Home
» Lý luận phê bình
» Để góp phần chấm dứt những bài học văn trống rỗng, vô vị - Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Để góp phần chấm dứt những bài học văn trống rỗng, vô vị - Bài viết Nguyễn Anh Tuấn
Thứ Năm, 6 tháng 8, 2015
Chủ
nhật - 14/04/2013 21:52
Là một
người từng dạy môn ngữ văn cấp ba phổ thông gần 10 năm, dù đã rời bục giảng khá
lâu, nhưng trước tính chất cấp bách của vấn đề mà công luận đang sôi nổi suốt
mấy năm qua, và chắc còn lâu mới mất tính thời sự, tôi cũng xin được tham góp
đôi điều. Trước đây, tôi đã có dịp dự một số giờ văn (cấp hai, cấp ba) mà sau
đó, học sinh không thâu nhận thêm được một chút gì hữu ích ngoài những kiến
thức chết và mớ từ rỗng; những giờ văn kiểu đó quả đã trở thành một gánh nặng
khủng khiếp đối với học trò. Không ngờ, tới hôm nay thực trạng đó đã thành phổ
biến trong việc Dạy và Học văn. ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
Địa chỉ: Phố Thái Hà, Hà Nội
ĐT: 0912174947
Email: anhtuan.daodien4@gmail.com
_____
ĐỂ GÓP PHẦN CHẤM DỨT NHỮNG BÀI HỌC VĂN TRỐNG RỖNG, VÔ VỊ
ĐỂ GÓP PHẦN CHẤM DỨT NHỮNG BÀI HỌC VĂN TRỐNG RỖNG, VÔ VỊ
(Đâu là điều then chốt trong việc Dạy văn & Học văn?)
Là một người từng dạy môn ngữ văn cấp ba phổ thông gần 10 năm, dù đã rời bục
giảng khá lâu, nhưng trước tính chất cấp bách của vấn đề mà công luận đang sôi
nổi suốt mấy năm qua, và chắc còn lâu mới mất tính thời sự, tôi cũng xin được
tham góp đôi điều.
Trước đây, tôi đã có dịp dự một số giờ văn (cấp hai, cấp ba) mà sau đó, học
sinh không thâu nhận thêm được một chút gì hữu ích ngoài những kiến thức chết
và mớ từ rỗng; những giờ văn kiểu đó quả đã trở thành một gánh nặng khủng khiếp
đối với học trò. Không ngờ, tới hôm nay thực trạng đó đã thành phổ biến trong
việc Dạy và Học văn.
Có những điều được thừa nhận ngoài đời một cách hiển nhiên, nhưng trong nhà
trường, chúng cần được nhìn nhận phân tích như một cái gì mới mẻ trước khi đi
tới một sự khẳng định có sức lay động lý trí và tình cảm. Giảng dạy văn học,
theo tôi thực chất là công việc tích lũy tâm hồn và trí tuệ cho học sinh thông
qua những quá trình chuyển vận phức tạp, tinh tế của đời sống được biểu hiện
trong văn học, thông qua đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ. Người thầy dạy văn
lắng sâu vào quá trình nhận thức và mỹ cảm để có thể dẫn dắt chúng một cách
nghệ thuật nhất trong tâm hồn háo hức của học sinh. Và để làm được điều đó,
trong các vốn liếng cần thiết, vốn liếng tâm hồn và tư tưởng của ông thầy dạy
văn là quan trọng hơn cả. “Kiến thức chưa phải là tư tưởng” (Êchkecman)1. Thật
vậy, mọi tri thức được tích lũy sẽ trở nên tủn mủn, nặng nề, vô ích, nếu không
được lên kết, hệ thống lại, được đốt cháy lên bởi một năng lượng tâm hồn và tư
tưởng cần thiết! Nếu như việc sáng tác văn học nghệ thuật đi theo quy luật vĩnh
cửu là “đốt cháy trí tuệ thành trái tim” thì việc giảng dạy và học tập văn học
trong nhà trường cũng không thể đi ngược quy luật đó! Ở đây, người thầy dạy văn
đích thực đã vô tình lặp lại quá trình tâm lý của người nghệ sĩ ngôn từ khi
sáng tạo tác phẩm: từ vốn sống được nung nấu bằng tình yêu cháy bỏng, trải qua
lao động nghệ thuật gian khổ, tác phẩm được hình thành trước hết như là kết quả
của một sự thôi thúc nội tâm, đó là lý do tồn tại, lẽ sống còn của người nghệ
sĩ. Nếu không cảm thông với tình yêu nhân dân lao động của Nguyễn Du tới một
mức nào đó thì làm sao có thể giúp các em hình dung nổi cái đặc sắc mà giản dị
lạ lùng vượt khỏi văn chương thuần túy của bài thơ “Sở kiến hành” (Bắc hành tạp
lục)- Những điều trông thấy: một ông quan sứ từng dự tiệc linh đình thừa mứa mà
lại biết nhìn tới cảnh bốn mẹ con đi ăn xin dúm ró bên vệ đường, lại nhìn sâu
vào tận đáy giỏ tre của mẹ con họ, để nhận ra trong đó đựng “nắm rau cỏ lẫn tấm
cám”, rồi lại thấu hiểu được nỗi đau xót thầm kín của người mẹ khốn khổ: “Mẹ
chết đâu có tiếc gì/Vỗ về con thêm đứt ruột”… Tôi chưa thể định nghĩa được thế
nào là một giờ giảng văn tốt, nhưng nếu trong giờ giảng bài “Thúy Kiều bán
mình”, các em học sinh, nhất là các em gái không thấy xúc động sâu sắc đến ứa
nước mắt xót thương và căm giận trước cảnh một người con gái trong trắng, thơ
ngây, dịu dàng bị đẩy ra trước một thằng đàn ông xa lạ thô bỉ, một mụ đàn bà
tráo trở trơ trẽn, để chúng xem xét như một món hàng, thì dù có phân tích kỹ
lưỡng dài dòng đến đâu cũng chỉ có thể coi là một giờ giảng thất bại! Dạy ca
dao cũ mà không làm cho các em sống chan hòa trong những cảm xúc tế nhị, tình
yêu quê hương đất nước và tình yêu con người thấm vào cây cỏ, trong các khung
cảnh bến đò, cây đa, lũy tre làng, giọt mồ hôi thánh thót, cái xót xa âm thầm
của hạt mưa rào, của tiếng ếch kêu dưới vũng tre ngâm, không làm cho các em cảm
được phần nào cái cuộc sống đã làm bật lên những tiếng hát than thân, tiếng hát
tình nghĩa đó của người lao động Việt Nam thời xưa, làm sao có thể nói được
rằng những bài giảng văn đó thành công? Thiếu một độ rung cảm cần thiết của tâm
hồn, những lời diễn giảng thông minh, lưu loát, bay bướm của người thầy dạy văn
sẽ trật khỏi bản chất hình tượng tác phẩm, chúng sẽ trở nên duy lý trần trụi
hoặc bóng bẩy vô duyên! Khả năng rung động thẩm mỹ nhạy bén, sâu sắc giúp cho
người dạy văn thoát khỏi sự lặp lại một cách nhàm chán, tẻ nhạt những điều đã
có sẵn nằm ở vỏ ngôn ngữ tác phẩm, và làm cho sự phân tích các tín hiệu nghệ
thuật của tác phẩm không biến thành một sự liệt kê khô khan, hình thức, mà xâu
chuỗi chúng trong một thể thống nhất có mối liên hệ vững chắc bên trong để dẫn
học sinh thâm nhập một cách trung thực vào các giá trị thẩm mỹ thật sự. Bản
lĩnh tâm hồn của người thầy dạy văn không những có thể giúp học sinh tránh được
những thị hiếu lệch lạc & tầm thường đang có nguy cơ thao túng tâm lý xã
hội, mà còn giúp nảy nở những nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh, làm dấy lên những “cơn
lốc tuyệt vời” trong tâm hồn học sinh- theo cách nói của một nhà nghiên cứu sư
phạm Nga thế kỷ trước 2.
Chính sức mạnh tâm hồn người dạy văn sẽ phá vỡ sự ngăn cách đáng lo ngại giữa
học sinh và nhà văn & nhà giáo, và duy trì mối liên hệ sâu sắc giữa đối
tượng giáo dục và tác phẩm- chính trong mối liên hệ này, dưới sự dẫn dắt khéo
léo và giàu cảm xúc của người thầy, những thao tác tư duy của học sinh sẽ được
hình thành, phát triển. Bản lĩnh tâm hồn giúp người thầy dạy văn rút bớt lời
giảng rông dài, hươu vượn, và để dành khoảng thời gian căng thẳng cho tư duy
học sinh làm việc; và như thế các em có thể chạm tới được sợi dây thần kinh của
tác phẩm. Không cần buộc học sinh phải trả lời nhiều câu hỏi như hiện nay các
trường đang làm một cách hình thức, mà chính là ông thầy cần biết đặt ra những
vấn đề có sức gợi tinh tế. Ví dụ, khi giảng bài thơ “Chạy Tây” của Nguyễn Đình
Chiểu, tới hai câu thực: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/ Mất ổ bầy chim dáo dát
bay”, có người giảng trước khi khai thác từ ngữ cụ thể, cách đảo ngữ, đã đặt
câu hỏi đầy sức gợi như sau: Hai câu thơ này miêu tả âm thanh hay hình ảnh? Có
điều gì đặc biệt ở đây? Và các em đã nhận thấy, trong trạng thái cảm xúc căng
thẳng: đó là những hình ảnh của âm thanh, của tấm lòng và trí tưởng tượng của
nhà thơ. Nhưng đó cũng là những hình ảnh cụ thể, có thực trong cuộc sống. Điều
đặc biệt là: những hình ảnh chân thực và đau xót này lại do một nhà thơ mù miêu
tả. Những âm thanh buồn thảm đã vang vọng trong tâm hồn ông; chính con người
mang trong lòng bao nỗi đau thời đại và nhân thế cũng là con người biết lắng
nghe cả những tiếng động nhỏ bé trong cuộc đời bằng tất cả trái tim thương cảm,
giữa những tiếng động vỡ đất xé trời của cuộc xâm lược tàn bạo.
Mặc dù còn nhiều vấn đề cộm cán chưa ngã ngũ về việc tuyển chọn thơ văn trong
SGK, song sự thật là: có biết bao năng lượng quý tiềm tàng trong những tác phẩm
đã được đưa vào giảng dạy. Thế mà phần nhiều chúng vẫn ở trong tình trạng chỉ
được đào xới ở lớp vỏ ngôn ngữ, hoặc bị suy diễn, bị khái quát lên thành những
vấn đề chính trị-xã hội thuần túy, trong khi người thầy dạy văn lẽ ra phải là
“người nghệ sĩ thứ hai” của tác phẩm! Giờ giảng văn nhiều năm qua đã biến thành
một thực thể nặng nề với học sinh, nhất là khi bị thầy cô giáo gọi lên nhắc lại
những từ ngữ to tát do chính các thầy cô “sáng tác” ra nhằm minh họa cho bài
thơ bài văn!…
Nói rông dài là để trở lại một vấn đề “xưa như trái đất”: đó là việc đào tạo ra
ông thầy dạy văn, và liền đó là sự tu dưỡng nghề nghiệp của bản thân ông thầy
dạy văn. Thời học sư phạm văn, tôi biết rõ có không ít bạn đồng môn chỉ biết
đến những tác phẩm của Victor Hugo, Lev Tolstoi, Dostoievki, Balzac, Stendal,
Kafka… qua lời kể của giảng viên hay được tóm tắt trong giáo trình, và sau đó
trong cuộc mưu sinh chật vật, chắc gì họ đã có dịp được đọc hết các bộ tiểu
thuyết Chiến tranh và Hòa bình, Những người khốn khổ, Vỡ mộng, Đỏ và Đen, Hóa
thân, Tội ác và Trừng phạt, v.v- những kiệt tác văn học thế giới mà đã là học
văn để ít nhất chỉ làm công việc dạy văn thì không thể không đọc qua. Đấy là
chưa kể tới biết bao sách vở khác ngoài văn học thuộc các lĩnh vực mỹ học, lịch
sử, triết học, văn hóa học… mà người thầy dạy văn buộc phải tự trang bị cho mình
để có được một bản lĩnh tâm hồn & tư tưởng cần thiết trong hành trang làm
nghề. Còn giờ đây, xem ra tình trạng còn tệ hại hơn rất nhiều. Còn học sinh thì
chán sợ môn văn đến cùng cực, không thèm ngó ngàng đến các khoa nhân văn sau
khi đã “sáng tác” ra những “quái thai” trong các kỳ thi văn tốt nghiệp khiến
bao người phải cười ra máu mắt! Điều này trước hết phải cật vấn ông thầy dạy
văn, sau đó là hệ thống dạy văn ở các Máy cái đào tạo– tức là các trường Sư
phạm hệ đại học & trung học, và cuối cùng là Hệ thống quản lý giáo dục với
những triết lý giáo dục rối mù chỉ chứng minh rõ ràng sự Vô trách nhiệm và sự
Lạc hậu!
Đạo
diễn-nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
----
1. Theo A. Xâytlin- Lao động nhà văn. NXB Văn học, 1976
1. Theo A. Xâytlin- Lao động nhà văn. NXB Văn học, 1976
2. A. Nhikônxki- Phương pháp giảng dạy văn học ở
trường phổ thông. NXB Giáo dục, 1978
(Nguồn: Tuần báo VNTPHCM)
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật lại ngày 06/08/2015
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 14/04/2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét