái gọi là văn hoá Đức.
Vài
trường hợp hiếm hoi nói lên văn hoá cao lớn mà tôi đã được gặp gỡ ở nước Đức
này đều có nguồn gốc ở Pháp, đặc biệt như trường hợp của bà Cosima Wagner, đó
là tiếng nói hàng đầu đối với những vấn đề văn phong mỹ khiếu mà tôi đã từng
được nghe. Cái việc tôi yêu Pascal, chứ không phải chỉ đọc, như một nạn nhân
dạy mình nhiều nhất về Ki-tô giáo, kẻ bị sát hại dần hồi, thoạt đầu bị sát hại
về phương diện tâm lý – trọn vẹn luận lý học về hình thể ghê rợn nhất của sự
tàn bạo vô nhân đạo này (Dass ich Pascal nicht lese, sondern liebe, als das
lehrreichste Opfer des Christentums, langsam hingemordet. Erst leiblich, dann
psychologisch, die ganze Logik dieser schauderhaftesten Form unmenschlicher
Grausamkeit). Trong tinh thần tôi, tôi lại có – ai ngờ? – có lẽ cũng có cả
trong cơ thể - cái chất khinh khoái hăng hái mạnh khoẻ của Montaigne; năng
khiếu cảm nhận của con người nghệ sĩ trong tôi đã bào chữa bênh vực những tên
tuổi của Molière, Corneille và Racine, bênh vực, không tránh được thịnh nộ,
chống lại thiên tài man dại như Shakespeare – tất cả những điều ấy không phải
khiến tôi bớt nhận thấy rằng ngay cả đối với những tác giả Pháp gần đây nhất
tôi vẫn cảm thấy họ hấp dẫn khi sống chung với tập thể họ. Tôi không thấy thế
kỷ nào ở quá khứ mà mình có thể vớt lên được bao nhiêu nhà tâm lý vừa thẩm thấu
vừa tế nhị như ở Paris hiện nay: xin đề nghị một số tên ra đây - số tên ấy
không phải là ít – xin kể tên quí ông Paul Bourget, Pierre Loti, Gyp, Meilhac,
Anatole France, Jules Lemaitre, hoặc xin đơn cử ra đây một tên trong chủng loại
hùng cường ấy, một hạng người La Tinh chân thật mà tôi đặc biệt mở lòng, đặc
biệt đón nhận, đó là Guy de Maupassant. Thú thực nói riêng với nhau tôi thích
yêu thế hệ văn sĩ này hơn cả những bậc thầy của họ, vì tất cả những bậc thầy
này, không loại trừ ai hết, đều bị triết lý Đức quốc làm hư hỏng hết cả (chẳng
hạn như Taine đã bị Hegel làm hư hỏng đi, Taine ngộ nhận những vĩ nhân và những
thời đại vì chịu ảnh hưởng sai lầm của Hegel). Nước Đức lan rộng đến đâu thì nó
phá hư nền văn hoá ở đó (Soweit Deutschland reicht, verdirbt es die Kultur).
Chỉ có chiến tranh mới "giải toả" tinh thần ở Pháp.
Stendhal,
một trong những sự tình cờ đẹp nhất trong đời tôi – vì bất cứ cái gì đánh dấu
một biến cố quan trọng trong tôi đều xuất hiện một cách ngẫu nhiên bất ngờ, chứ
không do ai suy tiến cả - (Denn Alles, was in ihm Epoche macht, hat der Zufall,
niemals eine Empfehlung mir zugetrieben). Stendhal thực là vô giá, cái nhìn tâm
lý dự tri của ông, cái tài khéo soi thấu những sự kiện dễ làm ta nhớ đến con
người vĩ đại nhất trong những con người hiện thực (ex ungue Napoleonem: từ dấu
chân mà mình có thể biết đó là Nã Phá Luân), và điều sau cùng không phải không
đáng nói nhất, Stendhal là một vô thần trung thực - một loại người rất hiếm
thấy ở Pháp và gần như không thể tìm thấy được - ở đây cũng cần cất nón chào
Prosper Mérimée.
Có
lẽ tôi cũng đố kỵ cả Stendhal? Ông ấy đã tước mất khỏi tôi lời khôi hài vô thần
tuyệt diệu nhất mà đáng lẽ tôi phải nói thế: "cái cớ biện chữa duy nhất
của chính Thượng đế là ông ta không có hiện hữu" (Die einzige
Entschuldigung Gottes ist, dass er nicht existiert). Đâu đây chính tôi cũng đã
nói: điều phản đối lớn nhất cho cuộc hiện hữu từ trước đến giờ là điều gì? Đó
là Thượng Đế (Ich selbst habe irgendwo gesagt: was war der grösste Einwand
gegen das Dasein bisher? Gott!…)
--------
IV.
Heinrich Heine đã cho tôi ý niệm cao cả nhất về thi sĩ trữ tình. Tôi không tìm đâu ra thứ nhạc điệu say đắm dịu dàng như vậy trong tất cả mọi lãnh vực của lịch sử. Heine có được đức dữ dằn tinh nghịch thần thánh mà thiếu mất đức tính ấy thì tôi không thể nào hình dung nổi sự tận thiện tận mỹ (Er besass jene göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommne nicht zu denken vermag): Tôi đánh giá loài người, chủng tộc, tuỳ theo điều tất yếu mà họ chịu bắt buộc không thể làm gì khác hơn là không thể nào quan niệm thần thánh tách rời ra hạng quỉ thần mình người chân dê (Ich schätze den Wert von Menschen, von Rassen danach ab, wie notwendig sie den Gott nicht abgetrennt vom Satyr zu verstehen wissen)
Heinrich Heine đã cho tôi ý niệm cao cả nhất về thi sĩ trữ tình. Tôi không tìm đâu ra thứ nhạc điệu say đắm dịu dàng như vậy trong tất cả mọi lãnh vực của lịch sử. Heine có được đức dữ dằn tinh nghịch thần thánh mà thiếu mất đức tính ấy thì tôi không thể nào hình dung nổi sự tận thiện tận mỹ (Er besass jene göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommne nicht zu denken vermag): Tôi đánh giá loài người, chủng tộc, tuỳ theo điều tất yếu mà họ chịu bắt buộc không thể làm gì khác hơn là không thể nào quan niệm thần thánh tách rời ra hạng quỉ thần mình người chân dê (Ich schätze den Wert von Menschen, von Rassen danach ab, wie notwendig sie den Gott nicht abgetrennt vom Satyr zu verstehen wissen)
Và
Heine sử dụng tiếng Đức hay tuyệt làm sao! Một ngày nào trong tương lai đây
người đời sẽ nói rằng Heine và tôi là những nghệ sĩ thượng đẳng sử dụng tiếng
Đức tài ba nhất - vượt xa vô số lên trên hẳn tất cả những gì mà dân Đức thuần
tuý đã làm được với tiếng Đức từ trước đến nay (C.T.D.G.: Nietzsche ám chỉ Heine
là người Đức gốc Do Thái, còn hạng người Đức thuần tuý thì không làm gì ra hồn
cả! Lời tiên tri của Nietzsche đã đúng với sự thật, vì năm 1908, đại văn hào
Đức Thomas Mann trong một bài viết về Heine, cũng nhận rằng không có văn chương
Đức nào viết hay tuyệt như Heine và Nietzsche. Thomas Mann, Rede und Antwort,
1922, trang 382)
Tôi
phải có nhiều huyết thống liên hệ mật thiết với tác phẩm Manfred của Byron TẤT
CẢ MỌI HỐ THẲM NÀY, TÔI ĐÃ TÌM THẤY CHÚNG TRONG NGƯỜI TÔI (ICH FAND ALLE DIESE
ABGRÜNDE IN MIR), lúc mới mười ba tuổi thôi, tôi cũng đủ chín muồi để hiểu tác
phẩm này. Tôi không nói gì cả mà chỉ ném đi một cái nhìn từ cao xuống, cho
những kẻ nào dám đọc tiếng "Faust" trước sự có mặt của Manfred
(C.T.D.G: Nietzsche so sánh nhân vật Manfred của Byron và nhân vật Faust của
Goethe; Nietzsche kính phục Goethe nhưng không phải vì say mê tác phẩm chính
của Goethe là vở kịch Faust). Dân Đức không có khả năng có được ý niệm gì về sự
cao cả vĩ đại (Die Deutschen sind unfähig jedes Begriffs von Grösse). Bằng
chứng: Schumann. Chỉ vì nổi giận với tên Saxon đường mật này mà tôi sáng tác
phản tự khúc cho Manfred mà Hans von Buelow nói rằng ông ta chưa bao giờ thấy
được sáng tác phẩm nào như vậy được viết trên mặt giấy; ông ấy gọi đó là sự
hiếp dâm của nữ nhạc thần Euterpe (C.T.D.G.: Buelow là dương cầm gia và nhạc
trưởng, chồng của Cosima Liszt, sau Cosima bỏ chồng mà lấy Richard
Wagner).
Khi
tôi tìm kiếm phương trình tối thượng của tôi để hình dung Shakespeare thì tôi
vẫn luôn thấy điều này: ông ấy đã tạo ra được mẫu người César. Người ta không
thể đoán mò được cái loại ấy: hoặc mình là thế hoặc không là thế. Nhà thơ vĩ
đại chỉ múc, vớt, lấy lên từ ngay thực tại bản thân (Dergleichen errät man
nicht – man ist es oder man ist es nicht. Der grosse Dichter schöpft nur
ausseiner Realität) cho đến độ sau đó thi sĩ không còn thể chịu đựng nổi tác
phẩm của mình nữa (bis zu dem Grade, dass er hinterdrein sein Werk nicht mehr
aushält…).
Khi
tôi nhìn lại tác phẩm Zarathustra của tôi thì tôi bước đi bước lại trong phòng
tôi cả nửa giờ đồng hồ và không còn có thể dằn được tiếng khóc nức nở quá sức
chịu đựng (Wenn ich einen Blick in meinen Zarathustra geworfen habe, gehe ich
eine halbe Stunde im Zimmer auf und ab, unfähig, über einen unerträglichen
Krampf von Schluchzen Herr zu werden).
Tôi
không biết có gì xé nát tim mình cho bằng đọc Shakespeare: một con người đã
phải chịu đau khổ biết bao đến nỗi phải cần làm hề như vậy (Ich kenne keine
herzzerreissendere Lektüre als Shakespeare: was muss ein Mensch gelitten haben,
um dergestalt es nötig zu haben, Hanswurst zu sein!).
Có
ai hiểu được Hamlet không? Không phải sự nghi ngờ mà chính điều chắc chắn xác
thực đã xô đẩy người ta đến chỗ điên loạn (Nicht der Zweifel, die Gewissheit
ist das, was wahnsinnig macht…). NHƯNG MÌNH PHẢI LÀ SÂU THẲM, PHẢI LÀ MỘT HỐ
THẲM, MỘT TRIẾT GIA, THÌ MỚI CẢM ĐƯỢC NHƯ VẬY (ABER DAZU MUSS MAN TIEF,
ABGRUND, PHILOSOPH SEIN, UM SO ZU FÜHLEN…).
TẤT
CẢ CHÚNG TA ĐỀU SỢ SỰ THẬT (WIR FÜRCHTEN UNS ALLE VOR DER WAHRHEIT…).
Và hãy để tôi thú thực: tôi cảm thấy chắc chắn ngay tận bản năng rằng Lord Bacon chính là kẻ sáng tạo ra loại văn chương quái dị nhất này và cũng là kẻ tự hành hạ mình trong loại văn ấy: cái thứ ba hoa nhảm nhí đáng thương hại của mấy bộ óc nhạt nhẽo ngù ngờ người Mỹ có nghĩa gì đâu đối với tôi? (C.T.D.G: Ý của Nietzsche, chứ chẳng có dính dáng gì với những học giả Mỹ, lý thuyết gia chủ trương Shakespeare chính là Bacon).
Và hãy để tôi thú thực: tôi cảm thấy chắc chắn ngay tận bản năng rằng Lord Bacon chính là kẻ sáng tạo ra loại văn chương quái dị nhất này và cũng là kẻ tự hành hạ mình trong loại văn ấy: cái thứ ba hoa nhảm nhí đáng thương hại của mấy bộ óc nhạt nhẽo ngù ngờ người Mỹ có nghĩa gì đâu đối với tôi? (C.T.D.G: Ý của Nietzsche, chứ chẳng có dính dáng gì với những học giả Mỹ, lý thuyết gia chủ trương Shakespeare chính là Bacon).
Song
kiến lực để nhìn thấy thực tại mạnh mẽ nhất chẳng những là tương hợp với mãnh
lực cao cường nhất để hành động, để làm việc quỉ quái, để làm việc tội lỗi – mà
điều ấy còn là điều kiện tiền lập cho việc ấy (Aber die Kraft zur maechtigsten
Realitaet der Vision ist nicht nur vertraeglich mit der maechtigsten Kraft zur
Tat, zum Ungeheuren der Tat, zum Verbrechen – sie setzt sie selbst
voraus…).
Chúng
ta hãy còn chưa hiểu nổi đầy đủ về Lord Bacon, con người hiện thực đầu tiên
trong mọi ý nghĩa cao cả, kẻ biết tất cả mọi sự mình đã làm, đã muốn và đã thể
nghiệm cho chính bản thân.
Ô
hô, xin cút mất đi, hỡi những nhà phê bình thân mến của tôi.
Giá
như tôi đã xuất bản tác phẩm Zarathustra dưới một tên khác – chẳng hạn, như tên
của Richard Wagner – thì sự sáng trí minh mẫn của hai ngàn năm cũng không đủ để
cho người ta đoán rằng tác giả quyển "Menschliches,
Allzumenschliches" là kiến giả của tác phẩm Zarathustra.
V.
Nói
đến những sự giải trí tiêu khiển của đời tôi, tôi phải nói đôi điều ở đây để tạ
ơn đối với cái được coi như sự tiêu khiển sâu thẳm nhất và tâm ngộ nhất của đời
tôi. Nhất định rồi, đó là sự giao thiệp thân mật với Richard Wagner. Đối với
tất cả sự giao thiệp đi lại của tôi với những người khác, tôi đều coi rẻ, nhưng
tôi không hề muốn đổi mất những ngày thơ mộng sống ở Tribschen cùng với gia
đình Wagner, dù bất cứ giá nào – đó là những ngày tin cậy, vui đời, đầy những
sự việc bất ngờ cao siêu xảy đến, ôi những giây phút sâu thẳm.
Tôi
không biết những kẻ khác đã có những kinh nghiệm nào đối với Wagner: đối với
tôi, bầu trời giữa Wagner và tôi không bao giờ bị vẩn tối bởi một gợn mây đơn
độc nào.
Đề
cập đến đây, tôi lại trở lại nước Pháp một lần nữa – Tôi không có lý do nào nữa
ngoài sự khinh miệt ở khoé môi, đối với lũ đồ đệ của Wagner, et hoc genus omne
(và cả đám chúng), những hạng người cho rằng họ suy tôn Wagner bằng cách tìm
thấy ông ấy giống hệt như bọn họ.
Cái
lối ăn ở của tôi, hoàn toàn xa lạ hẳn, trong tận bản năng sâu thẳm nhất, đối
với tất cả những gì thuộc Đức quốc, xa lạ đến nỗi mỗi khi chỉ trờ tới gần một
người Đức là bộ máy tiêu hoá tôi phải bị trệ lại (So wie ich bin, in meinen
tiefsten Instinkten allem, was deutsch ist, fremd, so dass schon die Nähe eines
Deutschen meine Verdauung verzögert) nhưng lần đầu gặp gỡ Wagner thì đó cũng là
lần đầu tiên trong đời tôi, tôi được thở khoẻ khoắn sâu đậm; tôi có kinh nghiệm
rõ rệt, có lòng trọng vọng ông ấy như là một miền đất lạ, như một thứ phản đề,
một sự chống đối hiện thân nghịch lại hẳn tất cả "những đức tính Đức
quốc".
Chúng
ta, những đứa con lớn lên trong không khí đầm lầy của những năm từ 1850 cho đến
1860, tất nhiên nhất định phải là những kẻ bi quan đối với ý niệm "Đức
quốc tính"; chúng ta không thể làm gì khác hơn là làm những nhà cách mạng
– chúng tôi không chịu đựng nổi bất cứ sự trạng nào mà kẻ giả đạo đức lăng xăng
lại leo lên đầu thiên hạ. Tôi hoàn toàn lãnh đạm về việc ngày hôm nay hắn có
mặc y áo tạp sắc, ăn vận đỏ loè, đồng phục của một tên khinh kỵ binh (C.T.D.G:
ám chỉ Đức hoàng Wilhelm II, lên ngôi năm 1888, đồng thời cũng ám chỉ Đế quốc
Đức mà Wagner đã trở thành một thứ "anh hùng dân tộc"!)
Những
thuở ấy thì Wagner vẫn còn là những nhà cách mạng – ông ta chạy thoát khỏi
những người Đức (C.T.D.G: lúc Nietzsche giao du với Wagner thì Wagner sống ở
Thuỵ Sĩ).
Mang
một tâm hồn nghệ sĩ thì mình không có quê hương nào khác ở cái đất Âu châu này,
ngoại trừ sống ở Paris (Als Artist hat man keine Heimat in Europa ausser in
Paris), ở Paris: nghệ thuật của Wagner được tiền lập trong điệu tịnh nhuệ trong
tất cả năm giác quan thẩm mỹ, những ngón tay thần tình rờ mó ra những khoé cạnh
tinh tế vi diệu, tính phong nhu tâm lý, tất cả những điệu lòng này chỉ có thể
tìm được ở Paris (die délicatesse in allen fuenf Kunstsinnen, die Wagners Kunst
voraussetzt, die Finger für nuances, die psychologische Morbiditaet, findet sich
nur in Paris). Không nơi nào khác ở thế gian nầy mà mình thấy được lòng say mê
đắm đuối với những vấn đề hình thức, lòng trang trọng đối với việc dàn cảnh –
một thứ trang trọng rất mực Paris. Ở nước Đức người ta thiếu mất hẳn mọi ý niệm
về lòng xa vọng dị thường sôi động trong tâm hồn của một con người nghệ sĩ ở
Paris (Man hat in Deutschland gar keinen Begriff von der ungeheuren Ambition,
die in der Seele eines Pariser Künstlers lebt). Những người Đức họ tốt quá,
thực thà quá; Wagner không hề như vậy.
Nhưng từ lâu tôi đã nói đầy đủ (trong quyển
Vượt qua thiện và ác, Jenseits von Gut und Böse, II, 724f) về việc phải đặt để
Wagner vào đâu và những kẻ đồng loại với ông ấy là ai: những nghệ sĩ cao bay
ngây ngất như Delacroix, như Berlioz, với căn cơ hay bệnh hoạn, bất trị từ bản
chất (von Unheilbarkeit im Wesen), tất cả đều là những kẻ cuồng tín của đạo
phát biểu, những bậc kỳ tài diệu thủ từ đầu đến chân…
Kẻ
nào là đồ đảng đầu tiên thông minh của Wagner? Đó là Charles Baudelaire, nhà
thơ này cũng là kẻ đầu tiên hiểu được Delacroix – tên nghệ sĩ sa đọa kiểu mẫu
ấy mà cả một lũ nghệ sĩ đã tự nhận hình bóng họ ở đó – và có lẽ tên ấy cũng là
tên cuối cùng (C.T.D.G: tên cuối cùng, đồ đảng thông minh cuối cùng của
Wagner).
Tôi
không bao giờ tha thứ Wagner. Về việc gì? Về việc ông ta hạ mình với những
người Đức – việc ông ta trở thành đồng hóa với cơ đồ của tân Đế quốc Đức (dass
er reichsdeutsch wurde…). Nơi nào nước Đức lan tràn tới thì nước Đức phá hoại
văn hoá ở nơi đó (So weit Deutchland reicht, verdirbt es die Kultur).
VI.
Xét
cho cùng, tôi không thể chịu đựng được nổi tuổi trẻ của tôi nếu không có nhạc
của Wagner. Vì lúc bấy giờ tôi bị đày đọa sống với những người Đức. Nếu mình
muốn giải toả khỏi sức đè nặng không thể chịu đựng nổi thì cần phải có thuốc
say haschisch. Lúc ấy, tôi phải cần Wagner. Wagner là một thứ giải độc chống
trị lại tất cả mọi sự việc Đức quốc – một thứ trị độc, một thứ thuốc độc nữa,
tôi không phủ nhận điều ấy.
Từ
lúc nghe được một nhạc phổ liên hợp đàn dương cầm cả tác phẩm Tristan – xin gửi
lòng chúc từ cho ông von Buelow – thì tôi trở thành tín đồ của Wagner. Những
tác phẩm cuối cùng của Wagner thì tôi coi quá thấp dưới tôi – quá tầm thường,
quá "Đức quốc tính".
Song
cho mãi đến nay tôi vẫn còn đang tìm kiếm một sáng tác phẩm ngang hàng với sự
quyến rũ nguy hiểm và sự vô hạn ghê rợn dịu dàng của tác phẩm Tristan – mà vẫn
không thể tìm được trong tất cả ngành nghệ thuật. Tất cả những sự kỳ dị bí ẩn
của Leonardo da Vinci đã được tước lột ra ngoài sức ma hoặc ở ngay nốt nhạc đầu
tiên của Tristan. Tác phẩm này đích thị là tác phẩm rất mực Wagner, với những
tác phẩm như Meistersänger và Ring thì ông ấy chỉ lấy lại từ Tristan. Trở nên
mạnh khoẻ hơn nữa, đó là sự thụt lùi đối với bản chất như Wagner (Gesünder werden
– das ist ein Rückschritt bei einer Natur wie Wagner).
Tôi
cho rằng mình đã được vận may thượng đẳng đã sống đúng lúc giữa những người
Đức, đủ chín muồi để thưởng thức tác phẩm vĩ đại này của Wagner: sức thẩm sát
tâm lý đã được thể hiện sâu thẳm biết bao trong trường hợp tôi. Thế giới vẫn
nghèo nàn đối với bất cứ kẻ nào chưa từng bao giờ đủ bệnh hoạn để được "sự
mê ly khoái lạc của hoả ngục" (Die Weil ist arm für den, der niemals krank
genug für diese "Wollust der Hölle" gewesen ist): ở đây mình gần như
bắt buộc phải dùng để thức ngôn ngữ của hạng đạo sĩ thần bí.
Tôi
nghĩ rằng tôi biết rõ hơn bất cứ kẻ nào khác về những sự việc khủng khiếp mà
Wagner có khả năng làm nổi – năm mươi thế giới của những cơn xuất thần xa lạ mà
không ai có được những cánh bay, trừ ra Wagner, và hiện thể của bản chất tôi,
tôi kẻ đủ sức mạnh để biến đổi ngay cả những gì khả vấn nhất và nguy hiểm nhất
trở thành lợi lộc cho tôi và như vậy trở nên mạnh mẽ hơn nữa, cho nên tôi gọi
Wagner là kẻ ân nhân vĩ đại của đời tôi. Cái việc chúng tôi liên hệ giao du mật
thiết nhau, cái việc chúng tôi đã đau khổ quá sâu thẳm, cũng đã đau khổ phiền
luỵ với nhau, đau đớn hơn cả khả năng đau khổ của những con người ở thế kỷ này
– những sự việc ấy sẽ nối kết tên tuổi chúng tôi với nhau mãi mãi, thiên thu,
điều này nhất định chắc chắn như cái việc Wagner chỉ là một sự ngộ nhận giữa
những người Đức, cũng như tôi vẫn mãi mãi luôn sẽ bị ngộ nhận như vậy (und so
gewiss Wagner unter Deutschen bloss ein Missverständnis ist, so gewiss bin ich’s
und werde es immer sein).
Hỡi
những người Đức kiêu hãnh, hai thế kỷ của kỷ luật nghệ thuật và tâm lý phải đến
trước đã! Song người ta không bắt kịp được điều ấy đâu.
VII.
Tôi
sẽ nói thêm đôi lời nữa cho những lỗ tai ưu tú nhất: những gì tôi thực sự cần
thấy phải có trong âm nhạc. Rằng âm nhạc phải phơi phới vui tươi và sâu thẳm
như một buổi chiều tháng Mười (Dass sie heiter und tief ist, wie ein Nachmittag
im Oktober). Rằng âm nhạc phải có cá tính, vui đùa tinh nghịch, dịu dàng, như
một người đàn bà bé bỏng, ngọt ngào tràn đầy thú tính và duyên dáng (Dass sie
eigen, ausgelassen, zärtlich, ein kleines süßes Weib von Niedertracht und
Anmuth ist…)
Tôi
không bao giờ nhận rằng một người Đức có thể biết được âm nhạc là gì. Những kẻ
gọi là những nhà soạn nhạc người Đức – nhất là những nghệ sĩ vĩ đại nhất đều là
người ngoại quốc: người Slaves, người Croates, người Ý Đại Lợi, người Hoà Lan
hoặc người Do Thái; nếu không thế thì họ là dòng dõi người Đức thuộc chủng loại
mạnh mẽ nhất, thứ chủng loại này bây giờ không còn nữa, như Heinrich Schütz,
Bach, và Händel. Tôi vẫn còn đủ máu của người Ba Lan trong bản thân khả dĩ hy
sinh tất cả âm nhạc còn lại cho Chopin, chỉ trừ ra ba điều, tác phẩm Siegfried
Idyll của Wagner, có lẽ một vài tác phẩm của Liszt, kẻ vượt qua tất cả nhạc sĩ
khác trong những âm điệu hợp tấu khúc quí phái cao cả, và sau cùng, tất cả mọi
rặng núi Alpes - ở phía bên này (C.T.D.G: Nietzsche viết Ecce Homo tại thành
phố Turin ở Ý Đại Lợi).
Tôi
không biết phải ăn ở làm sao cho ra hồn nếu không có nhạc của Rossini, hay lại
còn tệ hơn nữa, nếu không có cái thứ nhạc miền Nam mặt trời của tôi, nhạc của
Pietro Gasti, bậc thầy ở Venise.
Khi
tôi nói vượt qua bên kia rặng núi Alpes, thực ra tôi chỉ muốn nói Venise. Khi
tôi muốn tìm một lời khác để chỉ âm nhạc, tôi vẫn chỉ tìm một lời khác để chỉ
âm nhạc, tôi vẫn chỉ tìm được một tiếng thôi, đó là tiếng: Venise. Tôi không
biết làm thế nào phân biệt giữa nước mắt và âm nhạc (Ich weiß keinen
Unterschied zwischen Tränen und Musik zu machen) – Tôi không biết nghĩ thế nào
về hạnh phúc, về miền Nam mặt trời mà không run rẩy e ngại (Ich weiß das Glück,
den Süden nicht ohne Schauder, der von Furchtsamkeit zu denken) (C.T.D.G: Bản
dịch chữ Pháp của Alexandre Vialatte, Ecce Homo, Gallimard, 1942, đã dịch sai
hẳn ý nghĩa của đoạn này: "Je sais le bonheur de ne pouvoir songer au Midi
sans un frisson de terreur", Alexandre Vialatte đã hiểu sai vì phân tích
sai đoạn văn ra làm hai phần: "Ich weiss dass Glück…l, den Süden nicht
ohne Schauder von Furchtsamkeit zu denken": "Je sais le bonheur…l de
ne pouvoir songer an Midi sans un frisson de ter-reer", nghĩa là hiểu sai
vị trí của chữ nicht trong phân đoạn hai).
Tôi đứng nơi cầu
mới rồi trong đêm nâu.
Từ xa vẳng lại tiếng ca sầu:
như một giọt vàng đổ tràn trên mặt rung lai láng.
Những chiếc thuyền, sáng ngời, điệu nhạc -
Men say ngào ngạt bơi thả vào hoàng hôn bát ngát.
Hồn tôi một cung cầm vương tơ,
Thoáng động vô hình ca khẽ bâng quơ
Bài hát đò đưa thầm kín buông hờ
Rung rinh với tình lồng lộng mê ly muôn sắc
Còn ai kia đã lắng nghe tiếng hát?
An der Brücke stand
Jüngst ich in brauner Nacht.
Fernher kam Gesang;
Goldener Tropfen quollt
Über die zitternde Fläche weg.
Gondeln, Lichter, Musik –
Trunken schwamm in die
Dämmerung hinaus…
Meine Seele, ein Saitenspiel,
Sang sich, unsichtbar berührt,
Heimlich ein Gondellied dazu,
Zitternd vor bunter Seligkeit.
Hörte jemand ihr zu?
VIII.
Trong
tất cả những vấn đề này - việc lựa chọn thức ăn dinh dưỡng, nơi chốn và khí
hậu, trò tiêu khiển - bản năng tự thủ nội sinh đã ban mệnh lệnh và đạt đến sự
phát biểu dứt khoát nhất dưới hình thức của bản năng tự vệ. Nhắm mắt lại không
nhìn nhiều sự việc, không nghe nhiều sự việc, không để cho nhiều sự việc chạy
trờ đến bên mình – đó là hiệu lệnh đầu tiên cho mình thấy rằng mình không phải
chỉ là cớ sự ngẫu nhiên mà là một sự tất yếu có tính cách định phận (Vieles
nicht sehn, nicht hören, nicht an sich herrankommen lassen – erste Klugheit,
erster Beweis dafür, dass man kein Zufall, sondern eine Nezessität ist). Chữ
thông thường để gọi bản năng tự vệ này là thị hiếu. Nó ra lệnh chúng ta chẳng
những chỉ nói không khi mà tiếng ừ vẫn được vẻ "vô vị kỷ" mà còn ra
lệnh cho chúng ta nói không càng ít càng tốt. Tự tách rời mình, tự cách mình ra
khỏi mọi việc khả dĩ khiến mình phải cần tiếp tục nói không. Sở dĩ thế là vì
những hoang phí năng lực để tự vệ, dù nhỏ nhoi đi nữa, cũng trở thành lề luật
và thói quen, đưa đến việc nghèo nàn dị thường, hoàn toàn thừa thãi. Những tiêu
phí năng lực lớn lao của chúng ta đều gồm toàn những sự tiêu phí bé nhỏ thường
trực (Unsre grossen Ausgaben sind die häufigsten kleinen). Cầm cự lại, không để
cho những sự việc trờ tới gần, khiến cho mình phải tiêu phí, đừng ai phải chịu
tự lường gạt về điểm này – năng lực hoang phí vào những mục đích tiêu cực. Chỉ
vì nhu cầu đòi hỏi thường xuyên phải cầm cự xua đuổi tránh né, cho nên mình có
thể trở nên yếu đuối và không còn khả năng tự bảo vệ nữa.
Ví như lúc bước ra khỏi nhà, thay vì tìm thấy thành phố Turin tĩnh lặng quí phái, tôi lại gặp một thành phố Đức bé nhỏ: bản năng tôi bắt tôi phải ngăn rào tự thủ xô đẩy mọi sự ào tới tấn công do cái thế giới ma sát, nhạt nhẽo, hèn nhát. Hoặc là tôi gặp một thành phố lớn Đức – cái thứ dâm uế được xây dựng bằng đá mà không có gì có thể mọc lên được mà tất cả mọi sự, tốt hoặc xấu, đều loại nhập cảng. Có phải điều này đã bức ép tôi phải trở thành một con nhím?
Ví như lúc bước ra khỏi nhà, thay vì tìm thấy thành phố Turin tĩnh lặng quí phái, tôi lại gặp một thành phố Đức bé nhỏ: bản năng tôi bắt tôi phải ngăn rào tự thủ xô đẩy mọi sự ào tới tấn công do cái thế giới ma sát, nhạt nhẽo, hèn nhát. Hoặc là tôi gặp một thành phố lớn Đức – cái thứ dâm uế được xây dựng bằng đá mà không có gì có thể mọc lên được mà tất cả mọi sự, tốt hoặc xấu, đều loại nhập cảng. Có phải điều này đã bức ép tôi phải trở thành một con nhím?
Song
có lông nhím quả là phung phí, khi mình có thể chọn lựa việc không có lông nhím
mà được hai bàn tay mở rộng ra thì đó là một xa xỉ gấp đôi.
Xin
cho một lời khuyên dè dặt khôn ngoan tự vệ nữa: hãy phản ứng lại càng ít càng
tốt, và tránh hết những hoàn cảnh và những mối tương hệ khả dĩ đày đọa mình
phải treo ngưng niềm "tự do" của mình và sự sáng kiến của mình để chỉ
trở thành một thứ phản ứng, chỉ phản ứng thôi (Eine andre Klugheit und
Selbstverteidigung besteht darin dass man so selten als möglich reagiert und,
dass man sich Lagen und Beziehungen entzieht wo man verurteilt waere, seine
"Freiheit", seine Initiative gleichsam auszuhängen und ein blosses
Reagens zu werden). Xin trưng dẫn thí dụ về việc liên hệ với sách vở. Ngày nay,
những vị học giả chẳng làm ra gì ngay từ căn bản, chỉ dở sách, bao nhiêu quyển
sách - chẳng hạn những nhà ngôn ngữ học cỡ hạng trung bình, cũng dở đến hai
trăm quyển mỗi ngày – đáo cùng rồi phải đánh mất hết mọi khả năng suy tư độc
đáo, tự mình suy nghĩ sự việc cho mình (verliert zuletzt ganz und gar das Vermoegen,
von sich aus zu denken). Khi họ không mó sách thì họ không suy nghĩ gì ráo
(Waelzt er nicht, so denkt er nicht). Mỗi khi họ suy nghĩ họ chỉ ứng đáp lại
một kích thích tố, một tư tưởng mà họ đã học (Er antwotet auf einen Reiz (einen
gelesenen Gedanken), wenn er denkt ) – sau cùng rồi, họ chẳng làm gì ra hồn cả,
ngoài ra cái việc phản ứng lại thôi (er reagiert zuletzt bloss noch). Những nhà
học giả tiêu phí hết mọi tinh lực họ để nói ừ và không, để phê bình chỉ trích
những gì người khác đã nghĩ – chính họ, họ không còn suy nghĩ gì nữa (Der
Gelehrte gibt seine ganz Kraft im Ja–und Neinsagen, in der Kritik von bereits
Gedachtem ab - er selber denkt nicht mehr…).
Bản
năng tự vệ đã trở thành mòn lụn trong họ rồi; nếu không thế thì họ phải chống
lại những quyển sách. Hạng học giả - một hạng sa đọa (Der Instinkt der
Selbstverteidigung ist bei ihm mürbe geworden; im anderen Falle würde er sich
gegen Bücher wehren). Tôi đã trông thấy tận mắt: những kẻ có những bản chất
thông minh thiên bẩm, rộng lòng, tự do, khoảng ba mươi tuổi mà đời đã tan hoang
vì đọc sách – họ chỉ là những cây diêm quẹt mà mình cần phải đánh lửa thì lửa
mới toé ra được – "những tư tưởng" đấy mà. (Das habe ich mit Augen
gesehn: begabte, reich und frei angelegte Naturen schon in den dreissiger
Jahren "zuschanden gelesen", bloss noch Streichhölzer, die man reiben
muss, damit sie Funken – "Gedanken" geben).
Sáng
sớm tinh mơ, lúc bình minh bùng vỡ, khi tất cả mọi sự đều tươi mát, nằm trong
triều dương của sức mạnh mình, - thế mà đi đọc một quyển sách trong lúc như vậy
thì đó chỉ là tồi bại quá đi thôi (Frühmorgens beim Anbruch des Tags, in aller
Frische, in der Morgenröte seiner Kraft, ein Buch lesen – das nenne ich
lasterhaft!...)
IX.
Nơi
điểm này câu trả lời thực sự cho câu hỏi, làm thế nào mình trở thành chính mình
(wie man wird, was man ist), chúng ta không thể nào tránh được câu trả lời này.
Và như vậy tôi đụng vào kiệt tác của ngón nghệ thuật nội thủ tự thân – của tính
ích kỷ (und damit berühre ich das Meisterstück in der Kunst der Selbsterhaltung
– der Selbst – sucht…)
Vì
chúng ta hãy thử cho rằng sứ mạng, định phận của sứ mạng vượt qua mức bình
thường quá độ: trong trường hợp này, không có gì có thể nguy hiểm hơn là bắt
gặp tự thân mình với sứ mạng này (…so würde keine Gefahr groesser sein, als
sich selbst mit dieser Aufgabe zu Gesicht zu bekommen). Trở thành chính mình
thì mình không nên có ý niệm gì hết về bản tính mình (Dass man wird, was man
ist, setzt voraus, dass man nicht im entferntesten ahnt, was man ist). Đứng từ
quan điểm này ngay cả những lỗi lầm của đời sống cũng có ý nghĩa riêng và giá
trị riêng của nó (Aus diesem Gesichtspunkte haben selbst die Fehlgriffe des Lebens
ihren eignen Sinn und Wert) - những con đường quanh nhất thời, những con đường
lộn, những trì hoãn, "những sự khiêm tốn", tinh thần trang trọng
nghiêm nghị hoang phí với những bổn phận xa rời hẳn sứ mạng chính yếu (die
zeitweiligen Nebenwege und Abwege, die Verzögerungen, die
"Bescheidenheiten", der Ernst, auf Aufgaben verschwendet, die jenseits
der Aufgabe liegen). Tất cả những điều này đều có thể phát biểu một sự dè dặt
vĩ đại, cả sự dè dặt tối cao: ở đây nosce te ipsum (tự tri) quả là phương cách
để xuống dốc (Untergang) tự quên, tự ngộ nhận, tự biến mình trở nên nhỏ nhoi
hơn, hẹp hòi hơn, tầm thường hơn, trở thành chính lý trí (wird Sich-Vergessen,
Sich- Missverstehn, Sich-Verkleinern, -Verengern, -Vermittelmässigen zur
Vernunft selber). Nói theo điệu luân lý: tình thương lân cận, sống vì người
khác, và những sự việc khác có thể là một cách che chở gìn giữ mối ưu tư tự
thân cứng rắn nhất. Trường hợp ở đây ngoại lệ, đi ngược lại thói quen và sở
kiến của tôi, tôi lại đứng về phe của những mối xung động có tính cách "vô
vị kỷ": ở đây chúng phụng sự cho lòng tự luyến, tự kỷ (Selbstsucht, Selbstzucht).
Trọn
vẹn bề mặt của ý thức – ý thức là một bề mặt (Bewusstsein ist eine Oberflaeche)
– phải được giữ khỏi hẳn tất cả mọi mệnh lệnh vĩ đại! (Vorsicht selbst vor
jedem grossen Worte, jeder grossen Attituede!) Hãy đề phòng mọi lời nói vĩ đại,
mọi dáng điệu vĩ đại! Ồ bao nhiêu là nguy cơ hiểm họa khi mà bản năng lại
"tự hiểu" quá sớm – trong khi đó "ý tưởng" điều hợp định
phận để thống trị lại tiếp tục nảy nở phát triển sâu thẳm tận ở dưới – nó bắt
đầu chỉ huy, dần dần chầm chậm nó dẫn chứng chúng ta trở về lại từ những con
đường quanh, những nẻo lộn; nó chuẩn bị những phẩm tính và những khả năng ứng
nhịp độc điệu để một ngày kia sẽ tỏ ra cần thiết như một phương tiện để hướng
tới một toàn thể - lần lượt nó tôi luyện tất cả mọi khả năng phụng sự trước khi
phơi bày gợi ý về sứ mạng chủ động "mục đích", "tiêu đích"
hoặc "ý nghĩa" (bevor sie irgend etwas von der dominierenen Aufgabe,
von "Ziel", "Zweck", "Sinn" verlauten
laesst).
Được
nhìn theo điệu này thì cuộc đời tôi quả là tuyệt vời.
Đối với sứ
mạng làm một cuộc đảo giá mọi giá trị (Zur Aufgabe einer Umwertung der Werte)
thì cần có nhiều khả năng thấy được trong một cá thể đơn độc, - trước hết, ngay
cả những khả năng đối nghịch cũng được
giữ cho khỏi quấy rầy, tàn phá tiêu diệt lẫn nhau. Một sự trật tự về phẩm hạng
trong những khả năng này; một khoảng cách mà không phải va chạm đối nghịch lẫn
nhau; không trộn lẫn, không "giải hoà" cái gì cả; một đa dạng tính vĩ
đại mà vẫn là sự đối nghịch với lại sự hỗn mang – đây là điều kiện tiên khởi, động
tác bí mật lâu dài và ngón diệu thuật của bản năng tôi (Rangordnung der
Vermoegen; Distanz Kunst zu trennen, ohne zu verfeinden; nichts vermischen,
nichts "versoehnen"; eine ungeheure Vielheit, die trotzdem das
Gegenstueck des Chaos ist, die war die Vorbedingung, die lange geheime Arbeit
und Kuenstlerschaft meines Instinkts). Sự bảo tồn tối cao của nó đã được tự thể
hiện tới cao độ đến nỗi tôi không bao giờ ngờ được những gì đã sinh sôi nảy nở
trong tôi – và thế rồi một hôm tất cả những khả năng của tôi, đột nhiên chín
vàng, vụt phóng nhảy ra trong sự vẹn toàn tối thượng của chúng (dass alle meine
Faehigkeiten ploetzllich reif, in ihrer letzten Vollkommenheit eines Tags
hervorsprangen). Tôi không thể nhớ được rằng tôi đã từng cố gắng nhọc nhằn bao
giờ cả (Es fehlt in meiner Erinnerung, dass ich mich je bemueht haette) – không
có dấu vết cầm cự, tranh đấu, gắng sức nào có thể lộ nét trong tôi (es ist kein
Zug von Ringen in meinem Leben nachweisbar); tôi là sự đối nghịch lại thứ bản
tính anh hùng (ich bin der Gegensatz einer heroischen Natur). "Muốn"
một cái gì đó, "cố sức" để được cái gì đó, một "ý muốn" nào
đó – tôi hoàn toàn chẳng có kinh nghiệm nào cả về thứ này (Etwas
"wollen", nach etwas "streben", einen "Zweck",
einen "Wunsch" im Auge haben – das kenne ich alles nicht aus
Erfahrung). Ngay chính giây phút này, tôi vẫn nhìn về tương lai tôi – một tương
lai thênh thang! – như nhìn về trùng khơi im lặng: không có một dợn sóng dục
vọng (Noch in diesem Augenblick sehe ich auf meine Zukunft – eine weite
Zukunft! – wie auf ein glattes Meer hinaus: kein Verlangen kraeuselt sich auf
ihm) Tôi hoàn toàn không muốn bất cứ cái gì phải xảy ra khác đi hiện trạng của
nó, chính tôi, tôi cũng không muốn trở lên khác đi (Ich will nicht im
geringsten, dass etwas andres wird als es ist; ich selber will nicht anders
werden…).
Đấy
tôi vẫn luôn sống như thế đấy. Tôi không có những ước muốn nào cả (Ich habe
keinen Wunsch gehabt). Một người bốn mươi bốn tuổi mà còn có thể nói rằng không
bao giờ đeo đuổi danh vọng, đàn bà và tiền bạc! (Jemand, der nach seinem
vierundvierzigsten Jahre sagen kann, dass er sich nie um Ehren um Weiber, um
Geld bemueht hat!)
Như
vậy đấy, thế rồi một hôm, chẳng hạn, tôi lại thấy mình là giáo sư đại học – cái
ý tưởng ấy không hề thoáng qua trí tôi, vì lúc ấy tôi chưa đầy hai mươi bốn
tuổi. Thế rồi hai năm trước ấy, một hôm, tôi bỗng thấy mình là một nhà bác ngữ
học – tôi muốn đề cập tới bài luận đầu tiên về bác ngữ học, bước đầu của tôi
trong mọi ý nghĩa, được thầy tôi cụ Ritschl, yêu cầu cho đăng trong tờ Rheinisches
Museum của ông. (Tôi xin nói với tất cả trang trọng tôn kính, cụ Ritschl là học
giả duy nhất có thiên tài mà tôi được gặp cho đến nay. Cụ có đặc tính suy đồi
khả ái nói lên sự đặc thù của người vùng Thueringen và làm cho cả người Đức có
vẻ gợi cảm: ngay cả việc đạt tới chân lý thì chúng ta vẫn thích trọn những con
đường lén, kín, lẩn lút (wir ziehn selbst, um zur Wahrheit zu gelangen, noch
die Schleichwege vor). Những lời lẽ này tôi không có ý định hạ thấp kẻ đồng
hương của tôi, ông Leopold von Ranke, kẻ tinh khôn…).
X.
Người
ta sẽ hỏi tôi tại sao tôi lại kể lể dài dòng tất cả những việc nhỏ bé này,
những điều thường được coi như những vấn đề không ăn nhập gì vào đâu cả: tôi
chỉ làm phương hại mình thôi, càng hại hơn nữa nếu tôi được sinh ra để biểu
hiện những sứ mạng vĩ đại. Xin trả lời: những việc bé nhỏ này – thức ăn, nơi
chốn, khí hậu, sự giải trí, trọn vẹn ngón quỉ biện về tính ích kỷ - thực ra
quan trọng gấp trăm ngàn lần tất cả mọi sự mà người đời thường cho là quan
trọng. Chính nơi điểm này mình bắt đầu phải học lại. Những gì nhân loại từ
trước tới giờ thường cho là nghiêm trọng thực ra không phải là những thực tại
mà chỉ là những vọng tưởng (Hier gerade muss man anfangen, umzulernen. Das, was
die Menschheit bisher ernsthaft erwogen hat, sind nicht einmal Realitaeten,
blosse Einbildungen) nói cho nghiêm mật hơn, đó là những sự láo khoét mà những
bản năng xấu bệnh hoạn đã gợi tạo ra, chúng quả là tai hại hết sức – tất cả
nhưng ý niệm như "Thượng đế" "linh hồn" "đức hạnh"
"cõi trên" "chân lý" "đời sống vĩnh cửu" – thế mà
sự vĩ đại của bản tính con người, tinh cách "thần thánh"của bản tính
ấy. Tất cả những vấn đề chính trị, của tổ chức xã hội và của giáo dục lại bị
xuyên tạc trọn vẹn chỉ vì người ta đã nhìn sai coi trọng những người tai hại
nhất như những vĩ nhân – vì người ta chỉ quen học khinh bỉ những sự việc
"bé nhỏ" tức là những mối bận tâm căn bản của chính đời sống (Alle
Fragen der Politik, der Gesellschafts-Ordnung, der Erziehung sind dadurch bis
in Grund und Boden gefaelscht, dass man die schaedlichsten Menschen für grosse
Menschen nahm – dass man die "kleinen" Dinge, will sagen die
Grundangelegenheiten des Lebens selber, verachten lehrte…).
Khi
tôi so sánh với những hạng người thường được thiên hạ trọng vọng như những
người đệ nhất thì sự sai biệt quả rõ ràng. Tôi không hề xem những kẻ gọi là
"đệ nhất" này thuộc vào loài người nữa: đối với tôi họ chỉ là phế vật
vô dụng cặn bã của nhân loại, những quái vật bệnh hoạn, những bản năng thích
trả thù; họ vô nhân đạo, tàn phá tai hại, vô phương cứu chữa ngay tận đáy, tự
trả hận thù lên trên đời sống.
Tôi
muốn đối nghịch hẳn với họ: ưu thế của tôi là có được tính nhạy cảm tế nhị nhất
đối với tất cả dấu hiệu phô bày những bản năng lành mạnh. Không có vết bệnh
hoạn nào trong người tôi; ngay cả những thời kỳ đau bệnh nặng nề tôi vẫn không
bao giờ trở nên có tâm hồn bệnh hoạn; không ai có thể tìm ra được nét cuồng tín
nào trong tính tình tôi. Không có một giây phút nào trong đời sống tôi mà người
ta có thể chỉ cho tôi thấy rằng tôi làm dáng kênh kiệu kệch cỡm. Cái thứ làm
dáng, làm điệu cải lương không thuộc vào tính chất cao cả; bất cứ kẻ nào thấy
cần làm dáng thì đều giả nguỵ. Hãy đề phòng với tất cả mọi hạng người mỹ lệ!
(Man wird mir aus keinem Augenblick meines Lebens irgendeine anmaassliche und
pathetische Haltung nachweisen koennen. Das Pathos der Attituede gehoert nicht
zur groesse; wer Attituenden überhaupt noetig hat, ist falsch… Vorsicht vor
allen pittoresken Menschen!)
Đối
với tôi, cuộc đời rất dễ sống – dễ sống nhất cả những lúc nó đòi hỏi những yêu
sách gian nan nhất. Trong bảy mươi ngày mùa thu năm nay, liên tục không ngừng
nghỉ, tôi đã làm một số việc thượng đẳng mà không ai làm nổi như vậy sau tôi –
hoặc ép buộc tôi phải làm – với một trách nhiệm nặng nề cho tất cả những thế kỷ
sau tôi, bất cứ kẻ nào gặp tôi trong những ngày ấy không hề nhận thấy bất cứ
dấu vết căng thẳng nào trong tôi, mà chỉ thấy một sự tươi mát vui tươi tràn
trề. Tôi chưa bao giờ ăn uống ngon như vậy, chưa bao giờ ngủ ngon như
vậy.
Tôi
không biết phương cách nào khác để đối trị với những sứ mệnh vĩ đại ngoài ra sự
đùa chơi (Ich kenne keine andre Art, mit grossen Aufgaben zu verkehren als das
SPIEL): như một dấu hiệu của sự vĩ đại cao cả, đây là điều tiền lập chính yếu
(dies ist, als Anzeichen der Groesse, eine wesentliche Voraussetzung). Chỉ có
mảy may bức bách căng thẳng xung động tâm thức, một nét mặt thê thảm u sầu hoặc
một giọng nói gay gắt khăng khăng nơi cổ họng cũng đều là những điều phản đối
lại một con người, huống chi là đối với tác phẩm của hắn! – Mình không nên để
cho động thần kinh. Đau đớn vì cô độc cũng là một sự phản đối nữa. Tôi chỉ đau
đớn vì "đám đông" thôi (Der geringste Zwang, die duestre Miene,
irgendein harter Ton im Halse sind alles Einwaendegegen einen Menschen, um
wieviel mehr gegen sein Werke!… Man darf keine Nerven haben… Auch an der
Einsamkeit leiden ist Einwand – ich habe immer nur an der
"Vielsamkeit" gelitten).
Ngay
từ quá bé nhỏ non dại, lúc bảy tuổi, tôi cũng thừa biết rõ rằng không có lời
nói nào của con người có thể lọt vào đôi tai được: có ai thấy tôi từng đau buồn
về việc ấy không? (In einer absurd fruenhen Zeit, mit sieben Jahren, wusste ich
bereits, dass mich nie ein menschliches Wort erreichen würde: hat man mich je
darüber betruebt gesehn?).
Cho
mãi đến hôm nay tôi vẫn giữ hoà khí đồng đều với tất cả mọi người; ngay cả đối
với hạng người thấp hèn nhất, tôi cũng đối đãi với họ đầy kính cẩn đặc biệt:
trong cả mọi trường hợp này hoàn toàn không có một tí vênh váo nào hoặc khinh
khỉnh kín đáo cả. Nếu tôi khinh bỉ một người nào thì hắn đoán biết rằng tôi
khinh bỉ hắn: chỉ có sự hiện hữu của tôi thôi cũng đủ để tôi lăng nhục tất cả
mọi sự có máu xấu trong mạch máu chúng.
Phương
trình cho sự vĩ đại cao cả trong một con người là AMOR FATI (Yêu Thương Định
Phận): rằng mình không muốn cái gì đổi khác đi cả, ở đằng trước, đằng sau, và
cả thiên thu vạn đại. Chẳng những chịu đựng những gì cần thiết tất yếu, mà lại
còn không giấu giếm chúng – tất cả chữ nghĩa tinh thần lý tưởng đều là láo
khoét giả dối đối diện với những gì tất yếu, cần thiết – chẳng những chịu đựng
thôi mà còn yêu thương những gì cần thiết, tất mệnh (Meine Formel für die
Groesse am Menschen ist amor fati: dass man nichts anders haben will, vorwaerts
nicht, rueckwaerts nicht, in alle Ewigkeit nicht. Das Notwendige nicht bloss
ertragen, noch weniger verhehlen – alle Idealismus ist Vorlogenheit vor dem
Notwendigen –, sondern es lieben…)
-------------
Chú ý!
Quyển Ecce Homo của Nietzsche gồm có 4
chương, tôi chỉ dịch và cho xuất bản trước 2 chương đầu, còn 2 chương cuối thì
xin bỏ lửng, vì những lý do sau đây:
1. Lý do kỹ thuật (nhà in đã mất gần nửa
năm để in 2 chương đầu, vì dịch giả bị bệnh liên miên, bệnh tưởng tượng)
2. Lý do kiểm duyệt (ban kiểm duyệt nhà
nước có đầu óc "rộng rộng" một chút thì chỉ cho phép xuất bản 2
chương đầu là nhiều)
3. Lý do tôn giáo (hai chương sau,
Nietzsche đã tàn phá Thiên Chúa Giáo một cách quyết liệt nhất; trong hoàn cảnh
Việt Nam hiện nay, người ta thường tặng cho nhau những ly nước đường thực ngọt,
nhất là giữa hai tôn giáo lớn. Nếu có ai chìa ra ly thuốc đắng thì kẻ ấy sẽ bị
hành hình như Socrate, kẻ bị kết án "phá hoại những thần thánh cũ và phun
nọc độc cho thanh niên"!)
4. Lý do nội dung (hai chương sau chỉ có ý
nghĩa thực sự là khi nào người ta đủ sức chịu đựng hai chương đầu và hiểu được
Nietzsche là một thứ sấm sét chẻ đôi trái đất)
P.C.T
Sài Gòn ngày 14.IV.1970
-------------
PHỤ LỤC TÔI LÀ AI?
Làm
thế nào trở thành chính mình?
Viết
để dội ngược lại với Ecce Homo của Nietzsche.
"Như
ngôi sao, như hoa mắt, như ngọn đèn, như huyễn thuật, như giọt sương, như bong
bóng, như giấc mộng, như tia chớp, như làn mây, những gì bị tạo tác trở thành
đều phải được nhìn thấy như thế".
(Bài
kệ của Kinh Sấm Chẻ)
Lời
mở đầu
…Những
gì quan trọng nhất của tôi thường nằm ở phần gọi là Phụ lục. Khi tôi dịch
Krishnamurti, kẻ nào tinh ranh sẽ thấy rằng gần 700 trang của quyển Tự do đầu
tiên và cuối cùng chỉ có non 20 trang cuối cùng (tái bút và cảm tạ) do chính
tôi viết mới là phần quan trọng nhất của toàn thể quyển sách: những gì
Krishnamurti nói gần 700 trang ở trước chỉ là một thứ nhạc đệm cho 20 trang
cuối cùng, chỉ những gì tôi nói về Krishnamurti mới quan trọng, còn những gì do
Krishnamurti nói chỉ quan trọng cho chính Krishnamurti. Đối với quyển Về thể
tính của chân lý (bản dịch quyển Vom Wesen der Wahrheit của Heidegger) cũng
thế, non 30 trang do tôi viết giới thiệu ở đầu bản dịch có ý nghĩa gấp trăm lần
hơn chính bản dịch (và bản dịch lại quan trọng hơn nguyên tác, những lầm lẫn
của bản dịch là những bước lang thang cố ý trong tinh thần giao tranh với
Heidegger qua chính ý thức của Heidegger trong tập Vom Wesen der Wahrheit:
"Lầm lạc là nghịch thể tính chính yếu, das wesentlich Gegenwesen, của thể
tính uyên nguyên của chân lý. Nó khai mở ra tấn kịch hiển hiện cho tất cả sự
vận hành nghịch lưu, Widerspiel, với chân lý nguyên tính, Die Irre ist das
wesentliche Gegenwesen zum anfaenglichen Wesen der Wahrheit. Die Irre oeffnet
sich als das Offene für jegliches Widerspiel zur wesentlichen Wahrheit".
(Xin đọc quyển Về thể tính của chân lý, Hoàng Đông Phương xuất bản, 1968, trang
83-84). Bản dịch chữ Việt: "Triết lý là gì?" (tức tập Was ist das -
die Philosophie? của Heidegger) cũng là một cách giao tranh với Heidegger:
tiếng nói Việt Nam đã nhảy lên đầu tiếng Đức, đưa tư tưởng Heidegger đối đầu
với lời chú giải của Khổng Tử về hào Cửu Ngũ của quẻ Kiều trong Kinh Dịch:
"Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thuỷ lưu thấp, hoả tựu táo, vân
tùng tong, phong tùng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ, bản hồ thiên giả thân
thượng, bản hồ địa giả thân hạ, tắc các tùng kỳ loại dã". Có mấy người
hiểu tôi muốn làm gì? Chỉ toàn một lũ lưu manh ranh con chờ chực để ăn mày lửa
của tôi?
Bây
giờ dịch quyển Ecce Homo của Nietzsche ở đây, tôi lại viết thêm Phụ lục ở đây.
Chính phần Phụ lục này mới đáng là phần chính của quyển này. Nietzsche đã dạy
tôi những gì? Một chút thiên đàng? Một chút hoả ngục? Một chút lạnh lùng? Một
chút khí lạnh trên cao? Nietzsche không dạy cho tôi gì cả. Đó là bài học lớn
nhất của một người gửi một người.
Sài
Gòn ngày 14.IV.1970
-------------
T.B. Tôi xin tặng phần Phụ lục này cho thi sĩ Huy
Tưởng, người đã cung cấp giấy trắng cho tôi viết. Như thế cũng đã nói
nhiều?
…Nhìn
tới, nhìn lui, thấy toàn một vườn hồ đào trải dài suốt một đời người. Cụm tòng
khuấy động những bóng thân mật của tuổi thơ; tuổi trẻ loé lên như một nhát búa
đập vào đá, như tiếng sấm chẻ đôi.
Trời
tháng Tư Việt Nam thổi nhẹ những luồng gió kín đáo, đã gần hai mươi chín tuổi.
Vào tuổi này, Novalis đã chết rồi; Keats đã chết lúc vào lúc hai mươi sáu tuổi.
Và Sandor Petofi, và Raymond Radiguet và cả James Dean, thần tượng một thời,
nạn nhân của thời trang, nhưng chủ nhân của vĩnh cửu với cái chết lúc vừa hai
mươi bốn tuổi: ai còn nhớ lại điếu thuốc của James Dean một buổi chiều cháy ướt
dưới mưa?
Khói
thuốc kia đã bay vào phòng buổi sáng này. Nhìn tới, nhìn lui, chỉ đầy chiêm bao
mộng mị.
O saisons, ô chateaux,
Quelle âme est sans défauts?
Nhưng
tôi có hề gì? Bắt chước Nietzsche, tôi muốn nói: "Tôi là cái quái
gì?". Tôi có là tôi hay tôi không có là tôi thì khói thuốc vẫn bay vào
phòng này sáng nay. Hai mươi chín năm có mặt ở nơi này để vui, để buồn, ca,
khóc, đi lên và đi xuống. Khi vừa bắt đầu biết sống thì cuộc đời đã kiệt quệ.
Nhưng biết sống là thế nào? Sự vĩ đại của đời tôi là không bao giờ biết sống
cho đàng hoàng; sự quí phái của đời tôi là không bao giờ tìm ra mình, không bao
giờ biết mình là ai và không bao giờ biết mình muốn gì, mặc dù tôi vẫn nói về
tôi, nói mãi về tôi, tôi, tôi của chiêm bao và tôi của đôi mắt nhắm lại, tôi
của địa ngục và của tình yêu, từ lâu đài này đến lâu đài khác, d’un château à
l’autre…
Tại sao tôi ngang tàng như thế?
"Như mộng hoạn bào ảnh"
1.
Điều
đầu tiên: không muốn được người ta hiểu mình. Kẻ lăng nhục mình nhất là người
tự nhận hiểu mình. Mong người khác hiểu mình là căn bệnh trầm trọng của kẻ đi
xuống. Ảo tưởng đáng tởm nhất: đi tìm xem mình là ai. Chỉ có những người ngu
xuẩn mới hỏi: Tôi là ai?
Tiếp
theo là sự sa đọa lớn lao khác của những kẻ vênh vênh tự la lớn rằng: tôi không
là gì cả. Và họ hãnh diện với câu nói, rồi chết với một cái gì chưa kịp hiện
trên đôi mắt con cá.
Làm
thế nào để trở thành mình?
Goethe,
Nietsche và Kierkegaard đều hỏi như thế: ba tên cá thể cuối cùng. Làm thế nào
đi nữa thì cũng là thế; khi hiểu được như vậy thì yêu thương định phận của
mình, amor fati. Sự yêu thương đã chính là định phận.
Tôi
không bao giờ biết yêu thương tôi, tôi không bao giờ tự hỏi: làm thế nào để trở
thành mình? Tôi đã trở thành. Mọi sự đều di động. Làm thế nào để trở thành sự
chết? Câu hỏi vô nghĩa như cái chết. Tự tri, tự hiểu mình, tự biết mình: sự sa
lầy của chính Socrate và Krishnamurti. Hiểu người khác, biết cái khác: nhận ra
tôi ở nơi người khác: Hemingway tự tử và Hegel tự diệt qua sự nên ngôi của một
vài cái tựa (Vorrede) và một vài chương cuối của quyển Phaenomenologie des
Geites và Wissenschaft der Logik.
2.
Tôi
là thế này, thế này: hậu quả của câu hỏi Tôi là ai?
Tưởng
mình đạt đạo, tưởng mình sinh ra để đòi làm anh hùng dân tộc, để cứu tinh nhân
loại, làm đạo sư, làm thầy thiên hạ: ngu xuẩn không thể chịu đựng nổi. Đi bênh
vực cho kẻ yếu, tranh đấu cho sự thật: sự láo khoét cuối cùng của bộ óc hư
hỏng. "Dấn thân": con nít.
Tự
nhận mình là thiên tài: trẻ con. Còn kẻ tự nhận rằng mình không thích làm thiên
tài thì lưu manh không thể chịu đựng nổi.
Luôn
luôn trang nghiêm, đứng đắn, khả kính, chỉ lên tiếng lúc cần lên tiếng, chỉ có
mặt lúc cần có mặt, chỉ viết những gì cần viết: đó là "thích làm
dáng" mà lại nói kẻ khác "làm dáng".
Bọn
"làm văn nghệ" ở Việt Nam thích viết những dòng chữ như "nghĩ
về…", "hiện tượng", "sinh hoạt…", "ý thức tiến
bộ", vân vân. Bọn chúng viết văn rất tự mãn hay bất mãn một cách có tổ
chức, luôn sẵn sàng phê bình, nhận xét, kiểm điểm, chỉ định, phản ứng kịp thời,
cái lũ ranh con làm phê bình gia đầy rẫy trong những tạp chí như Khởi hành,
Bách khoa, Văn học, vân vân, mà kiến thức được giới hạn bởi nhà sách Việt Bằng
và Xuân Thu. Trong tay chúng luôn có những tờ Express, Figaro littéraire và
Nuovelles littéraires, thỉnh thoảng dở những tập Critique, Les lettres
nouvelles, La Table Ronde, Esprit và Planète… Samuel Beckett vừa mới bị trúng
giải Noel thì chúng đã viết bài sẵn sàng tán dương, một cách vội vã hợp thời,
như cổng chuồng vừa mở thì mấy con heo vụt chạy ra và ăn cám.
Đó
là hạng thanh niên trí thức mới, luôn luôn ăn những thứ cám mang tên là
"cơ cấu luận", "hiện tượng luận", "tiểu thuyết
mới", "phê bình và chống phê bình", "Jean-Paul-Sartre và
Roger Caillois", vân vân. Họ thường ngồi ở Pagode, vừa mới tốt nghiệp
triết học ở đại học Đà Lạt hoặc ở đại học văn khoa Sài Gòn, thích uống cà phê
bỏ đường nhiều và hút bastos xanh, viết một câu chữ Pháp chưa nên thân mà hay
bi bô một tràng Pháp văn rất littéraire, rất thông thạo về "sinh hoạt hiện
tình văn nghệ miền Nam" hay lên giọng bao dung lễ độ một cách hài hước.
Chốc chốc họ lại làm điệu Lão Tử: "tôi không đọc sách gì hết". Đó là
cái hạng thanh niên khoảng chừng hai mươi đến 35 hoặc 36-37 tuổi. Còn hạng bốn
mươi trở lên thích nói đến Nguyễn Du và dân tộc tính, hạng này có kinh nghiệm
với mác-xít và rất lấy làm vênh vênh tự mãn khi vung tay chối bỏ quá khứ hoặc
để cho khỏi mang danh "phản động" thì cũng xìa ra đôi lý luận rất
quốc hồn, quốc túy, rất xã hội, cộng đồng, quần chúng tiến bộ.
Còn
hạng thanh niên loai choai từ 16 tuổi cho đến 25 tuổi thì đều tưởng là
"thiên tài độc nhất của nhân loại". Cái gì cũng thích chửi rủa, đập
phá; cái gì cũng tự nhận là số một, rất sung sướng khi được bạn bè gọi là
"nghệ sĩ", "thằng sống bất cần đời", "ngang tàng oanh
liệt". Họ sung sướng tự nhận là "đồ đệ của Phạm Công Thiện"!
Nhưng tôi muốn hỏi các ngài: các ngài có đủ sức chịu đựng sự lố bịch của các
ngài không? Tôi báo cho các ngài biết: càng cố gắng tỏ ra lố bịch, bất cần đời
thì các ngài càng sợ lố bịch và rất cần đời. Đây là một lời nói lố bịch nhất mà
tôi muốn tặng cho các ngài:
"Xin các ngài đứng ngó ra ngoài!"
3.
Có
một hạng công chức về hưu hay đọc Krishnamurti, Thiền tông, Đạo Đức kinh và Nam
Hoa kinh. Họ ăn nói như là những cụ đạo sĩ đắc đạo. Ngồi nghe họ nói chuyện một
giây thôi, tôi cũng đủ hộc máu mà chết. Họ thường nói như con gà trống: đừng đi
tìm gì cả, đừng chấp gì cả, Phật hay Chúa gì cũng ở tại tâm, đời sống rất giản
dị, không có vấn đề gì cả.
Họ
thích nói chữ "chấp". Tôi nghe đến chữ ấy thì muốn bạo động và đạp
cho họ một đạp cho rơi xuống hố. "Kẻ nào ngã té thì xô cho nó té
luôn" (Nietzsche nói thế ?)
4.
Còn
cái hạng thanh niên trí thức anh hùng thì thích nói đến Nietzche, cái gì cũng
Nietzche và Rimbaud! Lén lọt được vào phòng họ thì mình đã thấy họ treo hoặc
dán hình Nietzche ngay tường. Rồi lại Beethoven! Khi nhìn thấy họ ngồi nghe
nhạc Beethoven và thấy họ vung tay đánh nhịp "một cách đã đời" thì
mình phải mở cửa vào phòng WC gấp.
"Phải cứng rắn, phải đau đớn, tàn bạo, vượt lên mọi tầm thường,
vượt lên mọi nhảm nhí", họ thích nghĩ và họ thích nói như vậy.
Họ
lại cũng nói rất tài về Henry Miller, Dostoievsky, vân vân. Và mỗi khi đọc
những tác giả ấy, họ lấy thước gạch thật ngay, thật thẳng dưới những hàng chữ.
Và nếu có viết bài đăng báo nào thì những hàng chú thích dưới trang luôn luôn
ghi rõ tên sách, tên nhà xuất bản, chỗ và năm xuất bản, số trang.
5.
Còn
cái hạng "làm cách mạng tiến bộ" thì lại hay dùng tính từ "tích
cực". Họ gọi Krishnamurti là "nhảm nhí", "không giải quyết
gì cả". Ồ, muốn giải quyết à ? Cứ đi vào nhà điếm!
Đối
với hạng người ấy, mình có thể gặp rất nhiều chữ sau đây: "thực tại",
"thực tế", "hoàn cảnh", "xã hội", "xây
dựng", "đi lên", "tập thể", "lý tưởng",
"ái quốc", "con người", "nhân bản", "giá
trị", "giải quyết", "thiết thực", "đích
thực", "hiện thực", vân vân.
6.
Rồi
lại có những tên "làm văn nghệ có ý thức" lại học đòi André Malraux.
Họ viết truyện ngắn, truyện dài đầy sự thức tỉnh, "làm lịch sử", đầy
cái không khí về chiều của quán rượu Paris cùng những ván cờ trầm ngâm trong
quán cà phê! Nhân vật của họ thích nói "Merde"! Lâu lâu lại có dẫn
thêm vài câu thơ chữ Pháp rất siêu thực. Rồi lại dẫn câu thơ của René
Char.
Họ
rất đăm chiêu nghệ thuật. Luôn luôn muốn có cái nhìn rất tỉnh thức và sáng suốt
lạnh lùng. Họ rất khôn ngoan, không dại dột hoà lẫn với bất cứ ai, không dại
dột để tên tuổi trộn lẫn ở một nơi nào bất ngờ. Cái tên của họ luôn luôn ở vào
nơi mong đợi, nơi nào họ có mặt là sự có mặt rất có mặt.
Đối
với họ, cái cà vạt là sự sỉ nhục cho sự đam mê nghệ thuật. Hay đôi lúc có thắt
cà vạt đi nữa thì dáng điệu của họ phải làm như có vẻ khó chịu, rất khó
chịu…
7.
Có
hạng người cái gì cũng chửi, cũng rạch ròi đến tim gan, cái gì cũng bị họ cho
là giả, không chân thành. Họ thích nói hai chữ "chân thành". Ở đâu có
bóng họ trờ tới thì phải có sự ồn ào to tiếng, có sự lăng mạ tục tĩu, ngông
nghênh một cách đáng thương hại. Họ thích phản bội, nói xấu bạn bè, nói xấu hết
cả mọi người. Chốc chốc, họ cũng tự nói xấu. Mà có tự nói xấu thì cũng để tỏ ra
chỉ có mình "chân thành" mà thôi.
8.
Tôi chỉ mới nói sơ sơ về con trai, còn con
gái thì khỏi nói và xin im lặng.
9.
Tất
cả những gì tôi nói về người khác cũng là tôi nói về tôi trong một mặt kinh
trám vôi trắng mỏng.
Tôi
có tất cả những gì mà tôi thấy ghét ở người khác.
Tại
sao tôi ngang tàng như thế?
Muốn thấy sự lố bịch của thiên hạ, mình phải lố bịch gấp trăm ngàn lần
họ!
10.
Trên bàn viết có một cái ly trắng, có những đoá bông trắng đang nở, bao
nhiêu lá xanh đang xanh. Gió thổi nhẹ và lay nhẹ bông và lá.
Thoát khỏi mọi hiềm thù, phẫn uất; thoát khỏi mọi sự trả thù kín đáo,
thoát khỏi mọi thù ghét. Thu nhận tất cả mọi phản hồi của ý thức và vô
thức.
Người nào tôi thù ghét nhất; người ấy chính là tôi.
Ngang tàng với mọi sự chỉ là bước đầu: lưỡi kiếm chặt vào nước!
Ngang tàng với sự trống rỗng mênh mông, vô hạn lồng lộng.
Hận
thù là muốn biến sự trống rỗng thành đá.
Những gì không hiểu thì cứ không hiểu: sức mạnh của sự thất bại.
Tự
nhiên: hai chữ khó hiểu nhất trong ngữ vựng con người.
Tại
sao tôi điên cuồng như thế?
"Như lộ diệc như điện"
1.
Người nào thích làm thiên tài thì hay thích điên cuồng. Vì có điên cuồng
thì mới có dáng thiên tài! Điên cuồng có cần thiết? Điên thì điên, không điên
thì không điên.
2.
Nhưng tất cả sự điên cuồng đều có sự xếp đặt, đều có sự tính toán kín
đáo của ngôn ngữ. Người không biết nói thì không bao giờ điên mà người điên thì
không bao giờ nói: lý luận quá ngây ngô.
3.
Tôi
thích Hegel hơn Nietzsche: sự tỉnh táo sáng suốt của Hegel là một con đê mạnh
mẽ trấn được nước thác cuồn cuộn của trí óc. Nietzsche chịu đựng không nổi và
đã vỡ nát: nhưng sự im lặng của Nietzsche trong mười năm cuối cùng dính nối lại
được sự tỉnh táo sáng suốt trọn đời của Hegel.
4.
Chỉ
có một sự điên cuồng duy nhất: không dám nói những gì tầm thường nhỏ mọn nhất
đang xuất hiện thường trực trong đầu mình.
5.
Không có người nào là không sợ chết, không có người nào là không thích
sướng, không có người nào là không muốn người khác nhận ra mình, không có người
nào là không thích nói chuyện mình cho người khác nghe, không có người nào là
không thù ghét người khác, không có người nào là không thích mình hơn thiên hạ,
không có người nào mà không ích kỷ, không có người nào mà không giả dối, không
có người nào mà không ham sống, không có người nào mà không thích người khác
kính nể mình, không có người nào mà không thích người ta nói tốt về mình, nghĩ
tốt về mình.
Có
người nào làm ngược lại những điều trên thì cũng y hệt như trên. Không có người
nào là không sợ hãi.
Như
vậy phải làm sao? Cứ tiếp tục, vì đã tiếp tục rồi. Cái gì là thế thì đã là thế
và sẽ như thế. Nước chảy vì đã chảy…
6.
Không thể khác sao? Biện chứng pháp của Hegel không thể là khác biện
chứng pháp Hegel. Vòng tròn đóng lại: sự điên cuồng giả dối biến thành con rắn
khôn ngoan thò lưỡi liếm đuôi.
7.
Có
một nhà tù tàn nhẫn khắc nghiệt hơn tất cả những nhà tù ở thế giới: đó là quyển
tự điển.
8.
Khi
còn trẻ có lần Hegel sắp điên; như G. Bataille nhận xét, Hegel đã quay lưng lại
sự điên cuồng và xây một hệ thống để trấn đê Nhị Hà. Hegel đã làm một thứ
"bách khoa tự điển". Nhà tù dễ sống hơn là cõi rộng thênh thang. Sự
vĩ đại của Hegel.
9.
Làm
thế nào để trở thành chính mình? Điên cuồng. Một ngôi sao nhảy múa, được khai
sinh từ sự hỗn mang, thì ngôi sao ấy cũng là một sự hỗn mang. Nietzsche đã biết
hết và phải đành chịu im lặng, sau khi đã nói quá nhiều, quá nhiều, quá
nhiều.
10.
Chưa nói mà đã im lặng, đó là tấn hài kịch của những kẻ tập sự hành nghề
đạo sĩ.
Tại
sao tôi điên cuồng như thế? Vì tôi đã nói quá nhiều? Hay vì tôi chưa nói và đã
vội muốn im lặng?
Tất
cả cuộc đời là giấc mộng và những giấc mộng là giấc mộng Toda la vida es sueno
y los suenos sueno (Pedro Calderon de la Barca)
Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng hoạn bào ảnh Như lộ diệc như điện ưng
tác như thị quán
Tàrakà timiram dìpo màyà-avasyàya budbudam supinam vidyud abhram ca evam
drastavyam samskrtam
------------
T.B. Bài kệ trên đáng lẽ phải được khắc trên bia
mộ của Nietzsche và Hegel.
Cảm
tạ
Tôi
xin chân thành cảm tạ Bà Giám đốc nhà in Đăng Quang đã giúp đỡ hết lòng về đủ
mọi phương tiện (nhất là phương diện tài chính) để cho tất cả những quyển sách
của nhà Phạm Hoàng được xuất bản trong những điều kiện khó khăn nhất. Không có
sự giúp đỡ tận tình của bà thì không có quyển sách nào của nhà xuất bản Phạm
Hoàng được ra đời cả. Chính bà đã tự bỏ vốn ra để in giùm cho, chẳng những thế,
bà lại còn bỏ tiền ra để giúp đỡ cho gia đình cha mẹ và bầy em nhỏ của tôi được
sống qua ngày tháng. Sự cảm tạ này có tính cách riêng tư, nhưng tôi xin lỗi độc
giả lượng thứ cho sự cảm tạ công khai này, vì trên đời này còn có cái gì tốt đẹp
thì chúng ta hãy làm cái ấy lan rộng ra để cho mọi người đều biết. Nếu một số
vị giám đốc nhà in ở Việt Nam làm được cử chỉ cao đẹp của bà giám đốc nhà in
Đăng Quang thì biết bao nhiêu anh em văn nghệ sĩ ở Việt Nam sẽ còn thấy rằng họ
không hẳn bị bỏ rơi trong xã hội này, rằng luôn luôn vẫn có những tâm hồn vô
danh sẵn sàng âm thầm giúp đỡ họ trong mọi mặt để cho họ còn sức để đứng vững,
để tiếp tục sáng tạo, tiếp tục phấn đấu trong hoàn cảnh đói, nghèo, khổ, đày
đoạ, khánh kiệt.
Một
người nghệ sĩ Việt Nam mà không chịu bán đứng bản thân, không chịu đánh điếm
ngòi bút mình, không chịu đi làm tôi đòi cho những thế lực, thì phải bị đày đọa
trong cảnh nghèo đói, khốn khổ, kiệt quệ. Nhưng giữa hoàn cảnh đen tối thất
vọng ấy, mà còn có tình người chiếu hiện thì mọi sự không hẳn là tuyệt vọng.
Chúng ta hãy tiếp tục đứng lên, bước tới và đấu tranh và sáng tạo cho một cái
gì lồng lộng còn rớt lại giữa cuộc đời này. Chúng ta hãy sáng tạo với đôi môi
run rẩy lời cảm tạ, cảm tạ một chút mặt trời trên cao, cảm tạ một chút lá xanh
còn lại, cảm tạ một ánh mắt nào đó của con người, một đốm lửa nào đó còn lại
trong đêm sâu.
Phạm Công Thiện
Sài
Gòn ngày 25 tháng Tư, năm 1970.
(Hết)
------------
VanDanViet
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 18/03/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
VanDanViet
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 18/03/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét