
Biên giới Việt Nam và Tr/Quốc qua các triều đại quân chủ Việt Nam – B/khảo của G/S Phạm Cao Dương
Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016
“Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết
tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang
phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước,
một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.” -Vua Lê Thánh
Tông
BIÊN GIỚI VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC
QUA CÁC TRIỀU ĐẠI QUÂN CHỦ VIỆT NAM
“Một
thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết
tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang
phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước,
một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.” -Vua Lê Thánh
Tông
Do
thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về
chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng
phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch
sử dân tộc Việt Nam và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong bài này người viết
trình bày một cách tổng quát vấn đề biên giới Việt - Trung qua các triều đại
quân chủ trong lịch sử Việt Nam, với nội dung gồm có ba phần: phần thứ nhất nói
về tính cách phức tạp của biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc phần thứ hai
nói về chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ của các triều đại Việt Nam ở
miền biên giới này và phần thứ ba dành cho một số những cuộc tranh chấp điển
hình.
Bài
này được viết nhằm cung cấp cho độc giả một vài sự kiện quan trọng và nhận định
liên hệ tới nỗ lực của tổ tiên người Việt trong công cuộc giữ gìn và bảo vệ đất
nước, một nỗ lực kiên trì, không ngừng nghỉ kể từ ngày lập quốc cho đến những
ngày hiện tại.
Tính
cách phức tạp của vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Khi
tìm hiểu vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhận xét đầu tiên người
ta có thể đưa ra là cho đến thời kỳ Pháp thuộc, giữa hai nước không có đường
biên giới như người ta quan niệm ngày nay mà chỉ có những vùng biên giới mà
thôi. Đặc tính này bắt nguồn không những từ thực tại địa lý ở nơi tiếp giáp
giữa hai quốc gia mà còn do những yếu tố nhân văn, lịch sử và quan niệm về
chính trị của các triều đại trị vì nữa.
Trước
hết là về địa lý. Giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc không có núi cao hay
sông lớn có thể dùng làm ranh giới thiên nhiên.
Những
sông hay những núi được viện dẫn như những đường phân thủy chỉ là những đồi hay
sông nhỏ, có khi chỉ được biết tới một cách mơ hồ và đã trở thành đầu mối của
những tranh chấp. Điển hình là sự lẫn lộn hay cố tình lẫn lộn giữa sông Đổ Chú
và một sông nhỏ khác ở thượng nguồn của sông Chảy trong vụ tranh chấp về biên
dưới giữa hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ thuộc trấn Tuyên Quang của Việt Nam và
phủ Khai Hóa thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc vào năm 1728. Cũng vậy, với các
núi Xưởng Chì hay Diên Xưởng, núi Tụ Long mà người viết dám chắc là các giáo sư
sử địa hiếm người biết đến ngay cả nghe đến các địa danh này. Các rặng núi lớn
có hình cánh cung ở phía đông của sông Hồng thay vì nằm ngang theo hướng tây -
đông để làm ranh giới giữa hai nước lại xòe ra theo hình nan quạt và mở rộng về
phía bắc khiến cho sự xâm nhập từ phương bắc xuống trở thành dễ dàng. Nhiều
sông của Trung Quốc lại có nguồn từ trên đất Việt Nam hay ngược lại. Tính cách
núi liền núi, sông liền sông của địa lý chính trị ở biên giới Hoa Việt này
không những đã làm cho việc ngăn chặn các cuộc xâm lăng qui mô của người Tàu từ
phương bắc xuống trở thành vô cùng khó khăn cho người Việt, mà còn làm cho ranh
giới giữa hai nước không bao giờ ổn định.
Về
phương diện nhân văn, miền biên giới Việt - Trung không phải là nơi cư trú của
người Việt hay người Tàu mà là của nhiều sắc dân thiểu số của các miền núi như
Tày, Nùng, Thổ, Mán...
Những
dân này đã ở cả hai phía, ranh giới cư trú thường không rõ ràng. Nhiều nhóm đã
từ Trung Quốc di cư xuốngViệt Nam qua nhiều giai đoan lịch sử khác nhau. Những
con số được ghi trong tác phẩm Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ của các soạn
giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, xuất bản năm 1930 ở Hà Nội,
dưới thời Pháp thuộc, có thể cho ta một khái niệm về tính cách thiểu số của
người Việt cư ngụ ở miền này so với các dân miền thượng. Trước hết là ở tỉnh
Lạng Sơn. Trong số 85.300 cư dân của tỉnh này, người Kinh hay người Việt chỉ có
3.120 người tức 4%, trong khi con số người Thổ là 38.900 người hay 36%, người
Nùng là 37.500 người hay 44%, và người Hoa là 3.800 hay 4%.[1] Ở Cao Bằng, trên tổng số dân là 87.000
người, số người Kinh chỉ có 1.200 người hay 1,4%, còn người Thổ là 39.930 người
hay 46%, người Nùng 38. 750 người hay 44%, còn lại là người Tàu. Còn ở Hà Giang
thì trong tổng số dân là 69.600 người, người Kinh chỉ có 1.000 người, tức 1,4%,
so với 20.600 người Thổ hay 31%, còn lại là người Lô Lô, 30%, người Mán, 14%...
Các miền giáp ranh giữa các tỉnh này và các tỉnh miền Nam Trung Quốc do đó đã
trở thành những vùng biên giới giữa hai nước. Sự tùy thuộc vào nước này hay
nước kia một phần nằm trong tay các thổ tù trưởng tức các lãnh tụ của các dân
địa phương và sự trung thành của họ từ đó tùy theo chính sách của chính quyền
trung ương đối với họ.
Về
quan niệm chính trị của các triều đình liên hệ, vì là những miền đất ở xa kinh
đô của cả hai nước Hoa, Việt, các vùng biên giới này được coi như những miền
đất cơ mi hay ky mi là những miền đất làm phên giậu cho triều đình trung ương.
Đây
là một hình thức cai trị lỏng lẻo nhằm liên kết những miền đất xa xôi thay vì
cai trị trực tiếp trong chế độ hành chánh thời cổ, ít nhất từ thời nhà Đường
của Trung Quốc mà Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca đã tả rõ trong câu “Cơ
mi các bộ man hoang ở ngoài.” Các thổ tù trưởng do đó được cha truyền
con nối cai trị lãnh thổ riêng của mình với điều kiện tuân phục triều đình
trung ương. Vượt lên trên các địa phương, quan hệ giữa các triều đình Trung
Quốc và các triều đình Việt Nam cũng mang phần nào tính cách phong kiến của Á
Đông theo đó Việt Nam chỉ là một chư hầu của Trung Quốc, lãnh thổ Việt Nam cũng
là lãnh thổ Trung Quốc. Điều này thường được thể hiện qua lời nói hay các thơ
văn của các sứ giả Trung Quốc khi được các vua Việt Nam hỏi thăm về sức khỏe
sau những cuộc hành trình tới kinh đô Việt Nam. Việt Nam thường được người Tàu
gọi là Giao Chỉ, hiểu ngầm là Giao Chỉ Quận, là một quận của nước Tàu qua tước
phong các vua Tàu phong cho các vua Việt Nam là Giao Chỉ Quận Vương kể từ thời
Vương Liễn nhà Đinh, kèm theo với danh vị Tiết Độ Sứ là một chức quan của người
Tàu, kể cả sau khi tước vị An Nam quốc vương đã được phong cho vua Lý vào năm
1174 và Việt Nam chính thức trở thành An Nam Quốc và kéo dài rất lâu về sau
này. Thái độ phong kiến luôn luôn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận này đã giúp cho
các hoàng đế Trung Quốc giữ được thể diện mỗi khi phải nhượng bộ và trao trả
lại những đất mà họ đã chiếm của Việt Nam, vì theo họ, trong thiên hạ đất nào
chẳng là đất của thiên tử. Rõ rệt nhất và gần với ta nhất là trong sắc văn của
vua nhà Thanh viết vào năm Ung Chính thứ sáu, năm Bảo Thái thời Vua Dụ Tông nhà
Lê (1728), gửi cho vua Việt Nam về việc trả lại vùng mỏ đồng Tụ Long cho Việt
Nam, đoạn chính có viết: “Mới đây Ngạc
Nhĩ Thái (Tổng Đốc Vân Nam và Quý Châu thời đó) đem bản tâu của quốc vương (vua
Việt Nam thời đó) tiến trình, lời lẽ ý tứ trong bản tâu tỏ lòng cung kính, trẫm
(vua Thanh) rất vui lòng khen ngợi. Vả lại, 40 dặm ấy nếu thuộc vào Vân Nam thì
là nội địa của trẫm, nếu thuộc vào An Nam thì vẫn là ngoại vi của trẫm, không
có chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn cho đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương (vua
Việt Nam) được đời đời giữ lấy.”[2] Nói cách khác sự phân chia biên giới
giữa hai nước Hoa, Việt mang nặng tính cách lịch sử và quan niệm chính trrị cổ
thời. Đó là những giới hạn có tính cách hành chánh nhiều hơn là phân ranh quốc
tế.
Chủ
trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ ở các miền biên giới của các triều đại quân
chủ Việt Nam:
Chủ
trương này được xác định rất rõ ngay từ thời nhà Lý qua bài thơ Nam Quốc Sơn Hà được truyền
tụng là của Lý Thường Kiệt và được khẳng định bởi các triều đại kế tiếp.
Trong
bài Nam Quốc Sơn Hà tác giả
đã khẳng định sự cương quyết của triều đình nhà Lý là sẽ không dung tha bất cứ
kẻ nào dám xâm phạm vào lãnh thổ nước mình. Nhưng đó là một thứ tuyên ngôn nói
với người ngoài, với kẻ địch, một kẻ địch lớn hơn và mạnh hơn gấp bội nước Việt
Nam thời đó. Lê Thánh Tông, bốn thế kỷ sau, năm Hồng Đức thứ tư (1473), khi dụ
Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy là người ở trong nước đã nghiêm khắc khẳng
định: “Một thước núi, một tấc sông của
ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn
dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều
ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho
giặc thì tội phải tru di.”[3]” Lời dụ này vừa là một nghiêm lệnh, vừa
là một sách lược. Đó là không được nhượng bộ dù là nhượng một thước núi, một
tấc sông, vì đó là của cha ông để lại, phải cương quyết tranh biện bảo vệ đến
cùng không cho kẻ địch lấn dần ngay tự bước đầu ở mức độ địa phương. Nếu kẻ
địch không nghe thì triều đình sẽ sai sứ sang biện bạch phải trái theo phương
thức ngoại giao. Còn kẻ nào dám đem dù là một tấc đất dâng cho giặc thì không
phải chỉ là bị tử hình mà thôi, mà còn bị tru di nghĩa là giết ba họ nữa. Đây
là hình phạt nặng nhất của thời quân chủ, một tội dành cho những kẻ khi quân,
phản quốc.
Thực
thi chủ trương và đường lối kể trên, các nhà cầm quyền quân chủ Việt Nam đã
phải cùng lúc đương đầu vừa với các thổ châu mục của mình, các quan lại địa
phương Trung Quốc ở miền giáp ranh với những địa điểm tranh chấp vừa với triều
đình Trung Quốc.
Đối
với các thổ mục địa phương, các chính sách được dùng là vừa uyển chuyển, vừa
khoan dung, phủ dụ, vừa kết thân, vừa cứng dắn, nghiêm khắc trừng phạt với mục
tiên trước sau không đổi là giữ vững biên cương. Đối với các quan lại và triều
đình Trung Quốc thì nhún nhường, khéo léo, lựa những danh sĩ thông minh, lanh
lẹ, có tài biện luận, đồng thời kiên trì tranh đấu, không bỏ cuộc, cố gắng duy
trì sự tranh chấp, không nhượng bộ để thiệt thòi cho nước mình hầu có thể đặt
vấn đề lại sau này.
Để
bảo đảm sự trung thành của các thổ mục địa phương, ngoài chính sách cai trị
lỏng lẻo, để cho các châu mục cha truyền, con nối như các họ Hoàng, họ Vi, họ
Nùng , họ Chu, họ Giáp, họ Thân, họ Hà, họ Đèo... tự trị trong các lãnh thổ của
họ, các vua nhà Lý còn dùng hôn nhân để ràng buộc họ chặt chẽ hơn với triều
đình trung ương, không phân biệt kinh thượng. Việc các vua nhà Lý gả các công
chúa cho các châu mục miền núi đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam khá
nhiều như năm 1029 Lý Thái Tông gả Công Chúa Bình Dương cho châu mục Lạng châu
là Thân Thiện Thái, năm 1082, dưới thời Lý Nhân Tông, Công Chúa Khâm Thánh được
gả cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh, năm 1142, dưới thời Lý Anh Tông, Công
Chúa Thiều Dung được gả cho Dương Tự Minh là thủ lãnh châu Phú Lương, năm 1167,
cũng dưới triều Lý Anh Tông, Công Chúa Thiên Cực đước gả cho châu mục Lạng Châu
là Hoài Trung Hầu... Trước đó Tống Sử hay một sách khác thời nhà Tống cũng chép
là tổ tiên của họ Thân, trước mang họ Giáp, là Giáp Thừa Quí lấy con gái của Lý
Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, con Thừa Quí là Thiệu Thái, lại lấy con gái của Đức
Chính, tức Lý Thái Tông, rồi con Thiệu Thái là Cảnh Long, lại lấy con Nhật Tôn,
tức Lý Thánh Tông... Ngược lại, Lý Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu
Chân Đăng đưa về làm hoàng phi.
Đối
với những lãnh tụ đã làm phản như trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí
Cao, các vua cũng tỏ ra rất khoan dung. Mở đầu, năm 1038, khi Nùng Tồn Phúc
xưng đế chống lại triều đình , Lý Thái Tông thân chinh đi đánh bắt được Tồn
Phúc đem về kinh xử trảm, con là Trí Cao và vợ là A Nùng chạy thoát được và trở
về lập ra nước Đại Lịch, tiếp tục chống lại vào năm 1041. Lý Thái Tông lại thân
chinh đi đánh, bắt được Trí Cao nhưng thương tình cha và anh đã bị giết nên
không những tha cho về lại còn sai sứ đến tận nơi phong hàm thái bảo. Sau đó mẹ
con Trí Cao lại xưng đế, làm phản, chống lại cả hai triều Tống ,Việt nhưng cuối
cùng bị đánh thua phải bỏ chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đó. Hai lần làm đại
nghịch nhưng các triều đình Việt Nam đương thời và sau này vẫn tỏ ra rất khoan
nhượng với họ Nùng và những người liên hệ, bằng cớ là ở Cao Bằng các vua Việt
Nam vẫn để cho người địa phương lập đền thờ cả hai mẹ con Nùng Trí Cao. Hai đền
này nằm trên hai ngọn núi trong số bốn ngọn bao bọc chung quanh tỉnh Cao Bằng
là núi Kỳ Cầm ở phía bắc (đền thờ Nùng Trí Cao), và núi Kim Phả ở phía đông
(đền thờ A Nùng, gọi là dền Bà Hoàng), cho đến năm 1930 hãy còn. Chính sách
được goi là hòa thân này cộng thêm với vị trí gần gũi với kinh đô Thăng Long
của người Việt hơn là kinh đô của người Tàu và chắc chắn các đường tiếp tế các
sản phẩm của miền đồng bằng và miền biển, nhất là muối từ châu thổ Sông Hồng
chắc chắn đã là những tác tố vô cùng trọng yếu của sự trung thành của các châu
mục với các triều đình Việt Nam hơn là với triều đình Trung Quốc.
Trong
cách tranh biện để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, người ta thấy công tác đã được
thực hiện ở hai cấp địa phương và trung ương. Ở địa phương các thổ mục đóng vai
trò chính yếu. Vì là người địa phương, họ nắm vững tình hình từ địa lý thiên
nhiên qua từng con sông, từng ngọn suối, từng trái đồi, từng cột mốc... đến
tình hình dân cư với những ruộng nương, nhà cửa, đền thờ của họ, biết rành rẽ
hơn những quan lại được cử từ miền xuôi lên. Không những thế, vì được tự trị,
những lãnh thổ được trao cho họ được họ coi là phải cẩn trọng giữ gìn. Chỉ đến
khi cần phải tranh luận phải trái giữa hai triều đình trung ương, vai trò của
các nhà trí thức, các sứ thần mới được đặt ra.
Một
số những cuộc tranh chấp điển hình:
Với
chủ trương bảo vệ từng thước núi, từng tấc sông, các triều đại quân chủ Việt
Nam một mặt đã cương quyết đấu tranh để bảo vệ những phần đất đã có, mặt khác
đã kiên trì đòi lại những lãnh thổ đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm, ngoại trừ hai
trường hợp nhượng đất quá nhiều dưới thời Hồ Quí Ly hay dâng đất dưới thời Mạc
Đăng Dung. Cả hai trường hợp này, đặc biệt là trường hợp Mạc Đăng Dung, những
người chủ trương đã bị hậu thế lên án nặng nề. Cả hai triều đại này đều bị gọi
là ngụy, không phải chỉ vì có nguồn gốc là do sự thoán nghịch mà ra mà còn là
vì những hành động bị coi như là phản quốc nữa. Sử gia Trần Trọng Kim
trong Việt Nam Sử Lược, đã viết về Mạc Đăng Dung như sau:
“”Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết
vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không
giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc.
Làm ông vua mà không giữ giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi
trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch
để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không
biết liêm sỉ.... Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế
nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng bởi sự gian ác hèn hạ như
thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại
trung hưng lên được”.[4]”
Trên
bình diện tích cực, trong phần cuối của bài này, ta nhìn lại ba trường hợp điển
hình trong đó các vua quan Việt Nam nói riêng, và người Việt Nam nói chung, đã
tỏ ra hết sức kiên nhẫn và cương quyết trong công cuộc bảo vệ biên cương của
nước mình. Đó là là các cộc đấu tranh để đòi lại châu Quảng Nguyên, các châu
Vật Dương, Vật Ác thời nhà Lý và vùng mỏ đồng Tụ Long trong những giai đoạn sau
này.
Quảng
Nguyên là tên cũ của một châu thuộc tỉnh Cao Bằng, từ thời nhà Lê được đổi
thành Quảng Uyên. Dưới nhà Lý, để trả đũa việc Lý Thường Kiệt và Tôn Đản sang
đánh các châu Khâm, châu Liêm và châu Ung thuộc các tỉnh Quảng Đông và Quảng
Tây của Trung Quốc vào năm 1075, năm 1076 nhà Tống sai Quách Quì sang đánh Đại
Việt . Bị quân Đại Việt chống trả kịch liệt lại không hợp thủy thổ, quân Tống
bị thiệt hại nặng nề phải rút lui, nhưng vẫn giữ các châu Quảng Nguyên, Tư
Lang, Tô, Mậu và huyện Quang Lang. Trong số các châu huyện này Quang Lang và
Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả vì Quang Lang, sau này được nhà Lê đổi là Ôn
Châu là cổ họng của châu Ung, còn Quảng Nguyên là nơi có nhiều mỏ vàng và mỏ
bạc. Để thu hồi lại hai châu này, nhà Lý đã dùng cả quân sự lẫn ngoại giao.
Huyện Quan Lang đã được Lý Thường Kiệt chiếm lại không lâu sau đó, có lẽ cùng
lúc với các châu Tô Mậu và Môn. Riêng châu Quảng Nguyên, việc đòi lại phức tạp
hơn vì khả năng sản xuất vàng bạc của địa phương này. Ở đây đường lối ngoại
giao đã được sử dụng. Hai lần nhà Lý đã sai sứ bộ sang thương nghị. Lần thứ
nhất không thành công vì các quan địa phương nhà Tống viện cớ lời biểu của vua
Lý có dùng có dùng chữ húy của triều Tống không nhận. Lần thứ hai, sứ bộ do Đào
Tông Nguyên cầm đầu, đem theo năm con voi làm đồ cốngvới lời yêu cầu nhà Tống
trả lại các đất quân Tống đã chiếm. Nhà Tống ưng thuận với điều kiện nhà Lý trả
lại tất cả những dân các châu Khiêm, Liêm và Ung đã bị quân của Lý Thường Kiệt
và Tôn Đản bắt về Đại Việt trước đó. Nhà Lý ưng thuận và Quảng Nguyên đã trở về
với Đại Việt. Sự hoàn trả Quảng Nguyên cho Đại Việt đã làm cho nhiều người bên
nhà Tống bất mãn. Hai câu thơ châm biếm: “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất
Quảng Nguyên kim” có nghĩa là vì tham voi Giao Chỉ nên mất vàng Quảng Nguyên mà
các tác giả Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca dịch sang thơ là “Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên” đã
được họ làm trong trường hợp này. Thắng lợi này xảy ra vào năm 1079 dưới thời
Lý Nhân Tông.
Thành
công trong việc đòi lại châu Quảng Nguyên và một số đất khác ít năm sau, Việt
nam đã không thành công trong việc đòi lại các động Vật Dương, Vật Ác từ trước
đã bị các thổ mục họ Nùng dâng cho nhà Tống, mặc dầu sứ bộ nhà Lý do Lê Văn
Thịnh, vị thủ khoa của khoa thi đầu tiên của người Việt cầm đầu đã tranh luận
gay gắt. Phản bác lại chủ trương của các quan nhà Tống cho rằng các đất nà là
của Tống vì do các thổ mục địa phương dâng cho nhà Tống vì họ qui phục nhà
Tống., Lê văn Thịnh lý luận rằng “Đất thì có chủ; bọn thuộc lại giữ đất đem
dâng nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất cho chủ
lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được, mà ăn hối lộ và tàng trữ của ăn trộm
pháp luật cũng không dung. Huống chi, bọn chúng lại có thể làm nhơ bẩn cả sổ
sách của quí vị hay sao?”
Không
những quyết tâm bảo vệ lập trường, các vua quan Đại Việt còn tỏ ra rất kiên
trì. Các cuộc thương nghị đã diễn ra cả thảy sáu lần những đều bị nhà Tống
khước từ, cuối cùng đã bị bỏ dở.
Thắng
lợi trong việc đòi lại được mỏ đồng Tụ Long xảy ra vào năm 1728, năm Bảo Thái
thứ 9, thời Vua Trần Dụ Tông. Thắng lợi này có thể coi là điển hình nhất trong
nỗ lực bảo vệ lãnh thổ của các triều đại quân chủ Việt Nam.
Để
kết luận ta có thể nói là trong suốt mười thế kỷ tồn tại, các triều đại gọi là
quân chủ Việt Nam đã luôn luôn quan tâm đến sứ mạng vô cùng thiêng liêng là bảo
vệ lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Đây là một việc làm vô cùng khó
khăn, trường kỳ và tế nhị, đôi khi nguy hiểm, trong đó từ vua quan, nho sĩ trí
thức, hoàng phi, công chúa… đến các dân thiểu số ở các vùng biên giới xa xăm
đều đã cùng nhau đóng góp cho nỗ lực chung. Điều đáng chú ý ở đây là trong
chính sách hoà thân của các triều đình thời đó, các vua đã hy sinh luôn cả hạnh
phúc cá nhân và gia đình của chính mình, đem các công chúa gả cho các thổ tù
trưởng ở những vùng biên cương hẻo lánh, xa xôi vào lúc giao thông liên lạc còn
vô cùng khó khăn, hiểm trở. Nỗi nhớ thương, đau đớn, xót xa khó có thể tưởng
tượng là lớn lao đến chừng nào. Nói như vậy nhưng ta cũng không nên quên tình
cảm và sự can đảm của các thổ tù trưởng miền biên giới dành cho Triều Đình Việt
Nam. Giữa triều đình Trung Quốc, mạnh hơn, các thổ tù trưởng này đã lựa chọn
triều đình Việt Nam và từ đó họ đã gặp phải không ít khó khăn. Cuối cùng là các
nhà trí thức. Vai trò của những nho sĩ được trao cho trách nhiệm đi sứ để biện
minh cho chủ quyền của nước mình cũng không phải là một việc làm đơn giản, dễ
dàng, không vất vả và không nguy hiểm. Lời dặn dò gần như là cảnh cáo của Lê
Thánh Tông dành cho Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư
(1473) được dẫn trên đây, đã nói lên điều đó. Nhưng cuối cùng thì, ngoại trừ
một vài trường hợp hiếm hoi, họ đã thành công trong sứ mạng thiêng liêng, cao
cả của mình khiến người sau khi đọc đến những đoạn này không chỉ kính phục mà
thôi mà còn ngậm ngùi, thương xót nữa.
Những ngày cuối năm 2015
----
[1] Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn
Thư, Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ. Hà Nội, Lê Văn Tân, 1930, in lần thứ tư, tr 61.
[2] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục, tập hai. Hà Nội: Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia,
Viện Sử Học, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998, tr. 468-469.
[3] Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Hà Nội:
Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội, 1993, tr. 462.
[4]Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển II. Saigon: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu,
1971, tr. 17.
----
Xin cám ơn Bà Phạm Cao Dương đã
chuyển bài.
Bài biên khảo của Giáo sư Phạm Cao
Dương đang được trưng bày cho mọi người tham khảo tại blog
sau đây:
DaiHoc
VanKhoa Hải ngoại gửi đăng.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hải ngoại ngày 15/01/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét