Home
» Lý luận phê bình
» Đọc “Lời Kinh 2” Thơ Trần Mai Ngân và “Kinh Thơ” của Quang Tuyết – Bài viết Châu Thạch (ĐN)
Đọc “Lời Kinh 2” Thơ Trần Mai Ngân và “Kinh Thơ” của Quang Tuyết – Bài viết Châu Thạch (ĐN)
Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019
Đọc hai
bài thơ “Lời Kinh 2” của
Trần Mai Ngân và “Kinh Thơ” của
Quang Tuyết, mỗi bài thơ mang một tâm sự khác nhau, môt phong cách khác nhau. Trần
Mai Ngân thì sâu nhiệm, trầm lắng những ẩn dụ trong chiều sâu tâm hồn, Quang
Tuyết thì trải bày tâm tư bằng những dòng thơ se lạnh như ngọn thu phong. Thế
nhưng cả hai bài thơ đều như rất gần nhau, như hai tiếng đàn mang cung
trầm cung bổng quyến luyến nhau làm đắm say lòng người. Tôi đã đắm say nó nên
tôi phải gióng lên tiếng trống, như tiếng trống chầu để tỏ lòng ngưỡng mô, tuy
biết rằng viết nhiều cho người đẹp đôi khi cũng ăn đá của đời.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
TẢN MẠN CỦA CHÂU THẠCH
Bên Kinh Thơ bên Lời Kinh
Hai nàng khiến tớ giật mình sợ thay
Thế nhưng đọc thật là hay
Tớ ngâm rượu ý chờ ngày lên men
Viết cho đã tánh bon chen
Của con dế mọn, dế hèn mơ cao!!!
--
BÀN
VỀ “LỜI KINH 2” CỦA TRẦN MAI NGÂN
---
LỜI KINH (2)
***
Trú trong kinh Bát Nhã
Lời xưa và dáng em
Chim bay về lối cũ
Đậu lại khóc bên thềm...
Mùa Xuân sao lại mưa
Cây Sầu Đông trổ muộn
Chiều xanh gầy dấu xưa
Thương nhớ sao cho vừa
Tiếng chuông hồi huyễn mộng
Gióng lên tình hư không
Mây bay trôi vô vọng
Tôi nhớ người xa xăm...
Ai cho tôi trần gian
Chôn những nỗi âm thầm
Lấp vùi gần trăm năm
Tim tôi sầu rướm máu
Ai cùng tôi nương náu
Những rã rời nay mai
Bới tìm hoài vô vọng
Nguyện cầu đừng nhạt phai...
Trần
Mai Ngân
23-9-2018
Bài
thơ có đầu đề là “Lời kinh” mà
nó chẳng tả gì về lời kinh. Vậy thì “Lời
Kinh” là lời kinh chỗ nào?. Một người như nhà thơ Trần Mai Ngân mà dám
viết lời kinh thì có kiêu ngạo quá chăng? Muốn biết có kiêu ngạo hay không ta
phải tìm hiểu bài thơ thì mới có kết luận.
Đọc
câu thơ đầu tiên tôi hoảng hốt: “Trú
trong kinh Bát Nhã”.Kinh Bát Nhã là gì?
“Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một bộ kinh
rất ngắn của Đại Thừa Phật giáo, có ý nghĩa rất thâm sâu, rất cơ bản, nhằm phá
thói quen chấp thật rất nặng nề của chúng sinh. Kinh này được các chùa tụng
niệm rất thường xuyên, các thầy cúng đám ma, ngay cả ở nông thôn miền nam Việt
Nam cũng tụng kinh này. Có thể nói kinh này rất quen thuộc với Phật tử, nhưng
mọi người có hiểu rõ ràng tường tận ý nghĩa của nó không, thì không dám
chắc.Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là quyển Tâm Kinh nhằm phá chấp thật để hiển
hiện trí bát nhã của bờ bên kia (ba la mật) tức là bến bờ giác ngộ”.
Kinh
Bát Nhã là thế nhưng nhà thơ Trần Mai Ngân đã trú trong kinh Bát nhã. Vậy ai
muốn ném đá nhà thơ cũng dễ vì có thể cho rằng tác giả đã cao ngạo, tự cho mình
như một tu sĩ thượng thừa mới trú được trong kinh Bát Nhã. Trú tức là ở, có
nghĩa là lấy kinh Bát Nhã làm ngôi nhà cho linh hồn mình tá túc. Thế nhưng đọc
hết bài thơ “Lời Kinh 2” ta
mới hiểu rằng nhà thơ muốn trú mà trú không được, bởi vì hết cả bài thơ là nỗi
dằn vặt của tâm tư, là niềm thương nhớ của thứ tình yêu trần thế.
Đức
Phật Thích ca nói răng “Ta là Phật và các
ngươi cũng sẽ là Phật”. Vậy thì không trách Trần Mai Ngân được, vì Thích Ca
là người đã trú trong kinh Bát Nhã và đã đến bờ bên kia, còn Trần Mai Ngân hay
Phật tử khác thì đang trú trong kinh Bát Nhã nhưng chưa phá chấp được để ngộ,
nên chưa biết ngày nào mới qua được cái bến mê để đến bờ chấn lý.
Vậy
vì sao nhà thơ đặt tên đầu đề bài thơ của mình là Lời Kinh? Trong Phật gíao,
kinh dịch theo âm là Tu-đa-la, là tên gọi của các bài giảng của Đức Phật. Trong
Thiên Chúa giáo, Kinh là lời của Đức Chúa Trời khải thị cho con người viết.
Vậy
thì Trần Mai Ngân cho bài thơ mình là Lời Kinh có cao ngạo không? Trả lời là
không. Vì sao là không? Bởi vỉ nhà thơ đã trú trong kinh Bát Nhã, và những lời
thơ là vọng âm của tâm hồn nàng từ trong kinh Bát Nhã mà ra. Có thể nói rằng
nhà thơ đã đọc kinh Bát Nhã nhưng thay vì lời kinh đưa linh hồn đến cõi bình an
thì ngược lại, linh hồn nhà thơ đã hỏa táng trong cõi tình trường.
Cái
hay của bài thơ là ở đó, cái thấm thía của bài thơ là ở đó. Ta đọc bài thơ khác
chi ta nhìn một ni cô giai nhân tuyệt sắc thất tình nên đi tu. Lòng ta sẽ cảm
thấy vừa kính vừa trọng vừa quý mến vừa thương mà vừa ngưỡng mộ cái sắc đẹp
trời cho ni cô ấy.
Thưởng
thức bài thơ “Lời Kinh” của Trần Mai Ngân ta phải vận dụng niềm hoan lạc
của một tu sĩ, tâm hồn lãng mạn của một thi nhân cùng với nỗi đau thất tình thì
mỗi câu thơ, mỗi ý thơ sẽ thẩm thấu vào tâm hồn ta, làm trái tim ta rung động
những cảm xúc khó mà diễn đạt thành lời.
Đọc
thơ là như vậy, không phải biện luận bằng “Tam Đoạn Luận” mà hiểu thơ, mà phải hiểu bằng mắt ta, bằng tai ta,
bằng tâm ta, bằng tất cả giác quan của ta, thêm cả giác quan thứ sáu và bằng
linh cảm trong ta nữa.
Nhà
thơ Trần Mai Ngân đã trú trong lời kinh Bát Nhã để khóc bằng lời tình. Tiếng
thơ như tiếng chuông vọng từ nỗi đau chia lìa ly biêt, như tiếng chuông vọng từ
một bàn tay nữ tu nào đó trong dòng nước mắt dưới bệ thờ, nơi chánh điện.
--------
BÀN VỀ “KINH THƠ” CỦA QUANG TUYẾT
---
KINH THƠ
Chiều về bên dòng sông tuổi thơ
Lắng hồn trong tiếng sóng vỗ bờ
Hững hờ sao đò chiều xua nước
Biết về đâu... Về đâu bến mơ
Mong nhớ nào chạm ánh trăng thơ
Soi gì đêm đã lạc bước mờ
Ta trở về như chưa hề tới
Bến giang đầu hạnh phúc xa xưa
Người đã vượt dòng sông quê người
Ôm tuổi xanh ngủ vội bên trời
Mặc gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng chành đưa hoa nến trôi xuôi
Về đây mong hay đợi người ơi
Vô thường rồi một bước buông lơi
Nỗi nhớ nào như mưa dầm thấm đất
Nát con tim gãy quỵ thân đời
Quang Tuyết
Huế, chiều cuối đông
Bây
giờ hãy bước qua “Kinh Thơ” của Quang Tuyết.
Kinh
của Quang Tuyết là kinh của thơ, nó không là lời dạy của Phật hay của Chúa
nhưng là sự tụng niệm của tình. Quang Tuyết đã sáng tác ra thứ kinh ấy và nhẩm
mãi trong lòng mình bởi sự hoài vọng tuổi thơ như cơn bệnh tinh thần cũng bởi
sự chia lìa ly cách mà có.
Thật
ra kinh đó là tất cả niềm đau tiềm ẩn trong tâm hồn thi sĩ, nó không cần tụng
niệm ra lời nhưng nó tụng niệm trong tận sâu tâm hồn qua tháng ngày, trên mọi
cảnh vật mà sự nhớ đem đến cho thi nhân.
Đọc khổ đầu của bài thơ, ta thấy lời kinh thơ
trong tiếng sóng nước, tiếng mái chèo khua, trong âm thanh của dòng sông thực
ngoài đời vọng vào dòng sông ký ức trong linh hồn tác giả, để con thuyền của
tuổi thơ lạc vào một bên mơ nào không biết:
Chiều về bên dòng sông tuổi thơ
Lắng hồn trong tiếng sóng vỗ bờ
Hững hờ sao đò chiều xua nước
Biết về đâu... Về đâu bến mơ
Ta
hãy nghe âm vọng của sóng trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận: “Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Sóng
của Huy Cận gợn lên nhau và kéo dài ra cùng con thuyền xuôi mái. Cảnh vật như
xa lạ nên nỗi buồn cũng chỉ gợn nhẹ vì thấy cảnh sinh tình mà thôi.
Sóng
và thuyền Quang Tuyết thì khác, nó mang hình ảnh thân thương gần gủi. Tiếng
nước vổ sát bên tai, mái chèo khua sát bên tai, tất cả là màu sắc là của tuổi
thơ. Màu sắc cúa tuổi thơ còn đó nhưng tuổi thơ đã đi qua, đã trôi về một bến
mơ nào đó như con thuyền sẽ về đâu không biết.
Nhà
thơ đã đứng bên dòng sông xưa, dưới ánh trăng hiện tại, có tâm trạng như chưa
quay về đến đich vì dấu xưa bây giờ trở nên xa lạ:
Mong nhớ nào chạm ánh trăng thơ
Soi gì đêm đã lạc bước mờ
Ta trở về như chưa hề tới
Bến giang đầu hạnh phúc xa xưa
Đọc
khổ thơ trên cho ta liên nghĩ đến nỗi sầu của bà Huyện Thanh Quan: “Dấu Xưa xe ngựa hồn thu tháo/ Nền cũ lâu đài
bóng tịch dương”. Khác chăng là Quang Tuyết không mang nỗi sầu của một
triều đại suy tàn mà mang nỗi sầu của một thế hệ qua đi. Nỗi sầu của Quang
Tuyết lớn hơn, rộng hơn và bình dị hơn.
Qua
khổ thơ thứ ba Quang Tuyết nhớ đến “Người”. Người
đã đi vào dĩ vãng, người đã ở góc bễ chân trời:
Người đã vượt dòng sông quê người
Ôm tuổi xanh ngủ vội bên trời
Mặc gió mùa cuốn đời mù mịt
Chòng chành đưa hoa nến trôi xuôi
Người
ở đây là ai? Có thể là người tình, có thể là người thân, có thể một thế hệ sống
với dòng sông năm xưa và cũng có thể là chính tác giả. Người đã bị “gió mùa cuốn đi”. Gió mùa là sinh
kế, gió mùa là thời cuộc, gió mùa là khói lửa chiến tranh, gió mùa tất cả sự vô
thường của kiếp sông, nó đưa đẩy tuổi thơ như một đóa hoa chòng chành trôi
xuôi. Hình ảnh đóa hoa trôi xuôi đó bị “gió mùa cuốn đời mù mịt” và đã “ngủ vội
bên trời” buồn làm sao, da diết làm sao, có khi là đau khổ vì sự “ngủ vui” cho
ta liên nghĩ dến sự chết trong đời.
Qua
khổ thơ chót Quang Tuyết mới cất những tiếng than xé lòng:
Về đây mong hay đợi người ơi
Vô thường rồi một bước buông lơi
Nỗi nhớ nào như mưa dầm thấm đất
Nát con tim gãy quỵ thân đời
Nhà
thơ quay về trong vô vọng vì “Về đây
mong hay đợi người ơi” nghĩa là về không một niềm hy vọng đoàn viên.
Nhà thơ về để dỗ dành nỗi nhớ nhưng nỗi nhớ đã như “mưa dầm thấm đất” thì nó đã nhiểm sâu trong tâm hồn, không còn
ai hốt nước lên bàn tay được nữa. Bởi vì vậy câu thơ cuối là sự gục ngã đớn
đau: “Nát con tim gãy quỵ thân đời”
Toàn
bộ bài thơ như một tiếng kinh nhưng không phải là tiếng kinh cầu. Đây là tiếng
kinh tụng niệm nỗi sầu, vọng lên từ nỗi nhớ, vọng lên từ linh hồn một người lạc
lỏng bên dòng sông thân thương năm xưa. Bài thơ như tiếng sóng trầm của bến
nước bình yên, nhưng lại đồng vọng nỗi buồn điệp điệp trong hồn ta và trong hồn
vạn vật mà người thơ đứng cô đơn để mong và để đợi.
Đọc
hai bài thơ “Lời Kinh 2” của Trần Mai Ngân và “Kinh
Thơ” của Quang Tuyết, mỗi bài thơ mang một tâm sự khác nhau, môt
phong cách khác nhau.
Trần
Mai Ngân thì sâu nhiệm, trầm lắng những ẩn dụ trong chiều sâu tâm hồn, Quang
Tuyết thì trải bày tâm tư bằng những dòng thơ se lạnh như ngọn thu phong. Thế
nhưng cả hai bài thơ đều như rất gần nhau, như hai tiếng đàn mang cung
trầm cung bổng quyến luyến nhau làm đắm say lòng người. Tôi đã đắm say nó nên
tôi phải gióng lên tiếng trống, như tiếng trống chầu để tỏ lòng ngưỡng mô, tuy
biết rằng viết nhiều cho người đẹp đôi khi cũng ăn đá của đời.
Châu Thạch
Châu Thạch
Châu Thạch
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 11/6/2019
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét