Sau 351 năm mới tìm thấy ngôi mộ người đã khai sinh ra những mẫu tự Việt Nam
Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015
Kỷ niệm 354 năm qua đời của linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ), Người đã khai sinh ra chữ Việt cho chúng ta đang sử dụng. Xin cám ơn Người đã cho chúng ta biết được những mặt chữ tiếng Việt và từ đó chúng ta không còn lệ thuộc vào chữ viết của giặc Tàu nữa.
SAU 351 NĂM MỚI TÌM
THẤY
NGÔI MỘ NGƯỜI ĐÃ KHAI
SINH RA NHỮNG MẪU TỰ VIỆT NAM
Kỷ
niệm 354 năm qua đời của linh mục Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc
Lộ), Người đã khai sinh ra chữ Việt cho chúng ta đang sử dụng.
Xin
cám ơn Người đã cho chúng ta biết được những mặt chữ tiếng Việt và từ đó chúng
ta không còn lệ thuộc vào chữ viết của giặc Tàu nữa.
Cha
Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và
của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng, "Khi cho Việt Nam các mẫu tự La
Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
Năm
1651 khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in
Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cha Đắc
Lộ đã giải phóng nước Việt Nam khỏi nô lệ giặc Tàu.
Thật
vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ
viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu,
người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì,
sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình
biểu ý của người Tàu.
Trong
khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để
chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà
dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3
thế kỷ.
Với
hy vọng có thể tìm được nơi linh mục trở về với cát bụi, chúng tôi, đoàn Việt
Nam đang công tác tại Iran đã đến Isfahan – thành phố cổ cách Teheran 350 km về
phía Nam. Đó là một ngày đầu năm 2011, một tuần sau lễ Giáng sinh.
Quảng trường Naghsh-i Jahan của Isfahan là một
trong những quảng trường lớn nhất địa cầu với kiến trúc tiêu biểu Hồi giáo đã
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa nhân loại. Tại thành phố này, Alexandre
de Rhodes đã sống những năm cuối đời. Mặc dù trước đó, phần đời chính của ông
là ở Việt Nam.
Chúng
tôi đến Isfahan vào một ngày mùa đông se lạnh nhưng tràn ánh nắng. Hỏi đường
đến một nhà thờ Công giáo nào đó, chúng tôi được người dân chỉ dẫn tận tình.
Điểm chúng tôi đến là nhà thờ Vank, nhà thờ thiên chúa lớn nhất Isfahan.
Qua
giây phút ngạc nhiên trước đoàn khách Việt Nam, cha xứ nhà thờ nồng nhiệt đón
tiếp chúng tôi hồ hởi. Trước nay, hiếm có du khách Á đông nào, nhất là từ Việt
Nam xa xôi tới nơi đây. Ông nhiệt tình dẫn chúng tôi đi tham quan và nói về
lịch sử nhà thờ.
Nằm
trong thế giới Hồi giáo, nhà thờ có kiến trúc bề ngoài đặc trưng Hồi giáo,
nhưng vào bên trong, với các tranh và tượng Thánh đầy ắp khắp các bức tường, cứ
ngỡ như đang ở một nhà thờ nào đó ở Roma hay Paris.
Cha
xứ càng ngạc nhiên hơn khi chúng tôi hỏi về giáo sĩ Alexandre de Rhodes – người
đã mất cách đây hơn 350 năm. Nhà thờ Vank có một thư viện lớn, lưu trữ nhiều tư
liệu quý giá. Cha xứ nói người vào thư viện tìm kiếm. Lát sau, một thanh niên
to khỏe khệ nệ mang ra một cuốn sổ dày cộp, to chừng nửa cái bàn, bìa bọc da
nâu ghi chép về các giáo sĩ đã làm việc và mất tại đây. Ngạc nhiên và vui mừng
tột độ, cha và chúng tôi tìm thấy dòng chữ ghi Alexandre de Rhodes mất năm
1660.
Như
vậy, không nghi ngờ gì nữa, chính tại nhà thờ Vank này, cha Đắc Lộ đã sống và làm
việc những năm cuối đời. Chúng tôi hỏi: “Thưa cha, liệu có thể tìm thấy mộ của
Alexandre de Rhodes ở đâu không?”.
Cha
xứ tận tình chỉ đường cho đoàn khách đặc biệt tới Nghĩa trang Công giáo ở ngoại
ô thành phố.
Nghĩa
trang nằm dưới chân đồi. Các ngôi mộ nằm êm mát dưới tán rừng thông, tùng, bách
mênh mông, vắng lặng. Lạ một điều, nghĩa trang Công giáo nhưng không thấy một
cây thánh giá nào.
Chia
nhau đi các ngả tìm kiếm, lần mò hồi lâu, chúng tôi reo lên khi thấy ngôi mộ có
ghi rõ tên Alexandre de Rhodes. Mộ ông nằm bên cạnh hai ngôi mộ khác thành một
cụm ba ngôi. Gọi là mộ, nhưng không đắp nổi như ở Việt Nam. Đó chỉ là tảng đá
lớn nằm nghiêng nửa chìm, nửa nổi trên mặt đất. Dù đã trải qua mưa nắng, biến
động cuộc đời hơn ba thế kỷ, chữ khắc trên tảng đá còn khá rõ nét.
Trong
ánh nắng ban trưa, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước ngôi mộ, ai cũng thấy
dâng lên trong lòng mình những cảm xúc bâng khuâng khó tả.
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Sài Gòn ngày 10/12/2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét