Home
» Thư viện văn xuôi
» Kịch độc/ Một ngày kiếm việc/ Cuốc xe đêm – Truyện ngắn Lương Văn Chi (Hải Phòng)
Kịch độc/ Một ngày kiếm việc/ Cuốc xe đêm – Truyện ngắn Lương Văn Chi (Hải Phòng)
Thứ Tư, 6 tháng 1, 2016
Ngày
04/05/2011
Chủ
tịch Hội Văn Nghệ đầu tiên của thành phố Hải Phòng (Nguyên Hồng) là
một nhà văn-công nhân. Có lẽ vì vậy Hải Phòng luôn có những nhà văn
xuất thân công nhân hoặc vừa làm thợ vừa viết văn. Lương Văn Chi là
một người như vậy, anh là một thợ mộc nhưng rất tâm huyết với văn
chương. Truyện ngắn dưới đây được xếp vào tốp các truyện ngắn hay
trong năm 2009 của báo Văn Nghệ. Ngọc Châu xin được giới thiệu với bạn
đọc gần, xa.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Lương Văn Chi
Họ
tên thật Lương Văn Chi
(Hội
viên Hội Nhà Văn Hải Phòng)
Sinh
ngày 23/10/10/1955 tại Xuân Trường, Nam Định
Nguyên
quán: Việt Yên, Bắc Giang
Địa
chỉ thường trú: Số 12, ngõ 31, Đội Văn, Trại Chuối, Hải Phòng
ĐT:
0919 824 926
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
KỊCH ĐỘC
Chiếc
gường cót két như tiếng kêu rên quá tải, không át nổi bản nhạc chuông, báo có
cuộc gọi đến của chiếc máy di động để ở đầu giường. Buông cả hai tay đang ôm
vai người đàn ông nằm trên, một tay với máy di động, tay còn lại, Thuần đặt dọc
ngón trỏ vào giữa đôi môi ông ta, ý ra hiệu im lặng để cô đàm thoại, kịp chặn
đứng một câu lầu bầu vì bị mất hứng, suýt văng ra từ miệng ông khách.
-
Chịu khó chờ em một tý - Thuần khẩn khoản - Ai mà lại vô duyên thế nhỉ, gọi
đúng vào cái lúc...!
Tuy
không bật loa ngoài, nhưng tiếng nói của người đàn ông trong máy khá rõ, làm
cho ông khách nẩy sinh tò mò rồi nằm im.
Như
sợ tốn tiền, người đàn ông phía đầu dây bên kia nói gấp gáp:
-
Thuần đấy à, bố đây! Tối nay con về nhà ngay nhé! Chú Định đòi bồi thường vết
thương đủ 20 triệu mới rút đơn kiện! Chú không thèm nói chuyện với ai trong nhà
mình, kể cả bố, mà chỉ khăng khăng đòi gặp con! Thế nhé, về ngay con nhé!
Ở
đầu kia, bố Thuần cúp máy, không để Thuần nói lại lời nào. Thuần thẫn thờ, vất
chiếc máy di động xuống giường.
Ông
khách, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi, đủ kinh nghiệm cảm nhận được
Thuần đang bị "choáng”. Thân thể Thuần lúc này khác gì một cục thịt thiu.
Chính bản thân ông ta cũng bị phản cảm. Có cố kỉnh vận động trở lại , thì cuộc
vui đơn phương ấy cũng chỉ làm ông thêm mệt. Ông trườn khỏi bụng Thuần, nằm vật
ra bên cạnh, cáu kỉnh:
-
Sao em không tắt máy?
Câu
nói khó chịu của ông khách buộc Thuần phải trở lại công việc. Thuần lật người,
áp môi vào má và quàng tay qua ngực ông khách thủ thỉ:
-
Em xin lỗi! Chuyện buồn gia đình ấy mà! Cố lên, em chiều...!
-
Thôi, mất hứng rồi!- Ông khách ấm ức.
Đối
với Thuần, đây không phải lần đầu tiếng chuông di động vang lên làm gián đoạn
cuộc bán mua. Biết vậy, nhưng cô không thể tắt máy, dù điều đó dễ làm khách bực
mình. Thường thì, tiếng chuông vang lên có lợi cho Thuần, bởi nó là tín hiệu mà
bà chủ quy ước, nhắc cô bằng kinh nghiệm trong nghề, vô hiệu hoá ý đồ kéo dài
cuộc chơi của khách, tranh thủ thời gian để tiếp nhận ngay một "ca” mới:
một ông khách mới đến đang nôn nao, nhấp nhổm ở quầy bar chờ đến lượt, hoặc
chạy sô sang quán bên cạnh, khi bà chủ bên kia điện sang mượn người vì thiếu
tiếp viên.
Ông
khách đã ngồi dậy, rời khỏi gường và mặc quần áo. Biết ông này là người hiền
lành, mất hứng cũng không quát tháo nhặng xị, Thuần ngồi dậy theo, ần cần cài
giúp ông mấy khuy áo, kéo lại cái thắt lưng da để khuy cài nằm đúng giữa bụng,
rồi an ủi:
-
Thiệt cho anh quá! Lần sau đến, em bù!
Thực
ra, Thuần rất thích những ông khách trung niên, tầm tuổi cỡ bố cô trở lên. Giữa
cuộc chơi, khi khoái cảm đã lên đến đỉnh, họ cũng không ngấu nghiến, ghì xiết
như muốn bóp bẹp cô ra một cách thô bạo như lũ trai trẻ. Thậm chí có người còn
cao hứng, "bo” thêm cho Thuần cả một phong bì còn dán kín, vốn là xuất của
họ trong những cuộc họp thường xuyên nào đó, mặc dù cô không xin.
Ông
khách vuốt lại mái tóc, ngắm nghía cân chỉnh tác phong của mình trước gương rồi
giơ tay với chiếc cặp da để trên mặt tủ đầu giường. Thuần vội mở cửa phòng, đặt
thêm lên má ông ta một cái hôn, nói vuốt đuôi:
-
Nhớ nhé, lần sau đến, em khuyến mãi!
Còn
lại một mình, Thuần ngồi tựa lưng vào thành giường, hai bàn tay đan vào nhau ôm
lấy hai đầu gối, tập trung ý nghĩ để phán đoán, đặt ra những tình huống mà cô
sẽ phải đối mặt với ông chú ruột qua thông tin từ cuộc điện thoại của bố. Không
muốn lên quầy bar để nhận tiền "bo”, mặc chăn gối rơi toé loe dưới nền
nhà.
Cái
việc thằng Tâm em trai Thuần dùng dao rựa chém chú Định hai hôm trước tưởng
giải quyết đã ổn. Chính Thuần, khi nhận được tin dữ đã cầm ngay một triệu, vốn
là số tiền đi khách gom góp từ đầu tháng đến thẳng bệnh viện chi trả tiền chiếu
chụp, khâu vá, bông băng. Thậm chí cả xe tắc xi chở chú Định đi về. Những việc
còn lại, như bố Thuần nói, thằng Tâm còn dại, chú cũng như cha, việc trong nhà,
chắc chú Định không chấp. Yên tâm, Thuần trở ra phố kiếm tiền.
Ai
ngờ bây giờ chú doạ kiện cáo, lại còn ra giá hai mươi triệu bồi thường mới chịu
rút đơn. Mà chú thừa biết nhà Thuần, một dạng dân quê kém cỏi, đào đâu ra hai
mười triệu để đền cho chú.
Thuần
thoáng giật mình. Đã bốn năm, bố mẹ và người làng chỉ biết Thuần ra phố làm
công nhân giầy da, một công việc khá hấp dẫn với những gái quê như Thuần. Liệu
có phải tháng trước cô cho tiền bố mẹ láng lại cái sân đất lầy lội, mốc meo
bằng xi măng cát, thay nền nhà bằng đá hoa Trung quốc và lắp một máy điện thoại
cố định. Những chi tiêu đó của Thuần phải chăng đã mách bảo cho mọi người biết
rằng: cô làm ra nhiều tiền. Dân quê hay soi mói, mới vài năm đi làm cho một
công ty ẩm ương, vài trăm nghìn đồng lương tháng, lại nhỡ việc luôn luôn, Thuần
lấy đâu ngần ấy tiền cho bố mẹ làm được ngần ấy việc trong một lúc? Không khéo
chú Định đã biết cô ra tỉnh làm điếm, quyết ra tay điểm huyệt, mượn cớ ăn vạ,
khăng khăng bắt bố gọi cô về, để cô bịt miệng chú bằng hai mươi triệu. Nếu đúng
vậy thì Thuần sẽ tính chuyện với chú sao đây?
***
Chẳng
biết may mắn hay vô duyên, chỉ cách thành phố chưa đầy 15 km, làng quê Thuần
vẫn giữ được sự yên ả, kiều làng quê Việt Nam mấy chục năm về trước. Cho dù đất
nước mở cửa đã lâu, chẳng có một công ty liên doanh liên kết nào tìm về đất này
toạ lạc. Mỗi lần về quê, đến gần cổng làng, Thuần thường đạp xe chậm lại. Cô
muốn nhìn thật lâu biểu ngữ "Làng văn hoá” chữ vàng nền đỏ căng ngang cổng
chào. Chỗ ấy, thời niên thiếu, Thuần cùng đoàn học sinh váy xanh, áo trắng, cổ
tung bay khăn quàng đỏ, bước đều trong tiếng trống ếch nhịp ba, giữa rừng cờ
hoa cùng cả làng ra đón biểu tượng cao quý này. Niềm tự hào về quê hương mình
còn mãi trong lòng Thuần, nghĩ đến là tim cô đập nhanh hơn, người râm ran như
kiến đốt. Chả thế mà mỗi khi "thấy tháng”, không đi khách được, Thuần
thường về quê, tránh được mấy ngày nhộn nhạo của thành phố, giúp đỡ bố mẹ vài
việc đồng áng, tích luỹ sức lực, chuẩn bị cho những cuộc vật lộn hai mấy ngày
sau.
Thuần
dự định, khi kiếm được một số vốn, con người cô đã rạc dài, Thuần sẽ bỏ nghề về
quê sinh sống. Dưới luỹ tre xanh làng Thuần là một vùng đất thanh bình, tàng ẩn
trong đó là một lớp thợ cày có học, được tôi luyện trong thời kỳ hợp tác hoá,
cơ mưu và bản lĩnh.
Ngày
Thuần đang học lớp 5, nhân lúc thím Định đi vắng, một bà buôn sắt vụn đi qua.
Chú Định gọi vào, chỉ góc vườn khuất sau nhà nói: dưới đất có chôn vỏ nửa quả
bom, vốn là cái kẻng thời hợp tác xã quê Thuần còn đang hùng mạnh vào loại bậc
nhất tỉnh nhà, chú ăn cắp và chôn tại đó. Chú quơ cành chè rào vạch trên mặt
đất một hình chữ nhật rộng cỡ cái chiếu đơn, đánh dấu vị trí, nói:" Nếu tự
đào, bán rẻ bằng nửa giá thị trường...!" Tưởng thật, bà sắt vụn cầm cuốc
bổ cật lực. Khi đào rộng bằng lỗ huyệt và sâu cỡ hai gang tay, bà chè chai thấm
mệt, chống cuốc đứng thở. Bất ngờ, chú Định từ đằng sau xông tới, vật ngửa bà
ta nằm gọn trong lỗ vừa đào, một tay lột quần. Cũng may, bà chè chai khá khoẻ,
mặc dù nằm dưới bà ta vùng vấy bổ ngược cái cuốc vào mông chú, miệng la làng
kêu cứu. Vài người xúm đến, bà ta được giải thoát. Việc này sau trở thành giai
thoại. Bất cứ bờ tre, gốc đa người làng ngồi túm năm tụm ba, thầm thì to nhỏ
với nhau, thỉnh thoảng lại đồng thanh phá ra cười rũ rượi. Chuyện này lan sang
các làng lân cận, trở thành nỗi sỉ nhục của họ tộc nhà Thuần, đến nỗi, mỗi khi
đến trường, mấy đứa bạn cùng lớp ồ lên: "Đi buôn sắt vụn nào” Thuần đã
thấy chạm nọc, liền tìm cớ lủi biệt.
Một
thời gian sau, vào lúc nhá nhem tối, chú Định đi ngang qua bờ dâm bụt của nhà
hàng xóm bỗng nghe thấy tiếng nước dội ào ào. Chú vạch bụi dâm bụt nhìn vào:
cái nhà tắm được quây tạm bợ bằng cót, thủng một lỗ như cái rá, phơi ra toàn bộ
phần kín đáo nhất của thân thể bà hàng xóm. Người rạo rực như phát sốt, hai đầu
gối như bị rút gân quỵ xuống, chú lách bụi dâm bụt bò vào. Không may cho chú,
con chó lai Nga ngửi thấy hơi người lạ, từ trong nhà phi thẳng ra bụi dâm bụt
sủa ngậu lên. Chú Định lồm cồm lùi dần, rồi chạy. Con chó phóng theo đớp một
miếng chí mạng vào bắp chân chú, kéo xoạc một mảng quần. Ngày hôm sau, nhìn chú
tập tễnh vác cày ra đồng, bà hàng xóm nổi đoá, chõ thẳng vào mặt chú, cứ "Định
dê” mà chửi, rồi cho chú ăn no nê, thoải mái, những thứ mà đàn bà, con gái một
tháng mới "chiết xuất” ra được một lần. Cái tên "Định dê” bắt đầu từ
đó.
Lại
một thời gian nữa, cái con điên đầu tóc bù xù dính cả lá bánh, cọng rơm, giấy
gói kẹo, quần áo cũn cỡn, rách tua rua như bị cá rô đớp, phơi ra cái rốn lồi,
đen và nhăn nhúm như quả dưa cà phơi nắng, ngày ngày xin ăn ở chợ làng, tối về
thì chui vào miếu thổ thần để ngủ, bỗng mang thai. Nhiều người phát hiện dạo
này chú "Định dê” lại sắm đèn soi ếch., đêm đêm thường đi về hướng miếu,
cả những đêm không mưa. Người làng lại túm năm tụm ba, bàn tán xôn xao tác giả
bào thai đích thị là chú Định của cô.
Cái
máu chơi gái kiểu "ma bùn” của chú Định có đất dụng võ, khi cái thị trấn
cách làng Thuần hơn cây số mọc lên mấy quán karaoke và thư giãn đấm lưng, thực
chất là những nhà chứa trá hình nhằm phục vụ cho con em nông dân các làng lân
cận. Để phỉ chí tang bồng, chú Định bỏ ruộng lên thị trấn thuê nhà, bên ngoài
bán nước, bán đề, bên trong mở mấy chiếu bạc cho các cụ trong Hội người cao
tuổi thị trấn có nơi kín đáo mà sát phạt nhau sau những cuộc hội họp để thu hồ.
Có tiền, chú thả sức ăn chơi. Mấy chục ả ca-ve của những quán quanh đó chú đã
"xài” hết. Thèm "hàng” mới, một tuần đôi ba lần chú phóng xe ra thành
phố, vô tình mò cả đến quán Mỹ Duyên, nơi Thuần làm gái từ ngày ở quê ra.
Một
lần, sau khi đi khách xong, cô cầm tiền bo định đi lên quầy bar thanh toán với
bà chủ, bỗng Thuần khựng lại bởi tiếng nói ngàn ngạt của người bị bệnh hen mãn
tính nơi phòng chính. Qua cửa sổ, Thuần thấy chú Định đang ngắm nghía, bẹo má
mấy chị em cùng làm. Mặt Thuần hết máu, trắng bệch, thân thể nhũn ra như cây
mùng héo. Cô nín thở, lùi vội vào cái buồng bỏ không, nơi chứa mấy cái gường
gãy và máy bộ đệm rách. Chờ cho chú Định đưa gái vào phòng, Thuần mới lẻn ra,
nói dối bà chủ quán là có việc gấp, rồi dắt xe phóng thẳng về nhà trọ, nghỉ
hẳn, không dám bén mảng đến quán Mỹ Duyên cả ngày hôm đó.
Rất
may cho Thuần, mấy ngày sau đó, xới bạc chú Định bị công an phục kích bắt quả
tang. Ngoài nợ nần chồng chất, chú phải chịu cái án phạt tù một năm rưỡi. Con
đường ăn chơi trác táng của chú Định tạm thời khựng lại.
Ra
tù, chú Định đi thẳng về nhà mình, ngủ đẫy một đêm. Sáng hôm sau chú lấy ở góc
bếp một con dao rựa đã han rỉ. Chú mang ra bờ ao, nơi có cái thớt trên của cái
cối xay bộ bị vỡ vẫn dùng làm đá mài, hùng hục mài suốt một buổi sáng, cho đến
lúc sáng loáng mới thôi. Chú xách dao đi thẳng sang nhà Thuần, đứng sững giữa
cửa, trong lúc bố Thuần đang ngồi bên bàn nước, tuyên bố một câu xanh rờn:
-
Việc chia đất của các cụ ngày xưa là bất hợp lý. Không lẽ nào vì cái chuyện anh
chui ra trước tôi, đã được ở phía ngoài lại còn được thêm 20 mét bờ tre chạy
dọc đường làng. Tôi lấy lại năm mét để mở cái quán kiếm ăn.
Chẳng
đợi bố Thuần đồng ý, chú Định đi thẳng ra bờ tre, xắn tay áo vung dao như múa.
Cành tre, lá tre bay tơi tả như gặp gió to.
Dù
hiền lành, bố Thuần cũng không thể nào chấp nhận được sự sấc xược vô lối của
thằng em trai. Ông nhào ra bờ tre, đứng chặn trước mặt chú Định, quát lên:
-
Dừng tay!
Không
đếm xỉa đến lời ông anh, con dao trong tay chú Định vẫn vung lên, hạ xuống liên
tục, ánh nắng lấp loá phản chiếu từ con dao như nhảy múa, như trêu ngươi bố
Thuần.
Biết
tiếng quát của mình không đủ uy lực chặn tay thằng em ngang ngược, bố Thuần lựa
thế nhảy vào, dùng cả hai tay nắm chặt cổ tay cầm dao của chú. Hai bên giằng co
xô đẩy nhau, cuối cùng con dao rơi đánh "keng” xuống đường làng bê tông,
vừa lúc thằng Tâm đạp xe về.
Nhìn bờ tre bị chặt nham nhở, nhìn cái ngõ
ngổn ngang những tay tre, nó hiểu chuyện gì đã xảy ra. Hất xe đạp vào bờ tre,
nó nhảy tới, trong lúc chú Định đã gỡ tay cầm dao của mình khỏi tay ông anh.
Một tay túm chặt cổ áo bố Thuần, tay kia co lại, dùng miếng võ điêu luyện chú
học được trong tù, thoi một quả đấm chí mạng vào mặt ông anh. Máu mũi, máu mồm
bố Thuần ộc ra.
Thằng
Tâm chụp con dao dưới đất, nhảy đến chỗ hai người, vung lên, quát:
-
Buông bố tôi ra!
Đang
say máu, chú Định co tay, định bồi tiếp cho ông anh một đấm nữa. Không may, bắp
tay phải của chú lúc thu về bén đúng lưỡi dao mà thằng Tâm vừa dứ. Một mảng áo
rách toạc, một mảng thịt bắp tay bị lật, máu đỏ túa ra.
***
Thuần
về đến nhà lúc trời sập tối. Cô cẩn thận dắt xe đạp vào góc nhà rồi ngồi xuống
mé gường kê bên cửa sổ, vốn là chỗ ngồi thân quen từ ngày còn thơ ấu. Cô thường
ghé môi qua song cửa trêu chòng chú Định, mỗi khi chú ra ao rửa rau.
Thấy
Thuần về, khuôn mặt dúm dó của bố Thuần như nở ra, lấp lánh nét vui mừng vì đã
có cứu tinh. Nhìn đôi vai gày trong lần áo mỏng của con gái cứ dướn lên sau mỗi
lần thở gấp, ông không vội nói ngay, mà chỉ ngồi bên bàn lẳng lặng nhìn Thuần.
Chiếc điếu cày dựng nghiêng trong cái thùng sơn cũ xoay đi xoay lại bởi mấy đầu
ngón tay ông. Cuối cùng ông vo viên một điếu, ấn vào lõ rồi bật lửa. Khói thuốc
còn vẩn trước mặt, ông húng hắng ho vài tiếng, ề à:
-
Con Lan xóm trên, bạn học với mày, đẻ đứa thứ hai rồi đấy! Lại con trai!
Câu
nói của bố có hàm ý nhắc nhở đến duyên phận của Thuần không đạt hiệu quả mong
muốn và làm rối thêm những suy nghĩ trong lòng cô. Thuần bực mình cấm cảu:
-
Bố nói chuyện ấy ra lúc này làm gì!
Bố
Thuần ớ ra, mặt tóp lại. Cái yết hầu như củ ấu trên cần cổ nhăn nhúm chạy lên
tụt xuống rối loạn trước phản ứng của con gái. Biết mình lỡ lời, cô đưa mắt lấm
lét nhìn bố đang dùng bàn tay đen đúa, lúng túng đưa lên xoa cằm, cô bỗng chạnh
lòng. Đã không biết bao nhiêu lần, Thuần dùng bàn tay của mình giữ chặt bàn tay
của những ông khách, không cho họ tiến sâu hơn nữa trong lúc họ đang cuồng dại.
Những bàn tay mịn màng và mềm dẻo biết bao, khác hẳn bàn tay chai sần của bố
cô. Cũng là đàn ông, nhưng so với họ, bố cô cả đời chỉ biết lội ruộng, ngoài mẹ
Thuần, không biết đến người đàn bà nào khác. Thuần muốn chạy đến ôm lấy bố mà
gào lên một tiếng thật to: "Bố ơi!”.
Thuần
sẽ sàng hỏi bố như chuộc lỗi:
-
Chú Định đòi con sang hả bố!
-
Ừ! Chú ấy không thèm nhìn mặt bố mày, không thèm nhìn mặt ai trong nhà này. Đào
đâu ra hai mươi triệu bây giờ hả con!- Bố Thuần rên rỉ.
Thuần
băn khoăn:
-
Sao lại phải là con? Việc này là việc của cha chú cơ mà!
-
Bố cũng không hiểu!- Ông ngập ngừng- Hay chú biết mày làm công nhân giày da lắm
tiền...!
Thuần
cười khẩy, đưa mắt nhìn ra mảnh sân tối thui, rồi lặng lẽ quay vào, ngước mắt
nhìn lên bàn thờ gia tiên. Một lá trầu héo quắt rũ xuống, quặp vào miệng đĩa
đựng hoa quả. Thuần len lén đi đến, cô dùng khăn lau mặt ban thờ, rồi kính cẩn
thắp ba nén hương. Khi các đầu hương đã cháy đỏ, cô quay lại hỏi bố, giọng thăm
dò:
-
Thím Định và hai em Linh, Huyền không có ý kiến gì sao?
Bố
Thuần chép miệng:
-
Thì mày cũng biết rồi đấy! Chú ấy đã làm gì, vợ con đố dám ho he. Ngay như việc
bỏ ruộng lên thị trấn thuê nhà dạo trước...
Lặng
đi một lúc như dành thời gian cho Thuần định liệu, bố Thuần ngần ngừ:
-
Tối nay thím và hai em lại về ngoại có giỗ...
Thuần
ngẩng đầu nhìn bố một lần nữa rồi dứt khoát:
-
Thôi được, con sang!
Thuần
quầy qủa đi thẳng ra ngõ. Đến cổng nhà chú Định, cô ngập ngừng dừng lại, ngửa
mặt nhìn lên nền trời quê tối đen như bùn, lẳng lặng hít một hơi thật sâu, rồi
kiên quyết đẩy cổng bước vào.
Chú
Định đứng sững giữa nhà, không để Thuần kịp chào hỏi, chú gầm lên:
- Mày được lắm! Đã thế thì tao nói thẳng.
Giữa tao với gia đình nhà mày từ bây giờ không còn anh em, chú cháu, máu mủ
ruột rà gì hết! Nó chém tao gần lìa cánh tay ra thế này - chú Định giơ cánh tay
băng bó vào mặt Thuần, rồi ông ta cúi xuống gầm bàn, cầm lên một vật dài bọc
ngoài bằng một tấm giẻ rách bẩn thỉu. Ông ta bỏ tấm giẻ, cầm con dao rựa dí
thẳng vào mặt Thuần:
-
Tang chứng đây! Muốn cứu nó khỏi tù thì "nôn” hai chục triệu ra!
Bị
đòn phủ đầu, mặt Thuần tái dại, đôi môi hồng đổi sắc nhợt nhạt, mấp máy định
phân trần vài câu thì người chú giơ cánh tay còn lành xua lia lịa:
-
Khỏi trình bày! Tao thừa biết mày có tiền, nhiều tiền là khác! Cả nhà mày, cả
làng này chỉ biết mày làm công nhân giày da, nhưng tao biết mày ra tỉnh làm
điếm. Mỗi ngày tiếp hàng chục khách, kiếm mấy trăm nghìn... Có thế mày mới có
tiền sửa nhà, lắp điện thoại cho bố mày chứ!
Thế
là đã rõ. Cái điều mà Thuần nơm nớp lo sợ bấy lâu đã được nói ra từ miệng chú
cô. Hẳn rằng những lần đến chơi gái ở quán Mỹ Duyên, dù cô đã trốn và đã thay
tên đổi họ ngay từ lúc vào nghề, vẫn không sao thoát khỏi sự tinh ma và bề dày
kinh nghiệm ăn chơi của chú mình. Nó như một đòn chí mạng, đập tan hy vọng của
Thuần hòng bám víu vào tình chú cháu, máu mủ mà giải cứu cho thằng Tâm khỏi tù
và cô khỏi mất tiền. Chú đã biết Thuần làm điếm, vậy mà chú còn nhẫn tâm và đểu
cáng cướp lại những đồng tiền nhơ nhớp ấy của cô. Thuần lảo đảo quỵ xuống. Phản
xạ tự nhiên như những ngày đầu đi khách còn xấu hổ, cô giơ cả hai bàn tay lên
che mặt, gào lên, khản đặc:
-
Chú ơi!...
Chú
Định cong người, giơ cánh tay lành giật phăng hai tay đang ôm mặt của Thuần,
chỉ vào mặt cô xỉa xói:
-
Mày vừa sướng, vừa được tiền, thì mày phải biết tiêu tiền đúng miếng- Chú Định
dằn giọng, tiếng nói rít qua kẽ răng - Mày chi ra, không thiệt đâu! Ngoài việc
cứu em mày khỏi tù, tao thề sẽ giữa kín, không hé răng để một người nào làng
này biết mày ra tỉnh làm phò! Sướng chưa, nhất chi lưỡng việc, còn gì!
Thuần
bị điểm huyệt. Cô ệp xuống, dúm dó như một con gà nhép dưới bóng tối của đôi
cánh con diều hâu từ trên cao chớp xuống. Cái điều cấm kị, tuyệt đối cấm kỵ,
hòng giữ thể diện cho bố mẹ và dòng họ mà cô ém nhẹm trong dối trá mấy năm nay,
không khéo bị ông chú ruột lật tẩy, phô bày ra giữa làng nước. Trong cái mười
phương của đời làm đĩ, cái phương duy nhất còn để lấy chồng, có nguy cơ bị
người chú vô lương tâm đóng lại. Thuần đang trở thành vật hy sinh cho một chuỗi
sai trái mà những người ruột thịt với cô gây ra, và đích thân chú ruột tống
tiền Thuần, những đồng tiền mà ông chú quý hoá của cô cho là từ sướng mà ra.
Ôi,
chú của cháu ơi! Đâu rồi cái ngày cháu học vỡ lòng, chú hớn hở khoác lên người
cháu cái áo phin hoa cổ cánh sen, mua bằng tiền bán lứa rau đầu tiên trong vườn
nhà, rồi bồng cháu lên vai, đi nhông nhông trước con mắt ước ao, thèm muốn của
những đứa trẻ cùng lớp...
Cô
ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt người chú như tìm lại gương mặt ngày xưa. Dưới ánh
đèn vàng quạch, khuôn mặt chú Định xù xì, nham nhở với mớ tóc dựng đứng, tựa gốc
cây bị bật bên đường.
Lo
sợ đến đắng họng làm cô như tắc thở. Thuần trợn trừng nhìn chú Định đang lồng
lộn như một con sói mà nước mắt cứ tràn ra trên má. Trời ơi, lẽ nào như thế!
Đành rằng là người, Thuần phải kiếm tiền, nhưng chỉ bằng cách của mình thôi,
không làm hại ai khác. Còn đây: người chú đáng phải kính trọng của cô lại kiếm
tiền bằng cách đánh trúng điểm yếu của người thân, của con cháu. Vì tiền mà chà
đạp cả tình cả nghĩa, thậm chí đến vô nhân như thế này!
Không!
Không thể nào như thế! Chút hy vọng yếu ớt ngọ nguậy trong lòng Thuần, làm sáng
rõ một dự định trắc nghiệm về sự còn mất của tình ruột thịt trong con người chú
Định, mà cô manh nha từ lúc ngồi một mình trong cái phòng của quán Mỹ Duyên.
Thuần cũng linh cảm được kế hoạch mà cô vạch ra để đối phó với chú Định là cực
kỳ nguy hiểm, bởi con người bạo dục và thành tích bất hảo của chú. Nhưng mặc,
cư phải hành động đã! Nếu chú Định thực sự súc vật, cô sẽ tự giải cứu mình,
không bao giờ để việc ấy xảy ra. Hất thẳng mớ tóc rũ rượi bết nước mắt ra sau
gáy, Thuần vụt đứng dậy, sấn đến trước mặt ông chú. Là phụ nữ, nếu buộc phải
đánh trả sự vô nhân, thì nên dùng biện pháp vô loài!
Cách
người chú cỡ bước chân, Thuần dừng lại, đầu cúi xuống, hai bàn tay chắp trước
ngực, cô thẽ thọt:
-
Chú ơi! Cha cháu nghèo hèn, chúng cháu bé dại tội nghiệp, cầu xin chú nghĩ
lại...
Không
để cô nói hết, chú Định trừng mắt:
-
Im đi, khỏi nhiều lời! Tao nói rồi! "Nôn” hai mươi triệu ra đây!
Thuần
rên rỉ:
-
Nhưng chú biết rõ mà, những đồng tiền của cháu...
-
Mặc mẹ mày, tao không cần biết! Tiền nào cũng là tiền. Có chịu "nôn” ra
hay không thì bảo!
Biết
có cầu xin thêm nữa cũng vô ích, nỗi cay đắng đầy đến mức không còn chỗ chứa,
Thuần đảo mắt quét một cái nhìn lên thân thể chú Định, cái nhìn nghề nghiệp,
dùng mắt sờ nắn và đoán định chính xác độ cứng mềm của người khách lạ lần đầu
tiên vào phòng với cô, trước khi họ trút bỏ quần áo. Việc ấy với Thuần quen
rồi, cô chưa hề ngán bất cứ một loại đàn ông nào, từ những ông trọng lượng cơ
thể nặng ngót một tạ, toàn thân thơm phức mùi rượu Tây hảo hạng, đến những
thằng nghiện còm nhom, hôi hám, cả lưng, bụng, chân, tay xăm trổ vằn vện đầy
những hình rắn, rết, chồn, cáo, hổ, báo, đại bàng. Thuần đổi giọng, nói rành
rọt:
- Được, ông nói thế, rõ rồi! Nhưng tôi vẫn
chưa tin là ông đã tuyệt tình!
Không
để chú Định kịp phản ứng, Thuần bồi tiếp, như cảnh báo với chú, đối thủ của ông
ta là ai:
-
Tôi làm điếm là đã tuyên thệ với mình, chấp nhận đàn ông toàn thế giới. Già,
trẻ, lớn, bé, da đen, da trắng, da đỏ, da vàng. Sẵn sàng xuyên lục địa bán
thân! Còn ông, đẹp tốt nỗi gì! Từ ngày đất nước mở cửa, ông sa đoạ trác táng,
không từ một loại đàn bà nào, thậm chí con điên ở chợ ông cũng không tha, trở
thành một loại đĩ đực, chơi gái thành thần!
Phóng
những tia mắt rực lửa như muốn thiêu cháy ông chú đang loạng quạng, chao đảo,
quờ tay ra sau tìm cây cột để dựa lưng, Thuần đưa tay luồn vào áo ngực, rút ra
quyển sổ tiết kiệm, quẳng lên bàn, chỗ sáng nhất:
-
Đây là hai mươi triệu! Cộng với lãi suất sáu tháng của ngân hàng!
Chú
Định chộp vội quyển sổ, đưa lên sát mắt kiểm tra.
-
Để có nó - Thuần gào lên - Ông có biết tôi phải vần trên bụng bao nhiêu thằng
không? - Thuần vung tay xoè cả năm ngón trước mặt người chú - Năm trăm thằng!
Ông biết đếm chứ, năm trăm thằng! Gấp đôi đàn ông cái làng này!
Không
để người chú cảm nhận hết tầm con số, Thuần hạ giọng, dõng dạc:
-
Tôi sẽ viết giấy uỷ quyền! Nó là của ông với điều kiện: ông chứng minh được chúng
ta là người dưng!
Bằng
một động tác thuần thục, trong tích tắc, toàn bộ quần áo trên người Thuần tuột
xuống đất, loã lồ thân thể trẻ trung với bộ ngực đầy đặn của cô. Chỉ một bước,
Thuần lên giường, nằm ngửa, khép hờ đôi mắt u buồn bên sống mũi thẳng và cao
như mũi Đức Mẹ, rồi duỗi thẳng cặp giò trắng như ngó cần ngay cạnh người chú
đang đứng chết trân, hất hàm:
-
"Của lạ” đấy! Chứng minh đi!
Chú
Định ngây ra, không hiểu đứa cháu gái định giở trò gì. Sau hiểu ra mới biết
mình đã lâm vào một tình huống khốn nạn. Mọi kế hoạch vạch ra để tống tiền bị
Thuần bẻ sang hướng khác, đặt ông ta vào một tình thế trớ trêu. Toàn thân ớn
lạnh, chú Định luống cuống lùi lại, suýt ngã ngửa, may có cái bàn chặn lại phía
sau. Nhiều lần đứng trước những người đàn bà khoả thân do mua được, hay
"chim” được, khi họ đã nằm trên giường, ông ta bình tĩnh và lọc lõi thoả
mãn nhục dục của mình, không chút do dự. Còn bây giờ, cái thân thể trắng trẻo
đầy ma lực kia là cháu ông. Liệu có nên không khi mười tám tháng trong tù, ông
ta luôn phải thủ dâm? Hai mu mắt sụp xuống, chú Định vuốt một cái nhìn trộm lên
thân thể Thuần: Đây có phải là "bữa tiệc” mà ông trời đền bù cho hơn năm
trăm ngày "thiếu đói” của ông ta hay không?
Như
đọc được ý nghĩ trong đầu ông chú, Thuần nheo một bên mắt, khẽ nhéch môi kiểu
nửa miệng, nét mặt hết sức khinh nhờn:
-
Sao, không dám bước qua ngưỡng à! Bản lĩnh người hùng của một thời soi ếch đâu
rồi!
Chú
Định đảo mắt nhìn vội ra sân. Thuần giục:
-
Làm đi, được hai thứ đấy! Nhất chơi lưỡng lợi. Đại lộc còn gì!
Câu
nói đểu cáng mang đậm tính chuyên nghiệp kiểu đĩ điếm thị thành, sặc mùi thách
đố, cá cược của đứa cháu gái như mũi dao sắc lạnh đâm suốt vào trái tim tự tôn
bề trên vẫn còn trong tiềm thức của người chú. Mặt ông nóng bừng, hai má co
giật, toàn thân ông run lên, đôi môi dày mím chặt, mắt long lên trắng dã, hai
tròng mắt trồi ra như hai viên đạn sắp bay ra khỏi nòng súng. Cái con nhãi ranh
trời đánh thánh vật không chết, nằm thưỡn trên giường kia, mới có mấy năm ra
tỉnh, lăn lộn, vật vã giữa trường đời, đã kịp trang bị trong mình một loại vũ
khí là một chất kịch độc.”Mượn gió bẻ măng”. Ông những tưởng âm mưu của mình đã
thâm độc, nhưng so với nó, chất độc của ông ta chỉ như nọc của con ong so với
chất độc của con bọ cạp!
Vứt
"bẹt” quyển sổ tiết kiệm vào mặt Thuần, chú Định cúi xuống, bốc nắm quần
áo ném thẳng vào người cô.Tiện tay ông vớ cái điếu cày dưới chân bàn, vung
ngược lên trước mặt Thuần, nước điếu òng ọc đổ xuống nền nhà, hôi khai nồng
nặc.
-
Cút! Cút ngay. Cút khỏi nhà tao! Đồ con...
Nắm
chặt trong tay quyển sổ tiết kiệm, Thuần ấp vội mớ quần áo lên ngực, xộc xệch
vọt ra khỏi giường. Đến bụi tre cô còn nghe tiếng chiếc điếu cày nhảy côông
côông trên nền sân gạch. Ngấm độc, chú Định gào lên, tiếng gào đau đớn, ê chề,
vang vọng trong đêm tối giữa làng quê thanh bình.
***
Sáu
giờ sáng bố Thuần mới lay cô dậy. Tối qua khi thấy con gái thất thần chạy như
ma đuổi từ bên chú Định về nhà, leo lên giường trùm kín chăn khóc dấm dức, dù gạn
hỏi thế nào cũng không nói, ông đành bấm bụng chờ đến sáng nay. Biết Thuần còn
ngái ngủ, ông không hỏi ngay. Cả hai cứ ngồi trên giường nhìn qua cửa sổ quan
sát nhà chú Định. Có tiếng kẹt cửa, chú Định từ trong nhà đi ra bờ ao, cánh tay
lành xách con dao rựa sáng trắng. Bố con Thuần nghẹt thở. Họ không hiểu chú
Định sẽ giở trò gì nữa. Đến bờ ao, nơi có hòn đã đá mài vốn là nửa thớt trên
của cái cối xay bột bị vỡ, ngày xưa vẫn dùng xay bột cho đám trẻ của hai nhà,
chú dừng lại rồi lẳng lặng phi con dao ra giữa ao. Một tiếng "chút”, con
dao cắm xuống nước theo cạnh dọc. Mặt nước loang ra vô số vòng tròn rồi yên
tĩnh trở lại.
Chú
Định lẹp kẹp lê dép quay vào nhà. Bố Thuần thở một hơi dài rồi quay sang cô
thầm thì:
-
Hôm qua con thưa chuyện với chú thế nào mà bố thấy như việc đã xong. Con cứ đi
làm kẻo muộn, người ta lại đuổi việc! Thời buổi này, ở ngoài phố, có được việc
làm như vị trí của con là quý lắm đấy!
Trại sáng tác Đại Lải Tháng 8 – 2007
(Hội viên Hội Nhà văn HP)
Ngọc Châu gửi đăng.
Cập nhật lại- ngày 06/01/2016
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 04/05/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
________________________________________________
Một ngày kiếm việc – Truyện ngắn của Lương
Văn Chi
Ngày 10/08/2011
Bỏ lại
đằng sau tất cả sự ồn ào, náo nhiệt của một đường phố trong thời kỳ mở cửa,
Lương thất thểu ngoặt xe vào ngõ nhỏ nhà mình. Dựng chiếc xe đạp ọc ạch vào bờ
rào, anh thẫn thờ bước vào nhà, và uể oải ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa cũ kỹ
độc nhất kê dựa bên tường, rồi giơ ngang tay áo, gạt mồ hôi trán. Thậm chí anh
cũng không cần để ý đến thái độ của Hà- vợ anh- sẽ như thế nào khi biết anh đã
đi không để về rồi: bởi Lương biết nói gì đây với người vợ cũng hoàn toàn bất
lực,
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Lương Văn Chi
Họ tên thật Lương Văn Chi
(Hội viên Hội Nhà Văn Hải Phòng)
Sinh ngày 23/10/10/1955 tại Xuân Trường, Nam Định
Nguyên quán: Việt Yên, Bắc Giang
Địa chỉ thường trú: Số 12, ngõ 31, Đội Văn, Trại Chuối, Hải Phòng
ĐT: 0919 824 926
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
MỘT NGÀY KIẾM VIỆC
Bỏ lại đằng sau tất cả sự ồn ào, náo nhiệt
của một đường phố trong thời kỳ mở cửa, Lương thất thểu ngoặt xe vào ngõ nhỏ
nhà mình. Dựng chiếc xe đạp ọc ạch vào bờ rào, anh thẫn thờ bước vào nhà, và uể
oải ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa cũ kỹ độc nhất kê dựa bên tường, rồi giơ
ngang tay áo, gạt mồ hôi trán. Thậm chí anh cũng không cần để ý đến thái độ của
Hà- vợ anh- sẽ như thế nào khi biết anh đã đi không để về rồi: bởi Lương biết
nói gì đây với người vợ cũng hoàn toàn bất lực, khi gặp cảnh nhà túng quẫn,
chẳng có phương sách gì tháo gỡ mà chỉ chăm chắm trông vào một người duy nhất
là anh.
Đã nhiều năm rồi, kể từ ngày nhà máy giải thể, Lương được nghỉ theo chế độ hưởng lương trợ cấp một lần. Với mười tám năm công tác anh được lĩnh một số tiền mà có lẽ ngót hai mươi năm làm công nhân nhà nước, anh mới được cầm đâu có một đôi lần. Nhẩm tính, nếu thêm vào khoảng một phần tư số tiền ấy, sẽ đánh đủ cái nhẫn vàng một chỉ. Lương tặc lưỡi: Thôi thì rướn lên một tý!
Đã nhiều năm rồi, kể từ ngày nhà máy giải thể, Lương được nghỉ theo chế độ hưởng lương trợ cấp một lần. Với mười tám năm công tác anh được lĩnh một số tiền mà có lẽ ngót hai mươi năm làm công nhân nhà nước, anh mới được cầm đâu có một đôi lần. Nhẩm tính, nếu thêm vào khoảng một phần tư số tiền ấy, sẽ đánh đủ cái nhẫn vàng một chỉ. Lương tặc lưỡi: Thôi thì rướn lên một tý!
Lồng
cái nhẫn vàng một chỉ vào ngón tay vợ, Lương thấy mặt Hà có vẻ nở nang, hớn hở
hơn mọi ngày. Anh biết rồi đây, trước họ hàng nội ngoại, trước bạn bè cùng
trang lứa và hàng xóm, vợ anh sẽ vô cùng hãnh diện bởi món quà kỷ niệm: công
sức còn lại ngót hai mươi năm trai trẻ của chồng mình.
Chỉ vậy thôi, nhiều người cùng nhà máy với anh còn ghen tị bởi anh về đúng đợt nên mới làm đơn xin nghỉ có hơn một năm là đã lĩnh được tiền rồi.
Chỉ vậy thôi, nhiều người cùng nhà máy với anh còn ghen tị bởi anh về đúng đợt nên mới làm đơn xin nghỉ có hơn một năm là đã lĩnh được tiền rồi.
Niềm
kiêu hãnh không ở lại với vợ chồng Lương bao lâu. Chiếc nhẫn vàng rời bỏ tay Hà
và trở lại tay chị là nhiều kí lô gam muối hạt ngô và những mớ rau muống: Nguồn
thực phẩm chủ yếu của gia đình trong những ngày anh thất nghiệp.
Từ
bấy đến nay, anh sống phập phều, trôi nổi, chẳng có chút gì gọi là căn bản. Với
một tay nghề không thấp, nhưng chưa cao và cũng chẳng phải là thứ nghề hiếm hoi
cho lắm, có được từ ngày làm ở nhà máy, anh kiếm việc nhì nhằng, buổi đực, buổi
cái, cố duy trì hết sức khiêm tốn cuộc sống của gia đình mình.
Những
lúc thất nghiệp dài dài, khi mà hòm gạo và túi tiền nháy lên liên tục tín hiệu
cấp cứu, do nhiều năm vật vã kiếm sống, Lương có được một mẹo nhỏ là đi thăm
lại những người quen cũ. Qua tâm sự may ra anh kiếm được việc làm.
Nhưng
sáng nay, sau khi lòng vòng đạp xe bên cạnh mấy ông bạn xích lô đang gập những
cái lưng áo sũng ướt mồ hôi trên những xe hàng nặng, sau khi ngồi cùng mấy ông
thợ sửa chữa xe đạp vêu vao dưới mấy gốc cây, toàn những người bạn cùng đội ngũ
trong nhà máy khi xưa, chẳng kiếm được manh mối gì khả dĩ nảy ra việc làm,
Lương thất vọng ra về.
Khác
hẳn với sự rã rời buồn chán của Lương, Hà lại vui vẻ ra mặt. Chưa ráo mồ hôi,
Lương đã thấy một điều là cái không khí bí bách ngột ngạt do hết tiền, hết gạo
mà chưa kiếm được việc làm suốt thời gian qua, hình như đã bừng lên một luồng
sinh khí mới, mặc dù anh chưa biết cơn cớ từ đâu. Vợ anh đã vay nóng được một
món tiền của ai đó? Hay một người bà con xa là kiều Mỹ mà vợ anh hay thắc thỏm
nhắc tới, đã về nước thăm họ hàng rồi?...
Trong
lúc Lương còn đang phân vân thì Hà giơ tay bật công tắc quạt trần, hai gò má đổ
mồi tái xám, lấm tấm tàn hương như hồng hơn.
-
Anh Kế vừa sang, nhắn mình đến ngay, có việc làm.
Ba
tiếng "có việc làm" Lương nghe mà tưởng tiếng chuông đồng hồ báo thức
cắt đứt một đêm dài, một điểm sáng le lói trong đường hầm không lối thoát. Anh
nhíu mày:
-
Kế nào nhỉ?
-
Khổ quá! - Hà giãy nảy - anh Kế ở tổ chức nhân lực nhà máy khi xưa chứ còn ai
nữa!
Chẳng
biết chồng mình đã nhớ ra chưa, Hà kể tiếp:
-
Anh ấy bây giờ béo lắm, đi ô tô con đến nhà mình. Anh ấy kể mới xây lại nhà
trên nền đất cũ, những bốn tầng, ghê không? Rồi mở năm công ty. Nghe kể, em
biết họ bây giờ sướng lắm - mặt Hà sáng ra - Thật là những người phúc đức, giầu
thế mà còn nhớ đến vợ chồng mình...
Hà
loay hoay lục túi áo:
-
Các-vi-dít của anh ấy đây này!
Lật đi lật lại tấm các thơm mùi nước hoa, lòng
Lương bập bùng như tiếng trống mừng công hoàn thành kế hoạch cuối năm của nhà
máy, thời anh còn là công nhân biên chế.
-
Đi ngay đi! - Hà giục - kẻo chậm lại mất việc - rồi Hà cười - ăn cơm khách ngon
đừng có quên mẹ con tôi nhé!
Giữa
chừng câu nói của vợ, Lương xuống bếp lấy vội cái thước cuộn Trung Quốc, bỏ vào
túi quần rồi dắt xe đi.
***
Mặc
dù bánh trước xe đạp Lương đi bị lót một miếng, nên mỗi vòng quay lại nhảy lên
một nấc, nhưng đường phố vẫn lùi lại mau sau xe. Mặt trời tuy lên cao nhưng gió
thoáng hơn. Đường phố nhộn nhịp khi lòng Lương phơi phới, anh lạng lách, tránh
xe này, vượt xe khác như hồi trai trẻ khi xưa, bởi chỉ tý nữa thôi anh sẽ gặp
lại Kế, anh sẽ có việc làm và sẽ có tiền. Gia đình anh một lần nữa sẽ vượt ải
nguy nan. Vừa mải miết đạp xe, vừa suy tư, lắm lúc Lương lại tự trách mình. Mấy
năm rồi, bao lần đi kiếm việc làm, sao không lần nào anh nhớ đến thăm anh chị
Kế ,bởi ngày xưa, khi còn làm ở cơ quan, tình nghĩa đôi bên khá thân mật kia
mà.
Thực
ra, Lương quen với vợ Kế trước. Ngày ấy anh là tổ trưởng công đoàn và là thanh
toán viên của một tổ sản xuất. Tháng tháng anh thường lên lĩnh lương cho tổ
mình, còn vợ Kế là thủ quỹ.
Chẳng
biết vì sao, Kế đang là cán bộ Sở lại được điều về làm anh quản lý nhân lực nhà
máy Lương. Việc ấy thường được công nhân lúc giải lao uống nước trong căng-tin
nhà máy đoán già, đoán non và tô vẽ, gán ghép với đủ những lý do chẳng lấy gì
làm hay ho cho lắm.
Một
hôm, giờ giải lao, tại căng-tin nhà máy, Dũng - một công nhân trong tổ Lương -
Sau khi chiêu một ngụm nước chè nhấp giọng, đưa mắt nhìn một lượt anh em ngồi
quanh, ra giọng hùng biện:
-
Theo tôi, lão Kế bị hạ bệ về đây, phi tham ô thì vây cánh, bè đảng bị thất
sủng...
Không
may cho Dũng, "ếch chết tại miệng", bài hùng biện co thế đã phải dừng
lại; Kế đứng sững trước mặt Dũng lúc nào không biết. Mấy phút sau ,Dũng bị điệu
lên ban bảo vệ nhà máy. Trước sự giám sát và nhân chứng là Kế, biên bản được
lập ra về việc "Công nhân Dũng đã bôi nhọ danh dự cán bộ", buộc nghỉ
việc không lương nửa tháng làm kiểm điểm.
Cả
tổ lo lắng cho Dũng bởi hoàn cảnh anh có dễ chịu gì đâu. Sự việc xảy ra, ngoài
ảnh hưởng đến thu nhập hiện tại, còn "uy hiếp" cả thi đua của quý,
đến tiền thưởng năm của Dũng. May sao, trong lúc khó khăn ấy, có tin vợ Kế bị
"vỡ kế hoạch", mới đi làm phẫu thuật, đang nghỉ tại nhà. Cả tổ thống
nhất trích một phần ba quỹ thăm hỏi của tổ mình, mua một món quà đáng giá và cử
Lương thay mặt tổ đến thăm vợ Kế, nhân đó nói lót cho Dũng.
Nhưng
vài ý kiến cho rằng: Cái việc sinh con thứ ba của vợ chồng Kế vốn dĩ chẳng ra sao.
Là vợ chồng cán bộ mà sinh hoạt bừa bãi, ảnh hưởng đến phong trào sinh đẻ có kế
hoạch của cả nước. Tổ cử người đến thăm lúc này, biết đâu vợ chồng họ nghĩ là
giễu cợt, bóc mẽ thì sao? Vấn đề quả là nhạy cảm, cuối cùng bác Thục quyết
định:
-
Thà hy sinh tất cả, quyết không để tổ viên mất việc! Dồn toàn bộ quỹ thăm hỏi
cả năm cho vụ này!
Chẳng biết do tài ăn nói của Lương hay vì món quà biếu khá đầy đặn, chỉ hai ngày sau Dũng được trở lại làm việc. Biên bản được sửa lại là: "Công nhân Dũng nghỉ giải lao quá thời gian quy định năm phút".
Sau lần đó, Lương được vợ chồng Kế nhìn nhận và luôn ban cho anh những đặc ân: những ngày nghỉ lễ hay chủ nhật, họ nhờ anh khi thì láng hộ cái nền bếp, khi thì mở to thêm cái cổng, lúc thì trát lại nhà vệ sinh và nhiều việc dọn dẹp linh tinh khác trong nhà. Đôi lúc Lương cũng cảm thấy tự hào trước mọi người, bởi mấy trăm công nhân trẻ trong cùng nhà máy, ai đã được cả hai vợ chồng cán bộ như vợ chồng Kế tin tưởng như anh. Nên mỗi khi có việc làm hộ cho vợ chồng Kế, anh làm hết sức tận tình.
Mải suy nghĩ, Lương đến nhà Kế lúc nào không hay. Theo trí nhớ của mình và được vợ thông tin trước: nhà Kế xây lại bốn tầng trên nền đất cũ, nhưng Lương vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước kiến trúc của nó với những ban công ngoằn ngoèo, những trụ cột hoa văn bay bướm, những mảnh tường bóng loáng ốp đá hoa cương. Hai cánh cổng sắt sơn mầu ghi, mở vát hình chữ V, trông tựa một cái hom giỏ, chỉ đủ cho một người lách xe vào.
Chẳng biết do tài ăn nói của Lương hay vì món quà biếu khá đầy đặn, chỉ hai ngày sau Dũng được trở lại làm việc. Biên bản được sửa lại là: "Công nhân Dũng nghỉ giải lao quá thời gian quy định năm phút".
Sau lần đó, Lương được vợ chồng Kế nhìn nhận và luôn ban cho anh những đặc ân: những ngày nghỉ lễ hay chủ nhật, họ nhờ anh khi thì láng hộ cái nền bếp, khi thì mở to thêm cái cổng, lúc thì trát lại nhà vệ sinh và nhiều việc dọn dẹp linh tinh khác trong nhà. Đôi lúc Lương cũng cảm thấy tự hào trước mọi người, bởi mấy trăm công nhân trẻ trong cùng nhà máy, ai đã được cả hai vợ chồng cán bộ như vợ chồng Kế tin tưởng như anh. Nên mỗi khi có việc làm hộ cho vợ chồng Kế, anh làm hết sức tận tình.
Mải suy nghĩ, Lương đến nhà Kế lúc nào không hay. Theo trí nhớ của mình và được vợ thông tin trước: nhà Kế xây lại bốn tầng trên nền đất cũ, nhưng Lương vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước kiến trúc của nó với những ban công ngoằn ngoèo, những trụ cột hoa văn bay bướm, những mảnh tường bóng loáng ốp đá hoa cương. Hai cánh cổng sắt sơn mầu ghi, mở vát hình chữ V, trông tựa một cái hom giỏ, chỉ đủ cho một người lách xe vào.
Để
trấn tĩnh, Lương đưa tay vào túi quần kiểm tra lần nữa cái thước cuộn Trung
Quốc rồi len lén dắt xe vào. Khẽ khàng, anh tựa tay lái xe đạp vào mé tường.
Chẳng biết do tường nhà Kế quá trơn do ốp lát đá, hay cũng như Lương, đứng
trước một dinh thự bề thế và của cải sang trọng mà nó chất chứa bên trong,
chiếc xe đạp khốn nạn của Lương cũng mất tự tin, đứng không vững, trượt trượt
mấy lần rồi đổ đánh "xoạch" một cái, kềnh ra sân, hai bánh được đà
quay tít, phát ra liên tục những tiếng loạch xoạch hết sức ngớ ngẩn.
Hai
tay đẫm mồ hôi, Lương gượng gạo dựng xe lên cùng lúc một người dừng trước cửa
và một câu hỏi ấm áp:
-
Chú muốn gặp anh Kế hả?
Lương
ngẩng vội lên, nhận ra đó là một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi, ăn vận xuềnh
xoàng, có vẻ là một người giúp việc. Anh vội gật:
-
Dạ, vâng ạ!
Người
đàn bà chỉ tay sang mé tường đối diện:
-
Chú tựa xe vào tường kia, ổn hơn - Chị quay vào - Chú cứ vào trong ngồi đợi,
tôi lên báo anh Kế!
Trong lúc chờ chủ nhà chậm chạp từ trên gác xuống, Lương đưa mắt quan sát căn phòng. Nó khá rộng, nửa như phòng làm việc của Giám đốc vì giữa nhà có bàn ghế, giấy bút, máy điện thoại, cùng máy vi tính, nửa như là ga-ra để xe bởi trong góc có một ô tô con, đầu chúi vào tường, đuôi vểnh ra ngoài cửa.
Kế đã xuống. Đó là một người đàn ông xấp xỉ cỡ năm ba, năm tư tuổi, béo tốt trong bộ pi-gia-ma kẻ sọc, nhưng hai má đã chảy sệ. Lương vội đứng lên, lúng túng:
Trong lúc chờ chủ nhà chậm chạp từ trên gác xuống, Lương đưa mắt quan sát căn phòng. Nó khá rộng, nửa như phòng làm việc của Giám đốc vì giữa nhà có bàn ghế, giấy bút, máy điện thoại, cùng máy vi tính, nửa như là ga-ra để xe bởi trong góc có một ô tô con, đầu chúi vào tường, đuôi vểnh ra ngoài cửa.
Kế đã xuống. Đó là một người đàn ông xấp xỉ cỡ năm ba, năm tư tuổi, béo tốt trong bộ pi-gia-ma kẻ sọc, nhưng hai má đã chảy sệ. Lương vội đứng lên, lúng túng:
-
Chào anh ạ!
Đang
dở bước trên bậc thang cuối cùng, Kế dừng lại, giơ cả bàn tay dày thụp của mình
vỗ vỗ trong không khí phía trên đầu Lương, ý ra hiệu cho anh ngồi xuống:
-
Sao chú vội thế?
Lương
nói lấy lòng khi Kế đã ngồi vào ghế trước mặt:
-
Ai chứ... anh chị mà có việc thì em phải xuống ngay!
Rồi
Lương trầm trồ:
-
Mấy năm không gặp, anh chị "bật" lên nhanh quá!
Kế
hơi ớ ra trước câu nói nịnh của Lương. Thoáng chút, ông ta phá ra cười, hai
tảng thịt má nhảy lên:
-
Tất nhiên, tất nhiên là thế! Nói thế nào cho cậu hiểu nhỉ - ông ta nhíu mày ra
vẻ suy nghĩ rồi đứng lên, giơ tay khoát một vòng cung rộng trước mặt - Nếu xa
hơn thì không dám, chứ tổ tiên nhà tớ, tính từ thời vua Hùng thứ nhất đến nay,
đùng một cái các cụ sống lại hết, tớ cũng dư sức bao được ấm áo, no cơm.
Dứt
câu, Kế lại phá ra cười thoả mãn. Lương cảm thấy chờn chợn khi nghe Kế nói.
Linh tính mách bảo anh phải dè chừng, nhưng thấy Kế bỗ bã "cậu cậu, tớ
tớ" như ngày xưa, Lương tạm yên lòng theo Kế lên gác.
Sau
khi ngồi yên vị, Kế vào đề:
-
Tôi gọi chú đến để nhờ chú một việc. Đơn giản thôi. Tay nghề chú thừa sức làm
được. Tất cả khu phụ của toà nhà này, từ tầng một đến tầng bốn, cần đập gạch
men ốp tường ra, bởi gạch đó không được trắng và bóng lắm, ốp lát lại gạch khác
xịn hơn. Chú mang thước mét theo không?
Nét
mặt ngời sáng, Lương lấy vội cái thước cuộn từ túi đặt lên bàn:
-
Dạ, đây ạ!
Vừa
lúc đó, vợ Kế lẹp kẹp bước từ trên gác ba xuống, theo sau là người đàn bà Lương
gặp trước cửa. Lương lễ phép:
-
Em chào chị Kế ạ!
Vợ
Kế gật đầu, bước đến bên chồng và ngồi vào ghế đối diện với Lương. Người phụ nữ
giúp việc đứng túc trực bên cạnh như có ý chờ sai bảo. Không một câu hỏi thăm
kiểu xã giao nào, vợ Kế vào đề:
-
Anh Kế bảo chú làm gì?
Lương
chẳng ngạc nhiên cho lắm trước câu hỏi đầy trịch thượng và kẻ cả của vợ Kế. Vẫn
con người ấy ngày xưa, ngồi chắn trước két bạc của nhà máy, đã quen cái vẻ uy
quyền rồi. Chỉ khác là bây giờ chị ta béo hơn nhưng cũng nhiều nếp nhăn hơn, cổ
và tay đeo nhiều vàng hơn. Lương khẽ khàng:
-
Dạ, anh bảo em ốp lát lại gạch men trong các khu phụ ạ!
Vợ
Kế vẫn giọng nhát gừng:
-
Chú định làm công nhật hay khoán trắng?
Lương
tính nhanh: Nếu khoán trắng, số công nhiều, thành tiền nhiều, vợ chồng Kế có
thể từ chối. Tốt nhất là làm công nhật. Lương mạnh bạo:
-
Thưa chị, em tính thế này: nguyên vật liệu anh chị cung cấp, có thứ gì em làm
thứ ấy. Để cẩn thận và đẹp, em xin làm công nhật...
Vợ
Kế ngắt lời Lương:
-
Một công của chú bao nhiêu?
Lương
đắn đo:
-
Chỗ anh chị với em ngày xưa, em chả dám dấu: hoàn cảnh nhà em lúc này cũng khá
bê bấn. Nhưng, trước thế nào, sau thế vậy, người khác công thợ cả bảy chục, em
chỉ xin chị năm chục!
Lương nói một thôi dài, sợ dừng lại không có cơ hội để nói. Vợ Kế ngồi im ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm nói như để mình chị ta nghe:
Lương nói một thôi dài, sợ dừng lại không có cơ hội để nói. Vợ Kế ngồi im ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm nói như để mình chị ta nghe:
-
Năm chục, vị chi bằng một phần tư ngày lương của công chức - mặt vợ Kế rúm lại,
vẻ bất bình - té ra, lương cán bộ bọn ta chỉ gấp ba, bốn lần bọn công nhân lao
động chân tay thôi à! Bất cập, bất cập!
Quay sang chồng, chị ta kể lể:
Quay sang chồng, chị ta kể lể:
-
Năm chục, cũng vị chi bằng năm ký gạo! Tháng ba mươi ngày bằng tạ rưỡi! Người
nông dân hai sương, một nắng, nếu không mất mùa, một sào ruộng một vụ năm, sáu
tháng cũng chỉ thu được ngần ấy...!
Như
ngớ người ra trước bài tính của mình, vợ Kế ngả phịch lưng vào thành ghế:
-
Thời bao cấp, mình làm tài vụ, một công nhân kèm một ăn theo cũng chỉ phấn đấu
được năm chục ký là cùng.
Rồi
chị ta quay sang chồng:
-
Anh lạ thật đấy! Công việc như thế anh chẳng bàn gì với tôi...
Trời
đất bỗng nhiên tối lại, một cái gì lành lạnh như mồ hôi thành dòng chảy dọc
sống lưng, cổ họng Lương chát ngắt. Tương lai công việc đang chập chờn phụ
thuộc vào vợ Kế. Mặt Lương xám dần. Người đàn bà giúp việc như hiểu được cảnh
ngộ của Lương, chị vội đưa cho anh cốc nước sôi để nguội. Lương uống vội vàng
rồi nói như thể vớt vát:
-
Thế ý anh chị thế nào?
-
Tôi chưa có dự toán kinh phí cho việc này - vợ Kế chẳng đếm xỉa gì đến chồng,
trả lời Lương thẳng thừng - Chú cứ về, nếu cần tôi gọi.
Rồi
chị ta ra lệnh cho chị giúp việc:
- Dưa
chú ấy xuống gác!
Một
cảm giác hẫng hụt dâng tràn trong Lương khi anh dắt xe ra cổng nhà Kế. Cái hy
vọng có việc làm vừa mới nhen nhóm lúc đến đây đã tan biến như bọt bong bóng xà
phòng. Trong cái chới với của cả đời mình, chưa bao giờ Lương thấy choáng ngợp
như hôm nay. Thiên hạ đầy người mà anh như thấy không còn ai cả. Tự nhiên anh
thương vợ, thương con mình vô cùng. Nét mặt rầu rầu của vợ anh mỗi khi dùng cái
ống bơ bò nạo quèn quẹt vào đáy hòm gạo, nhiều lần anh từng bắt gặp, chỉ chiều
nay thôi, sẽ lại tái diễn. Tại sao con người anh, số phận anh, trải bốn chục
tuổi rồi, toàn gặp những dở dang, trắc trở. Suốt bao nhiêu thăng trầm đảo lộn,
anh vẫn nằm dưới đáy cùng của sự bất hạnh. Chẳng lẽ anh lại là một sản phẩm kém
phẩm chất nhất của "thợ trời" sao?
Não
nề, Lương giơ chân gác qua yên xe đạp, chực đi. Chợt nhớ cái thước cuộn Trung
Quốc vẫn đút túi quần mỗi khi đi nhận việc, còn để quên trên bàn ở gác hai nhà
Kế. Một thoáng lưỡng lự, anh quầy quả dắt xe quay vào.
Đang
định đặt chân lên bậc thang dẫn tới tầng 2, Lương thấy có tiếng rì rầm của vợ
chồng Kế trên gác. Sợ họ có việc bàn kín, Lương ý tứ nán lại.
Tiếng
vợ Kế:
-
Tưởng nó làm hộ, chứ làm lấy công thì gọi một tiếng có cả trăm thằng thợ như
nó...
Tiếng
Kế vặc lại:
-
Người như cô, mang tiếng tay hòm chìa khoá, rách giời rơi xuống, chưa nóng nước
đã đỏ gọng!
Tiếng vợ Kế:
Tiếng vợ Kế:
-
Thế ông định chơi nó kiểu gì?
-
Thằng Lương vốn hiền lành, tay nghề chẳng kém ai, đáng lẽ cứ để nó làm xong,
cho bao nhiêu chả được. Nếu không bằng lòng thì soi kĩ, tìm lỗi của nó mà trừ
phéng tiền công đi. Làm gì mà phải mặc cả công xá trước.
Thoạt
nghe, Lương tưởng vợ chồng Kế bàn công chuyện gì, xong hiểu ra mới biết: Chỉ
suýt nữa thôi, họ chỉ ăn ý với nhau tý nữa thôi, thì cái thằng thợ khốn nạn như
anh đã sập bẫy họ rồi. Anh lảo đảo suýt khuỵu xuống, nếu tay anh không nắm được
cái trụ cầu thang. Lương gắng gượng lê bước ra ngoài cùng lúc cánh cửa buồng
bên bật mở. Chị giúp việc tay dắt chiếc xe đạp, cất tiếng hỏi Lương:
-
Chú quay lại lấy thước phải không? - Chị chỉ tay vào giỏ xe - hết giờ chị về,
định đạp đuổi theo đưa chú...
Nhìn
dáng bộ của Lương, chị như hiểu tất cả:
-
Thôi quên họ đi, chú ạ! Chị cũng về chế độ một lần như chú! Nửa đời nửa đoạn,
chẳng biết làm gì! May xin được cái chân ô-sin ở nhà này, nên chị hiểu. Về cùng
chị, chị giới thiệu việc làm ở Tổ xây dựng mới thành lập cùng phố. Toàn những
người như chúng ta thôi, nhưng làm thật, hưởng thật - chị hướng cái nhìn lên
gác - Không như những người này! - Rồi chị giục - Ta đi chú!
Khi
hai người ra đến đường chính, trời đã sang trưa. Một nhà máy bên đường tan tầm.
Từ hai bên cổng, lớp lớp công nhân hoà cùng dòng người trên đường phố. Đa số
trong họ là những công nhân trẻ. Nét mặt họ hồ hởi, thân thể họ rắn chắc, căng
mọng như những quả cam chín cây. Bất giác, Lương quay sang chị giúp việc nói:
-
Chẳng biết rồi đây, những người công nhân này có đến nỗi dở dang như chị em
mình không, hả chị?
(Hội viên Hội Nhà văn HP)
Ngọc Châu gửi đăng.
Cập nhật lại- ngày 06/01/2016
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/08/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Cuốc xe đêm – Truyện ngắn Lương Văn Chi
Lương Văn Chi
CUỐC XE ĐÊM
________________________________________________
Cuốc xe đêm – Truyện ngắn Lương Văn Chi
Ngày
10/04/2011
Sau khi
thả được ông khách ngồi sau vào một con ngõ tối hun hút, chiếc xe Rem Tàu ì ạch
quay đầu, dướn lên, bò nhanh ra con đường liên thôn rải nhựa. Gió lạnh của một
tối cuối xuân réo ù ù bên tai làm Trần tỉnh táo, tự đáy lòng anh thầm cảm ơn sự
bằng phẳng của con đường, bởi nó phần nào tạo điều kiện để anh tháo lui nhanh
hơn khỏi cái làng thâm u, bí ẩn nằm lọt thỏm giữa một cánh đồng rộng vùng ngoại
ô hẻo lánh này. Trần thở phào nhẹ nhõm vì chuyến đi trót lọt, mọi nguy hiểm mà
cánh xe ôm dễ gặp trong những cuốc xe đêm thế này đã không xảy ra. Nếu chiếc xe
không giở chứng phản chủ, Trần chỉ cần tăng tốc một chút là anh có thể về kịp
giờ hẹn đón Hoà.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Lương Văn Chi
Họ tên thật Lương Văn Chi
(Hội viên Hội Nhà Văn Hải Phòng)
Sinh ngày 23/10/10/1955 tại Xuân Trường, Nam Định
Nguyên quán: Việt Yên, Bắc Giang
Địa chỉ thường trú: Số 12, ngõ 31, Đội Văn, Trại Chuối, Hải Phòng
ĐT: 0919 824 926
Email: ngocchaunvhp@gmail.com
_____
CUỐC XE ĐÊM
Sau
khi thả được ông khách ngồi sau vào một con ngõ tối hun hút, chiếc xe Rem Tàu ì
ạch quay đầu, dướn lên, bò nhanh ra con đường liên thôn rải nhựa. Gió lạnh của
một tối cuối xuân réo ù ù bên tai làm Trần tỉnh táo, tự đáy lòng anh thầm cảm
ơn sự bằng phẳng của con đường, bởi nó phần nào tạo điều kiện để anh tháo lui
nhanh hơn khỏi cái làng thâm u, bí ẩn nằm lọt thỏm giữa một cánh đồng rộng vùng
ngoại ô hẻo lánh này. Trần thở phào nhẹ nhõm vì chuyến đi trót lọt, mọi nguy
hiểm mà cánh xe ôm dễ gặp trong những cuốc xe đêm thế này đã không xảy ra. Nếu
chiếc xe không giở chứng phản chủ, Trần chỉ cần tăng tốc một chút là anh có thể
về kịp giờ hẹn đón Hoà.
Hơn
chín giờ tối, ông khách mà Trần vừa chở mới đến gọi xe. Tưởng khách "sộp”,
cánh xe ôm cùng bến với Trần nhao ra gạ gẫm. Khi ông ta nói địa danh phải đến,
thì họ ngãng cả ra: nơi ấy, một vùng quê cách trung tâm thành phố hơn hai chục
cây số, đêm thì sắp khuya rồi...họ không thể liều vì hai chục nghìn, dù khéo
nài nỉ, thấm chí bắt bí đi chăng nữa cũng chỉ đến hai nhăm,ba mươi nghìn là
cùng. Trong khi xe của họ là những chiếc Rem xịn hoặc RS đời mới, chí ít là
những chiếc 97, bỏ rẻ cũng hơn chục triệu đồng. Nhưng Trần thì khác! Anh phải
liều vì cả ngày hôm nay anh nhấp nhổm: khi đứng, lúc ngồi, chốc chốc lại lật
yên lấy miếng giẻ vốn là cái ống tay áo công nhân bảo hộ - lau đi chùi lại
chiếc xe cũ kỹ. Đến nỗi, những cái nan hoa hết mạ cũng đen thẫm hơn, kể cả
những cáu, muội ở cái ống bô đã bục cũng nhẵn nhụi, tinh tươm hơn...mắt anh
không hề bỏ sót một người đi bộ nào tắt ngang ngã tư, nơi anh đỗ xe. Thậm chí
mấy lần khát nước, anh cũng không dám sang cái quán gốc cây bên đường, nơi có
anh mù bán sáo đang ngồi, uống một cốc chè chát, bởi trong ví của anh, ngoài
giấy tờ ra, anh chỉ còn chẵn 10 nghìn để đổ xăng.
Trần
phải liều vì một ngày đằng đẵng đã qua, anh chưa kiếm được đồng nào. Anh không
muốn đêm nay cũng như nhiều đêm đen đủi khác, khi anh về, giữa lúc mà nhà nhà
hàng phố đang ngồi trước màn ảnh truyền hình, theo dõi phim dài tập, thì vợ anh
vẫn đứng tựa cửa chờ chồng . Dù anh bình an, vô sự, nhưng trong ví rỗng không,
thì lãi lờ gánh rau bán dạo của chị, làm sao đủ cơm cho bốn cái miệng ăn trong
một ngày dài.
Trần
còn liều vì anh nghĩ: không phải những khách đi đêm, về xa đều là những quân
trộm cướp. Ông khách Trần vừa chở cỡ như anh, đứng tuổi rồi! Còn những vụ cướp
xe ôm, giết tài xế mà báo chí vẫn đăng chỉ là hi hữu. Chẳng qua mấy tay bán báo
nào đó cho vào băng phát tướng lên, gây chú ý để báo bán chạy hơn. Chứ sự thật
mà đúng như báo, nhiều như báo , thì nền giáo dục con người của đất nước ta
suốt mấy chục năm qua lại kém hiệu quả đến mức đó sao? Vả lại, cái xe của anh,
nếu mua bán đàng hoàng, đúng luật pháp, hết giá vài triệu, bõ bèn gì với kẻ ác
tâm, mất công đặt bẫy lộ trình.
Riêng
anh, với cái xe như thế, anh phải nhặt lại những cuốc khó khăn, như con chó già
chầu chực vòng ngoài, chờ cơ hội gặm lại những miếng xương xẩu mà đồng loại của
nó nhè ra, trong khi cái bến đỗ xe của anh ngày lại thêm nhiều tài trẻ và xe
mới!
Trần
tăng ga, chiếc xe long sòng sọc, hộc lên, lao ra đường quốc lộ. Bỏ lại đằng sau
con đường liên thôn trải nhựa, cắt dọc cánh đồng hoang vắng.
Xa
kia, lơ lửng trước mặt Trần là quầng sáng của thành phố. Cái thành phố mà mấy
chục năm qua anh chỉ biết sống và làm việc, chưa một lần được đặt chân vào
những nơi sang trọng và rực rỡ hoa đèn. Biết đâu, trong những làng quê thiêm
thiếp chìm vào đêm sâu mà xe anh đang qua, giờ này vẫn còn nhiều người cho
rằng: tất cả những người dưới quầng sáng đó đều sung sướng, đủ đầy.
Có
ánh đèn ôtô ngược chiều, lợi dụng ánh sáng quét ngang, Trần liếc nhìn đồng hồ
đeo tay: còn hai mươi phút! Khi chiếc ôtô vượt qua, Trần kéo hết ga. Tiếng máy
gào to muốn vỡ ống bô, con Rem Tàu khó nhọc dướn lên khi trong đầu Trần quẩn
quanh ý nghĩ: "Còn kịp! Hoà vẫn chờ mình...!”
Dịp
may đã đến với Trần . Một đêm, Trần chán nản dong xe về sau một ngày không có
thu nhập. Bỗng có tiếng gọi xe bên đường. Dưới ánh sáng đèn cao áp, anh nhận ra
khách là một cô gái, nét mặt bờ phờ dưới mái tóc chải vội. Cái túi xách giả da
khoác trễ nải bên sườn. Yên tâm, Trần giảm ga, nép xe vào lề đường, nơi cô đang
đứng. Phía sau lưng cô gái là một con ngõ rộng, thừa sức cho một chiếc xe ta-xi
bon vào. Một nhà trong ngõ nhấp nháy ánh đèn màu của một quán karaoke cỏ. Giấu nỗi
mừng gặp khách, Trần hỏi:
-
Cô về đâu?
Khác
hẳn cái giọng nhấm nhẳng, ỡm ờ như những cô cave mà Trần đã gặp, Hoà trả lời:
-
Cho em về bên kia cầu Quay!
Trần
giật mình! Anh không lạ gì nơi ấy, nó nổi tiếng vì những vụ cướp giật giữa ban
ngày. Trần nhìn ra xa, cách nơi anh và Hoà đang đứng một cây đèn cao áp, hai gã
xe ôm thượng lưu đang ngồi ngáp vặt. Anh biết, cuốc này là xuất của anh. Giả sử
Hoà có gọi, với những chiếc xe xịn và láng coóng như thế, Hoà có trả gấp đôi,
họ cũng chịu, chẳng dám đưa cô về qua cây cầu sắt đáng sợ lúc giữa khuya này.
Sau
khi căng mắt luồn lách qua mấy ngõ nhỏ và tối như chui trong lòng ống cong
queo, Hoà vỗ vai ra hiệu. Trần dừng lại trước một căn nhà thâm thấp lợp tôn,
mái xoải ra ngõ. Cánh của ghép bằng những miếng gỗ hòm. Ánh đèn trong nhà xiên
qua khe hở ở những miếng ván ghép, vạch trên nền ngõ năm, bảy vạch dọc như
những chấn song, đủ độ sáng soi rõ một vũng nước lõng bõng mấy cái lõi ngô và
vỏ chuối ngay bậu cửa.
Trần
loay hoay tắt máy cùng lúc cánh cửa kẹt mở. Một vùng sáng vàng vọt như một
chiếc chiếu đụp phủ lên mặt ngõ tối sẫm.
Đứa
bé gái chừng năm sáu tuổi hấp háy mắt dưới cái trán dô, xô ra trước cửa, reo
lên:
-
Mẹ!...
Đột
nhiên, mặt nó xịu xuống, vẻ hờn mát:
-
Lúc nãy, cũng có tiếng xe máy, con cứ tưởng!...
Hoà
nhảy vội xuống xe, bước qua vũng nước, đến bên con bé, Tay cô lập bập mở nắp
túi da bên sườn lấy ra một cái bánh Chocopai đã bóc vỏ giấy bóng bên ngoài và
một chai Côcacôla bật nắp giúi vào tay con bé:
-
Thôi, mẹ xin lỗi...mẹ đền!
Hoà
đảo mắt suốt lượt trong nhà, yên tâm, cô ta quay lại đặt vào tay Trần tờ giấy
bạc 10 nghìn:
-
Anh cầm cả đi!
Cô
cúi xuống ôm đứa bé gái, thơm lên vầng trán dô của nó mấy cái, nói tiếp:
-
Bằng giờ này đêm mai, anh đến đón em ở quán "Chiều tím”.
Từ
tối ấy, giữa Trần và Hoà hình thành một hợp đồng. Tuy ít ỏi, chỉ 10 nghìn một
chuyến, nhưng là khoản thu đều đặn, bù đắp và an ủi Trần vào những ngày ế ẩm,
giữa thời buổi mà những người phu xe như anh đang hàng ngày, hàng giờ giành
giật nhau từng người khách nơi góc phố, ngã tư. Trong lòng Trần thầm cảm ơn sự
ưu ái mà Hoà đã giành cho anh.
*
* *
Trần
về đến điểm hẹn. Anh giảm ga, ngoặt xe vào ngõ, dán mắt vào biển hiệu mica với
dòng chữ xanh đỏ: "Quán Chiều Tím...càphê, giải khát, thư giãn, karaoke vi
tính chọn bài...” kê dựng đứng bên chậu cây dừa nước, trên ngọn và lá quấn
nhằng nhịt những dây đèn nháy xanh đỏ các màu. Trần dựng xe bằng chân chống
giữa dưói lùm cây trứng cá, đối diện cửa quán, vểnh tai nghe ngóng. Từ trong
buồng hát được quây bắng kính tối màu, có rèm che phía trong, vốn dĩ được chủ
quán cải tạo phần dưới gác lửng, vẳng ra tiếng hát ồ ề, khàn đục của một gã đàn
ông, cùng tiếng cười nhoe nhóe của Hoà.
Yên tâm, Trần nhảy lên ngồi trên xe chờ đợi
rồi đưa tay lên túi ngực móc ra bao thuốc lá. Dưới ánh đèn mờ ảo hắt ra từ trong
quán, Trần đưa bao thuốc ngang tầm mắt nghiêng ngó, hình như chưa tin vào mắt
mình, anh thò ngón trỏ vào lòng bao khua khoắng. Bực bội, Trần vo viên vỏ bao
rồi đảo mắt tìm một quán nước. Vô tình mắt Trần bắt gặp một gã đang ngồi vắt
vẻo trên một chiếc JUPITE còn láng coóng phía bên trong. Điếu thuốc gã cắm trên
môi đỏ lên, soi rõ một khuôn mặt đen với gò má cao đầy sương gió. "Một tay
xe ôm thượng lưu! Chắc hắn đi khứ hồi cho ông khách đang hát trong kia...?”- Trần
nghĩ. Anh nhảy xuống xe, chậm rãi đi sang quán nước gần đấy: "Hôm nay kiếm
được, cũng nên xả láng mấy điếu thuốc thơm!”
Thấy
Trần bà chủ quán vồn vã:
-
Chú mua gì?
-
Cho em hai điếu Vina!- Trần trả lời, móc tờ giấy bạc 10 nghìn đặt lên bàn nước.
Bà chủ quán rút ngăn kéo, loay hoay chọn nhặt một lúc , ngẩng lên bất lực:
-
Hết tiền lẻ! Hay... chú mua thêm cho chị cái gì nữa đi!
Cái
cảnh sáng sáng trước khi đi học, hai đứa con Trần, mỗi đứa một bát một thìa,
chằm bặp lưng cơm nguội thoáng hiện lên. Một chút đắn đo, Trần dứt khoát:
-
Bác cho em phong bánh nào cũng được!
Bà
bán nước đưa Trần hộp bánh bích quy, chặc lưỡi:
-
Còn thiếu năm trăm! Mai đến đón cô Hoà trả cho chị cũng được!
Trần
cầm hộp bánh về chỗ để xe, Hoà đã đứng đợi anh từ lúc nào. Thái độ của Hoà lộ
vẻ lúng túng:
-
Thấy muộn, anh không đến, em chót gọi xe khác mất rồi. – Hoà chỉ tay vào gã xe
JUPITE đang mím môi thổi bật cái tóp thuốc ra xa. Gã nhảy xuống xe, đến bên hai
người, gật gật đầu thừa nhận.
Nhìn
nét mặt thuỗn ra vì cụt hứng của Trần, Hoà an ủi:
-
Anh cứ chờ! Cái lão già trong kia- Hoà chỉ tay vào phòng hát, nơi phát ra tiếng
rè rè như một cái rôbinê gỉ đang nhả nước- Đi bộ đến đây xí xớn, lúc về thế nào
chả gọi xe ôm...
Khi
Hoà đã lẩn vào trong buồng hát và tiếng cười ằng ặc như có ai luồn tay vào nách
cô ta vang lên, Trần mới thấm thía sự hụt hẫng. Chỉ một lần trễ hẹn, cái hợp
đồng lỏng lẻo giữa anh và Hoà đã có kẻ thứ ba, ưu thế hơn anh nhảy vào. Giờ
đây, hy vọng duy nhất của anh là với chiếc JUPITE ấy, gã có đủ can đảm để đêm
dem cùng Hoà về qua cây cầu sắt ấy không?
Để
giết thời gian và thăm dò cái "gót chân asin” của người đồng nghiệp, Trần
rút điếu thuốc còn lại, áp sát bên hắn, lên tiếng:
-
Chờ lâu chưa? Hút điếu thuốc cho ấm!
Cầm
điếu thuốc Trần đưa, cắm vào môi. Bật lửa châm thuốc, gã phân bua:
-
Nửa tiếng rồi! Cô ấy đã lên xe, nhưng ông khách này tới! Chủ quán nài nỉ cô ấy
ở lại, bởi nhà hàng hết tiếp viên!
Trần
ngó nghiêng chiếc xe của hắn, giả bộ ỡm ờ:
-
Con JUPITE đời cũ của chú còn long lanh lắm!
Gã
chủ xe nhảy dựng lên như dẵm ổ kiến lửa:
-
Bác "tia” lại đi, JUPITE loại vành la - giăng đấy!
Trần
giả bộ ngây ngô:
-
Thế à! Xe đời mới tớ cũng chả "thuộc” lắm! Con này dễ đến hai chục triệu
đấy nhỉ?
Gã
chủ xe nổi khùng:
-
Bác nói lại!...Hai mươi lăm triệu,mua của người quen, thấp hơn thị trường mấy
giá! Hết cha nó số tiền đền bù đất của liên doanh!
Nhìn
hắn nhăn nhó, hai má tóp lại lúc rít thuốc, Trần thấy mình có lỗi, anh chuyển
gam:
-
Giờ chú ở đâu?
- Ở
trọ!- Gã lấy lại bình tĩnh sau hơi thuốc lá, cười gượng gạo - Hết ruộng ra phố!
Chồng xe ôm, vợ ô-sin...
Nghe
hắn diễn giải, Trần chạnh buồn. Ngồi trên chiếc xe như thế, nhưng đời hắn đã bị
dồn vào bước đường cùng. Khốn nạn thay, Trần, hắn, và những người khác có ai
đui què mẻ sứt gì đâu, sao không được một việc làm cơ bản, đàng hoàng, mà cứ
phải mò mẫm đêm hôm, bám vào một cô gái chân yếu tay mềm, đang quằn quại thân
xác trong cái buồng được bưng be kín đáo một cách tạm bợ kia mà sống! Hình như
cái đời này là của ai đó, chứ đâu phải của anh, của hắn hay của Hoà.
Vớt
vát, Trần hỏi thêm, giọng yếu ớt:
-
Đêm khuya, chú không ngại qua cầu sao?
Tiếng
cười vang của hắn đánh gục ý chí của Trần:
-
Em là "tổ trưởng nhân dân” ở xóm chân cầu mà anh!
Hắn
không có "cái gót chân A-Sin” như Trần ước. Anh ý thức được rằng: đêm nay
là đêm cuối, anh có mặt ở cái quán Chiều Tím này.
Sau
chuỗi cười rú lên ằng ặc của Hoà, tiếng hát trong phòng đột nhiên ngưng lại,
chỉ còn tiếng nhạc không lời bập bùng, chập cheng trong loa phóng thanh, cùng
lúc cánh cửa phòng hát mở rộng. Trần biết cuộc vui đã tàn. Mắt anh sáng lên khi
trong phòng bước ra một gã đàn ông ngoài 50 tuổi, da đen, bụng phệ, cao to như
hộ pháp. Dáng ông ta nghiêm nghị, có vẻ là sếp ở đâu đó... Hoà, quần áo xộch
xệch, tóc tung tơi tả, nhỏ thó, lẵng nhẵng theo ra, đưa cả hai bàn tay xanh xao
của mình bám vào một tay lão giật giật, nhõng nhẽo: - Anh "bo” em đi!-
Lạnh lùng, lão giật tay mình lại, làm Hoà suýt văng lên phía trước. Tiu nghỉu,
Hoà gượng ngừng bước, tựa vội lưng vào quầy bar, mặt tái dại, ngực không ngớt
phập phồng.
Biết
phận mình, Trần tiến nhanh đến bên lão, lễ phép:
-
Mời anh về xe ạ!
Lão
lừ mắt nhìn Trần, rồi cho tay vào túi quần, rút ra cái máy điện thoại di động.
Bàn tay vừa giật khỏi tay Hoà đưa lên nặng nề ấn nút. Lão áp máy vào một bên
má:
-
Alô! Công ty ta-xi! Cho một xe đến số nhà...phố...!
Một
chiếc ta-xi trắng, đẹp như chim thiên nga trườn tới. Chỉ hai bước từ cửa quán,
lão đã tọt vào trong xe, mặc cho Trần đứng thộn mặt ra. Đêm nay ở cái quán
Karaoke Chiều Tím này, Trần đã là người thừa. Cơ hội kiếm thêm mười nghìn theo
sự sắp xếp của Hoà đã không còn nữa. Chưng hửng, Trần quay xe, thì Hoà gọi giật
anh lại:
-
Anh Trần! để anh chờ đợi không công, lỗi tại em - Cô đặt vào tay anh tờ bạc 10
nghìn - anh cầm lấy...!
Quay
lại, Hoà giục gã JUPITE:
-
Nào, ta đi!
Hình
ảnh gày bé của Hoà suýt văng lên phía trước, nếu Hoà không kịp thời tựa vội
lưng vào quầy bar vì cái giật tay của lão khách già, sau lời nài nỉ: "Anh
bo em đi” ... hình ảnh đứa bé gái trán dô mới 5 – 6 tuổi, bị giam lỏng trong
gian nhà tuy chật chội với người lớn, nhưng lại quá đỗi mênh mông với một đứa
bé con như nó, suốt từ sáng đến tới đêm khuya, với biết bao rủi ro bất ngờ xảy
đến, giữa một xóm nghèo mà Trần biết chẳng mấy an ninh, để hằng đêm phấp phỏng
chờ mẹ nó trở về, thí dỗ bằng mấy cái bánh bóc vỏ còn thừa, bằng những chai
nước ngọt uống dở mà Hoà lén cất giấu được sau mỗi lần tiếp khách...hiển hiện
trước mắt, anh chụp vội lấy tay Hoà khi cô đã ngồi yên vị trên xe, trả lại tờ
10 nghìn:
-
Đừng làm thế!
Tiện tay, anh với lên giỏ xe phía trước, cầm
gói bánh bích quy đặt giữa lòng Hoà:
- Em
cầm về, làm quà cho cháu...!Muộn thế này nó khóc hết nước mắt còn gì...!
Khi
chiếc xe của Hoà lao đi, cái đèn hậu đỏ rực phía sau nhỏ dần trên đường vắng,
Trần vẫn đứng đực ra, bởi anh biết từ đây, cái đồng tiền nhỏ nhoi nhưng đều đặn
mỗi ngày, cái bát cơm thêm trong nồi cơm vốn dĩ còn vơi của anh, đã bị đồng
nghiệp vô tình hớt mất. Anh không thể trách Hoà, bởi miếng mồi nho nhỏ cô trao
cho anh, anh cũng không đủ sức giữ lại lâu dài. Một nỗi lo lắng lớn dần trong
anh: Rồi đây, ngày tháng sẽ làm anh già hơn, chiếc Rem Tàu của anh sẽ cũ kỹ và
chậm chạp hơn, số tài trẻ với xe đời mới lại đông hơn, liệu anh còn kiếm được
việc gì mà sống. Giữa đêm lạnh, anh muốn gào lên một tiếng thật to để cả gầm
trời này thấu được cảnh ngộ của mình, nhưng không hiểu sao cổ họng anh đã nghẹn
cứng mất rồi.
Ngọc Châu gửi đăng.
Cập nhật lại- ngày 06/01/2016
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Hải Phòng ngày 10/04/2011
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
________________________________________________
________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét