Mai Sau- Một nỗi lo nhân thế- Thơ Phạm Ánh – Lời bình Lương Bá Hòa
Thứ Hai, 12 tháng 10, 2015
Ngày
27/09/2010
Đọc bài
thơ “Mai sau” của Phạm Ánh, ta không khỏi không day dứt, băn khoăn, trăn trở.
Dư âm của bài thơ cứ ngậm ngùi văng vẳng, lời bài thơ êm ái, lay động ngọt
ngào, nhẹ nhàng như lời ru của mẹ, như có sức lan tỏa trong tâm hôn, gợi nhớ về
một điều gì đó rất gần gũi mà lại xa: “Vọng phu hóa đá đầu non/ Nhớ thương chờ
đợi biết còn có ai”.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Phạm Ánh
Địa
chỉ: 103- Phan Bội Châu – TP. Qui Nhơn – Bình Định
Email: phamanh_hvn@yahoo.com.vn
_____
MAI SAU- MỘT NỖI LO
NHÂN THẾ
MAI SAU
(Thơ Phạm Ánh)
Mai sau cổ tích ca
dao
Có còn để nhớ hay vào
hư không
Trầu cau còn đượm
duyên nồng
Gặp em biết có thẹn
thùng như xưa.
Mai sau ai nhớ cày
bừa
Ai thương gốc rạ
những trưa khô giòn
Vọng phu hóa đá đầu
non
Nhớ thương chờ đợi
biết còn có ai.
Tài hoa lẻ bóng lạc
loài
Trương Chi còn vượt
dặm dài thời gian
Lên chùa còn nhớ nỗi
oan
Quê thương còn quả
thị vàng nữa không?
Lời
bình của Lương Bá Hòa
Đọc bài thơ “Mai sau”
của Phạm Ánh, ta không khỏi không day dứt, băn khoăn, trăn trở. Dư âm của bài
thơ cứ ngậm ngùi văng vẳng, lời bài thơ êm ái, lay động ngọt ngào, nhẹ nhàng
như lời ru của mẹ, như có sức lan tỏa trong tâm hôn, gợi nhớ về một điều gì đó
rất gần gũi mà lại xa:
“Mai sau cổ tích ca dao
Có còn để nhớ hay vào hư không”
Mới ngày nào ta lớn
lên qua lời ru, điệu hát của bà của mẹ, bằng những câu chuyện cổ tích ca dao
nghe sao mà thấm đẫm vô cùng. Ta tự hào nhờ có những câu chuyện cổ tích, ca dao
mà ta hiểu thêm được lẽ sống nhân sinh nơi cõi người, cõi đời, để chúng ta sống
có đạo đức, có nhân cách hơn, đối xử với nhau công bằng hơn. Ấy vậy mà tác giả
lại lo lắng: ”Mai sau cổ tích ca dao/ có còn để nhớ hay vào hư không”. Một nỗi lo nhân thế.
Từ một câu hỏi tưởng
chừng như đơn giản mà cứ xoáy vào lòng ta “còn nhớ hay không”? Vậy ta có thể
không nhớ được không? Được chứ, bởi vì đâu có ai bắt buộc ta đâu. Nhưng ta
không nhớ là ta đã mất, ta đã mất cái vô cùng quý giá để nuôi dưỡng tâm hồn ta!
Biết là như vậy, song liệu ta có giữ được không hay là để mất? Thế cho nên tác
giả mới giằng xé tâm can.
“Trầu cau còn đượm duyên nồng
Gặp em biết có thẹn thùng như xưa.”
Câu thơ gợi trường
liên tưởng rất hay về nét đẹp văn hóa của lễ tục cưới hỏi, của chuyện tình yêu
trai gái, nét duyên dáng, mềm mại, thi vị, cách ứng xử văn hóa của người con
trai, con gái, một nét đẹp truyền thống đã có từ bao đời nay trong cộng đồng
dân tộc Việt nam ta. Thế mà nó vẫn có thể mất đi. Xa xót quá.
Ngày nay, có khi chỉ
mới quen nhau, đi với nhau vài bữa là người ta đã có thể nói ra cái điều người
ta mong muốn và phơi bày ra tất cả những gì mà trước nay người ta phải giấu
kín, phải e thẹn. Cuộc sống bây giờ xô bồ, gấp gáp quá, cái gì người ta cũng
muốn vơ ngay lấy được chứ làm gì còn cái từ tốn, thanh cao, nhã nhặn, bởi vậy
cho nên tác giả mới nghẹn ngào trong từng câu chữ như vậy.
‘’Mai sau ai nhớ cày bừa
Ai thương gốc rạ những trưa khô giòn
Vọng phu hóa đá đầu non
Nhớ thương chờ đợi biết còn có ai’’
Chúng ta, ai cũng
được lớn lên bằng hạt cơm, hạt lúa, bởi vậy ta phải quý trọng từng mảnh ruộng,
bờ đê, từng công việc nhà nông để làm ra bát cơm, hạt lúa chứ. Ấy vậy mà có nơi
có chỗ người ta đã bắt đầu tước đi cái nghề, tước đi mảnh đất khởi nguồn cho sự
sống ấy, thay vào đó là những khu công nghiệp, những sân gôn… Có thể, những
công trình thay thế tạo ra những giá trị lớn hơn rất nhiều, đủ để mua những hạt
cơm, hạt lúa khác. Nhưng nếu cứ như vậy thì làm gì có để mà mua. Rất may những
hiện tượng ấy gần đây cũng đã được kịp thời ngăn chặn phần nào, nhưng tương lai
nào ai dám chắc nó sẽ không tái diễn. Có thế tác giả mới đớn đau ‘’Ai thương gốc rạ những trưa khô giòn’’.
Chỉ với bốn câu thơ
này, tác giả đã khéo léo khái quát được đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó,
yêu lao động, yêu thiên nhiên, quê hương đất nước, biết quí trọng lao động,
đồng thời cũng rất yêu thương con người lẫn nhau, thủy chung trong tình cảm vợ
chồng, đối xử với nhau có tình có nghĩa, sâu nặng, thiết tha, biết đợi, biết
chờ của những con người trong cộng đồng dân tộc ta. “Nhớ thương chờ đợi biết còn có ai”. Câu thơ nghe sao mà tê tái thế,
chỉ có một nỗi nhớ, một niềm thương thôi, thật đơn giản và quá dễ, vậy mà cũng
có thể không có ai làm được, tơ tưởng được hay sao? Khó lắm vậy sao?
Rồi tình người với nhau
cũng là điều rất đáng để bàn:
“Tài hoa lẻ bóng lạc loài
Trương Chi còn vượt dặm dài thời gian
Lên chùa còn nhớ nỗi oan
Quê thương còn quả thị vàng nữa
không?”
Ba câu chuyện, ba
tích xưa, tuy có khác nhau nhưng tiêu biểu cho sự ăn ở nhân nghĩa, biết nghĩ
đến nhau, vì nhau, trọng nghĩa, khinh tài, tấm lòng vị tha là bản chất vốn có
của mỗi người chúng ta, đồng thời lên án cái tham vọng vô lối không có tình
người. Nhưng tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy liệu có phải chỉ còn là dĩ vãng
thôi không? Có thể nào, bây giờ những nghĩa cử cao đẹp, hành động cao thượng
bỗng trở thành lạc lõng chốn nhân gian.
Phải chăng tác giả đã
nhận thức được rằng: trong thời đại ngày nay, xã hội loài người đã tiến bộ vượt
bậc về khoa học kỹ thuật, con người đã chinh phục được thiên nhiên với những
thành tựu đáng kể, tất cả đều được mã hóa, lập trình hóa… ngay cả tư tưởng con
người cũng có thể được mã hóa, lập trình, tình cảm con người có khi được đo
bằng những giá trị vật chất thông thường. Con người sẽ có tất cả nhưng cũng sẽ
mất đi rất nhiều, vậy thì những giá trị văn hóa phi vật thể, truyền thống tốt
đẹp mà dân tộc ta, của xã hội ta trước đây đã được hun đúc bằng cả quá trình
phát triển của xã hội liệu có còn được nhớ đến không, chứ chưa nói là được tiếp
thu, phát triển hay chỉ còn là hư vô, người ta đã lãng quên mất rồi. Nếu vậy
thì quả là xót xa, nuối tiếc…
Cả bài thơ là tâm
trạng nghẹn ngào, não lòng làm sao, chỉ những ai đã từng được tận hưởng những
lời ru câu ca ngọt ngào của bà của mẹ mới thấy được điều này. Ngày nay nếu
người ta không còn nhớ, không còn ru bằng cổ tích ca dao nữa thì thật là đáng
tiếc lắm thay. Thực tại xã hội là điều đáng trăn trở như vậy. Lớp trẻ ngày nay
rất giỏi trong nhiều lĩnh vực, chưa có ai tổng kết được điều gì, nhưng cứ nhìn
vào thực tế ta không khỏi không lo lắng, băn khoăn. Thử hỏi có được bao nhiêu
người còn nhớ đến những giá trị văn hóa tinh thần mà cha ông ta đã có.
Tác giả và tôi (người
viết bài này) cũng không dám khẳng định điều gì mà chỉ là bày tỏ nỗi niềm băn
khoăn, lo lắng, nghi ngại mà thôi. Nhưng sự nghi ngại này cũng không phải là
không có cơ sở.
Bằng những câu thơ
hết sức tài tình nhưng hồn nhiên và thi vị với những điệp từ “có còn”, “còn
có”, “biết có”, “nhớ còn” “còn nhớ” tạo nên bài thơ một tâm trạng trăn trở toàn
là những câu hỏi, các câu hỏi cứ nối tiếp câu hỏi dồn dập nghe ngọt ngào mà cay
đắng, xót xa, chưa thể trả lời.
Kết
thúc bài thơ vẫn còn là một dấu hỏi. Có thể thấy Phạm Ánh đang dày vò tâm tư
với những giá trị văn hóa, tinh thần, tư tưởng, những nét đẹp truyền thống của
thế hệ đi trước trong cuộc sống con người liệu có còn tồn tại đến mai sau hay
không?
Chỉ
vài nét chấm phá bằng những hình ảnh mang tính đặc trưng nêu lên những tích xưa
cũ như: ca dao, trầu cau, vọng phu, Trương chi, quả thị vàng... gắn với những
giá trị văn hóa, hoạt động cao đẹp của con người, để rồi đặt ra những câu hỏi
rất đáng phải suy nghĩ cho thế hệ tương lai và trách nhiệm của cộng đồng trong
cuộc sống hiện tại.
Tác
giả Phạm Ánh mới chỉ là nghi ngờ, băn khoăn về khả năng một trực trạng xã
hội của thời kinh tế hội nhập và phát triển về khoa học kỹ thuật, nhưng chưa
chắc những giá trị văn hóa được phát triển. Nhưng có bạn đọc lại cho cho chúng
ta thấy một hiện thực hiển nhiên có lẽ còn đau lòng hơn, khiến người đọc giật
mình để nhìn nhận lại: phải chăng thực tế đã hiện sinh rồi, còn băn khoăn, nghi
ngại điều chi nữa và phải làm thế nào đây?
"Mai sau mà có nghĩa gì
Bây giờ còn chả chút chi nữa là
Mai sau nghe rất thật thà
Tình người rồi cũng như là số không"
(Hoàng Ngọc Thu)
Những
câu thơ của bạn đọc ngắn gọn, súc tích mà hàm chứa đến sắc lạnh. Rồi đây, rất
có thể những giá trị mà tác giả nêu lên, người ta sẽ không bao giờ nhớ đến nữa
hay vứt bỏ đi, nhưng như thế mới là một nỗi đau của “Mai sau”.
Nha trang, tháng 12.2009
Phạm Ánh gửi đăng.
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại- ngày 12/10/2015
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Qui Nhơn BĐ ngày 27/09/2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét